Kẻ tình nghi của chúng ta đúng là một kẻ mắc bệnh thích cắt bỏ – bác sỹ Lawrence Zucker nói – Một kẻ dùng dao để thỏa mãn ham muốn gián tiếp hay hạ cấp về mặt tình dục. Bệnh thích cắt bỏ là hành động đâm hay cắt bỏ cái gì đó, bất cứ hành động xâm hại đến da nhiều lần bằng một vật nhọn. Con dao là một biểu tượng của dương vật – một vật thay thế cho bộ phận sinh dục nam. Thay vì thực hiện quá trình giao cấu thông thường, tên sát nhân này thực sự khoái cảm bằng cách bắt nạn nhân chịu đau đớn và sợ hãi. Chính sức mạnh đó khiến hắn hưng phấn. Đó là quyền lực cao nhất, hắn có thể định đoạt sự sống và cái chết.
Thám tử Jane Rizzoli không dễ bị khiếp sợ nhưng bác sỹ Zucker khiến cô rùng mình. Trông anh ta như nhân vật John Malkovich xanh xao, người béo phục phịch, giọng anh ta thì thào và nghe như giọng con gái. Khi anh ta nói, những ngón tay của anh ta di chuyển mềm mại như những con rắn. Anh ta không phải là cảnh sát, mà là một chuyên gia tâm lý tội phạm đến từ Đại học Southeastearn, là người cố vấn cho Sở cảnh sát Boston. Cô đã làm việc với anh ta một lần trong một vụ giết người. Khi đó anh đã khiến cô sởn gai ốc. Đó không chỉ là do vẻ ngoài của anh mà còn do cách anh đặt hẳn bản thân vào tâm trí của kẻ tình nghi và tâm trạng vui sướng của anh khi lang thang trong không gian của kẻ điên loạn. Anh thích chuyến phiêu lưu kiểu đó. Cô có thể nhận thấy sự vui thích trong tiếng ngân nga từ tiềm thức lộ ra trong giọng nói của anh.
Cô nhìn quanh, quan sát bốn thám tử khác cùng ngồi trong phòng họp và không biết có ai khác cảm thấy rùng mình vì con người lập dị này không. Nhưng tất cả những gì cô thấy chỉ là những biểu hiện mệt mỏi và những cái bóng khác nhau vào lúc năm giờ chiều.
Tất cả mọi người đều mệt mỏi. Đêm qua cô cũng ngủ không quá bốn tiếng. Sáng nay, cô dậy trước khi trời sáng. Đầu óc cô như một chiếc hộp số đang xử lý để hiểu một chiếc kính vạn hoa với hàng vạn hình ảnh và màu sắc. Vụ án của Elena Ortiz đã ăn quá sâu vào tiềm thức của cô đến mức trong mơ, cô thấy mình và Elena cùng nói chuyện với nhau, mặc dù đó là một cuộc nói chuyện vô lý. Không có mối liên hệ siêu nhiên, không có chi tiết nào vượt khỏi khu mộ của cô gái đó mà chỉ có những hình ảnh được các tế bào nơ-ron thần kinh tạo ra. Nhưng Rizzoli vẫn nghĩ giấc mơ đó có ý nghĩa với cô. Là thám tử điều tra đứng đầu vụ điều tra quan trọng, cô cảm thấy như thể mình đang đi trên một sợi dây trên cao, và không có lưới đỡ bên dưới. Chỉ cần cô bắt được tên sát nhân thì mọi người sẽ vỗ tay tán thưởng. Nếu cô thất bại, cả thế giới sẽ chứng kiến cô sụp đổ.
Giờ vụ này đã biến thành một vụ quan trọng hàng đầu. Cách đây hai ngày, trang nhất tờ báo lá cải ở địa phương đã viết: “Bác sỹ phẫu thuật lại mổ xẻ”. Nhờ tờ Người đưa tin Boston mà kẻ tình nghi của họ đã có biệt danh riêng và cả cảnh sát cũng dùng. Đó là Bác sỹ phẫu thuật.
Lạy Chúa, cô đã sẵn sàng thực hiện động tác đi bộ trên dây cao, sẵn sàng đối diện với khả năng nâng cao hay sụp đổ toàn bộ công cán của mình từ trước đến nay. Cách đây một tuần, khi bước vào căn hộ của Elena Ortiz với tư cách thám tử đứng đầu, cô đã biết ngay rằng vụ này sẽ gây dựng sự nghiệp cho cô. Và cô nóng lòng muốn chứng tỏ khả năng của mình.
Mọi việc thay đổi thật nhanh.
