Trung sĩ Bill Hoffman, phụ trách đội cảnh sát cơ động là một người đàn ông cao, lạnh lùng với những cử chỉ chậm chạp và cặp mắt chăm chú. Anh ta có thói quen nghĩ đi nghĩ lại tất cả mọi việc, trước khi đi đến kết luận nào đấy. Hoffman ngồi trong một trong những căn phòng của khu nhà ở của Belter và quan sát Mason qua làn khói thuốc mù mịt.
– Chúng tôi tìm thấy giấy tờ, chứng tỏ việc Belter từng là chủ của “Tin tức lý thú” – viên cảnh sát thông báo với luật sư. – Chắc ông biết chính là của toà báo mà đã 5 hay 6 năm lại đây đe doạ tống tiền tất cả mọi người.
– Tôi biết chuyện này rồi, thưa trung sĩ, – Mason bình thản trả lời.
– Lâu chưa? – Hoffman hỏi.
– Chưa, vừa mới đây thôi.
Bằng cách nào mà ông biết được?
– Tôi không thể nói với anh điều này.
– Sao ông lại có mặt ở đây trước cảnh sát?
– Anh đã nghe lời khai của bà Belter rồi thôi, ngài trung sĩ. Cô ta gọi cho tôi. Tôi ngả theo giả thiết là chồng cô ta đã không kìm được nóng giận và bắn vào người đàn ông lúc đó đang ở trong phòng ông ta. Cô ta nói với tôi, rằng không biết thực ra đã xảy ra chuyện gì, và không dám một mình trèo lên trên gác.
– Cô ta sợ cái gì vậy? – Hoffman hỏi.
Mason nhún vai.
– Anh gặp Belter rồi. Chắc anh cũng đoán được, phải là một người vô nguyên tắc đến mức nào, thì mới đi xuất bản tờ báo kiểu “Tin tức lý thú”. Có thể không do dự cho rằng, tay ông ta không được “sạch” lắm. Tôi cũng chẳng hề ngạc nhiên, nếu ông ta thậm chí chưa bao giờ biết lịch thiệp với phụ nữ là gì.
Bill Hoffman cân nhắc những lời nói của luật sư một lúc.
– Chúng ta sẽ biết nhiều hơn rất nhiều, khi xác định được khẩu súng này là của ai, – cuối cùng anh ta nói.
– Anh nghĩ là có thể làm được việc này? – Mason hỏi.
– Hy vọng. Số chưa bị giũa bằng.
– Vâng, tôi nhìn thấy người của anh ghi nó vào sổ. Loại Colt, cỡ nòng 8?
– Đúng vậy, — Hoffman trả lời.
Tất cả im lặng một lúc. Viên cảnh sát lặng lẽ hút thuốc, Mason ngồi bất động, trong tư thế của một người, hoặc là hoàn toàn vô tội, hoặc sợ chỉ bằng một cử chỉ dù nhỏ nhất bộc lộ mình. Thỉnh thoảng Hoffman lại đưa cặp mắt chăm chú nhìn về phía Mason.
– Trong toàn bộ vụ việc này có điều gì đó rất lạ, ngài Mason, – Hoffman nhận xét. – Thật khó giải thích làm sao để ông hiểu.
– Đó là vấn đề của anh rồi, ngài trung sĩ. Tôi thường có mặt tại các vụ án mạng muộn hơn nhiều, cho đến tận khi cảnh sát kết thúc điều tra. Đối với tôi phát hiện xác chết và quan sát quá trình điều tra ngay từ đầu thực sự là một việc mới mẻ, lạ lẫm.
Hoffman nhìn người đối thoại và cười mát:
– Vâng, đây đúng là trường hợp tương đối bất thường, khi luật sư lại có mặt ở hiện trường trước cả cảnh sát.
– Thật vậy, – Mason khéo léo công nhận. – Tôi nghĩ mình hoàn toàn có thể nhất trí với cái định nghĩa này “trường hợp bất thường”.
Hoffman im lặng hút thuốc một hồi.
– Các anh đã tìm thấy thằng cháu kia chưa? – Mason hỏi.
– Chưa. Chúng tôi đang cho kiểm tra tất cả những nơi hắn hay đến. Chúng tôi biết là chiều hôm qua hắn ở trong hộp đêm với một người đẹp. Chúng tôi dễ dàng tìm được, cô ta. Cô ta khẳng định là họ đã chia tay nhau trước nửa đêm. Theo lời cô ta, cô ta nhìn thấy Carl lần cuối cùng vào lúc gần 11 rưỡi.
Bỗng nhiên có tiếng xe từ cổng vọng vào. Mưa đã tạnh, ngọn trăng lưỡi liềm thỉnh thoảng lại ló ra giữa những đám mây. Tiếng rầm rầm phịch-phịch-phịch đều đều xuyên thấu tiếng ồn của động cơ. Chiếc xe dừng lại, và nghe thấy tiếng còi chói tai.
– Khỉ gió, cái gì thế này? – Hoffman nói và từ từ đứng dậy.
Mason cúi đầu lắng nghe.
– Kêu vang, dường như ai đó đi trên xe bị thủng lốp, – luật sư nói.
Bill Hoffman di chuyển về phía cửa, Mason lập tức rảo bước theo anh ta. Trung sĩ mở cánh cửa thông ra hiên. Ngoài cổng có 4 hay 5 xe cảnh sát đang đỗ. Chiếc ô tô vừa mới tới dừng phía ngoài nửa vòng tròn do các xe đỗ từ trước tạo nên. Đó là chiếc xe thể thao hai chỗ, mui trần với những tấm kính cao ở hai bên sườn. Người sau tay lái đang ngồi, quay mặt về phía toà nhà. Thấu qua làn kính có thể nhận thấy vết trắng lờ mờ của khuôn mặt và cánh tay trên nút ấn còi, chính là từ đó phát ra tiếng rúc liên tục, chói tai.
