Lá bài thứ XII

CHƯƠNG 36



Trong khi cô bé và cha của mình ở trên lầu, Rhyme cùng những người khác đang làm việc với những manh mối dẫn tới vụ cướp tiệm trang sức có nhiều khả năng sắp xảy ra.

Và chẳng có một thành công nào cả.

Những tư liệu mà Dellray mang tới cho họ về các vụ rửa tiền liên quan tới trang sức, đá quý nhưng chỉ là những chiến dịch nhỏ, không có vụ nào tập trung ở Midtown. Và họ không có một báo cáo nào từ Interpol hoặc các sở cảnh sát địa phương có chứa bất cứ thông tin gì liên quan tới vụ án.

Nhà tội phạm học lắc lắc đầu trong sự bế tắc, rồi điện thoại đổ chuông. “Rhyme nghe đây.”

“Lincoln, là tôi Parker.”

Chuyên gia phân tích chữ viết tay phân tích mẩu tin từ ngôi nhà ẩn náu của Boyd. Parker Kincaid và Rhyme trao đổi thông tin về gia đình và sức khỏe. Rhyme được biết rằng người sống cùng Kindcaid, đặc vụ FBI Margaret Lukas, vẫn ổn, cũng như những đứa con của Parker, Stephie và Robby.

Sachs gửi lời chào rồi Kincaid nói về vấn đề công việc. “Tôi đã làm việc liên tục với lá thư từ khi anh gửi. Tôi có một bản mô tả về người viết.”

Một bản phân tích chữ viết tay chi tiết không bao giờ chỉ ra nhân cách từ cách viết bức thư; bản thân chữ viết tay chỉ thích hợp khi so sánh một văn bản với một văn bản khác, như là, khi kiểm tra một giấy tờ hay văn bản giả mạo. Nhưng điều đó không hấp dẫn với Rhyme lúc này. Không, những gì mà Parker Kincaid đang nói tới là suy ra nhân cách, đặc điểm của người viết dựa vào ngôn ngữ mà anh ta sử dụng – cách viết “bất thường” mà Rhyme cảm thấy từ trước. Điều này có thể rất có ích cho việc nhận dạng các đối tượng nghi vấn. Phân tích về mặt ngữ pháp và cú pháp của tờ giấy đòi tiền chuộc trong vụ bắt cóc, Lindbergh là một ví dụ, đưa ra một bản mô tả hoàn hảo của kẻ bắt cóc, Bruno Hauptmaim.

Với sự nhiệt tình mà anh cảm thấy riêng cho công việc của mình, Kincaid tiếp tục: “Tôi tìm thấy một vài điều thú vị. Anh có tờ giấy trên tay chứ?”.

“Nó ở ngay trước mặt chúng tôi đây.”

Một con bé da đen, ở cửa sổ này tầng năm, ngày mùng 2 tháng 10, khoảng 8 giờ 30 phút. Nó thấy chiếc xe chở hàng của tôi đậu ở con hẻm phía sau cửa hàng mua bán trang sức đá quý. Nó đã nhìn đủ để đoán ra được kế hoạch của tôi. Giết nó.

Kincaid nói: “Đầu tiên, hắn là một người sinh ra ở nước ngoài. Cú pháp rườm rà và việc viết sai chính tả cho tôi biết điều đó. Cũng như thế, cái cách hắn nói ngày tháng – đặt ngày trước tháng. Và thời gian được đưa ra theo đồng hồ kiểu 24 tiếng. Kiểu viết hiếm thấy ở Mỹ”.

Chuyên gia về chữ viết tay tiếp tục: “Giờ là một điểm quan trọng khác: Hắn ta…”.

“Hoặc cô ta”, Rhyme ngắt lời.

“Tôi đang nghiêng về khả năng là đàn ông”, Kincaid đưa ra ý kiến. “Sẽ nói với anh lát nữa. Hắn ta sử dụng giới tính với đại từ ‘anh’, có vẻ như để nói tới chiếc xe tải của mình. Như thế khá đặc biệt một vài ngoại ngữ khác nhau. Nhưng cái thực sự thu hẹp nó lại là hai cụm với cấu trúc sở hữu.”