Trong vòng một ngày, vụ của cô đã bùng phát thành một vụ điều tra quá lớn, dẫn đầu là Trung úy Marquette. Vụ của Elena Ortiz đã được gộp chung với vụ của Diana Sterling. Cả đội điều tra tổng cộng đã lên tới năm thám tử, cộng thêm Trung úy Marquette. Trong đó có Rizzoli, cộng sự của cô Barry Frost, Moore và cộng sự to béo của anh Jerry Sleeper, cộng thêm một thám tử thứ năm là Darren Crowe. Rizzoli là người phụ nữ duy nhất trong đội. Thực ra cô còn là người phụ nữ duy nhất trong Bộ phận điều tra các vụ giết người và có vài người đàn ông sẽ không bao giờ cho phép cô quên điều đó. Cô đã làm việc với Barry Frost rất lâu, bất chấp tính khí vui vẻ đến khó chịu của anh. Jerry Sleeper quá lạnh nhạt nên anh không bao giờ phỉ báng ai và cũng không ai phỉ báng anh. Còn với Moore thì – mặc dù ban đầu cô còn e dè nhưng cô đã thực sự bắt đầu mến và tôn trọng anh vì anh làm việc im lặng và có phương pháp. Quan trọng nhất là dường như anh cũng tôn trọng cô. Bất cứ khi nào cô lên tiếng thì cô biết anh sẽ lắng nghe.
Không, chính viên cảnh sát thứ năm trong đội, Darren Crowe là người gây rắc rối với cô. Giờ anh ta ngồi đối diện với cô ở bên kia bàn. Khuôn mặt rám nắng vẫn giữ nụ cười tự mãn như mọi khi. Cô đã lớn lên và gặp nhiều thanh niên như anh ta. Đó là những cậu bé vai u thịt bắp, có nhiều bồ và có cái tôi to tướng.
Cô và Crowe không thích nhau.
Mấy xấp giấy được chuyển quanh bàn. Rizzoli lấy một bản và thấy đây là tập hồ sơ tài liệu tội phạm do bác sỹ Zucker vừa hoàn thành.
– Tôi biết vài người trong số các vị có thể nghĩ công việc của tôi là một trò lừa bịp – Zucker tiếp tục – Vì vậy cho phép tôi giải thích lý do. Chúng ta biết những điều sau đây về chủ thể vô danh của chúng ta. Hắn xâm nhập chỗ ở của nạn nhân qua cửa sổ để mở. Hắn làm việc này vào đầu giờ sáng, đôi khi vào khoảng nửa đêm và hai giờ sáng. Hắn khiến nạn nhân kinh hoàng khi đang nằm trên giường. Hắn lập tức vô hiệu hóa nạn nhân bằng thuốc gây mê. Hắn lột quần áo họ. Khiến họ bất động bằng cách trói họ vào giường rồi buộc băng dính ống nhựa quanh cổ tay và cổ chân nạn nhân. Cuối cùng, hắn dán băng dính vào miệng nạn nhân. Điều hắn đạt được chính là kiểm soát hoàn toàn. Khi nạn nhân tỉnh sau đó một lúc, cô ấy không thể cử động, không thể la hét. Như thể cô ấy bị tê liệt nhưng cô ấy lại tỉnh táo và hiểu chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.
– Và chuyện xảy ra sau đó chắc chắn là cơn ác mộng kinh hoàng nhất với bất cứ ai – Giọng nói của Zucker nhỏ dần thành kiểu đều đều. Các chi tiết càng kỳ lạ thì anh nói càng nhẹ. Dường như chúng đang ngả hết về phía trước và lơ lửng ở đầu những từ anh nói – Tên sát nhân bắt đầu cắt mổ. Theo báo cáo khám nghiệm tử thi, hắn mất khá nhiều thời gian. Hắn rất tỉ mỉ. Hắn mổ phần bụng dưới, từng lớp một. Đầu tien là lớp da, sau đó đến lớp dưới da, lớp cân, rồi đến cơ. Hắn dùng chỉ y tế để ngăn không cho vết thương chảy máu. Hắn tìm kiếm rồi lấy đi bộ phận duy nhất mà hắn muốn. Không hơn! Và thứ hắn muốn chính là tử cung.
Zucker nhìn quanh bàn, chú ý phản ứng của mọi người. Ánh mắt anh dừng lại ở Rizzoli, viên cảnh sát duy nhất trong phòng sở hữu bộ phận họ đang nói đến. Cô cũng nhìn lại anh, và tức giận vì giới tính của mình khiến anh tập trung vào cô.
– Điều đó cho chúng ta biết điều gì về hắn, cô Rizzoli? – Anh hỏi.