Khi trung sĩ bước ra chỗ hiên được chiếu sáng, tiếng còi ngay lập tức biến mất. Cửa xe mở ra, và giọng say rượu lúng búng:
– Digley, xe tôi… bị thủng lốp rồi… Tôi không tự chữa được…. Không cúi xuống được… Tôi bị làm sao ấy… Ra đây, chữa xe…, thay lốp đi…
– Đây chắc là đứa cháu, Carl Griffin, – Mason không hài lòng nói. – Chúng ta nghe xem, nó có thể nói những gì.
– Nếu xét theo giọng nó đang nói, thì không nhiều đâu, Hoffman làu bàu trả lời.
Cả hai bước về phía chiếc xe. Anh chàng trẻ tuổi cố hết sức chui ra khỏi xe, ngập ngừng dùng chân tìm bậc lên xuống và chúi đầu về phía trước. Anh ta chắc là đã ngã nhào xuống đất, nếu không kịp dùng tay bám vào thành xe. Anh ta đứng không vững, người lắc la lắc lư.
– Nổ lốp… Cần có Digley… Mày không phải Digley… Chúng mày có hai đứa… Trong chúng mày chả có đứa nào là Digley… Chúng mày là ai, đồ khỉ gió?… Chúng mày tìm cái gì ở đây vào giờ này?… Bây giờ không phải là lúc thăm nhau…
Bill Hoffman bước một bước về phía anh ta.
– Anh say rồi, — viên cảnh sát nói.
Người trẻ tuổi liếc nhìn viên cảnh sát, và tức giận nhận xét:
– Tất nhiên, say rồi… Trong đầu mày nghĩ gì?… Thế tao ra khỏi nhà để làm gì mới được chứ? Rõ ràng là say rồi…
– Anh là Carl Griffin? – Hoffman kiên nhẫn hỏi.
– Rõ ràng quá còn gì, Carl Griffin…
– Thế thì hãy cố bình tĩnh lại đi. Chú anh bị giết rồi. Im lặng bao trùm. Anh chàng trẻ tuổi, vẫn đang bám vào thành xe, lắc đầu một cái thật mạnh, tuồng như cố gắng xua đuổi tình trạng ngây ngất đang che phủ não mình. Khi anh ta cất lời, giọng đã có vẻ tỉnh táo hơn một chút.
– Anh nói gì?
– Chú anh, bởi vì, hình như, George Belter từng là chú anh, đã bị giết chết cách đây một tiếng hoặc tiếng rưỡi, – trung sĩ nhắc lại.
Anh chàng trẻ tuổi mồm sặc mùi rượu hít vào 2 hay 3 hơi thật sâu, cố gắng bằng cách này tỉnh táo lại.
– Anh say à…? – Carl hỏi.
Trung sĩ Hoffman cười gằn.
– Không, Griffin, chúng tôi không say, – viên cảnh sát nhẫn nại giải thích. – Đấy là anh say thì có. Đấy là anh suốt cả buổi chiều vật vờ ở những chỗ mua vui nào đó. Tốt nhất anh hãy vào nhà và cố gắng bình tĩnh lại đi.
– Anh nói là chú bị giết, – chàng thanh niên hỏi.
– Đúng, tôi nói là ông ấy bị giết rồi, – trung sĩ khẳng định.
Chàng trai lảo đảo đi về phía toà nhà. Lưng anh ta ưỡn thẳng một cách bất thường, hai bên vai ngả về sau.
– Nếu đúng vậy, – Carl Griffin tuyên bố bâng quơ, – thì chú bị con chó cái kia giết rồi.
– Con chó nào? – Trung sĩ hỏi nhanh.
– Con điếm với cái mõm ngây thơ. – Carl phải vất vả lắm mới quay được đầu về phía trung sĩ. – Con vợ chú.
Hoffman đỡ tay chàng trai và nói với Mason:
– Mason, ông làm ơn tắt máy và đèn pha đi.
Carl Griffin bất ngờ dừng lại và ngập ngừng quay người ra đằng sau.
– Và thay lốp,… – anh ta nói. – Trước phải… Tôi đi mấy dặm trên vành bánh… Phải thay…
Mason tắt động cơ và đèn pha, sập cửa lại, rồi nhanh chóng tiến về phía trước theo chân Hoffman và anh chàng trẻ tuổi, đang như treo trên cánh tay viên cảnh sát. Ông vẫn còn kịp mở cửa ra vào cho bọn họ.
Dưới ánh đèn, trong tiền sảnh, Carl Griffin hóa ra là một anh chàng khá đẹp trai, dù khuôn mặt đỏ bừng vì rượu và bắt đầu có dấu vết của sự chơi bời trác táng. Cặp mắt sưng húp và mọng đỏ, nhưng phong thái lại bẩm sinh, biểu hiện sự đường hoàng, chững trạc và có giáo dục của một người thuộc giới thượng lưu, biết cách thích nghi với bất kỳ hoàn cảnh nào.
Hoffman quay về phía chàng trai và nghiêm khắc xem xét anh ta từ đầu đến chân.
– Anh cần bao lâu để tỉnh rượu, Griffin. Chúng tôi cần nói chuyện với anh.
Griffin gật đầu.
– Một tí thôi… Tôi sẽ tỉnh ngay bây giờ…
Anh ta đẩy trung sĩ ra và, lảo đảo, biến mất trong nhà vệ sinh. Hoffman nhìn Mason.
– Say khướt, – Mason nhận xét.
– Đúng thế, – Hoffman đồng ý. – Nhưng đối với hắn đây không phải là lần đầu đâu, có kinh nghiệm rồi. Hắn vẫn lái được xe lên dốc, trên con đường trơn vì mưa, mà xe lại bị nổ lốp nữa chứ.
– Vâng, chắc hắn lái xe giỏi lắm, – Mason công nhận.
– Hắn với Eva Belter như chó với mèo vậy, – trung sĩ Hoffman nhận xét.
