Thẩm phán Gantry cho ngừng phiên xử sau năm giờ chiều và triệu tập các luật sư đến phòng mình để tham dự một cuộc họp hứa hẹn sẽ căng thẳng. Theodore vội ra ngoài tìm Julio, nhưng không thấy bóng dáng cậu ta đâu, không mảy may thấy một dấu vết. Ít phút sau, Theodore dựng xe ở sân sau văn phòng luật của gia đình và chạy tót vào trong. Elsa đang thu dọn bàn làm việc, chuẩn bị ra về.
“Hôm nay ở trường ổn chứ, Theodore?” bà nở nụ cười ấm áp đã thành bản quyền, và ôm siết lấy cậu.
“Không ạ.”
“Sao vậy?”
“Ở trường chán lắm ạ.”
“Tất nhiên rồi. Trường lớp còn đặc biệt chán trong lúc ngoài kia đang có một phiên tòa, phải không?”
“Phải đấy ạ.”
“Mẹ cháu đang có khách. Bố cháu đang chơi golf, nghe chừng lần cuối cùng rồi.”
“Bố cháu cần phải tập nhiều,” Theodore nói “Tạm biệt Elsa.”
“Chào cưng. Hẹn mai gặp.” Elsa bước ra ngoài cửa trước và Theodore khóa luôn cửa.
Woods Boone để một cây gậy chơi golf và mấy quả bóng gần bàn làm việc. Ông tập chơi trên một tấm thảm phương Đông cũ kỹ không hề giổng với thảm cỏ xanh thường thấy của bộ môn này. Mỗi ngày đôi ba bận, khi cần “giãn gân giãn cốt”, ông lại đánh vài quả. Mỗi lần ông đánh trượt, chuyện này thì thường xuyên, bóng lại lăn ra khỏi thảm, trượt trên sàn gỗ, tạo nên âm thanh rất đặc trưng, không rầm rập như tiếng quả bóng bowling đốn ngã những con ki mà hơi giống lúc nó chạy trên đường biên. Cả công ty ở tầng dưới biết rằng tay golf nghiệp dư tầng trên lại đánh trượt một cú.
“À, chào con, Theodore,” Ông Boone nói. Ông ngồi ở bàn làm việc, không còn chơi golf, tay áo xăn cao, tẩu ngậm bên mép, một chồng hồ sơ trước mặt.
“Con chào bố.”
“Ở trường ổn chứ con?”
“Tuyệt ạ.” Nếu Theodore cằn nhằn, như thỉnh thoảng cậu không kìm được, cậu sẽ gánh trọn một bài thuyết giảng đầy mô phạm về tầm quan trọng của giáo dục. “Học xong con có ghé qua tòa án.”
“Bố cũng đoán thế. Có gì thú vị không?”
Hai bố con nói về phiên xử dăm ba phút. Ông bố dường như không hề có chút hứng thú gì, khiến Theodore rất khó chịu. Làm sao một luật sư có thể không tiêu hóa nổi một sự kiện quan trọng như vậy trong hệ thống tư pháp của thị trấn được nhỉ?
Điện thoại đổ chuông, ông Boone ra dấu nghe máy. Theodore xuống tầng dưới ghé thăm các phòng còn lại trong công ty. Vince trợ lý luật sư đang làm việc, cửa phòng đóng kín. Dorothy trợ lý bất động sản đã ra ngoài. Nghe thấy từ phòng mẹ những giọng nói có phần nghiêm trọng, Theodore lượn luôn ra sảnh. Cậu vẫn thường xuyên nghe thấy tiếng khóc lóc trong căn phòng ấy, tiếng nức nở của những phụ nữ u uất với chuyện hôn nhân hoặc quá tuyệt vọng đang cần mẹ giúp đỡ.
Theodore không nhịn được cười trước vẻ quan trọng hóa của mẹ. Đừng hòng cậu mong trở thành típ luật sư như mẹ, mặc dù cậu rất tự hào về mẹ.
Theodore đi về văn phòng của mình, nói chuyện vài phút với chó Judge, rồi bắt đầu làm bài tập về nhà. Vài phút trôi qua và trời đang dần tối. Judge gầm gừ khi nghe ngoài cửa có tiếng động, rồi ai đó gõ cửa. Theodore giật mình đứng dậy nhòm ra ngoài. Là Julio. Theodore vội mở cửa
“Mình ra ngoài này nói chuyện được không?” Julio hất hất đầu hỏi.