– Hắn căm ghét phụ nữ – Cô bực tức trả lời – Hắn cắt bỏ bộ phận khiến họ trở thành phụ nữ.
Zucker gật đầu. Nụ cười của anh khiến cô rùng mình.
– Đó chính là điều Jack, tên thợ mỏ đã làm với Annie Chapman. Khi cắt bỏ tử cung, hắn đã khiến nạn nhân không còn là đàn bà nữa. Hắn lấy đi sức mạnh của họ. Hắn không màng đến đồ trang sức hay tiền bạc của họ. Hắn chỉ muốn một thứ. Khi đã lấy được chiến lợi phẩm của mình rồi, hắn có thể tiếp tục phần việc cuối cùng. Nhưng đầu tiên, hắn dừng lại trước lần hồi hộp cuối cùng. Việc khám nghiệm tử thi của cả hai nạn nhân cho thấy khi đó hắn dừng lại. Có lẽ cả một giờ trôi qua khi nạn nhân vẫn tiếp tục chảy máu dần dần. Một vũng máu đọng lại từ vết thương của họ. Vậy hắn làm gì trong suốt thời gian đó?
– Thủ dâm – Moore khẽ nói.
– Ý anh là cho cái thứ đó ra à? – Darren Crowe hỏi một cách thô lỗ như mọi khi.
– Không có bằng chứng là hắn đã xuất tinh tại hiện trường vụ án – Rizzoli không ngần ngại lên tiếng.
Crowe ném về phía cô ánh mắt như thể muốn nói cô chẳng thông minh gì.
– Không có hiện – tượng – xuất – tinh – anh ta nói và cố tình nhấn mạnh từng âm một cách giễu cợt – Điều đó không loại bỏ khả năng là hắn đã làm việc đó.
– Tôi không tin là hắn đã thủ dâm – Zucker giải thích – Tên sát nhân đặc biệt này sẽ không mất cảnh giác quá như vậy trong môi trường không quen thuộc. Tôi nghĩ hắn chờ cho đến khi ở một nơi an toàn để đạt được khoái cảm tình dục. Tất cả mọi thứ tại hiện trường đều cho thấy một điều. Đó là sự kiểm soát. Khi hắn tiếp tục làm công việc cuối cùng, hắn làm việc đó một cách tự tin và tự chủ. Hắn cắt cổ nạn nhân bằng một vết dao sắc ngọt duy nhất. Rồi hắn thực hiện nghi thức cuối cùng – Zucker lục va li, lấy ra hai bức ảnh chụp hiện trường, đặt chúng lên bàn. Một tấm chụp phòng ngủ của Diana Sterling, tấm kia là của Elena Ortiz – Hắn cẩn thận gấp quần áo ngủ của họ, đặt gọn gàng gần thi thể họ. Chúng ta biết việc gấp quần áo được thực hiện sau khi giết người vì ta thấy các vết máu bên trong các nếp gấp.
– Tại sao hắn làm vậy? – Frost hỏi – Hành động đó tượng trưng cho điều gì?
– Lại là sự kiểm soát – Rizzoli khẳng định.
Zucker gật đầu.
– Chắc chắn đó là một phần lý do. Bằng nghi thức này, hắn chứng tỏ hắn hoàn toàn làm chủ hiện trường gây án. Nhưng đồng thời, chính nghi thức đó cũng kiểm soát hắn. Đó là sự thôi thúc mà hắn không thể kìm nổi.
– Nếu hắn không thể thực hiện việc đó thì sao? – Frost băn khoăn – Giả sử có ai đó làm phiền hắn và hắn không thể thực hiện việc đó.
– Điều đó sẽ khiến hắn tức giận đến phát điên. Có thể hắn sẽ thấy buộc phải săn nạn nhân tiếp theo. Nhưng đến nay, hắn luôn cố hoàn thành thủ tục đó. Và mỗi lần giết người khiến hắn hài lòng đủ lâu để hắn không động tĩnh gì trong một khoảng thời gian dài – Zucker nhìn quanh phòng – Đây là loại tội phạm tồi tệ nhất mà chúng ta có thể gặp phải. Các vụ tấn công của hắn diễn ra cả năm, điều này thực sự hiếm có. Điều đó nghĩa là hắn ngừng lại vài tháng trước khi đi săn. Chúng ta có thể chạy hết tốc lực cố tìm hắn trong khi hắn im lặng ngồi chờ lần giết người tiếp theo. Hắn rất cẩn thận. Hắn rất có tổ chức. Nếu có thì hắn chỉ để lại rất ít manh mối – Anh nhìn Moore xem Moore có xác nhận điều đó không.