– Anh đang nghĩ những gì hắn nói về cô ta?
– Tất nhiên. Thế tôi còn có thể nghĩ chuyện gì khác?
– Hắn đang say lắm rồi cơ mà, – Mason lý sự. – Hy vọng là anh sẽ không bắt đầu nghi ngờ một người phụ nữ tử tế chỉ trên cơ sở câu nhận xét vô nghĩa của một thằng say?
– Đúng, hắn say, nhưng vẫn mang xe về nguyên vẹn đấy thôi. Có thể, vẫn biết cách suy nghĩ tỉnh táo như vậy, cho dù có say mềm đi chăng nữa.
Mason nhún vai.
– Thôi được, cứ cho là như thế đi, – anh tỏ vẻ coi thường chuyện này.
Từ nhà vệ sinh vọng ra tiếng nôn oẹ.
– Tôi sẵn sàng đánh cuộc là hắn sẽ tỉnh hơn nhiều, – trung sĩ lại bắt đầu, đồng thời nhìn Mason bằng ánh mắt nghi hoặc, – và khi tỉnh vẫn nhắc lại đúng như nãy.
– Còn tôi đánh cuộc là hắn vẫn say bét nhè như trước.
– Mason đáp lại. – Kể cả trong trường hợp cố tỏ ra tỉnh táo. Những người hạng này có thể đánh lừa bất kỳ ai, một khi họ uống vào. Họ cư xử tuồng như rất tỉnh táo, nhưng không hề biết mình đang làm và nói gì.
Hoffman nhìn luật sư và mỉm cười:
– Ông muốn gì vậy, ngài Mason? Chẳng lẽ ông định phủ nhận lời khai của hắn từ trước?
– Tôi chẳng nói điều gì tương tự như vậy cả.
– Tất nhiên, không nói, – Hoffman cười hô hố. – Ít nhất, thì cũng không nói thẳng.
– Bây giờ mà có ly cafe thật đặc cho nó thì tốt quá, – Mason gợi ý. – Tôi xuống bếp, xem…
– Bà quản gia chắc đang ở dưới bếp, – Hoffman chộp cơ hội. – Xin ông đừng mếch lòng, ngài Mason, nhưng tôi thật sự muốn nói chuyện mặt đối mặt với Carl. Tôi chưa hình dung một cách rõ ràng cho lắm vai trò của ông trong vụ việc này. Tôi có cảm giác, ông đồng thời vừa là luật sư, lai vừa là bạn cũ của gia đình.
– Tôi đâu có phải là tiểu thư, để mà giận dỗi, – Mason trả lời. – Tôi hiểu rất rõ hoàn cảnh của ông, ngài trung sĩ, công việc trên hết. Nhưng một khi đã trót có mặt, thì tôi sẽ ở lại đây thôi. Tôi cũng có việc của mình.
Hoffman gật đầu.
– Ông sẽ tìm thấy bà quản gia ở dưới bếp. Tên Veitch. Chúng tôi đã lấy lời khai của cả bà ta lẫn cô con gái. Ông xuống dưới đó và bảo chuẩn bị trước đi. Thật nhiều café, vì các chàng trai của tôi ở trên gác cũng cần tới nó chẳng kém gì loại say bét nhè kia dâu.
– Tôi sẽ cố gắng, – Mason nói.
Ông đi qua cửa xếp mở theo đường rãnh từ phòng khách vào phòng ăn, đẩy cửa phòng chứa thực phẩm và từ đó bước vào căn bếp, rộng lớn và sáng choang dưới ánh đèn rực rỡ. Hai người phụ nữ đang ngồi cạnh bàn. Họ dịch chuyển những chiếc ghế lưng thẳng và ngồi cạnh nhau, thì thầm nói chuyện gì đó. Khi Mason bước vào, cả hai im bặt và cùng ngước mắt nhìn ông.
Người phụ nữ già hơn đã khoảng 50 tuổi: mái tóc điểm bạc, cặp mắt đen kèm nhèm hõm sâu đến mức những quầng mắt hoàn toàn che giấu sự thể hiện của chúng. Bà ta có khuôn mặt thuôn thuôn, cặp môi mỏng mím chặt và hai gò má cao. Bộ áo váy màu đen càng làm cho bà trở nên già nua hơn.
Người thứ hai trẻ hơn hẳn, nhiều nhất cũng chỉ khoảng 22 tuổi, có mái tóc đen bóng, và cặp mắt đen sáng ngời, ánh rực lửa của chúng tương phản một cách kỳ lạ với sự mờ đục của cặp mắt sâu hoắm của bà già. Người trẻ tuổi có cặp môi mọng, đỏ tươi, khuôn mặt được trang điểm bằng son và phấn một cách khéo léo, lông mày đen, mỏng được tỉa tót trông rất đẹp, hai hàng mi dài.
– Bà Veitch? – Mason hướng về phía người đàn bà lớn tuổi hơn hỏi.
Bà ta gật đầu, không buồn hé mở cặp môi mím chặt. Cô gái ngồi bên cạnh bà đáp lại bằng giọng ngực sâu:
– Tôi là Norma Veitch, con gái của bà. Ông muốn gì? Mẹ tôi hoàn toàn bị mất thăng bằng.
– Vâng, tôi hiểu, – Mason thông cảm nói. – Tôi đến hỏi bà và cô có thể chuẩn bị một ít café hay không. Carl Griffin vừa mới trở về nhà, và tôi có cảm giác là một ly cà fê thật đặc sẽ rất có ích cho anh ta. Ngoài ra, ở trên gác có mấy viên cảnh sát đang điều tra, và họ cũng sẽ vui lòng được uống.
Norma Veitch tuột khỏi ghế.
– Vâng, tất nhiên rồi. Đúng không hả mẹ?
Cô gái nhìn người đàn bà, bà ta lại gật đầu một lần nữa.