“Cái gì cơ?” Rhyme hỏi.

“Cấu trúc sở hữu – cách để tạo nên từ sở hữu. Nghi phạm của anh viết là ‘chiếc xe tải của tôi’.”

Rhyme nhìn lại tờ giấy. “Thấy rồi.”

“Nhưng ngay dưới đó lại viết ‘những kế hoạch thuộc về tôi’. Điều này khiến cho tôi nghĩ rằng gã này của chúng ta có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Ả Rập.”

“Ả Rập?”

“Tôi có thể nói là 90% như vậy. Có một cấu trúc sở hữu trong tiếng Ả Rập là i.daafah. Cách sở hữu luôn được tạo thành bằng cách nói: ‘Chiếc xe John’. Nghĩa là: ‘Chiếc xe của John’. Hay là, trong tờ giấy của anh: ‘kế hoạch thuộc về tôi’. Nhưng những quy tắc ngữ pháp của tiếng Ả Rập đòi hỏi chỉ một từ nó sử dụng cho sự vật được sở hữu – từ ‘xe tải chở hàng’ không có trong tiếng Ả Rập. Đó là một cụm bốn từ, nên hắn không thể sử dụng i.daafah. Hắn chỉ đơn giản nói là ‘xe tải chở hàng của tôi’. Manh mối khác là việc sử dụng sai mạo từ không xác định trong từ ‘con hẻm’. Điều này khá phổ biến trong cộng đồng những người nói tiếng Ả Rập; ngôn ngữ mà không hề sử dụng các mạo từ không xác định, chỉ có mạo từ xác định ‘the’.” Kincaid thêm vào: “Điều này cũng đúng với tiếng ở xứ Wales, nhưng tôi không nghĩ rằng tên này đến từ Cardiff”.

“Tốt lắm, Parker”, Sachs nói. “Rất tinh tế, tốt quá.” Một nụ cười nhẹ qua loa ngoài. “Tôi sẽ nói cho cô biết, Amelia, bất cứ ai trong công việc này đều đang phải làm việc rất nhiều với việc nghiên cứu sâu về tiếng Ả Rập trong những năm qua.”

“Đó là lý do tại sao anh nghĩ rằng đó là một người đàn ông?”

“Có bao nhiêu hung thủ là phụ nữ người Ả Rập mà các anh từng thấy?”

“Không nhiều lắm… Gì nữa không?”

“Đưa cho tôi thêm nhiều mẫu hơn nữa và tôi sẽ so sánh chúng nếu các anh muốn.”

“Chúng tôi sẽ nhờ đến anh nữa.” Rhyme cảm ơn Kincaid và họ ngắt máy. Rhyme lắc đầu, nhìn vào tấm bảng ghi bằng chứng rồi cười một cách chế giễu.

“Anh đang nghĩ gì thế Rhyme?”

“Chúng ta biết hắn định làm gì, đúng không?”, nhà tội phạm học hỏi với một giọng đáng ngại.

Sachs gật đầu đồng ý. “Hắn không định cướp trung tâm mua bán trang sức. Hắn muốn thổi tung nó.”

“Đúng vậy.”

Dellary nói: “Chính xác rồi – những báo cáo mà chúng ta đã có, về những tên khủng bố nhắm vào các mục tiêu Israel ở trong khu vực”.

Sachs nói: “Người bảo vệ ở bên kia phố với bảo tàng nói họ có những chuyến hàng hằng ngày từ Jerusalem… Được rồi, tôi sẽ phong tỏa khu mua bán và đưa mọi người di tản”. Cô lôi điện thoại di động của mình ra.

