Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 6 (TIẾP)
Kara đã từng giải thích với Rhyme và Sachs rằng thế giới ảo thuật được chia làm hai phe phái, những người chỉ là ảo thuật gia tại các hộp đêm, các show diễn, không hề có ý muốn sở hữu những khả năng siêu nhiên và thứ hai là những người quả quyết rằng mình có những quyền năng huyền bí. Kara chẳng có chút kiên nhẫn nào với những người thuộc nhóm thứ hai – cô chỉ là một người biểu diễn đơn thuần mà thôi – nhưng bởi vì kinh nghiệm làm việc trong các cửa hàng đồ ảo thuật của cô để trả tiền thuê nhà và tiền ăn, cô biết chút ít về tiên đoán vận mệnh.
Cô giải thích: “Được rồi, bộ bài tarot là một phương pháp bói toán ở Ai Cập cổ đại. Một bộ bài tarot được chia thành arcana[7] phụ – tương đương với bộ bài năm mươi hai quân – và arcana chính, từ số không đến hai mươi mốt. Những lá bài này kiểu như đại diện cho một chuyến đi xuyên suốt cuộc đời. Người treo ngược là lá bài thứ mười hai trong nhóm arcana chính”. Cô lắc lắc đầu. “Nhưng có điều gì đó không hợp lý ở đây.”
[7] Arcana: Từ dùng để chia nhóm các quân bài trong bộ tarot, là số nhiều của từ Aracnum mang nghĩa “Điều huyền bí”.
“Gì vậy?”, Selitto hỏi, khẽ chà tay lên da.
“Đó không phải là một lá bài xấu chút nào. Hãy nhìn vào bức tranh.”
“Nhìn anh ta khá bình thản”, Sachs nói: “Nên nhớ là anh ta đang bị treo ngược”.
“Hình ảnh trong bức tranh dựa trên hình ảnh về vị thần Odin của Na uy. Ông ta treo ngược trong vòng chín ngày với mong muốn tìm kiếm những kiến thức bên trong tâm trí. Nếu ta bốc được lá bài này trong một lần bói, điều đó có nghĩa rằng ta đang bắt đầu sứ mệnh theo đuổi sự khai sáng tâm hồn.” Cô hất đầu về phía chiếc máy tính. “Anh không phiền chứ?”
Cooper vẫy cô về phía chiếc máy. Cô gõ vào trang tìm kiếm Google và một vài giây sau đã thấy một địa chỉ trang web. “Làm sao để tôi in cái này ra nhỉ?”
Sachs giúp cô, và một lát sau tờ giấy cuộn mình ra khỏi chiếc máy in laze. Cooper đính nó lên trên chiếc bảng ghi chứng cứ. “Đó là ý nghĩa của lá bài”. Cô nói.
Người treo ngược không ám chỉ tới việc một ai đó đang bị trừng phạt. Sự hiện diện của nó ám chỉ rằng sự tìm kiếm về mặt tâm linh đưa tới một quyết định, một sự thay đổi về phương hướng. Lá bài thường dự báo một sự khuất phục trước những kinh nghiệm, kết thúc một sự tranh đấu, và chấp nhận nó. Khi lá bài này xuất hiện với bạn, bạn phải lắng nghe chính nội tâm mình, dù cho cái thông điệp ấy có vẻ như trái ngược với logic.
Kara nói: “Nó không có gì liên quan tới bạo lực hay chết chóc cả. Nó nói về sự tạm dừng về mặt ý chí và chờ đợi”. Cô lắc lắc đầu. “Nó không phải thứ mà một kẻ giết người bỏ lại – nếu như hắn biết tất cả mọi thứ về những quân bài tarot. Nếu như hắn muốn để lại một thứ gì có tính chất phá hủy, nó phải là Ngọn tháp hoặc là một trong những lá bài từ bộ kiếm trong arcana phụ. Đó mới là những lá bài mang tin xấu.”