– Tôi sẽ làm ngay bây giờ, – Norma Veitch nói.
– Không, – bà mẹ đáp lại bằng giọng khô khan, như tiếng xào xạc của lá ngô. – Tự mẹ sẽ chuẩn bị. Con có biết thứ gì nằm ở đâu đâu.
Bà ta đẩy ghế và bước lại đằng kia bếp, tới chỗ tủ chè. Mở cửa tủ, bà lấy ra cái cối xay café to lớn và một cái hộp. Trên khuôn mặt bà không phản ánh bất kỳ cảm xúc nào, nhưng bà chuyển động tựa như vô cùng mệt mỏi. Bà có bộ ngực bằng phẳng, mỏng dẹt và hai bàn chân bẹt, chúng làm mất sự uyển chuyển của bước chân bà. Trong cách xử xự toát ra sự chán nản và buồn bã.
Cô gái quay về phía Mason và mỉm cười với anh bằng cặp môi mọng, xinh đẹp.
– Ông là cảnh sát? – Cô hỏi.
Mason lắc đầu.
– Không, tôi là luật sư Mason và có mặt ở đây theo yêu cầu của bà Belter. Chính tôi đã gọi điện báo cho cảnh sát.
– A-a, – Norma Veitch nói. – Tôi được nghe về ông rồi.
Mason quay về phía bà mẹ.
– Trông bà mệt mỏi lắm, hay là, để tôi đun café cho, – ông đề nghị.
– Không, – bà trả lời vẫn bằng giọng khô khan, không sắc khí như trước. – Tôi tự làm được.
Bà đổ café và nước vào ấm đun café và, đến bên bếp, bật ga và châm lửa. Bà nhìn ấm đun một lúc, rồi vẫn bằng những bước chân nặng nề như ban nãy quay trở về bàn mình. Ngồi xuống, hai tay đặt chéo lên gối và đờ người ra, dán ánh mắt bất động vào bàn.
Norma Veitch ngước nhìn Mason.
– Trời ơi, sự việc khủng khiếp quá!
Mason gật đầu.
– Cô không nghe thấy tiếng súng à? – Ông nhân tiện hỏi.
Cô gái lắc đầu:
– Không, tôi ngủ say như chết ấy. Nói một cách thành thực, mãi đến khi có một viên cảnh sát vào phòng thì tôi mới thức dậy. Họ gọi mẹ lên gác và có lẽ, tuyệt nhiên không biết là tôi đang ngủ trong phòng bên cạnh. Họ muốn xem xét các phòng làm việc, khi mẹ ở trên gác. Tôi giật mình tỉnh dậy và nhận ra là có người đàn ông nào đó đang đứng ngay cạnh giường và nhìn mình chằm chằm.
Cô đưa mắt nhìn xuống và khe khẽ cười khúc khích, ám chỉ cho biết là sự kiện này không hề làm cô khó chịu.
– Và sao? – Mason hỏi.
– Họ cư xử đúng y như bắt quả tang tôi với khẩu súng lục còn bốc khói trong tay. Ra lệnh mặc quần áo, không rời mắt dù một giây, thậm chí kể cả lúc tôi ăn vận. Sau đó đem tôi theo lên gác, để hỏi cung.
– Và cô đã nói gì với họ? – Mason tỏ vẻ quan tâm.
– Sự thật. Rằng tôi lên giường và ngủ thiếp đi ngay lập tức, còn khi thức dậy thì đã thấy viên cảnh sát kia đứng cạnh giường và nhìn mình hau háu. – Tự hài lòng với bản thân mình, sau đó một chút cô thêm: – Họ tin tôi.
Mẹ cô gái vẫn tiếp tục ngồi bắt chéo tay trên đầu gối và cúi gằm xuống bàn.
– Và cô tuyệt đối không nghe thấy cũng như không nhìn thấy gì cả? – Mason tiếp tục gạn hỏi.
– Tuyệt nhiên không có gì.
– Và cô cũng không đoán ra điều gì?
– Không điều gì, – cô lắc đầu, – mà có thể nhắc lại bằng lời.
– Thế còn điều, – ông chĩa ánh mắt sắc lạnh nhìn cô, – không dùng để nhắc lại được?
– Tất nhiên, – cô gái gật đầu, – tôi ở đây mới chỉ có một tuần, nhưng trong thời gian này…
– Norma! – Bà mẹ ngắt lời cô bằng giọng bỗng nhiên chẳng còn tý khô khan nào và vang lên như tiếng roi quất.
Cô gái im bặt, Perry Mason liếc nhìn bà mẹ. Bà ta thậm chí không thèm ngước mắt khỏi bàn, khi ông nói với bà.
– Bà cũng không nghe thấy gì cả, bà Veitch?
– Ở đây tôi chỉ là người ở. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì.
– Làm thế rất đáng khen trong tình cảnh của bà, khi vụ việc chỉ là những vấn đề vụn vặt. Nhưng tôi cũng không biết cảnh sát có cho là như vậy trong trường hợp xảy ra vụ án mạng không, và bà có bắt buộc phải nhớ lại tất cả những gì nhìn và nghe thấy hay không.
– Tôi không nhìn thấy gì cả, – bà nói, nét mặt không rung động.
– Và không nghe thấy gì?
– Không.
Mason lườm người đàn bà. Ông có cảm giác bà ta giấu giếm điều gì đó.
– Bà cũng trả lời cảnh sát đúng như thế à?
– Café sắp được rồi. Có thể, anh vặn nhỏ lửa, để nó khỏi trào?
Mason quay về phía bếp. Hơi bắt đầu bốc lên từ ấm đun café.
– Tôi sẽ trông coi café, và đồng thời muốn biết bà trả lời cảnh sát có đúng như vậy không.
– Như thế nào?
– Như bà vừa nói với tôi ấy.
– Tôi nói với họ đúng như thế: là không nhìn thấy và không nghe thấy gì cả.