Rhyme nhìn lên tấm bảng bằng chứng rồi nói với Sellito và Cooper: “Bánh falafel, sữa chua… và chiếc xe tải chở hàng. Tìm xem có bất cứ nhà hàng nào quanh khu mua bán có phục vụ đồ ăn Trung Đông, nếu có, ai giao hàng và khi nào. Họ sử dụng xe chở đồ loại nào.”

Dellray lắc lắc đầu. “Nửa thành phố ăn cái đồ đấy. Anh có thể mua một cái bánh gyro hay falafel ở bất cứ góc nào trong thành phố. Chúng…” Viên đặc vụ ngừng nói khi nhìn vào mắt Rhyme.

“Xe đẩy hàng.”

Sellito nói: “Có hàng tá xe đẩy hàng xung quanh bảo tàng ngày hôm qua”.

“Hoàn hảo để quan sát”, Rhyme nói. “Và quả là một cái vỏ bọc tốt. Hắn đưa đồ đến cho họ hằng ngày, nên chẳng ai để ý đến hắn. Tôi muốn biết ai cung cấp cho các cửa hàng rong trên phố. Nhanh lên!”

Theo ban y tế, chỉ có hai công ty cung cấp thức ăn Trung Đông cho những chiếc xe đẩy bán hàng ở dãy phố quanh trung tâm mua bán trang sức. Trớ trêu là, cái lớn nhất do hai anh em người Do Thái làm chủ với gia đình ở Israel và sùng đạo; họ khó có thể là nghi phạm được.

Công ty còn lại thì không sử dụng các chiếc xe đầy nhưng có bán gyro, thịt xiên nướng và falafel, cùng với các đồ gia vị và soda cho hàng chục xe đẩy ở Midtown. Việc điều hành được thực hiện bên ngoài một nhà hàng trên phố Board, những người chủ có thuê một người đàn ông để làm công việc giao hàng quanh thành phố.

Dellray cùng hàng tá các đặc vụ khác và các cảnh sát vây xung quanh, tất cả những người này đều vô cùng hợp tác – gần như là sợ đến phát khóc. Tên của người vận chuyển là Bani-al-Dahab, quốc tịch Ả Rập Xê út, visa đã hết hạn lâu rồi. Anh ta từng là một chuyên gia về lĩnh vực nào đó ở Jeddah và từng là một kỹ sư ở Mỹ một sau khi visa hết hạn và trở thành người tị nạn trái phép, anh ta đã làm mọi công việc có thể – khi thì nấu ăn, đưa thức ăn tới các xe đẩy và các nhà hàng Trung Đông khác ở quanh Manhattan, Brooklyn.

Trung tâm mua bán trang sức đã sơ tán và kiểm tra – không có thiết bị nào được tìm thấy – và một thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp đã được đặt lên chiếc xe tải của al-Dahab, mà theo những người chủ hàng, có thể là ở bất cứ đâu trong thành phố; anh ta được tự do lên kế hoạch giao hàng cho mình.

Vào những giờ phút như lúc này, Rhyme đáng lẽ sẽ đi đi lại lại khi suy nghĩ, nếu có thể. Hắn đang ở chỗ quái nào được? Liệu có phải gã đang lái chiếc xe tải đầy chất nổ nhởn nhơ ngoài kia? Có thể hắn đã từ bỏ vụ nhắm vào trung tâm mua bán trang sức và đang săn đuổi mục tiêu phụ: một giáo đường Do Thái hay một văn phòng hãng hàng không El-Al.

“Đưa Boyd tới đây, gây áp lực với hắn.” Anh nói lớn: “Tôi muốn biết cái gã này ở đâu!”.

Đó là lúc điện thoại của Mel Cooper đổ chuông.

Rồi tiếp theo là điện thoại của Sellito và Amelia Sachs.

Cuối cùng, điện thoại chính của phòng thí nghiệm bắt đầu đổ chuông lanh lảnh.

Những người gọi điện thì khác nhau nhưng tin họ thông báo thì lại là một.

Câu hỏi về địa chỉ của kẻ đánh bom đã được trả lời.