– Chúng ta không tìm thấy dấu vân tay, AND hay bất cứ dấu vết nào tại hiện trường – Moore thêm vào – Tất cả những gì chúng ta có là một sợi tóc được lấy từ mép vết thương của Elena Ortiz và vài sợi polieste tối màu trên khung cửa sổ.
– Tôi nghĩ là các vị cũng không tìm được nhân chứng.
– Chúng tôi đã phỏng vấn mười ba người trong vụ án của Sterling và đến nay có một trăm tám mươi người được phỏng vấn trong vụ của Elena Ortiz. Không ai nhìn thấy kẻ đột nhập. Không ai biết có người lén theo dõi.
– Nhưng chúng ta có ba lời thú nhận – Crowe nói – Tất cả bọn họ đều bước từ ngoài phố vào. Chúng tôi đã lấy lời khai của họ và đã gửi người đi tìm – Anh ta cười lớn – Tìm những kẻ điên rồ!
– Tên sát nhân của chúng ta không hề điên – Giọng Zucker đều đều – Tôi nghĩ trông hắn hoàn toàn bình thường. Tôi tin hắn là một gã đàn ông da trắng, đã vào tuổi cuối hai mươi, đầu ba mươi, ăn mặc chỉnh tề, gọn gàng và có trí thông minh mức bình thường. Ta có thể gần như chắc chắn rằng hắn đã tốt nghiệp trung học phổ thông, có lẽ đã học xong đại học, hoặc hơn thế nữa. Hai hiện trường gây án cách nhau hơn hai dặm, những vụ giết người được thực hiện vào cùng một thời gian trong ngày, khi có ít phương tiện giao thông công cộng đi lại. Vì vậy hắn đi bằng ô tô.
Chiếc xe đó nhỏ gọn và được bảo quản tốt. Có lẽ hắn không có vấn đề sức khỏe gì trong hồ sơ bệnh án nhưng hắn có thể có tiền sử trộm cắp hay thích xem tranh ảnh khiêu dâm khi còn là thiếu niên. Nếu hắn có công ăn việc làm thì công việc đó đòi hỏi cả trí thông minh và sự tỉ mỉ. Chúng ta đều biết hắn biết lên kế hoạch, điều đó được chứng tỏ bằng hộp dụng cụ hắn mang đi – gồm dao mổ, chỉ y tế, băng dính ống nhựa và thuốc gây mê, cộng thêm một hộp chứa để hắn mang chiến lợi phẩm về nhà. Có thể đó chỉ đơn giản là túi đựng vật chứng Ziploc. Hắn làm việc trong một lĩnh vực nào đó đòi hỏi phải tỉ mỉ đến từng tiểu tiết. Căn cứ vào việc rõ ràng hắn có kiến thức về giải phẫu và các kỹ năng phẫu thuật thì chúng ta có thể đang đối đầu với một chuyên gia y khoa.
Rizzoli bắt gặp ánh mắt của Moore. Có lẽ ở Boston có nhiều bác sỹ hơn bất cứ nơi nào trên thế giới.
– Vì hắn thông minh – Zucker tiếp tục – Hắn biết chúng ta sẽ khoanh cọc hiện trường nên hắn sẽ cố nín nhịn sự cám dỗ muốn đến đó. Nhưng sự cám dỗ vẫn còn đó nên chúng ta phải cố gắng tiếp tục theo dõi hiện trường nơi ở của Ortiz, ít nhất là trong tương lai gần.
– Hắn đủ thông minh để tránh không chọn nạn nhân ở ngay sát nhà hắn. Hắn là loại người mà chúng ta nên gọi là “người đi vé tháng”, chứ không phải “kẻ cướp”. Hắn đi ra khỏi khu gần nhà mình để săn mồi. Cho đến khi chúng ta có thêm hồ sơ dữ liệu để phân tích thì tôi thực sự không thể đưa ra phân tích về nơi ở của hắn. Tôi không thể khoanh vùng nơi nào trong thành phố các vị cần tìm kiếm.
– Anh cần bao nhiêu hồ sơ dữ liệu nữa? – Rizzoli hỏi.
– Ít nhất là năm.
– Nghĩa là ít nhất chúng ta phải có năm vụ giết người sao?