Norma Veitch bật cười hi hí.
– Đây là giả thuyết, mà mẹ sẽ chẳng bao giờ từ bỏ – cô gái nhận định.
– Norma! – Bà mẹ lại ngắt lời con gái.
Mason không rời mắt khỏi hai người phụ nữ. Nét mặt ông vẫn hoàn toàn bình thản, chỉ có cặp mắt trở nên cương quyết và lo ngại hơn.
– Chắc bà đã biết rồi, bà Veitch, tôi là luật sư. Nếu bà có thể nói điều gì đó, thì bây giờ là lúc tốt nhất để làm chuyện đó, không có cơ hội nào tốt hơn đâu.
– M-mm, – bà Veitch trả lời nhạt nhẽo.
– Thế nghĩa là gì?
– Tôi nhất trí là khó có thể nghĩ ra cơ hội tốt hơn.
Im lặng bao trùm một lúc.
– Và sao? – Mason hỏi.
– Tôi chẳng có gì để mà nói cả, – bà kết thúc, vẫn ngắm nghía mặt bàn như cũ.
Đúng lúc này nước trong ấm sôi lên sùng sục. Mason vặn nhỏ lửa.
– Tôi đi lấy ly và dĩa tách, – cô gái đứng dậy khỏi chỗ ngồi nói.
– Ngồi yên đấy, Norma, – bà mẹ ra lệnh cho cô. – Tự tôi sẽ làm việc này. – Bà đẩy ghế, đi tới tủ chè lấy ra mấy cái ly và dĩa tách. – Cho bọn họ những cái này là tốt lắm rồi.
– Nhưng, mẹ ơi, – Norma phản đối, – đó là những cái ly dành cho lái xe và gia nhân.
– Thì đây là cảnh sát cơ mà. Có khác gì đâu?
– Khác rất nhiều ấy chứ.
– Đây là việc của riêng tôi. Con có biết ông chủ sẽ nói gì nếu còn sống không? Ông sẽ không cho họ bất cứ thứ gì hết.
– Nhưng ông ấy chết rồi, – Norma đáp lại. – Từ giờ trở đi bà Belter sẽ làm chủ ở nhà này.
Bà Veitch quay người và chăm chú nhìn cô con gái bằng cập mắt sâu hoắm, mờ đục của mình.
– Tôi chưa tin chắc chuyện này, – bà quản gia tuyên bố.
Mason rót café vào các cốc, sau đó lại đổ chúng vào ấm đun. Khi anh lặp lại thủ thuật này lần nữa, café trở nên đen đặc và bốc hơi nghi ngút.
– Tôi có thể mượn cái khay nào đấy không? – Tôi mang café cho trung sĩ Hoffman và Carl Griffin, còn bà và cô có thể mang lên gác.
Bà Veitch lặng lẽ đưa cho anh cái khay. Mason rót đầy 3 ly, cầm khay và quay trở về phòng khách.
Trung sĩ Hoffman đang đứng dạng hai chân và cúi đầu về phía trước. Carl Griffin ngồi rũ rượi trên ghế, khuôn mặt phờ phạc và cặp mắt ngầu đỏ. Khi Mason mang café vào, viên trung sĩ đang nói:
– Khi mới trở về, anh nhận xét về cô ta hoàn toàn khác cơ mà.
– Lúc đó tôi say, – Griffin trả lời.
Hoffman hằn học nhìn chàng thanh niên:
– Người ta thường hay nói sự thật trong lúc say và trốn tránh trả lời chân thành, khi đã tỉnh táo trở lại.
Griffin nhướn mày, biểu lộ sự ngạc nhiên lịch thiệp
– Thật vậy à? – Anh hỏi lại. – Tôi chưa bao giờ nhận thấy mình như vậy.
Đúng lúc đó Hoffman nghe thấy tiếng bước chân Mason sau lưng mình. Anh ta quay người lại và tươi cười chào đón café đang bốc hơi thơm ngào ngạt.
– Ông giỏi quá, ngài Mason. Đến thật là đúng lúc. Uống café đi, Griffin, anh sẽ thấy dễ chịu hơn ngay tức khắc.
Griffin gật đầu.
– Mùi thơm, ngon quá, nhưng tôi vẫn khoẻ mạnh bình thường.
Mason đưa cho chàng trai ly café.
– Anh có biết gì về sự tồn tại của bản di chúc không? — Hoffman bất ngờ hỏi.
– Tôi cho là mình không nên nói về chuyện đó thì hơn, thưa ngài trung sĩ, nếu ngài không có điều gì phản đối.
Hoffman đón ly cà fê từ tay Mason.
Nhưng thật kỳ lạ, – viên cảnh sát tuyên bố với Griffin, – là không hiểu sao tôi lại có điều gì đó chống lại mong muốn của anh. Yêu cầu trả lời câu hỏi này.
– Vâng, bản di chúc có tồn tại, — Griffin miễn cưỡng thú nhận.
– Thế nó đang ở đâu?
– Tôi không biết việc này.
– Thế do đâu mà anh biết đến sự tồn tại của nó?
– Chính chú đưa cho tôi xem,
– Thế trong đó nói gì? Cô vợ thừa kế tất cả à?
Griffin lắc đầu:
– Từ những gì tôi dược biết cô ta không được thừa kế bất cứ thứ gì, ngoài số tiền 5000 đôla.
Trung sĩ nhướn cao mày và huýt sáo nho nhỏ.
– Điều này thay đổi toàn bộ thực chất của sự việc.
– Thực chất gì của vụ việc? – Griffin hỏi.
– Ví dụ, tất cả mọi tiền đề của điều tra, – Hoffman giải thích. – Sự tồn tại của cô ta hoàn toàn phụ thuộc việc ngài Belter còn sống hay đã chết. Từ thời điểm ông ta bị chết, có thể coi như cô ta đã bị đuổi ra đường.