Chỉ có người lái xe thiệt mạng.

Hãy để ý tới lực của vụ nổ và chiếc xe tải thì nằm ở giao lộ giữa Đại lộ 9 và 54, xung quanh là rất nhiều xe khác, đó thực sự là một phép màu.

Khi quả bom phát nổ, hướng của vụ nổ hầu hết là nổ lên phía trên, qua nóc xe, và cả bên ngoài cửa sổ, bắn ra các mảnh vụn và kính, làm bị thương nhiều người, nhưng thiệt hại chủ yếu nằm trong chiếc E250. Chiếc xe tải rực lửa chòng chành lên vỉa hè, rồi bùng lên thành một ngọn đuốc. Đội cứu hỏa từ trên Đại lộ 8 dập tắt ngọn lửa nhanh chóng và đẩy lùi đám đông. Còn người lái xe, chẳng có chút hi vọng nào trong việc cứu sống hắn ta; hai mảnh xác lớn nhất còn lại bị bắn tung ra cách nhau vài mét.

Đội phá bom mìn đã bảo đảm an toàn hiện trường và lúc này cảnh sát chỉ việc chờ các bác sĩ pháp y và đội Khám nghiệm hiện trường.

“Đó là mùi gì vậy?”, thanh tra từ bắc Midtown hỏi. Một cảnh sát cao, đầu bước ra vì mùi hôi, mà anh cho là mùi thịt người cháy, vấn đề là mùi khá thơm.

Một trong các cảnh sát từ đội chống bom cười vị thanh tra mặt xanh lét. “Gyros đấy.”

“Gear – gì cơ?” Viên thanh tra hỏi, nghĩ nó là một dạng gì đó kinh khủng.

“Nhìn này.” Viên cảnh sát chống bom giơ lên một khoanh thịt cháy với bàn tay đeo găng cao su. Anh ta hít hà khoanh thịt. “Thơm thật.”

Viên thanh tra bắc Midtown cười và không tỏ ra mình đang buồn nôn tới mức nào.

“Đó là thịt cừu.”

“Đó…”

“Người lái xe đang đi giao đồ ăn. Đó là công việc của anh ta. Thùng sau xe tải chứa đầy thịt, falafel và các thứ kiểu thế.”

“Ồ.” Viên thanh tra vẫn chẳng cảm thấy bớt lợm giọng chút nào.

Đúng lúc đó chiếc Camaro SS màu đỏ tươi – một chiếc xe thật tuyệt – dừng lại giữa phố, vừa chạm vào dải băng cảnh sát màu vàng. Một cảnh sát với mái tóc đỏ bước ra, người chịu tránh nhiệm hiện trường, gật đầu với viên thanh tra.

“Này”, anh nói.

Người phụ nữ nối chiếc tai nghe vào chiếc máy Motorola và vẫy về phía chiếc xe của đội Khám nghiệm hiện trường, cũng vừa mới dừng lại, cô hít hít không khí, hít một vài hơi thật sâu. Cô gật đầu. “Vẫn chưa kiểm tra hiện trường”, cô nói vào trong micro: “Nhưng ngửi mùi thì em thấy, chúng ta đã tóm được hắn rồi, Rhyme”.

Ngay lúc đó người thanh tra cao hói đầu nuốt ực và nói: “Tôi sẽ quay lại ngay”. Anh ta bước vào quán Starbuck gần đó, cầu mong là sẽ đến được nhà vệ sinh kịp lúc.

Đi bên cạnh thanh tra Bell, Geneva đang bước xuống phòng thí nghiệm trong ngôi nhà của Rhyme ở dưới lầu. Cô nhìn vào cha mình, ông đang nhìn cô với đôi mắt to tròn đầy đau khổ.

Trời ạ. Cô quay đi chỗ khác.

Rhyme nói: “Chúng ta có một vài tin cho cháu. Kẻ thuê Boyd đã chết rồi”.

“Chết? Cái gã định ăn cướp trung tâm mua bán trang sức?”