– Chương trình phân tích địa lý nơi ở của tội phạm mà tôi dùng đòi hỏi phải có năm điểm mới đủ. Tôi đã thử chạy chương trình phân tích địa hình với bốn dữ liệu. Đôi khi các bạn có thể dự đoán về nơi ở của tên sát nhân dựa vào đó nhưng nó không được chính xác. Chúng ta cần hiểu sâu hơn về những chuyển động của hắn. Nơi hoạt động của hắn ở đâu, nơi dừng chân của hắn ở đâu. Mỗi tên giết người làm việc trong một khu vực an toàn nhất định. Chúng như những con thú ăn thịt săn mồi. Chúng có lãnh thổ riêng, có khu săn mồi riêng, để tìm thấy con mồi – Zucker nhìn khuôn mặt không biểu hiện cảm xúc của các vị thám tử ngồi quanh bàn – Chúng ta vẫn chưa đủ thông tin về tên sát nhân để đưa ra bất cứ phán đoán nào. Vì vậy chúng ta cần tập trung vào các nạn nhân. Họ là ai? Tại sao hắn chọn họ?
Zucker lục va li, lấy ra hai hồ sơ, một tên là Sterling, một tên là Ortiz. Anh lấy ra hàng chục tấm ảnh, rải lên bàn. Đó là bức ảnh của hai cô gái khi còn sống, vài bức được chụp khi còn nhỏ.
– Các vị chưa xem những tấm ảnh này. Tôi đã yêu cầu gia đình họ cung cấp để chúng ta hiểu phần nào về cuộc sống của hai cô gái đó. Hãy nhìn kỹ khuôn mặt họ xem! Và hãy xem trước đây họ là những cô gái như thế nào? Tại sao tên sát nhân lại chọn họ? Hắn gặp họ ở đâu? Họ có điểm gì khiến hắn chú ý? Một nụ cười chăng? Hay cách họ đi xuống phố?
Anh bắt đầu đọc một tờ giấy được đánh máy.
Diana Sterling, 30 tuổi, tóc vàng, mắt xanh. Cao 1,7 mét, nặng 56 cân. Nghề nghiệp: nhân viên hãng lữ hành. Nơi làm việc: phố Newbury. Nơi ở: phố Marlborough ở vịnh Back. Sinh viên tốt nghiệp trường Smith. Bố mẹ đều là luật sư, sống trong ngôi nhà trị giá 2 triệu đô ở Connecticutt. Bạn trai: không có bạn trai quanh thời điểm bị giết.
Anh đặt tờ giấy lên bàn, cầm tờ khác lên.
– Elena Ortiz, hai mươi hai tuổi. Người gốc Tây Ban Nha, tóc đen, mắt nâu. Cao một mét sáu, nặng sáu mươi ba cân. Nghề nghiệp: nhân viên bán lẻ tại cửa hàng bán hoa tươi của gia đình ở South End. Nơi ở: căn hộ ở South End. Trình độ học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông. Đã sống cả đời ở Boston. Bạn trai: không có bạn trai tại thời điểm bị sát hại.
Anh ngước lên.
– Hai cô gái sống ở cùng một thành phố nhưng đến từ những trường học khác nhau. Họ đi mua sắm ở những cửa hiệu khác nhau, ăn ở những nhà hàng khác nhau và không có chung bạn bè. Làm sao tên sát nhân tìm ra họ? Hắn tìm thấy họ ở đâu? Họ không chỉ khác nhau mà họ còn là nạn nhân của vụ hành hung tình dục khác biệt. Hầu hết những kẻ săn mồi tấn công những người yếu ớt trong xã hội, như những gái làng chơi hay người vẫy xe đi nhờ. Như bất cứ thú ăn thịt săn mồi nào, bọn chúng thường tấn công con vật ở ngoài rìa của đàn. Vậy tại sao hắn lại chọn hai cô gái đó? – Zucker lắc đầu – Tôi không hiểu.
Rizzoli nhìn những bức ảnh trên bàn và một bức hình của Diana Sterling khiến cô chú ý. Nó cho thấy đó là một cô gái trẻ, rạng ngời, một sinh viên mới tốt nghiệp trường Đại học Smith trong chiếc áo dài và mũ lưỡi trai. Một cô gái điệu đà. Một cô gái điệu đà sẽ như thế nào nhỉ? Rizzoli băn khoăn. Cô không biết. Cô đã lớn lên, là một bà chị khó tính của hai đứa em trai tinh nghịch. Cô là một cô gái tinh nghịch nhỏ bé nhưng tuyệt vọng, chỉ muốn được làm con trai. Chắc chắn Diana Sterling, cô gái với đôi gò má quý phái và chiếc cổ dài như thiên nga chưa bao giờ biết bị nhốt bên ngoài và bị loại trừ sẽ như thế nào. Cô ấy sẽ không bao giờ biết không được mọi người để ý tới là như thế nào.