– Theo như tôi được biết họ chung sống với nhau không được hạnh phúc lắm, – Griffin vội vàng giải thích.
– Riêng điều này còn chưa chứng minh được cái gì cả, – Hoffman trầm ngâm trả lời. – Trong những trường hợp tương tự, trước hết chúng tôi bao giờ cũng cố gắng xác định động cơ.
Mason tươi tắn mỉm cười với Hoffman.
– Chẳng lẽ anh có thể giả định một cách nghiêm túc, rằng cô Belter đã giết chồng mình? – Ông hỏi bằng giọng, mà dường như chỉ riêng ý nghĩ về chuyện này đã hết sức nực cười.
– Tôi đang tiến hành điều tra sơ bộ, ngài Mason. Tôi cố gắng xác định, ai có thể là kẻ sát nhân. Bao giờ chúng tôi cũng bắt đầu bằng việc đi tìm động cơ phạm pháp. Trước hết cần phải xác định, ai là người có lợi nhất từ vụ giết người, còn sau đó mới…
– Trong trường hợp này, – Griffin xen vào bằng giọng hoàn toàn tỉnh táo, – tất cả mọi nghi ngờ đều phải rơi vào tôi.
– Ý anh muốn nói gì? – Hoffman hỏi.
– Theo di chúc, – Griffin chậm rãi nói, – tôi thừa kế toàn bộ. Tôi không hề giấu giếm chuyện này. Chú George yêu quý tôi hơn bất cứ ai khác. Điều này có nghĩa là, chú có cảm tình với tôi tới mức mà tính cách của chú cho phép. Bởi vì tôi nghĩ, rằng nói chung chú khó có khả năng yêu hay quý mến bất kỳ người nào đó một cách thật sự.
– Thế anh có cảm tình với ông ấy không?
– Tôi rất kính trọng trí tuệ của chú, – Griffin trả lời, cố gắng lựa chọn từng lời. – Tôi đánh giá cao một số đặc điểm của tính cách chú. Chú sống hoàn toàn cô đơn, bởi vì vô cùng nhạy cảm với những trò lừa dối và giả nhân giả nghĩa.
– Tại sao nó lại phải bắt buộc ông ta suốt đời sống cô đơn? – Hoffman hỏi.
Griffin hơi nhún vai.
– Nếu ngài có một trí óc giống như của chú tôi, – chàng trai trả lời, – thì ngài đã chẳng cần hỏi. Chú George Belter có một trí tuệ to lớn. Ông có thể nhìn xuyên thấu từng người, nhận thấy bất kỳ sự giả dối nào. Ông thuộc loại người không bao giờ kết thân với bất kỳ ai. Ông tự lập đến mức không tìm kiếm sự dựa dẫm vào người khác, vì thế không cần có bạn bè. Niềm ham mê duy nhất của chú là đấu tranh. Ông chiến đấu với cả thế giới, chiến đấu với tất cả mọi người và từng người.
– Nhưng trừ anh ra? – Hoffman xen vào.
– Vâng, – Griffin thú nhận, – chú không chiến đấu với tôi, bởi vì tôi mặc kệ chú và số tiền của chú. Tôi không nịnh nọt, nhưng cũng không lừa dối chú. Tôi nói ra tất cả những gì mình nghĩ về chú. Tôi thành thực với chú.
Trung sĩ Hoffman nheo mắt.
– Thế ai đã lừa dối ông ấy?
– Anh muốn biết điều gì?
– Chú, theo anh nói, quý anh, bởi vì anh không lừa dối ông ấy.
– Quả đúng như vậy.
– Anh nhấn mạnh mình.
– Chỉ là tình cờ thôi, tôi không hề có ý định nhấn mạnh cá nhân khiêm nhượng của mình.
– Thế với cô vợ, bà Belter thì sao? Chú có yêu vợ không?
– Tôi không biết. Chú chưa bao giờ nói chuyện với tôi về vợ mình.
– Cô ta, tình cờ, không lừa dối ông ấy chứ? – Trung sĩ Hoffman gạn hỏi.
– Làm sao tôi có thể biết được chuyện ấy?
Hoffman chăm chú nhìn anh chàng trẻ tuổi.
– Anh cũng không cởi mở lắm đâu. Đành vậy nếu anh không muốn nói, thì tôi cũng chẳng biết làm sao.
– Nhưng tôi muốn nói, thưa ngài trung sĩ, – Griffin phản đối. – Tôi sẽ nói hết những gì ngài muốn biết.
Hoffman thở phào:
– Anh có thể nói một cách chính xác, khi xảy ra vụ giết người, anh đang ở đâu? – Viên cảnh sát mệt mỏi hỏi.
Griffin đỏ mặt.
– Tôi rất tiếc, thưa ngài trung sĩ, nhưng tôi không thể.
– Tại sao?
– Bởi vì, thứ nhất, tôi không biết tội ác xảy ra vào lúc nào, còn thứ hai, thậm chí kể cả khi tôi biết điều này, tôi cũng không thể nào nhớ được, lúc đó mình đang ở đâu. Tôi lo là hôm nay mình hơi quá chén. Lúc đầu tôi đi cùng một cô gái trẻ, sau khi chia tay với cô ta, tôi còn rẽ vào vài chỗ vui vẻ nữa. Khi tôi muốn quay về nhà, thì cái lốp khốn kiếp lại bị nổ, và tôi hiểu rằng mình đã quá say, để có thể thay được nó. Tôi cố gắng tìm một gara nào đó để gửi xe và bắt tắc-xi, nhưng trời mưa như trút nước. Và kết quả là tôi đi và đi trên cái lốp khốn nạn bị xịt và chuyện này, chắc là vậy, kéo dài vô tận.
– Thật vậy, săm rách tươm, – Hoffman công nhận. – Nhân tiện, còn những ai khác biết về di chúc của chú anh? Ngoài anh ra, còn ai nhìn thấy nó không?
