Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 45 [Hết]
Mười ngày sau cuộc họp với chủ tịch ngân hàng Sanford Gregory Hanson và luật sư của ông, Lincoln Rhyme đang có một cuộc trò chuyện qua điện thoại với chàng trai trẻ Ron Pulaski, vẫn đang được nghỉ để chữa trị nhưng sẽ trở lại công việc trong khoảng một tháng. Ký ức đã quay lại và cậu ấy đang giúp họ củng cố vụ án chống lại Thompson Boyd.“Vậy anh sẽ đi đến bữa tiệc lễ Halloween chứ?”, Pulaski hỏi. Rồi dừng lại và nói thật nhanh: “Hay gì cũng được”. Hai từ cuối cùng để lấp liếm sự lỡ lời do việc gợi ý cho một người tàn tật hoàn toàn nên tham gia các buổi tiệc.
Nhưng Rhyme đã khiến cậu ta cảm thấy thoải mái hơn khi nói: “Tất nhiên là tôi sẽ đến. Giống như Glenn Cuimingham”.
Sachs bụm miệng cười.
“Thật chứ?”, chàng cảnh sát trẻ nói. “Ừm, chính xác thì đó là ai vậy?”
“Tại sao cậu không tra cứu đi, chàng cảnh sát?”
“Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm.”
Rhyme ngắt máy và nhìn vào tấm bảng bằng chứng, ở trên cùng được dán lá bài thứ mười hai, Người treo ngược.
Anh nhìn chằm chằm vào lá bài cho đến lúc chuông cửa reo.
Hẳn là Lon Sellito. Anh được về sớm sau thời gian chữa trị. Anh ấy cũng đã không còn chà cái vệt máu vô hình và đang tập luyện vẽ nhanh hình nhóc Billy – mà vẫn chưa có ai giải thích cho Rhyme. Anh đã thử hỏi Sachs về điều đó nhưng cô không thể, hoặc sẽ không nói nhiều. Như thế cũng tốt. Đôi khi, Rhyme tin tưởng một cách kiên định rằng, ta chỉ đơn giản không cần phải biết hết mọi tình tiết.
Nhưng hóa ra, người khách đến lúc này, không phải là vị thanh tra nhàu nhĩ.
Rhyme nhìn ra cửa và thấy Geneva Settle đang đứng ở đó, nghiêng người dựa vào chiếc cặp sách. “Mời vào”, anh nói.
Sachs chào và bỏ chiếc kính bảo vệ đang đeo từ lúc phải điền vào các bản chứng thực bằng chứng hợp pháp cho các mẫu máu lấy được từ hiện trường vụ án mạng buổi sáng hôm đó.
Wesley Goades đã có đầy đủ các giấy tờ và thủ tục pháp lý cần thiết để lập hồ sơ vụ kiện chống lại ngân hàng Sanford đồng thời báo cho Geneva rằng cô có thể yên tâm chờ một lời đề nghị thực tế hơn từ Hanson vào ngày thứ Hai. Nếu không, thì vị luật sư ‘tên lửa hành trình pháp lý’ cảnh báo đối thủ của mình rằng ông ta sẽ đưa hồ sơ kiện lên tòa án ngay ngày hôm sau. Một buổi họp báo sẽ đi kèm theo với sự kiện (Ý kiến của Goades là một sự quảng bá rầm rộ về những điều xấu sẽ tồn tại lâu đáng kể hơn so với ‘mười phút xấu xí’).
Rhyme nhìn cô bé. Một chiếc áo ấm không hợp thời làm cho cả một tay xã hội đen cũng phải đổ mồ hôi và chiếc mũ trùm trở nên không phù hợp, cô bé mặc một chiếc quần jeans màu xanh và chiếc áo phông không tay với dòng chữ Guess! lấp lánh chạy ngang trên ngực. Nhìn cô bé béo hơn một chút, tóc dài hơn. Cô thậm chí còn trang điểm chút ít (Rhyme đã tự hỏi cái gì ở trong chiếc túi mà Thom đã đưa cho cô một cách đầy bí mật vào ngày hôm đó). Nhìn cô bé khá ổn.