Ánh mắt của Rizzoli dừng lại trên mặt dây chuyền bằng vàng trên cổ Diana. Cô cầm tấm ảnh lên, nhìn kỹ hơn. Mạch đập mạnh, cô nhìn khắp căn phòng để xem có viên cảnh sát nào để ý thấy chi tiết mà cô vừa phát hiện ra không – bọn họ đều tập trung vào bác sỹ Zucker.
Anh vừa mở bản đồ thành phố Boston. Trên những ô đường thành phố có hai chỗ bị bôi đậm, một chỗ bao quanh Back Bay, một chỗ bao quanh South End.
– Đây là các khu vực hoạt động của hai nạn nhân, những nơi họ thường làm việc và sinh sống. Tất cả chúng ta đều có xu hướng sống những ngày bình thường ở nơi quen thuộc. Có một câu nói được các nhà lập hồ sơ địa lý sử dụng: Nơi chúng ta đi phụ thuộc vào những gì chúng ta biết, và những gì chúng ta biết là nhờ nơi chúng ta đi. Điều này đúng với hai nạ nhân và kẻ sát nhân của chúng ta. Nhìn bản đồ này, các vị có thể thấy hai cô gái sống ở hai nơi tách biệt hoàn toàn. Không có điểm giao nhau. Không có cầu hay điểm nối để họ có thể gặp gỡ nhau khi còn sống. Đây chính là điều khiến tôi băn khoăn nhất. Nó chính là mấu chốt của cuộc điều tra. Sterling và Ortiz có mối liên hệ gì?
Rizzoli lại cúi nhìn bức ảnh, nhìn mặt dây chuyền ở cổ Diana. Mình có thể nhầm lẫn. Mình không thể nói gì cho tới khi mình chắc chắn, nếu không lại có thêm một điều nữa để Darren Crowe tận dụng đem mình ra làm trò cười.
– Anh có biết là trong vụ này còn có một mắt xích nữa không? – Moore hỏi – Đó là bác sỹ Catherine Cordell.
Zucker gật đầu.
– Nạn nhân sống sót ở Savannah.
– Một số chi tiết nhất định về vụ giết Andrew Capra không được tiết lộ cho công chúng. Như việc sử dụng chỉ ruột mèo, việc hắn gấp bộ quần áo ngủ của nạn nhân. Nhưng tên sát nhân của chúng ta ở đây lại gây dựng toàn bộ các chi tiết đó.
– Những tên sát nhân thực sự có liên hệ với nhau. Đó là một loại anh em xa.
– Capra đã chết hai năm. Hắn không thể liên lạc với ai được nữa.
– Nhưng trong lúc còn sống, có thể hắn đã tiết lộ toàn bộ chi tiết độc ác đó cho tên sát nhân của chúng ta. Đó là lời giải thích mà tôi mong đợi, bởi vì nếu lý giải cách khác thì sự việc còn đáng sợ hơn nhiều.
– Rằng tên sát nhân của chúng ta đã đọc được bản báo cáo của cảnh sát Savannah.
Zucker gật đầu.
– Điều đó nghĩa là hắn là ai đó thuộc cơ quan hành pháp.
Căn phòng im lặng. Rizzoli không thể không nhìn các đồng nghiệp xung quanh. Cô nghĩ về loại người bị công việc của cảnh sát lôi cuốn, loại người thích sức mạnh, quyền lực, súng đạn, huy hiệu, và cả cơ hội trấn áp người khác. Đó chính là điều tên sát nhân của chúng ta đang khao khát.
Khi cuộc họp tan, Rizzoli chờ các thám tử khác đã rời phòng họp rồi mới lại gần Zucker.
– Tôi có thể giữ tấm ảnh này không? – Cô hỏi.
– Tôi có thể biết lý do không?
– Một linh cảm.
Zucker cười theo kiểu của John Malkovich khiến cô sởn gai ốc.
– Chia sẻ với tôi được không?
– Tôi không chia sẻ những linh cảm của mình.
– Đó là điềm xấu à?
– Để bảo vệ lãnh địa của tôi.
– Đây là cuộc điều tra của cả nhóm.
– Có những điều thật nực cười khi điều tra theo nhóm. Cứ khi nào tôi nói với họ những linh cảm của tôi thì ai đó lại luôn tin – Cô cầm bức ảnh, ra khỏi phòng và ngay lập tức thấy hối hận vì đã đưa ra lời bình phẩm đó. Nhưng cả ngày nay mấy đồng nghiệp nam, những lời nhận xét nho nhỏ và vẻ khinh rẻ của họ đã khiến cô bực bội. Họ ngày càng tỏ vẻ khinh thường cô. Việc vặt vãnh gần nhất là buổi thẩm vấn người hàng xóm ngay cạnh phòng Elena Ortiz của cô, cùng Darren Crowe. Crowe đã liên tục ngắt lời câu hỏi của Rizzoli để đưa ra câu hỏi của chính anh ta. Khi cô lôi anh ta ra khỏi phòng và đề nghị anh ta cư xử cho đúng mực thì anh ta cự lại bằng lời thóa mạ cổ điển của đàn ông: “Tôi nghĩ chắc cô đang đến kỳ.”