– Có. Luật sư của tôi.
– Anh có luật sư riêng cơ à?
– Dĩ nhiên. Anh ngạc nhiên lắm hay sao?
– Ai là luật sư của anh?
– Arthur Atwood. Ông ta có văn phòng ở Mutual Building.
Trung sĩ Hoffman quay về phía Mason:
– Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên này. Anh biết ông ta không, Mason?
– Có, tôi đã vài lần làm việc với ông ta. Anh chàng trán hói, mập lùn… Ngày trước chuyên về những vụ bồi thường thương tích thân thể. Hình như, thường thu xếp các vụ việc mà không đưa ra toà, hay nhận được số tiền bồi thường đáng kể.
– Do đâu mà có chuyện anh nhìn thấy di chúc với sự có mặt của luật sư của mình? – Hoffman hỏi Griffin. – Một điều tương đối bất thường, khi người di chúc lại đi mời người thừa kế cùng với luật sư của anh ta đến xem di chúc.
Griffin mím môi.
– Về vấn đề này anh đành phải nói chuyện với luật sư của tôi thôi. Tôi không muốn can thiệp vào. Đây là việc phức tạp, tôi không muốn tranh cãi về nó.
– Quanh co thế đủ rồi! – Trung sĩ Hoffman quát lên.
– Nói ngay sự việc xảy ra thế nào! Nhanh lên!
– Điều này nghĩa là gì vậy? – Griffin hỏi.
Hoffman quay mặt về phía chàng trai và nhìn anh ta từ đầu xuống chân, cằm trung sĩ hơi bành ra, cặp mắt nhẫn nại bỗng có biểu hiện cứng rắn.
– Điều này có nghĩa, ngài Griffin là việc đó thì chẳng ăn thua gì đâu. Anh đang định che giấu ai đó hoặc thích đóng vai chàng hiệp sỹ hào hiệp. Hoặc cái này hoặc cái kia. Anh không làm thế được đâu. Hoặc ngay bây giờ anh nói ra tất cả những gì mình biết, hoặc đi cùng chúng tôi tới Sở cảnh sát.
Griffin bắt đầu đỏ mặt vì tức giận:
– Ngài cho phép mình chuyện gì thế, trung sĩ? Ngài có bắt đầu sỗ sàng quá không đấy?
– Tôi không quan tâm mình bắt đầu như thế nào. Vụ việc liên quan đến giết người, mà anh lại ngồi trên ghế và chơi trò mèo đuổi chuột với tôi. Nào, trả lời đi, nhanh lên! Lúc đó các anh nói chuyện gì, và tại sao xảy ra việc chú anh cho anh và luật sư của anh xem bản di chúc?
– Ngài, có lẽ, hiểu rằng tôi nói vì bị sức ép.
– Tôi hiểu, tôi hiểu. Nói đi.
– Vậy là, – Griffin bắt đầu, rõ ràng muốn kéo dài thời gian, – tôi đã tìm cách cho ngài hiểu, rằng chú George sống với vợ mình không được hạnh phúc lắm. Ông dự định đâm đơn ly hôn, một khi nhận được những chứng cớ cụ thể về sự phụ bạc của vợ mình. Chúng tôi và chú có những mối quan tâm chung, và có một lần, khi chúng tôi nói chuyện tay ba với nhau, ngài Atwood có mặt cùng chúng tôi, bỗng nhiên chú lấy ra bản di chúc. Tôi thấy bất tiện, vì không có mong muốn đi sâu vào vấn đề này, nhưng Atwood lại nhìn nhận nó như một luật sư.
Griffin quay về phía Mason:
– Tôi nghĩ là ông hiểu hoàn cảnh này, đúng không? Hình như, ông cũng là luật sư.
Hoffman không rời mắt khỏi mặt Griffin.
– Đừng ra ngoài đề, ngài Griffin, – viên cảnh sát khuyên nhủ. – Kể đi, sau đó thì sao?
– Chú George bắt đầu chê trách vợ mình, rồi chỉ lên tờ giấy nào đó và hỏi ngài Atwood, với tư cách một luật sư, rằng bản di chúc được viết bởi chính tay người lập di chúc có giá trị pháp lý không, hay đòi hỏi có cả sự khẳng định của hai nhân chứng? Chú còn nói là đã viết di chúc, nhưng lo ngại là nó sẽ bị kháng nghị, bởi vì dành cho vợ quá ít. Chú bảo, để lại cho cô ta vẻn vẹn chỉ có 5000 đôla, và nói thêm là tất cả phần còn lại dành cho tôi.
– Tức là, anh chưa đọc chính văn bản di chúc? — Trung sĩ hỏi.
– Đúng ra thì chưa, – Griffin trả lời. – Tức là, ít nhất tôi cũng chưa nghiên cứu nó một cách tỉ mỉ, đọc từng lời. Tôi chỉ liếc qua và nhận thấy, rằng nó được viết bằng nét chữ của chú George. Với lại, chính chú đã nói ra tất cả rồi thôi. Ngài Atwood xem xét di chúc kỹ hơn.
– Rồi sao nữa? – Viên cảnh sát hỏi.
– Chỉ có thế thôi, – chàng trai trả lời.
– Không, chưa phải tất cả, – Hoffman nằng nặc đòi hỏi. — Còn sau đó thì thế nào?
Griffin nhún vai:
– Vâng, chú còn nói thêm điều gì đó, vâng, những chuyện khác nhau. Tôi không chăm chú nghe lắm, và bây giờ hầu như không nhớ được gì…
– Anh có bỏ ngay cái trò vòng vo tam quốc không thì bảo? – Hoffman nổi nóng. – Ngài Belter còn nói gì nữa?