“Vậy hắn chọn lá bài này chỉ bởi vì nhìn nó đáng sợ”, Rhyme kết luận. Và bởi vì hắn đã lên kế hoạch định thắt cổ Geneva, hoặc là “treo lên”.
“Đó là những gì mà tôi sẽ đoán.”
“Điều đó có ích lắm đấy”, Rhyme nói.
Sachs cũng cảm ơn cô.
“Tôi cần phải quay lại thôi, cần phải luyện tập.” Kara bắt tay Geneva. “Mong là mọi việc sẽ tốt cho em!”.
“Cảm ơn chị.”
Kara đi về cánh cửa. Cô dừng lại và nhìn Geneva. “Em có thích các show ảo thuật và ảo giác không?”
“Em không hay ra ngoài lắm”, cô bé nói. “Khá là bận ở trường.”
“Ừm, chị đang có một show diễn trong vòng ba tuần nữa. Nếu em quan tâm, mọi thông tin có trên tấm vé rồi.”
“Tấm…”
“Vé.”
“Em không có tấm vé nào cả.”
“Có, em có.” Kara nói. “Nó nằm trong ví của em. À, còn bông hoa nữa? Hãy xem đó như là một vật may mắn.”
Cô bước đi, và họ nghe thấy tiếng cửa sập lại.
“Chị ấy nói về điều gì vậy?”, Geneva hỏi, nhìn xuống chiếc túi của mình, nó vẫn đóng.
Sachs cười. “Mở nó ra xem.”
Cô bé kéo khóa ra và đôi mắt chớp chớp trong sự ngạc nhiên. Nằm bên trong là tấm vé tới một trong những buổi biểu diễn của Kara. Ở bên cạnh là một bông hoa violet ép khô. “Làm sao chị ấy làm được nhỉ?” Geneva nói thì thầm.
“Chúng tôi chưa bao giờ có thể bắt được cô ấy”, Rhyme nói. “Tất cả những gì chúng tôi biết, cô ấy quá giỏi”.
“Ồ, cháu cũng sẽ nói thế.” Cô bé giơ bông hoa tím ép khô lên.
Đôi mắt của nhà tội phạm học lướt về phía quân bài tarot, mà Cooper đã đính lên tấm bảng bằng chứng, ở bên cạnh tờ giấy ghi ý nghĩa của nó. “Vậy nó có vẻ như là một thứ mà một kẻ giết người sẽ bỏ lại trong một cuộc tấn công mang vẻ huyền bí. Nhưng hắn lại không hề biết ý nghĩa của nó là gì. Hắn đã chọn quân bài để gây ấn tượng. Vậy điều đó có nghĩa là…” Nhưng tiếng nói của anh nhỏ dần khi nhìn vào phần còn lại của cái biểu đồ ghi chép bằng chứng. “Chúa ơi”.
Những người khác nhìn anh.
“Gì thế?”, Cooper hỏi.
“Chúng ta đã nhầm hết rồi.”
Sellito không chà tay lên mặt nữa, hỏi: “Ý anh là sao?”.
“Nhìn vào các dấu tay trên đồ vật ở trong cái gói đồ. Hẳn đã xóa hết những dấu tay của mình, đúng chứ?”
“Đúng”, Cooper xác nhận.
“Nhưng có những dấu tay”, nhà tội phạm học đưa ra suy luận của mình. “Và nhiều khả năng đó là dấu tay của nhân viên thu ngân, bởi nó trùng khớp với những dấu tay trên hóa đơn.”
“Phải”, Sellito nhún vai. “Vậy thì?”
“Vậy hắn đã xóa sạch dấu tay của mình trước khi đến quầy thanh toán. Trong khi hắn vẫn còn trong cửa hàng.” Im lặng bao trùm lên căn phòng. Phát cáu vì không ai hiểu ý của mình, nhà tội phạm học tiếp tục: “Bởi hắn muốn dấu tay của nhân viên thu ngân có ở trên mọi thứ”.