Zucker động viên cô.
– Không cô sẽ giữ linh cảm đó cho riêng mình. Nếu chúng không đúng thì chẳng ai có thể chế giễu cô. Và nếu chúng đơm hoa kết trái thì chắc chắn cô sẽ là người được tin cậy.
Cô quay về khu làm việc của mình, ngồi xuống và nhìn kỹ tấm ảnh chụp lễ tốt nghiệp của Diana. Cô lấy kính lúp, đột nhiên cô chú ý chai nước khoáng mà cô luôn để trên bàn. Cơn tức giận của cô tan biến khi cô tháy chất bẩn gì đó sủi tăm bên trong.
Đừng phản ứng, cô nghĩ. Đừng để họ lấn át!
Cô lờ chai nước và chất bẩn bên trong đi, chiếu kính lúp vào vùng cổ Diana Sterling. Đột nhiên căn phòng có vẻ im lặng một cách kỳ lạ. Dường như cô có thể cảm thấy ánh mắt của Darren Crowe đang chờ cô nổi điên.
Việc đó sẽ không xảy ra đâu, đồ con lừa! Lần này tôi sẽ bình tĩnh.
Cô tập trung vào vòng cổ của Diana. Suýt nữa cô đã bỏ qua chi tiết này vì điều khiến cô chú ý là khuôn mặt của cô gái, từ đôi gò má quý phái đến đường cong mềm mại của lông mày. Giờ cô xem xét kỹ hai mặt dây chuyền. Một mặt có hình ổ khóa, mặt kia có hình một chiếc chìa khóa. Đó là chìa khóa vào trái tim mình, Rizzoli nghĩ.
Cô lật nhanh các hồ sơ trên bàn và thấy các bức ảnh lấy từ hiện trường của vụ Elena Ortiz. Cô dùng kính lúp, nghiên cứu tấm ảnh chụp thân thể nạn nhân ở cự ly gần. Qua lớp máu khô đóng lại trên cổ, cô vẫn nhìn thấy một sợi dây bằng vàng, hai mặt dây chuyền bị mờ đi.
Cô lấy điện thoại, quay số của phòng y tế.
– Bác sỹ Tierney sẽ ra ngoài cả buổi chiều – cô thư ký nói – Tôi có thể giúp gì cho cô?
– Về việc khám nghiệm tử thi của anh ấy vào thứ sáu tuần trước. Vụ của Elena Ortiz.
– Vâng.
– Nạn nhân có đeo trang sức khi cô ấy được đưa đến nhà xác. Cô còn giữ nó không?
– Để tôi xem!
Rizzoli chờ đợi, gõ bút chì lên bàn. Chai nước ở ngay trước mặt nhưng cô quên nó ngay lập tức. Cơn tức giận của cô đã nhường chỗ cho sự thích thú và sự hồ hởi của việc săn tìm.
– Thám tử Rizzoli?
– Tôi đây.
– Các vật dụng tư trang đã được gia đình cô ấy đem đi, bao gồm khuyên tai bằng vàng, vòng cổ và một chiếc nhẫn.
– Ai ký tên lấy chúng?
– Anna Garcia, chị gái của nạn nhân.
– Cảm ơn! – Rizzoli gác máy, nhìn đồng hồ đeo tay. Anna Garcia sống ở tận Danvers. Điều đó có nghĩa là cô sẽ phải đi vào đúng giờ cao điểm…
– Cô biết Frost đâu không? – Moore hỏi.
Rizzoli giật mình khi thấy anh đứng cạnh bàn.
– Không, tôi không biết.
– Anh ấy không có đây à?
– Tôi không kiểm soát anh ấy.
Anh dừng lại, rồi hỏi.
– Cái gì thế?
– Các bức ảnh chụp hiện trường của Ortiz.
– Không, vật trong chai cơ.
Cô nhìn lên và thấy anh cau mày.
– Trông nó giống cái gì? Một miếng băng vệ sinh khốn nạn. Ai đó quanh đây có khướu hài hước thật phức tạp – cô nhìn thẳng Darren Crowe đang cố nín cười và quay đi.
– Tôi sẽ lo vụ này – Moore nói, cầm cái chai lên.