“Được chứ,” Theodore trả lời, đóng cửa lại. “Chuyện gì vậy?”
“Mình không biết nữa.”
“Ban nãy mình thấy cậu ở tòa án. Sao cậu lại đến đấy?”
Julio bước thêm mấy bước xa khỏi văn phòng, như thể sợ có người trong đó nghe được. Cậu liếc nhìn xung quanh, rất căng thẳng. “Mình cần ai đó có thể tin cậy được, Theodore ạ,” Julio nói. “Ai đó hiểu biết về luật pháp.”
“Cậu có thể tin ở mình” Theodore đáp lời, vô cùng háo hức được nghe phần còn lại của câu chuyện mà cả ngày cậu vẫn nghĩ về nó.
“Nhưng nếu mình kể, cậu không được nói với bất kỳ ai khác, được chứ?”
“Được, nhưng sao cậu lại kể cho mình nghe điều gì mà mình lại không thể kể với ai khác? Mình không hiểu.”
“Mình cần lời khuyên. Ai đó cần biết chuyện này.”
“Biết chuyện gì?”
Julio nhét cả hai tay vào túi quần vải thõng xuống. Trông cậu ta đầy sợ hãi. Theodore nghĩ đến cậu ta, mẹ cậu ta và cặp anh em song sinh của cậu ta. Sống trong nhà tạm, xa quê hương bản xứ, bị bố bỏ rơi. Có lẽ họ e sợ mọi thứ trên đời.
“Cậu có thể tin ở mình, Julio” Theodore nhắc lại.
“Ừ.” Julio nhìn xuống chân, không dám nhìn vào mắt Theodore. “Mình có người anh họ, cũng đến từ Salvador. Anh ấy ở đây, Strattenburg. Anh ấy nhiều tuổi hơn mình, có lẽ mười tám hay mười chín gì đấy. Đến được khoảng một năm rồi. Anh ấy làm ở sân golf. Cắt cỏ, đổ nước vào các bồn làm mát, mấy việc vặt kiểu thế. Cậu có chơi golf không?”
“Có.”
“Vậy chắc cậu đã thấy những người làm công việc ấy ở sân golf.”
“Ừ.” Sáng thứ Bảy nào, Theodore cũng chơi với bố ở sân golf Strattenburg. Ở đó, quanh các đường lăn bóng và khu vực đánh bóng vào lỗ, lúc nào cũng có dăm ba nhân công – giờ cậu mới chợt nhận ra hầu hết là người gốc Mỹ Latình – làm chân lăng quăng, chăm sóc sân bãi.
“Sân golf nào vậy?” Theodore hỏi. Ít nhất có đến ba sân ở khu vực đó.
“Ở đó, khu có người phụ nữ bị giết.”
“Waverly Creek?”
“Ừ.” Theodore cảm thấy lồng ngực thắt lại, như bị mắc nghẹn, một cái gì vừa mới hình thành. “Tiếp đi,” cậu giục, dù có điều gì đó mách bảo cậu hãy dừng cuộc nói chuyện ngay lập tức mà chạy về văn phòng, khóa cửa lại.
“Ừm, anh ấy đi làm đúng hôm vụ giết người xảy ra. Anh ấy đang ăn trưa. Giờ ăn trưa của anh ấy bắt đầu lúc 11 giờ 30, kết thúc lúc 12 giờ. Anh ấy rất nhớ nhà, nên hầu như ngày nào cũng trốn mọi người ra ăn riêng một mình. Anh ấy luôn mang theo tấm ảnh gia đình chụp bố, mẹ và bốn em trai, và lôi ảnh ra ngắm trong lúc ăn. Dù như vậy rất buồn nhưng nó nhắc anh ấy vì sao phải ở chốn này. Hằng tháng anh vẫn đều đặn gửi tiền về nhà. Họ rất nghèo.”
“Anh ấy ăn trưa ở chỗ nào?” Theodore hỏi, cảm giác vừa xuất hiện một manh mối.
“Mình không hiểu về golf, chỉ biết những gì anh ấy kể. Bãi bóng lăn, chỗ ngoặt gấp, cậu biết những thứ ấy chứ?
“Hẳn rồi.”
“Ừm, anh mình lúc đó đang ngồi dưới bóng cây ở một chỗ ngoặt gấp, đại loại đang trốn ra góc riêng vì giờ nghỉ ăn trưa là thời gian duy nhất anh ấy được ở một mình, và anh thấy người đàn ông ấy trên một chiếc xe golf phóng rất nhanh dọc theo đường lăn bóng. Người này có bộ gậy golf ở sau xe, nhưng lại không đánh bóng. Ông ta đang vội vã. Đột nhiên, ông ấy rẽ trái và đậu xe golf gần sân sau ngôi nhà có người phụ nữ bị giết.”