“Mọi việc không như vẻ bề ngoài của nó.” Rhyme nói.”Bọn chú… à, chú đã sai. Chú đã nghĩ tới bất cứ kẻ nào có ý định cướp trung tâm mua bán trang sức. Nhưng không, hắn ta muốn đánh sập chỗ đó.”

“Khủng bố?”, cô hỏi.

Rhyme gật đầu về phía tập tài liệu nhựa mà Amelia đang cầm. Bên trong đó là một lá thư, được gửi đến tờ The New York Times. Trong đó nói rằng vụ đánh bom cửa hàng mua bán trang sức chỉ là một phần trong cuộc chiến thần thánh chống lại Israel và đồng minh. Cùng một loại với mẩu giấy được dùng để gửi tin về yêu cầu giết Geneva và bản đồ của phố 55 khu phía tây.

“Hắn là ai?”, cô bé hỏi, cố nhớ lại chiếc xe tải và người đàn ông Trung Đông nào đó trên con phố ngoài bảo tàng một tuần trước. Nhưng không thể.

“Một người nhập cư bất hợp pháp từ Ả Rập Xê út”, thanh tra Sellito nói. “Làm việc cho một nhà hàng ở dưới trung tâm. Tất nhiên, người chủ khá sợ hãi. Họ nghĩ chúng ta cho rằng họ là vỏ bọc của Al-Qaeda hoặc tương tự vậy.” Anh cười khùng khục. “Mà họ có thể lắm chứ. Chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi. Nhưng tất cả bọn họ đều là công dân có hồ sơ trong sạch, đã ở đây nhiều năm rồi, thậm chí có vài đứa con trong quân đội nữa. Có thể nói họ là một đám người vô cùng hoảng sợ lúc này.”

Phần quan trọng nhất về gã đánh bom này, Amelia tiếp tục nói, là gã Bani al-Dahab không hề có liên quan với bất cứ kẻ tình nghi khủng bố nào. Người phụ nữ mà hắn hẹn hò gần đây và những đồng nghiệp đều nói họ không biết có một lần nào hắn gặp những người có thể ở trong các trại khủng bố, nhà thờ hồi giáo mà hắn thường lui tới hoàn toàn ôn hòa về mặt tôn giáo và chính trị.

Amelia đã kiểm tra căn hộ của hắn ở Queens và không tìm thấy một chứng cứ nào có liên quan tới các nhà tù khủng bố khác. Ghi chép dữ liệu điện thoại của hắn cũng đang được kiểm tra xem có mối liên hệ nào với các tôn giáo chính thống khác không.

“Chúng ta sẽ tiếp tục kiểm tra các bằng chứng”, Rhyme nói, “nhưng chúng ta chắc chắn 90% rằng hắn làm việc một mình. Ta nghĩ rằng điều đó có nghĩa là cháu hẳn đã an toàn rồi”.

Anh lăn chiếc xe của mình tới chiếc bàn đựng vật chứng và nhìn vào vài cái túi đựng đồ nhựa và sắt bị cháy. Anh nói với Cooper: “Đưa chúng lên bảng, Mel. Chất nổ là TOVEX, và chúng ta có nhiều mảnh của thiết bị kích nổ, hộp, dây, một mẩu kíp nổ. Tất cả được đựng trong một cái hộp của UPS đề địa chỉ gửi tới trung tâm trang sức, nhắm vào giám đốc”.

“Thế làm sao mà nó lại phát nổ trước vậy?”, Jax Jack hỏi.

Rhyme giải thích rằng sử dụng một quả bom điều khiển bằng sóng vô tuyến trong thành phố rất nguy hiểm bởi có quá nhiều sóng vô tuyến xung quanh – từ các máy phát tín hiệu trong khu xây dựng, những chiếc điện đàm, và hàng trăm nguồn phát khác nữa.