Sachs đã hiểu ra vấn đề. “Hắn chủ ý để cái bọc đồ lại. Để ta có thể thấy nó.”
Pulaski gật gù. “Nếu không, đáng ra hắn phải xóa sạch tất cả mọi thứ sau khi về đến nhà.”
“Chính xác”, Rhyme nói với giọng có chút vui sướng. “Tôi nghĩ rằng đó là bằng chứng được dàn dựng. Để chúng ta nghĩ rằng đó là một vụ cưỡng hiếp, với ngụ ý huyền bí. Được rồi, được rồi… Hãy bước lùi lại thích thú với ánh nhìn không thoải mái của Pulaski vào đôi chân của Rhyme khi anh sử dụng cách nói như vậy. “Một kẻ tấn công đuổi theo Geneva trong một bảo tàng công cộng. Không phải là bối cảnh cho một cuộc tấn công về tình dục. Rồi hắn đánh cô bé – ừm, là bức tượng ma nơ canh – đủ mạnh để giết chết cô bé, nếu như không phải là làm cô bé bất tỉnh một lúc lâu. Nếu như đó là vụ án vậy thì hắn cần con dao cắt giấy và cuộn băng dính để làm gì? Vứt lại lá bài tarot mà hắn nghĩ rằng nhìn đáng sợ nhưng nó thực ra chỉ là về một sự kiếm tìm về mặt tâm linh? Không, nó không phải một vụ chủ ý cưỡng hiếp chút nào.”
“Vậy ý đồ của hắn là gì?”, Sellito hỏi.
“Đó là điều mà chúng ta tốt hơn là phải tìm ra.” Rhyme nghĩ một lúc rồi nói: “Và anh nói rằng Tiến sĩ Barry không thấy gì hết à?”.
“Đó là những gì ông ấy nói với tôi”, Sellito đáp lại.
Nhưng hung thủ vẫn quay lại và giết ông ấy.” Rhyme cau mày. “Và quý ngài 109 đập vỡ chiếc máy đọc vi phim. Hắn là một kẻ chuyên nghiệp, nhưng cơn thịnh nộ lại chẳng hề chuyên nghiệp chút nào. Nạn nhân của hắn đã chạy thoát – hắn sẽ không phí thời gian đập phá đồ vật bởi vì hắn đã có một buổi sáng xui xẻo.” Rhyme hỏi cô bé: “Cháu nói rằng mình đang đọc một vài tờ báo cũ?”.
“Tạp chí”, cô bé chỉnh lại.
“Trên chiếc máy đọc vi phim?”
“Đúng.”
“Kia à?” Rhyme hất đầu về phía chiếc túi nhựa lớn đựng vật chứng mà bên trong là một cái hộp có những tấm vi phim Sachs đã mang về từ thư viện. Có hai ổ, số một và số ba, trống rỗng.
Geneva nhìn vào chiếc hộp. Cô bé gật đầu. “Vâng. Đây là những ổ có đựng bài báo cháu đang đọc, những cái ổ trống ý.”
“Có phải cô đã lấy tấm vi phim ở trong đầu đọc?” Sachs trả lời: “Không hề thấy chúng đâu. Hắn chắc là đã lấy đi rồi”.
“Và đập nát chiếc máy để chúng ta không chú ý rằng tấm vi phim đã biến mất. Ừm, chuyện này bắt đầu thú vị đây. Hắn định làm gì? Động cơ của hắn là cái quái gì nhỉ?”
Sellito cười. “Tôi nghĩ rằng anh không quan tâm đến động cơ. Chỉ bằng chứng mà thôi.”