Cuộc sống của Geneva đã có được sự ổn định nhất định. Jax Jackson đã được ra viện và đang chạy vật lý trị liệu. Nhờ có sự tác động từ Sellito, anh ta đã chính thức thuộc sự quản lý của cơ quan chức trách ở New York. Geneva đang sống trong căn hộ nhỏ của Thom ở Harlem, một sự thỏa thuận không đến nỗi khốc liệt như cô dự đoán (cô bé đã thừa nhận là không phải vì Rhyme hay Roland Bell mà là vì Thom – người đã giúp đỡ và mời cô bé đến ngôi nhà của mình thường xuyên để dạy nấu ăn, xem TV, tranh cãi về sách vở và chính trị, không có gì trong số này mà Rhyme thấy thích thú cả). Ngay khi họ có thể tậu được một căn nhà lớn hơn, cô và cha của mình sẽ mời bà cô Lilly đến ở cùng họ.
Cô bé đã bỏ công việc ở chỗ McHash và được về làm việc cùng với Wesley Goades với vai trò một người nghiên cứu và trợ lý hợp pháp. Cô cũng giúp ông dựng quỹ Charles Singleton, sẽ đưa tiền bồi thường tới những người thừa kế của người cựu nô lệ. Sự mong muốn rời khỏi thành phố ngay cơ hội đầu tiên để sống ở London hoặc Rome không hề giảm đi, nhưng những vụ việc mà Rhyme nghe lỏm được khi cô nói một cách say mê về tất cả những gì có vẻ như liên quan đến người dân của Harlem, những người đã bị phân biệt đối xử bởi họ là người da đen, người Mỹ Latin, theo đạo Hồi, phụ nữ hay người nghèo.
Geneva cũng tham gia vào một vài kế hoạch mà cô cho đó là “cứu lấy bạn gái của mình”, cũng không đề cập đến với anh; người cố vấn đưa ra lời khuyên cho sự nỗ lực đặc biệt này có vẻ như là Amelia Sachs.
“Cháu muốn cho chú xem một thứ.” Cô bé giơ lên một tờ giấy ngả vàng có chứa một vài đoạn văn bằng chữ viết tay mà Rhyme ngay lập tức nhận ra đó là của Charles Singleton.
“Một lá thư khác à?”, Sachs hỏi.
Geneva gật đầu. Cô đang cầm lá thư một cách rất cẩn thận.
“Bà Lilly nghe từ một người họ hàng của nhà cháu ở Madison. Ông ấy gửi tới một vài thứ mà ông ấy tìm thấy trong tầng hầm nhà mình. Một cái đánh dấu trang của Charles, một cặp kính. Và hàng tá những lá thư khác. Đây là lá thư mà cháu muốn đưa cho chú xem.” Với đôi mắt tươi cười rạng rỡ, cô nói thêm: “Nó được viết vào năm 1875, sau khi ông ấy ra tù”.
“Hãy xem nào”, Rhyme nói.
Sachs đưa lá thư vào máy scan và một lát sau bức ảnh đã xuất hiện trên vài màn hình máy tính quanh phòng thí nghiệm. Sachs bước tới bên cạnh Rhyme, đưa tay ôm vòng quanh vai anh. Họ nhìn vào màn hình.
Violet yêu thương của anh,
Anh tin rằng em đang tận hưởng cuộc sống bên cạnh chị gái mình, Joshua và Elizabeth thì vui thích được chơi đùa cùng anh chị em họ của chúng nó. Nhóc Frederick – mới chín tuổi khi anh nhìn thấy nó lần gần đây nhất – giờ đã cao bằng bố của nó, quả là một điều mà anh khó có thể tưởng tượng được.
Tất cả đều ổn trong căn nhà của chúng ta, anh rất vui được báo với em điều đó. James và anh cắt băng trên bờ sông vào các buổi sáng và xây ngôi nhà băng, rồi đổ mùn gỗ lên đó. Sau đó bọn anh đi lên phía bắc dòng sông gần bốn cây số, qua những đống tuyết to lớn để nhìn vườn cây đang được rao bán. Giá thì đắt nhưng anh tin rằng người bán sẽ đáp lại một cách thân thiện với lời đề nghị hoàn giá của anh. Ông ta thực sự nghi ngờ việc bán cho một người da đen, nhưng khi anh hé lộ ra rằng mình có thể trả ông ta bằng những đồng tiền xanh, sự lo ngại của ông ẩy hoàn toàn biến mất.
Trả bằng tiền mặt quả là một cách tốt.