Theodore, đang nén thở, nói, “Trời ạ.” Julio nhìn cậu.
“Cậu tiếp đi,” Theodore giục.
“Thế rồi ông ấy nhảy ra khỏi xe, đi về phía cửa sau, vội vã cởi giày chơi golf, mở cửa bước vào nhà. Cánh cửa đó không khóa, ông ấy hành động rất nhanh, như kiểu ông biết rõ mình định làm gì. Anh họ mình cũng không để ý lắm đến chuyện này vì những người sống ở khu đó lúc nào chả chơi golf. Nhưng có cái gì đó hơi kỳ kỳ khi người đàn ông đó cởi giày ở sân sau. Và còn làm một cái gì đó mà anh mình cho là rất lạ.”
“Cái gì vậy?”
“Người đó đeo găng màu trắng ở tay trái. Cái này bình thường, phải không?”
“Phải. Hầu hết người chơi golf thuận tay phải đeo găng ở tay trái.”
“Điều ấy anh mình cũng giải thích. Vậy nghĩa là ông ấy đang chơi golf ở đâu đó rồi lại quyết định ghé qua nhà…”
“Mà lại quên không tháo găng,” Theodor tiếp lời.
“Có thể, nhưng đây mới là phần lạ lùng. Sau khi bỏ giày lại bên cửa, ông ấy cho tay vào túi lôi ra một chiếc găng khác, và vội đi ngay vào tay phải. Cả đôi găng trắng.”
Cục nghẹn ở ngực Theodore giờ cảm giác như to bằng trái bóng.
“Tại sao ông ấy đeo cả đôi găng trước khi mở cửa vào nhà?” Julio đặt câu hỏi.
Nhưng Theodore không trả lời. Tâm trí cậu đóng đinh vào hình ảnh ông Pete Duffy ngồỉ trong phòng xử, vây quanh là một nhóm luật sư, vẻ tự mãn hiện rõ trên mặt ông ta như thể ông ta đã gây ra một tội ác hoàn hảo mà không thể bị bắt quả tang.
“Đường lăn bóng nào vậy?” Theodore hỏi.
“Số sáu, trên sân Creek, là mình nghe bảo thế.” Nhà vợ chồng Duffy, Theodore tự nhủ.
“Lúc đó anh họ cậu ở cách bao xa?”
“Mình không biết. Mình chưa từng đến đó. Nhưng anh ấy trốn kỹ lắm. Khi người đàn ông đó ra khỏi nhà, ông ta nhìn quanh, rất đáng ngờ, để chắc không ai nhìn thấy mình. Ông ta không hề mảy may biết anh mình đang quan sát.”
“Ông ta ở trong nhà bao lâu?”
“Không hề lâu. Ban đầu anh họ mình cũng không nghi ngờ gì. Anh ấy ăn xong, đang cầu nguyện cho người nhà thì ông ta đi khỏi đúng cái cửa đó. Ông ta đi quanh sân sau khoảng một phút, nhìn đồng hồ, ngó quanh đường lăn bóng, đồng thời tháo cả hai găng tống vào túi đựng gậy golf. Ông ta lại đi giày, rồi nhảy tót lên xe golf lái đi.”
“Chuyện gì xảy ra sau đó?”
“12 giờ, anh họ mình trở lại làm việc. Vài giờ sau, anh ấy đang cắt cỏ ở sân chín lỗ mạn Bắc thì một người bạn bảo có chuyện náo động ở sân Creek, rằng cảnh sát xuất hiện khắp nơi, rằng có một vụ đột nhập và một người phụ nữ bị giết. Suốt buổi chiều, tiếng đồn lan như gió khắp sân golf, nên anh họ mình chẳng mấy chốc biết được đó là ngôi nhà nào. Anh ấy liều lái một chiếc xe phục vụ tới đó thì thấy cảnh sát phong tỏa quanh ngôi nhà. Anh vội lái xe lảng đi.”
“Anh ấy có kể với ai không?”
Julio đá một viên sỏi, mắt lại nhìn quanh. Giờ trời đã tối. Không ai theo dõi chúng cả. “Mình vẫn đang nói chuyện bí mật, đúng không Theodore?”