“Anh cần phải rút ra sự khác biệt, Lon, giữa việc sử dụng động cơ để chứng minh một vụ án trước tòa – mà đó là một suy luận tốt nhất – và sử dụng động cơ để đưa anh đến bằng chứng, mà nó có tính quyết định việc buộc tội một hung thủ: người đàn ông giết đối tác làm ăn bằng một khẩu súng giúp ta lần ra ga ra của hắn được nạp đầy những viên đạn mua với một tấm hóa đơn chứa đầy những dấu vân tay trên đó. Trong vụ này, ai quan tâm tới việc hắn giết đối tác vì nghĩ rằng một con chó biết nói bảo hắn làm vậy hay bởi vì cái gã đối tác ấy đã ngủ với vợ của hắn? Bằng chứng chỉ rõ vụ án.”
“Nhưng sẽ thế nào nếu không có đạn, súng, hóa đơn hay vết bánh xe? Thế thì câu hỏi hoàn toàn hợp lí là tại sao nạn nhân bị giết? Trả lời câu hỏi này có thể chỉ ta tới bằng chứng giúp buộc tội hung thủ. Xin lỗi vì đã lên lớp”, anh chêm vào với giọng không có chút thành khẩn nào.
“Niềm vui đã biến mất, phải không?”, Thom hỏi. Rhyme làu bàu: “Tôi đang bỏ qua một thứ gì đó ở đây và tôi không thích điều đó”.
Geneva đang cau mày. Rhyme nhận thấy điều đó và hỏi: “Sao vậy?”.
“Ừm, cháu đang nghĩ… Tiến sĩ Barry đã nói với cháu rằng có một ai đó cũng quan tâm đến chủ đề của tạp chí đó. Người đó muốn đọc nó, nhưng tiến sĩ Barry nói với người đó rằng ông ấy có thể đợi đến khi cháu đã đọc xong.”
“Ông ấy có nói ai không?”
“Không.”
Rhyme chú ý tới điều này. “Vậy hãy đưa ra suy đoán: Người thủ thư nói với kẻ nào đó rằng cháu quan tâm tới cái tạp chí đó. Nghi phạm muốn lấy trộm nó và hắn muốn giết cháu bởi cháu đã đọc nó hoặc sẽ đọc nó.” Tất nhiên, nhà tội phạm học không được thuyết phục với tình huống này lắm. Nhưng một trong những điều khiến anh thành công là bởi sự sẵn sàng cân nhắc tới cả những giả thuyết ngược lại, đôi khi là trái khoáy. “Và hắn đã lấy đi chính cái bài báo cháu đang đọc, đúng không?”
Cô bé gật đầu.
“Nó giống như là hắn biết chính xác phải tìm cái gì… Cái bài báo đó viết về gì vậy?”
“Không có gì quan trọng cả. Chỉ là một trong những ông tổ của cháu thôi. Giáo viên của cháu đang quan tâm tới chủ đề Nguồn gốc và chúng cháu phải viết về một vị tổ tiên nào đó của mình trong quá khứ.”
“Ông ấy là ai, ông tổ này của cháu?”
“Đó là cụ tổ gì đó, một nô lệ đã được trả tự do. Cháu đến bảo tàng tuần trước và phát hiện ra có một bài báo về ông ấy trong một chủ đề của Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Họ không có bài này trong thư viện nhưng bác Barry nói rằng bác ấy có thể lấy tấm vi phim trong kho lưu trữ. Chỉ việc cắm nó vào là xong
“Câu chuyện nói về việc gì?” Rhyme chăm chú.
Cô bé do dự một chút rồi nói nhanh và dứt khoát: “Charles Singleton, tổ tiên của cháu, là một nô lệ ở bang Virginia. Ông chủ của ông ấy có những thay đổi trong trái tim và giải phóng tất cả nô lệ của mình. Bởi vì Charles và vợ của ông đã ở cùng với gia đình rất lâu, đã dạy dỗ những đứa trẻ trong gia đình đó đọc và viết, ông chủ đã cho họ một trang trại ở tiểu bang New York. Charles là một quân nhân trong thời Nội chiến. Sau đó, ông trở về nhà và bị buộc tội ăn trộm một khoản tiền từ quỹ giáo dục của người da đen năm 1868. Đó là tất cả những gì được viết đến trong bài báo. Cháu mới chỉ đọc đến phần ông ấy nhảy xuống dòng sông để trốn khỏi cảnh sát khi kẻ tấn công cháu xuất hiện”.