Sellito nói thêm: “Hoặc có thể hắn đã tự giết chính mình. Hắn có thể đã nghe tin Boyd bị bắt hoặc trung tâm mua bán trang sức đang được rà soát bom. Hắn hẳn phải nghĩ rằng việc bị tóm chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi”.

Geneva cảm thấy bối rối. Những người xung quanh cô bỗng trở thành những người xa lạ. Lý do họ tập hợp lại không còn tồn tại nữa. Với cha cô, ông ấy còn xa lạ với cô hơn cả những cảnh sát. Cô muốn được trở lại phòng mình ở căn hầm tại Harlem với những quyển sách và kế hoạch tương lai của mình, về đại học, giấc mơ về Florence và Paris.

Nhưng rồi cô nhận ra là Amelia đang nhìn mình thật gần gũi. Người nữ cảnh sát hỏi: “Từ giờ cháu định làm gì?”.

Geneva nhìn cha mình. Chuyện gì sẽ xảy ra? Cô đã có cha, người cha thật sự, nhưng người đó đã từng là tội phạm, thậm chí còn không thể ở đây, trong thành phố này. Hẳn là họ sẽ vẫn muốn giao cô cho một gia đình nào đó nhận nuôi.

Amelia nhìn Lincoln Rhyme. “Cho đến khi mọi việc được làm sáng tỏ hết, tại sao chúng ta không tiếp tục với kế hoạch của mình? Để Geneva ở đây một thời gian.”

“Ở đây?”, cô bé hỏi.

“Cha của cháu phải quay trở lại Buffalo và lo mọi việc ở đó.”

Dù sao thì việc sống với ông ấy cũng không phải là một lựa chọn, Geneva nghĩ. Nhưng cô giữ nó trong lòng.

“Một ý tưởng hay.” Thom thốt ra câu này. “Tôi nghĩ đó là những gì chúng ta sẽ làm.” Giọng của anh rất kiên quyết. “Em sẽ ở đây.”

“Như thế có sao không?”, Amelia hỏi Geneva.

Geneva không chắc chắn lý do vì sao họ muốn cô ở lại. Lúc đầu cô cảm thấy nghi ngờ. Nhưng vẫn luôn phải nhắc chính mình rằng, sau khoảng thời gian sống một mình quá lâu, tính ngờ vực theo đuổi cô giống như một cái bóng. Cô nghĩ tới một quy tắc khác về những cuộc đời giống như cô: Ta coi trọng gia đình của mình theo cách ta tìm ra nó.

“Chắc chắn rồi”, cô nói.

Bị còng tay, Thompson Boyd được đưa đến phòng thí nghiệm của Rhyme và hai người bảo vệ đặt hắn ngồi trước mặt Rhyme và những cảnh sát. Geneva một lần nữa được đưa về phòng cô bé, lúc này được bảo vệ bởi Barbe Lynch.

Nhà tội phạm học hiếm khi làm điều này, đối diện trực tiếp với những hung thủ. Đối với anh, một nhà khoa học, niềm đam mê duy nhất trong công việc chính là trò chơi, cuộc săn đuổi, chứ không phải là hiện thân của những tên tội phạm. Anh không hề có chút khao khát nhìn những tên tội phạm dù nam hay nữ mà mình bắt được với ánh mắt hả hê. Những lời nhận tội và xin lỗi khẩn thiết không làm anh thay đổi, đe dọa thậm chí chẳng làm anh cảm thấy phiền hà.

Giờ anh chỉ muốn bảo đảm một cách tuyệt đối rằng Geneva Settle đã an toàn. Anh muốn chính mình tiếp cận với kẻ tấn công cô bé.

Khuôn mặt hắn được băng bó và thâm tím bởi cuộc chiến với Sachs khi bị bắt, Boyd nhìn quanh phòng thí nghiệm. Các trang thiết bị, các biểu đồ trên những tấm bảng trắng.

Chiếc xe lăn.

Không chút cảm xúc, không một chút rung động nào của sự ngạc nhiên hay thích thú. Thậm chí ngay cả khi hắn quay đầu về phía Sachs. Như thể quên rằng cô đã đánh hắn liên tục bằng một viên đá.