Em có hồ hởi giống như anh không khi đọc về Luật Quyền dân sự có hiệu lực ngày hôm qua? Em có thấy những điểm nổi bật không? Luật bảo đảm cho tất cả mọi người với mọi màu da có quyền bình đẳng ở tất cả các nhà trọ, các phương tiện vận chuyển công cộng, nhà hát và những thứ như vậy. Quả là một ngày quan trọng cho Sự nghiệp của chúng ta! Đây chính là sự ban hành luật mà anh trao đổi với Charles Sunner và Benjamin Butler suốt năm ngoái, và anh tin rằng một vài ý tưởng của anh đã giúp họ trong văn bản quan trọng này.
Em có thể tưởng tượng rằng, cái tin này mang lại cho anh lý do để phải suy nghĩ, nghĩ lại những sự kiện khủng khiếp trong bảy năm qua, bị cướp đi vườn cây của chúng ta ờ Galloxv Heights và bị nhét vào ngục trong những điều kiện khốn cùng.
Và giờ đây, suy tưởng về tin này từ Washington D.C. khi anh đang ngồi trước ngọn lửa trong ngôi nhà của chúng ta, anh cảm thấy như những ký ức khủng khiếp ấy tất cả đến từ một thế giới hoàn toàn khác. Phần lớn giống hệt với những ngày chiến tranh đẫm máu ở Cuộc chiến hoặc những năm tháng khốn khó bị làm nô lệ khổ sai ở Virginia vẫn luôn hiện ra trong ký ức nhưng – bằng một cách nào đó – cũng sẽ biến mất như những hình ảnh lộn xộn trong một cơn ác mộng khó nhớ.
Có lẽ tận sâu trong trái tim của chúng ta có một chỗ giấu cho cả nỗi buồn chán và hi vọng, và khi chỗ sâu thẳm ấy được lấp đầy bởi một thứ, thì điều còn lại sẽ không hề ở trong đó mà chỉ là ký ức mờ ảo không rõ ràng của cái còn lại. Và đêm nay trái tim anh được lấp đầy hi vọng.
Em hãy nhớ lại xem, trong nhiều năm trời anh thề nguyện rằng mình sẽ làm bất cứ gì có thể để xóa đi nỗi nhục bị coi như là ba phần năm một con người. Khi nhìn thấy ánh mắt mà anh vẫn nhận được, bởi vì màu da của anh, và hành động của những người khác đối với anh và những người như chúng ta, anh nghĩ rằng mình vẫn chưa được nhìn như một con người toàn diện. Nhưng anh dám nói rằng chúng ta đang tiến tới vị trí mà anh được nhìn nhận như chín phần mười một con người (James cười một cách đầy sảng khoái khi anh nói với anh ấy điều này trong bữa ăn nhẹ tối nay), và anh tiếp tục có niềm tin rằng chúng ta sẽ được nhìn nhận như một con người đầy đủ trong suốt cuộc đời mình, hoặc, ít nhất là trong cuộc đời của Joshua và Elizabeth.
Lúc này đây, tình yêu của anh, anh phải nói tạm biệt với em rồi và chuẩn bị bài học cho sinh viên của anh ngày mai.
Chúc em và các con ngủ ngon và những giấc mơ ngọt ngào, em yêu. Anh sống vì ngày em quay về. Charles của em
Croton on Hudson,
Mùng 2 tháng 3 năm 1875
Rhyme nói: “Nghe như là Douglass và những người khác đã tha thứ cho ông ấy vì tội cướp tài sản. Hoặc quyết định tin rằng ông ấy không hề làm điều đó”.
Sachs hỏi: “Ông ấy đang nói đến luật nào ấy nhỉ?”.
“Bộ luật Dân quyền năm 1875”, Geneva nói. “Nó cấm sự phân biệt chủng tộc tại các khách sạn, nhà hàng, tàu, rạp hát – bất cứ một nơi công cộng nào”. Cô bé lắc lắc đầu mình. “Dù vậy, nó không tồn tại lâu. Tòa án Tối cao đã gỡ bỏ nó trong những năm 1880 vì trái với hiến pháp. Không có một phần nhỏ nào của các quyền dân sự trong lập pháp liên bang được ban hành sau đó trong vòng hơn năm mươi năm.”
Sachs trầm ngâm: “Tôi tự hỏi liệu Charles có sống lâu để biết rằng cái luật ấy đã bị bỏ xuống, ông ấy hẳn là sẽ không thích điều đó”.