Rhyme chú ý thấy cô bé nói rất rõ ràng nhưng giật cục, như thể chúng là những chú chó con lóng ngóng cố chạy trốn. Một mặt cô bé có phụ huynh là những người tri thức uyên bác và mặt khác lại làm bạn thân với một cô gái như Lakeesha, cũng là lẽ tự nhiên khi Gevena nhiễm chứng đa nhân cách về mặt ngôn ngữ.
“Vậy cháu không biết điều gì xảy ra với ông ấy?”, Sachs hỏi.
Geneva lắc đầu.
“Tôi nghĩ chúng ta phải giả định rằng hung thủ có để ý tới những gì mà cháu đang nghiên cứu. Ai biết được chủ đề bài luận của cháu? Cô cho rằng chỉ có giáo viên của cháu biết.”
“Không, cháu không bao giờ nói với ông ấy chi tiết. Cháu không nghĩ rằng mình đã nói với bất kỳ ai khác ngoài Lakeesha. Bạn ấy có thể đã kể việc này với một ai đó nhưng cháu không tin điều đó lắm. Các bài tập nghiên cứu không khiến bạn ý quan tâm nhiều lắm, cô hiểu cháu nói gì chứ? Ngay cả bài tập của bạn ý nữa. Tuần trước, cháu đã đến văn phòng luật ở Harlem để xem họ có bất cứ ghi chép cũ nào về tội phạm trong những năm 1800 nhưng không hề nói nhiều lắm với các luật sư. Tất nhiên, tiến sĩ Barry phải biết rồi.”
“Và ông ấy hẳn là đã nói với người cũng quan tâm tới tờ tạp chí đó nữa”, Rhyme chỉ ra điều đó. “Giờ thì, để cân nhắc khả năng này, chúng ta hãy giả thiết rằng có một điều gì đó trong bài báo mà hung thủ không muốn nó được biết đến – có thể là về ông tổ của cháu, có thể là một vấn đề gì khác hoàn toàn.” Anh nhìn sang Sachs. “Có ai vẫn còn ở hiện trường không?”
“Có một cảnh sát. ”
“Yêu cầu anh ta thẩm tra các nhân viên. Tìm ra xem liệu ông Barry có nói đến việc có ai quan tâm tới tờ tạp chí cũ đó không. Hãy đưa họ tới bàn làm việc của ông ấy nữa.” Rhyme có một ý tưởng khác nữa. “Và tôi muốn danh sách cuộc gọi trong điện thoại của ông ta trong vòng một tháng qua.”
Sellito lắc lắc đầu. “Linc, thật sự… Anh không nghĩ rằng nghe điều này có vẻ kỳ cục à? Chúng ta đang nói về, cái gì nhỉ? Những năm 1800 á? Đây không phải là một vụ án khó nuốt. Nó là một vụ không thể nhai được.”
“Một kẻ chuyên nghiệp dàn dựng một hiện trường, gần như giết một người, và đã giết một người khác – ở ngay trước mặt hàng tá cảnh sát – chỉ để lấy đi bài báo đó? Nó không hề kỳ cục chút nào, Lon. Nó phải có nguyên nhân sâu xa cho tất cả.”
Viên cảnh sát to lớn nhún vai và gọi tới sở cảnh sát để truyền mệnh lệnh tới viên cảnh sát đang thực hiện nhiệm vụ tại hiện trường rồi gọi tới bộ phận cấp giấy phép để họ thông qua yêu cầu về các cuộc gọi từ điện thoại trong thư viện và điện thoại cá nhân của Barry.