“Tất nhiên.”
“Chuyện là, anh họ mình nhập cư bất hợp pháp. Mẹ mình có giấy tờ cho bọn mình, nhưng anh ấy thì không. Hôm sau ngày xảy ra vụ giết người, cảnh sát đến thẩm tra, đặt rất nhiều câu hỏi. Ở đấy có hai thanh niên người El Salvador khác nữa – cũng đều nhập cư bất hợp pháp. Nên ông chủ bảo họ với anh mình biến đi, lánh đâu đó vài ngày. Họ đã làm vậy. Gặp cảnh sát là anh mình bị bắt ngay, tống vào tù, rồi bị trục xuất về lại El Salvador.”
“Vậy là anh ấy chưa từng kể cho ai?”
“Không. Chỉ mình mình thôi. Một tối anh ấy đang xem ti vi thì thấy người ta đưa tin về vụ giết người. Họ quay ngôi nhà, và anh mình nhận ra. Họ quay nguời đàn ông, mình nghĩ là ông Duffy, đang đi bộ trên vỉa hè. Anh họ mình bảo anh khá chắc chắn người đang đi đó chính là người anh thấy đã bước vào căn nhà.”
“Vì sao anh ấy kể cho cậu?”
“Vì mình với anh ấy là anh em họ, với cả mình còn đi học nữa. Tiếng Anh của mình cũng khá, mà mình lại có giấy tờ tùy thân. Anh ấy không hiểu về hệ thống tòa án nên hỏi mình. Mình bảo mình sẽ cố tìm hiểu xem. Đó là lý do mình tìm đến đây, Theodore ạ.”
“Cậu cần gì ở mình?”
“Bảo cho bọn mình biết nên làm gì. Anh ấy có thể là một nhân chứng quan trọng, đúng không?”
“Ồ, phải.”
“Vậy anh họ mình nên làm gì?”
Chạy về El Salvaldor, Theodore nghĩ nhưng không nói ra. “Cho mình một phút”, cậu đáp, hàm răng nghiến chặt. Niềng răng đột nhiên khiến cậu đau nhói. Cậu đá một viên sỏi, cố hình dung ra bão tố sẽ thế nào nếu anh họ Julio đứng ra làm nhân chứng.
“Có gì đó đại loại như phần thưởng không?”Julio hỏi.
“Anh ấy muốn tiền ư?”
“Ai lại không muốn tiền chứ?”
“Mình không biết nữa, có thể giờ muộn quá rồi. Phiên tòa đã xong một nửa rồi.” Theodore lại đá một viên sỏi, và bất giác trong một lúc, hai cậu bé cùng nhìn chằm chằm xuống chân.
“Chuyện này thật không thể tin được,”
Theodore cất lời. Cậu gần như choáng váng, và rối bời. Nhưng trí não cậu đủ sáng suốt để hiểu việc này vượt quá sức mình. Sẽ phải là người lớn đương đầu với vụ này.
Không có cách nào giữ kín được bí mật này.
“Sao nào?” Julio hối thúc. Cậu bé giờ đang nhìn Theodore, chờ đợi những lời lẽ thông thái.
“Anh họ cậu sống ở đâu?”
“Gần Quarry. Mình chưa bao giờ đến đó.”
Đó là điều Theodore đã đoán ra. Quarry là một khu xóm liều nơi người có thu nhập thấp sinh sống. Strattenburg là một thị trấn an toàn, nhưng thỉnh thoảng cũng xảy ra một vài vụ bắn súng hoặc đuổi tội phạm ma túy, và những chuyện này dường như chỉ xảy ra quanh khu Quarry.
“Mình có thể nói chuyện với anh họ cậu không?” Theodore hỏi.
“Theodore, mình chẳng biết đâu. Anh ấy thực sự lo lắng về vụ này. Anh ấy sợ sẽ dính vào rắc rối. Công việc của anh ấy rất quan trọng đối với gia đình anh ấy.”
“Mình hiểu. Nhưng, mình cần nắm chắc các chi tiết trước khi quyết định phải làm gì. Bao lâu cậu gặp anh họ một lần?”
“Mỗi tuần một đôi lần. Anh ấy ghé qua nhà tình thương, gặp mẹ mình. Anh ấy rất nhớ nhà, và bọn mình là gia đình duy nhất của anh ở đây.” “Anh ấy có điện thoại không?”
“Không, nhưng anh ấy sống với mấy người nữa, một người trong số họ có điện thoại.”