Nhún vai, Geneva đáp lời: “Cháu không nghĩ rằng nó là vấn đề. Ông ấy sẽ nghĩ tới điều đó như là một khó khăn tạm thời”.
“Niềm hi vọng đẩy lùi nỗi đau”, Rhyme nói.
“Đúng vậy”, Geneva nói. Rồi cô nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch cũ kỹ của mình. “Cháu cần phải quay lại làm việc. Chỗ ông Wesley Goades… Cháu phải nói là, ông ấy thật kỳ quặc. Không bao giờ cười, không bao giờ nhìn vào mình… Và, rõ là, đôi khi chúng ta có thể tỉa bớt râu cơ mà.”
Nằm trên giường đêm hôm đó, trong căn phòng tối, Rhyme và Sachs đang ngắm mặt trăng, cái lưỡi liềm thật mảnh, đúng ra nó phải là màu trắng lạnh nhưng qua bầu khí quyển, nó vàng rực như mặt trời.
Đôi khi, vào những khoảnh khắc như thế này, họ nói chuyện, đôi khi không. Đêm nay họ yên lặng.
Có chuyển động nhỏ ở rìa bên ngoài cửa sổ – từ những con chim cắt làm tổ ở đó. Một cặp chim trống và mái với hai con chim non mới ra ràng. Có lúc đột ngột một người khách đến thăm Rhyme có thể nhìn vào cái tổ và hỏi liệu không biết chúng có tên không.
“Chúng tôi có một thỏa thuận”, anh lầm bầm. “Chúng không đặt tên tôi. Tôi không đặt tên chúng.” Đầu của con chim cắt ngẩng lên và nhìn sang bên, cắt qua tầm nhìn của họ tới mặt trăng. Chuyển động và mặt cắt của con chim cho thấy một vài lý do, sự thông thái, cả nguy hiểm nữa – những con chim ưng trưởng thành không có kẻ thù ăn thịt trong tự nhiên và chúng tấn công con mồi từ trên cao với tốc độ lên tới hơn ba trăm kilômet một giờ. Nhưng lúc này con chim đang cúi xuống hiền lành và đứng yên. Các sinh vật đều làm việc vào ban ngày và ngủ vào ban đêm.
“Đang nghĩ gì à?”, Sachs hòi.
“Hãy đi nghe nhạc ngày mai. Có một buổi biểu diễn hoặc bất cứ gì mà em gọi là một buổi hòa nhạc chiều, ở Lincoln Center.”
“Ai chơi?”
“The Beatles, anh nghĩ thế. Hoặc Elton John và Maria Callas cùng diễn. Anh không quan tâm lắm. Anh thực sự chỉ muốn làm bẽ mặt mọi người bằng việc lăn chiếc xe về phía họ… Quan điểm của anh là vấn đề không phải là ai đang chơi. Anh muốn đứng dậy. Điều đó không thường xuyên xảy ra, em biết đấy.”
“Em biết.” Sachs nghiêng người và hôn anh. “Chắc chắn rồi, hãy đi.”
Anh xoay đầu mình và hôn lên tóc cô. Cô chùng xuống dựa vào anh. Rhyme nắm chặt những ngón tay quanh bàn tay cô.
Cô nắm lại.
“Anh biết chúng ta có thể làm gì không?”, Sachs hỏi, có một chút gợi ý trong giọng nói. “Hãy lén mang vào một chút rượu và đồ ăn. Patê và bơ. Bánh mì Pháp.”
“Em có thể mua đồ ăn ở đó. Anh nhớ thế. Nhưng rượu scotch thì thật là khủng khiếp. Và nó tốn kha khá tiền. Chúng ta có thể làm là…”
“Rhyme!”, Sachs ngồi thẳng dậy trên giường, nói.
“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.
“Anh đã làm gì?”
“Anh đang đồng ý rằng chúng ta sẽ lén đưa một ít đồ ăn vào…”
“Đừng có chối vòng quanh.” Sachs lần mò công tắc bật đèn, nhấn nó. Trong chiếc quần đùi lụa màu đen và áo phông màu nâu, tóc hất lệch sang một bên, và đôi mắt mở to, nhìn cô giống như một sinh viên đại học mới chợt nhớ ra là mình có một bài kiểm tra vào tám giờ sáng ngày hôm sau.