– Chú nói, – Carl Griffin trả lời, nhấn mạnh từng từ một, – rằng muốn làm như vậy, để vợ mình không được hưởng gì cả trong trường hợp, nếu có điều gì không may xảy ra với chú. Chú nói là sẽ không ngạc nhiên, nếu cô ta sẽ mưu toan cho chú về chầu ông bà ông vải và chiếm đoạt toàn bộ tài sản, một khi phát hiện ra là sẽ không nhận được số tiền đáng kể khi ly dị. Bây giờ thì tôi nói hết với ngài rồi. Mà nói chung, thưa các ngài, nếu muốn biết ý kiến của riêng tôi, thì tôi cho rằng đây không phải là công việc chó má của các ngài. Tôi tuyên bố là bị ép cung, và kịch liệt phản đối cung cách cư xử của các ngài.
– Miễn bình luận, – Hoffman nhăn nhó. – Những lời vừa rồi của anh, hình như, có thể giải thích câu nói mà anh thốt ra, khi lần đầu tiên nghe thấy về vụ giết người…
– Xin ngài, ngài trung sĩ, đừng quay trở lại đề tài này nữa, – Griffin ngắt lời viên cảnh sát, đồng thời giơ hai tay lên trời. – Mà thậm chí nếu tôi từng nói như thế, thì cũng là trong lúc say chẳng còn biết trời đất gì hết. Tôi không thể nhớ hết những gì mình nói và tuyệt nhiên không nghĩ như vậy.
– Rất có thể, anh đúng là không nghĩ như thế thật, – Mason can thiệp vào, – nhưng anh đã rất thành công…
Trung sĩ Hoffman quay ngoắt về phía luật sư.
– Đủ rồi, ngài Mason! Tôi đang thẩm vấn, còn ông ở đây chỉ là khán giả thôi. Hoặc là ông sẽ ngồi yên, hoặc cuốn xéo khỏi đây cho tôi nhờ!
– Anh đừng có doạ tôi, ngài trung sĩ, – Mason bình tĩnh nói. – Đây là nhà của Eva Belter, mà tôi lại là luật sư của cô ta. Tôi đang nghe thấy những câu trả lời, ít nhất, cũng làm vẩn đục thanh danh của thân chủ mình, và xin cam đoan với anh, rằng sẽ làm tất cả, để những lời nhận xét này hoặc được xác nhận, hoặc phải rút lại.
Biểu hiện kiên nhẫn trên nét mặt Hoffman biến mất. Anh ta nhìn Mason bằng ánh mắt không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho luật sư.
– Tôi đồng ý, – anh ta nói. – Ông có thể bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ mình. Nhưng có điều gì đó mách bảo tôi là ngay sắp tới đây thôi, chính bản thân ông sẽ phải giải thích rất nhiều thứ. Thật lạ lùng quỷ quái là cảnh sát tới hiện trường và bắt gặp ông đang tán gẫu với vợ nạn nhân. Và còn kỳ lạ hơn nữa là người đàn bà, vừa tìm thấy chồng mình chết, lại bỏ chạy và trước hết gọi điện cho luật sư của mình, rồi sau đó mới nghĩ đến những chuyện nào khác.
– Thứ nhất, cô ta không phải tìm thấy chồng đã chết, mà chỉ nghe thấy tiếng súng thôi, – Mason tức giận đáp lại. – Còn thứ hai, anh biết rất rõ, rằng tôi là bạn cũ của bà Belter.
– Đúng là mới thoạt nhìn thì có thể có cảm giác như thế thật, – viên trung sĩ khô khan nhận xét.
Mason đứng dạng chân và ưỡn thẳng vai.
– Chúng ta hãy giải thích với nhau một cách cởi mở, ngài trung sĩ, – Mason nói. – Tôi đại diện cho quyền lợi của bà Eva Belter và không nhìn thấy nguyên cớ gì để bôi nhọ cô ấy. George Belter dã chết chẳng đáng một xu gì với cô ấy. Song lại là một đống tiền đối với ngài Griffin, vô tư lự xuất hiện tại đây với chứng cớ ngoại phạm chẳng ra đâu vào đâu, và bắt đầu lên án thân chủ tôi.
Griffin đứng bật dậy. Mason không thèm để ý đến sự phẫn nộ của chàng trai, tiếp tục nói với trung sĩ Hoffman:
– Bởi chính anh cũng không thể buộc tội người phụ nữ chỉ trên cơ sở những điều đơm đặt. Còn có cả toà hội thẩm nữa chứ, nó không thể kết tội khi chưa tìm thấy những chứng cớ chắc chắn của tội lỗi.
Trung sĩ xoi mói nhìn Mason.
– Và bây giờ ông đang tìm kiếm những chứng cớ như vậy, ngài Mason?
Mason chỉ ngón tay về phía Griffin.
– Để phòng xa anh bép xép quá nhiều, chàng trai trẻ thân mến, đừng hy vọng tôi sẽ bỏ lỡ ích lợi từ việc đệ trình bản di chúc này lên toà, nếu bỗng nhiên thân chủ của tôi buộc phải ra trước toà hội thẩm.
– Anh muốn nói rằng cho là anh ta phạm tội giết người? – Hoffman xác định rõ thêm.
– Tôi không phải thám tử, ngài trung sĩ, mà chỉ đơn giản là một luật sư thôi. Tôi chỉ biết rằng toà hội thẩm chưa thể kết án bất kỳ ai, cho đến khi vẫn còn những nghi ngờ, thắc mắc có cơ sở nào đấy. Mà nếu khi nào anh bắt đầu soạn thảo kết luận buộc tội chống lại thân chủ của tôi, thì hãy nhớ lấy là đây này, – ông chỉ về phía Carl Griffin, – điều nghi ngờ xác đáng của tôi.
Hoffman gật đầu.
– Tôi chờ đợi điều gì đó tương tự ở ông, – anh ta nói. – Nói chung thì tôi không nên cho ông vào căn phòng này. Còn bây giờ, ông hãy xéo đi!
– Đó chính là điều tôi đang định làm, thưa ngài trung sỹ – Mason trả lời.