Theodore bước quanh sân đậu xe rải sỏi, đắm mình trong suy nghĩ. Rồi cậu búng tay nói, “OK, được rồi, kế hoạch thế này. Cứ coi như tối nay cậu cần mình giúp làm bài tập đại số.”
“Ừ, mình đoán là được.”
“Hãy chỉ nói là được.”
“Được.”
“Tốt. Hãy liên lạc với anh họ cậu, bảo anh ấy ghé qua chỗ cậu, khoảng một giờ nữa. Mình sẽ chạy qua để giúp cậu làm bài, và sẽ bất ngờ gặp được anh họ cậu. Cậu bảo anh ấy là có thể tin tưởng ở mình, và rằng mình sẽ không tiết lộ bí mật của anh ấy cho bất cứ ai, trừ phi anh ấy đồng ý. Được chứ?”
“Mình sẽ cố. Chuyện gì xảy ra sau khi cậu nói chuyện với anh ấy?”
“Chẳng biết nữa. Mình chưa hình dung xa đến vậy.”
Julio biến mất vào giữa bóng đêm. Theodore trở lại văn phòng, trong đó có một tập hồ sơ về vụ Duffy. Đó là những bài báo, bản sao cáo trạng, và những thông tin từ Internet về Pete Duffy, Clifford Nance, thậm chí cả Jack Hogan – luật sư bên nguyên.
Tất cả các luật sư đều có hồ sơ lưu…
Tối thứ Tư đồng nghĩa với việc mua đồ ăn ở nhà hàng Trung Hoa Golden Dragon. Bữa trưa tới được dùng tại phòng nhỏ trong lúc cả nhà Boone cùng xem chương trình ưa thích của Theodore, show truyền hình Perry Mason xưa xửa xừa xưa.
Bà Boone vẫn đang phải tiếp khách hàng, một phụ nữ nghèo đang khóc lóc trong văn phòng khóa trái cửa của mẹ. Ông Boone đang chuẩn bị đến Golden Dragon thì Theodore xin phép chạy mái nhà tình thương ít phút gặp Julio.
“Đừng về muộn quá,” ông Boone nhắc. “Nhà ta ăn tối lúc 7 giờ đấy.”
“Không muộn đâu ạ. Tất nhiên nhà ta sẽ ăn lúc bảy giờ rồi.”
Công ty có một thư viện ở tầng trệt, khu đằng trước. Ngay giữa thư viện là một chiếc bàn dài, xung quanh toàn ghế da. Sát tường oằn cong những chiếc giá chất đầy sách. Các cuộc họp quan trọng đều diễn ra ở đây. Thi thoảng, các nhóm luật sư gặp gỡ, bàn thảo, thương thuyết. Trợ lý Vince thích làm việc ở đó. Theodore cũng vậy, những khi văn phòng không bận lắm. Cậu con thích len vào thư viện vào chiều muộn, sau khi công ty đóng cửa và mọi người đã ra về hết.
Theodore cùng Judge vào trong, đóng cửa. Cậu không bật đèn, thong thả ngồi vào một chiếc ghế da, chân gác lên bàn, nhìn trân trân vào từng hàng sách nặng nề. Hàng ngàn cuốn. Cậu gần như không còn nghe thấy tiếng mẹ và bà khách hàng vọng lại từ mé kia sảnh.
Theodore không quen đứa trẻ nào lại có bố mẹ là đồng nghiệp. Cậu cũng không quen đứa trẻ nào ngày ngày sau giờ học vẫn lượn lờ ở văn phòng. Hầu hết bạn bè cậu chơi bóng chày hoặc bóng đá, bơi lội hoặc loanh quanh ở nhà chờ ăn tối. Còn cậu thì đang ngồi đây, trong thư viện tối tăm của một công ty luật, suy tư về những sự kiện diễn ra vài giờ qua.
Cậu thích nơi này – đậm đặc mùi da thuộc cũ, mùi thảm mốc, mùi sách bụi bặm. Bầu không khí của quyền lực.
Làm thế nào mà lại là cậu, Theodore Boone, biết sự thật về vụ án mạng nhà Duffy. Trong số từng ấy cư dân ở Strattenburg, có lẽ khoảng bảy mươi lăm nghìn người, tại sao lại là cậu? Tội ác ghê gớm nhất của thị trấn này kể từ một vụ tệ hại nào đó từng xảy ra hồi những năm 1950 và cậu, Theodore, đột nhiên bị dính líu vào.
Cậu không còn biết phải làm sao.