Rhyme nheo mắt khi nhìn vào ánh sáng. “Thật là chói mắt quá. Có cần phải bật đèn không?”
Cô đang nhìn chằm chằm vào cái giường.
“Tay… tay của anh. Anh cử động nó.”
“Anh nghĩ là mình đã làm thế.”
“Tay phải của anh! Anh chưa bao giờ có cử động nào ở bàn tay phải cả.”
“Buồn cười, đúng không?”
“Anh đã trì hoãn bài kiểm tra, nhưng anh đã biết là mình có thể làm điều đó rồi?”
“Anh không hề biết là mình có thể. Cho đến lúc này. Anh đã không định thử – anh sợ là nó không có kết quả. Nên anh đang định bỏ tất cả các bài tập, ngừng lo lắng về nó.” Anh nhún vai. “Nhưng anh đã thay đổi quyết định. Anh muốn thử. Nhưng chỉ giữa chúng ta, không có máy móc hay bác sĩ nào xung quanh.”
Không phải một mình anh nữa, Rhyme thêm vào, dù không nói ra.
“Và anh không nói với em!”, cô ôm chầm lấy cánh tay anh.
“Anh không cảm thấy điều đó.”
Họ cười.
“Thật là kinh ngạc, Rhyme”, cô thì thầm và ôm anh thật chặt. “Anh đã làm được. Anh đã thật sự làm được.”
“Anh sẽ thử lại lần nữa”, Rhyme nhìn Sachs, rồi nhìn vào bàn tay mình.
Anh dừng lại một chút, rồi chuyển đi một luồng năng lượng từ tâm trí xuyên qua các dây thần kinh tới bàn tay phải của mình. Mỗi ngón tay nắm lại một chút. Và rồi, một cách vụng về giống như là một chú ngựa non mới đẻ, bàn tay của anh xoay qua nếp gấp sâu năm centimet của chăn mà như vượt qua miệng vực Grand Canyon[1] và đặt xuống một cách vững chắc lên cổ tay của Sachs. Anh nắm ngón cái và ngón trỏ quanh cổ tay cô.
[1] Một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado Arizona. Dài 446 km, rộng từ 0,4 – 24 km và sâu hơn 1,6 km.
Những giọt nước trong đôi mắt, cô cười với niềm vui sướng.
“Như thế thì sao nào”, anh nói.
“Vậy anh sẽ vẫn tiếp tục luyện tập?”
Anh gật đầu.
“Chúng ta sẽ tham gia bài kiểm tra với bác sĩ Sherman chứ?”, cô hỏi.
“Anh cho rằng ta có thể. Trừ khi có một điều gì khác xảy ra. Gần đây chúng ta đã quá bận rộn.”
“Chúng ta sẽ lên lịch cuộc kiểm tra”, cô nói một cách quả quyết.
Cô tắt đèn đi và nằm gần bên anh. Anh có thể cảm nhận, dù chưa phải là cảm giác thấy.
Trong sự im lặng, Rhyme nhìn chằm chằm lên trần nhà. Đến khi hơi thở của Sachs đều đều, anh cau mày, nhận thấy một cảm giác kỳ lạ nhói lên trong ngực, nơi mà đáng ra chẳng có cảm giác nào cả. Lúc đầu, anh cứ tưởng đó một cơn đau giả. Rồi, cảnh giác, anh tự hỏi liệu có phải nó là bắt đầu của hiện tượng tăng phản xạ tự phát[2], hoặc tồi tệ hơn chăng. Nhưng rồi anh nhận ra rằng không phải, đó là một điều khác hoàn toàn, một cái gì đó không bắt nguồn từ thần kinh hay cơ bắp hay là các bộ phận bên trong. Một nhà khoa học luôn luôn phân tích cảm giác theo kinh nghiệm và nhận ra rằng, nó giống với những gì mà anh cảm thấy khi nhìn thấy Geneva Settle ngẳng cao lên nhìn xuống vị luật sư của ngân hàng. Giống như khi anh đọc về nhiệm vụ của Charles Singleton tìm ra công lý ở quán rượu Potter’s Field trong đêm kinh hoàng ấy vào tháng Bảy cách đây hàng trăm năm trước, hoặc là về lòng nhiệt huyết của ông ấy đối với việc thực hiện quyền dân sự.
[2] Một bệnh lý có khả năng đe dọa đến tính mạng.