Rhyme nhìn cô bé mảnh khảnh và quyết định rằng mình không còn lựa chọn nào khác, anh phải đưa ra một tin không hay lắm. “Cháu biết rằng tất cả những điều này có thể là gì, đúng không?”
Dừng lại một chút, mặc dù anh có thể thấy trong ánh mắt đầy băn khoăn của Sachs về phía Geneva rằng ít nhất thì người nữ cảnh sát biết chính xác ý anh là gì. Và chính cô đã nói điều đó với cô bé: “Lincoln đang nói rằng có lẽ hắn vẫn còn săn lùng cháu”.
“Đúng là kẻ kỳ dị mà.” Geneva nói, lắc lắc đầu của mình.
Dừng lại một chút, Rhyme trả lời một cách nghiêm nghị: “Chú sợ rằng điều này không hề kỳ lạ chút nào”.
Ngồi trong một quầy Internet tại một cửa hàng photocopy nằm ở trung tâm Manhattan, Thompson Boyd đang đọc tin trên trang web của đài truyền hình địa phương, thông tin trên đó thì được cập nhật từng phút.
Tiêu đề của bản tin mà hắn đang đọc là: NHÂN VIÊN BẢO TÀNG BỊ GIẾT; NHÂN CHỨNG TRONG MỘT VỤ TẤN CÔNG NHẰM VÀO HỌC SINH.
Huýt sáo, gần như là không ra tiếng, hắn quan sát bức tranh đi kèm, trong đó là hình ảnh người quản lý thư viện mà hắn vừa mới giết đang nói chuyện với một cảnh sát mặc thường phục trên con phố ở trước bảo tàng. Dòng chú thích viết, Tiến sĩ Donald Barry nói chuyện với một cảnh sát ngay trước khi bị bắn chết.
Bởi vì tuổi của mình, Geneva Settle không được nêu ra danh tính, mặc dù cô bé được miêu tả là một học sinh trung học sống ở Harlem. Thompson rất biết ơn với thông tin này; hắn đã không biết cô bé sống ở quận nào của thành phố. Hắn cắm điện thoại của mình vào cổng USB trên chiếc m tính và chuyển tải bức ảnh về cô bé mà hắn đã chụp sang máy tính. Rồi hắn sẽ up nó lên một tài khoản email vô danh.
Hắn tắt máy, trả tiền – tất nhiên là bằng tiền mặt – và đi lững thững trên phố Broadway, nằm ở trung tâm khu tài chính. Hắn mua một cốc cà phê từ một quầy hàng rong, uống hết một nửa, rồi lia tấm vi phim mà hắn đã lấy ra vào chiếc cốc, đặt lại chiếc nắp và thả nó xuống một cái thùng rác.
Hắn dừng lại ở một trạm điện thoại, nhìn quanh và không thấy một ai khác chú ý đến mình. Hắn quay số. Không có tin nhắn nào trong hộp thư thoại, chỉ có một tiếng bíp. “Là tôi. Gặp phải vấn đề với trường hợp của Settle. Tôi cần cô tìm ra xem con bé học ở trường nào hoặc nó sống ở đâu. Nó là một học sinh trung học ở Harlem. Đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi đã gửi một bức ảnh con bé tới tài khoản mail của cô… À, còn một điều nữa – nếu như cô có cơ hội tự mình xử lý con bé, sẽ có một khoản năm mươi ngàn cho cô. Gọi điện cho tôi khi nhận được tin nhắn này. Chúng ta sẽ bàn bạc.” Thompson đọc số của chiếc điện thoại mà hắn vừa sử dụng để gọi rồi dập máy. Hắn quay trở lại, khoanh tay trước ngực và chờ đợi, huýt sáo nhè nhẹ. Hắn mới chỉ tới nhịp thứ ba một bài hát của Stevie Wonder Em là ánh sáng của đời anh trước khi chuông điện thoại reo.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.