Có một ai đó hỏi Boyd về điều đó, rằng cảm thấy thế nào, khi ngồi trên chiếc ghế điện. Hắn nói rằng cảm giác đó không hề giống với cái gì cả. Chỉ có cảm giác như một kiểu vô cảm. Hắn nói như thế rất nhiều về sự kết thúc. Hẳn cảm thấy vô cảm.

Hắn đặt câu hỏi: “Làm sao các người tìm ra được tôi?”.

“Có một vài điều”, Rhyme trả lời. “Và một trong số đó là, anh đã chọn nhầm lá bài tarot để bỏ lại như là một bằng chứng. Nó đặt vào trong suy nghĩ của tôi về sự hành hình.”

“Người treo ngược”, Boyd nói, gật đầu. “Ông đúng. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Chỉ có vẻ giống như một kiểu ghê rợn thôi. Chỉ để đánh lạc hướng các ông.”

Rhyme tiếp tục: “Nhưng, thứ đưa chúng tôi lần ra được tên anh, là thói quen của anh”.

“Thói quen?”

“Anh hay huýt sáo.”

“Tôi hay thế thật. Tôi đã cố không như thế khi làm việc. Nhưng đôi khi nó tự phát ra. Vậy ông đã nói chuyện với…”

“Đúng, vài người ở Texas.”

Gật đầu, Boyd nhìn Rhyme với đôi mắt màu đỏ, nheo nheo. “Vậy các ông biết về vụ Charlie Tucker sao? Hắn quả là một sự tồi tệ của loài người. Khiến cho những ngày cuối cùng của những người của tôi trở nên khốn khổ. Nói với họ rằng họ sẽ bị thiêu đốt dưới địa ngục, nói những điều vô nghĩa về Jesus và những thứ vớ vẩn.”

Những người của tôi…

Sachs hỏi: “Có phải Bani al-Dahab là kẻ duy nhất thuê anh làm việc?”.

Hắn chớp chớp mắt kinh ngạc; đó dường như là cảm xúc thật đầu tiên xuất hiện trên khuôn mặt hắn. “Làm thế nào…?” Rồi hắn im lặng.

“Quả bom phát nổ sớm. Hoặc hắn tự sát.”

Một cái lắc đầu. “Không, hắn ta không phải một kẻ đánh bom tự sát. Nó hẳn đã phát nổ một cách bất ngờ. Hắn đã không cẩn thận. Quá nóng vội. Không chịu làm mọi việc theo hướng dẫn gì hết. Nhiều khả năng hắn đã kích hoạt nó quá sớm.”

“Anh đã gặp hắn như thế nào?”

“Hắn gọi cho tôi. Biết tên tôi qua một ai đó ở tù. Kiểu như mối liên hệ Hồi giáo.”

Vậy là thế. Rhyme đã băn khoăn về việc làm thế nào mà một người bảo vệ nhà tù ở Texas lại có thể liên quan tới những kẻ khủng bố Hồi giáo.

“Họ rất điên cuồng”, Boyd nói. “Nhưng họ có tiền, những người Ả Rập đó.”

“Và cả John Earle Wilson? Hắn chính là kẻ tạo bom của anh?”

“Joimy, vâng, đúng.” Hắn lắc đầu. “Ông cũng biết về anh ta sao? Tôi phải thật lòng mà nói các ông cũng thật giỏi đấy.”

“Anh ta ở đâu?”

“Tôi không biết. Chúng tôi để lại tin nhắn ở các quầy điện thoại trả trước vào một hộp thư thoại. Gặp nhau ở những nơi công cộng. Chưa bao giờ trao đổi quá chục từ.”

“FBI sẽ tiếp tục nói chuyện với anh về al-Dahab và vụ nổ bom. Những gì mà chúng tôi muốn biết là về Geneva. Có còn ai khác muốn tấn công cô bé không vậy?”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.