Rồi, bất ngờ, Rhyme đã hiểu ra rằng mình đang cảm thấy điều gì. Đó chỉ đơn giản là niềm tự hào. Giống như anh đã tự hào về Geneva và người tổ tiên của cô bé, anh đã tự hào với thành tích của chính mình. Bằng việc gắn chặt với những bài tập và đêm nay đây tự kiểm tra chính mình, Lincoln Rhyme đã đối đầu với điều không thể, làm anh khiếp sợ. Dù cho anh có tìm lại được bất cứ vận động nào hay không đều không liên quan; cái cảm giác đến từ điều mà anh đã giành được không thể chối cãi: sự trọn vẹn, cũng giống như sự trọn vẹn mà Charles đã viết về nó. Anh nhận ra rằng không gì khác – không phải các nhà chính trị hay các công dân hay cái thân thể rắc rối của chúng ta – có thể khiến chúng ta thành ba phần năm một con người; nó chỉ đơn giản là phán quyết trong lòng chúng ta tự nhìn nhận mình như là một con người hoàn thiện hay chỉ là một phần con người và từ đó sống cuộc đời của mình.
Anh tin rằng, tất cả mọi thứ đều có thể không phải đúng với logic vốn có của nó, cũng giống như cử động nhỏ mà anh tìm lại được ở bàn tay mình. Nhưng điều đó không quan trọng. Anh nghĩ về công việc của mình: làm thế nào mà một mẩu sơn vụn có thể giúp tìm ra chiếc xe, rồi từ chiếc xe đó đưa tới điểm đỗ xe, nơi xuất hiện một dấu chân mờ nhạt dẫn tới một cánh cửa mà từ đó có thể tìm ra một sợi vải của một chiếc áo được vứt ra với dấu tay trên nút áo – bề mặt duy nhất mà hung thủ quên không lau sạch.
Ngày hôm sau, đội đặc nhiệm gõ cửa nhà hắn.
Và công lý được mang đến, nạn nhân được cứu, gia đình đoàn tụ. Tất cả đều nhờ vào một mẩu sơn nhỏ xíu.
Những chiến thắng nhỏ bé – đó là những gì mà bác sĩ Sherman đã nói. Những chiến thắng nhỏ bé… Đôi khi đó là tất cả những gì mà ta có thể hi vọng tới, Lincoln Rhyme trầm ngâm suy nghĩ, khi cảm thấy cơn buồn ngủ đang tới.
Nhưng đôi khi chúng là tất cả những gì mà ta cần.
LỜI TÁC GIẢ
Các tác giả sẽ không thể thành công nếu như không có những người bạn, người anh em tuyệt vời bên họ, và tôi vô cùng may mắn khi có được những người bạn thực sự tuyệt vời như vậy quanh mình: Will và Tina Anderson, Alex Bonham, Louise Burke, Robby Burroughs, Britt Carlson, Jane Davis, Julie Reece Deaver, Jamie Hodder-Williams, John Gilstrap, Cathy Gleason, Carolyn Maỵs, Emma Longhurst, Diana Mackay, Tara Parsons, Carolyn Reidỵ. David Rosenthal, Marysue Rucci, Deborah Schenider, Vivienne Schuster, Brigitte Smith và Kevin Smith.
Như mọi khi, tôi xin được gửi tới Madelyn Warcholik lời cảm ơn đặc biệt.
Với độc giả đang tìm kiếm trong những cuốn sách du lịch với hi vọng tìm hiểu về Gallows Heights, các bạn có thể thôi không cần tìm kiếm nữa. Bức tranh cuộc sống về Manhattan thế kỷ XIX là chính xác và quả thật có nhiều địa điểm như vậy ở Upper West Side mà về sau này đã bị nhấn chìm vào sự phát triển của đô thị, nhưng mặt khác thì Gallows Heights và những việc làm sai trái mà tôi viết chỉ là những thứ trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Một cái tên huyền bí giúp đỡ cho mục đích của tôi. và tôi cũng nghĩ rằng Boss Tweed và những bằng hữu của ông ấy ở Tamany Hall sẽ không bận tâm nếu như tôi nhắc đến họ với một vài điều không hay. Sau tất cả, giống như Thompson Boyd nói: “Nó chỉ là câu hỏi về vị trí mà chúng ta đặt cái dấu thập phân mà thôi.”
Hết.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.