– Này, này! – Cô vặc lại – Khốn kiếp, Moore. Quên chuyện đó đi!
Anh bước vào văn phòng của Trung úy Marquette. Qua lớp cửa kính ngăn cách, cô thấy Moore đặt cái chai có băng vệ xuống bàn của Marquette. Marquette quay lại, nhìn về phía Rizzoli.
Lại thế rồi. Giờ họ sẽ nói là con chó cái không thể chịu nổi trò đùa ác ý.
Cô chộp lấy ví, thu các tấm ảnh và ra khỏi bộ phận điều tra giết người.
Cô ra đến thang máy thì Moore gọi cô.
– Rizzoli?
– Đừng đấu tranh vô ích vì tôi, được chứ? – Cô hét lên.
– Cô không đấu tranh. Cô chỉ ngồi yên đó với cái… cái thứ vớ vẩn đó.
– Băng vệ sinh. Anh có thể nói từ đó to và rõ ràng được không?
– Tại sao cô lại giận tôi? Tôi đang cố đấu tranh cho cô thôi mà.
– Nghe này, vị thánh Thomas, đây chính là cách mọi việc xảy ra ở thế giới thật với phụ nữ. Nếu tôi than phiền thì tôi sẽ bị châm biếm. Một ghi chú sẽ được điền vào bản nhận xét về bản thân tôi. Không hòa đồng với đồng nghiệp nam. Nếu tôi phàn nàn thêm lần nữa thì danh tiếng của tôi chấm hết. Rizzoli kẻ than vãn. Rizzoli kẻ lắm mồm!
– Cô sẽ để bọn họ thắng nếu cô không lên tiếng.
– Tôi đã cố làm theo cách của anh. Nó không có tác dụng. Vì vậy đừng giúp đỡ tôi, được chứ? – Cô vắt túi lên vai, bước vào thang máy.
Khi cánh cửa đóng lại giữa họ, cô muốn rút lại những lời đó. Moore không đáng bị xỉ vả như vậy. Anh luôn là người đàn ông lịch sự, nhã nhặn. Và trong lúc bực tức, cô đã ném biệt danh mà cả bộ phận điều tra các vụ giết người đặt cho anh: thánh Thomas. Anh là một cảnh sát không bao giờ quá trớn, không chửi thề, không mất bình tĩnh.
Và rồi đời tư của anh có những chuyện buồn. Cách đây hai năm, vợ anh, Mary đã suy sụp sau một trận xuất huyết não. Trong suốt sáu tháng, cô đã bám trụ lại trong trạng thái hôn mê tăm tối. Nhưng mãi cho đến ngày cô mất, Moore vẫn không chịu từ bỏ hy vọng là cô sẽ tỉnh lại. Ngay cả bây giờ, đã một năm rưỡi sau khi Mary qua đời, dường như anh vẫn không chấp nhận điều đó. Anh vẫn đeo nhẫn cưới, vẫn để ảnh cô trên bàn làm việc. Rizzoli đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân của cảnh sát đổ vỡ, đã nhìn thấy một phòng trưng bày các bức ảnh thay nhau trên tấm bàn của các bạn đồng nghiệp. Còn trên bàn của Moore, tấm hình của Mary vẫn còn. Nụ cười của cô ấy vẫn còn mãi.
Vị thánh Thomas ư? Rizzoli lắc đầu hoài nghi. Nếu trên thế gian này có những vị thánh thật sự thì chắc chắn họ sẽ không phải là cảnh sát.
Một người muốn ông sống, người kia muốn ông chết và cả hai đều khăng khăng là mình yêu ông hơn. Con trai và con gái Herman Gwadowski ngồi đối diện nhau bên giường cha và không ai chịu đầu hàng.
– Anh không phải là người chịu trách nhiệm chăm sóc bố – Marylin nói – Em nấu cơm cho bố. Em dọn nhà cho bố. Em đưa bố đi khám bệnh hàng tháng. Lần cuối anh gặp bố là khi nào? Lúc nào anh chả có việc hay ho hơn để làm?
– Lạy Chúa, anh sống ở Los Angeles – Ivan cự lại – Anh còn có công việc của mình.
– Lẽ ra anh có thể bay về mỗi năm một lần. Việc đó khó lắm sao?
– Ồ, thì giờ anh đã về đây.
– Được. Ông Nói To đã bổ nhào về đây để tiết kiệm ngày tháng. Trước đây anh không thèm về thăm bố. Nhưng giờ anh muốn mọi thứ được tiến hành.
– Anh không thể tin là em lại để bố ra đi.
– Em không muốn bố chịu đựng thêm nữa.
– Hoặc em chỉ muốn bố đừng có tốn tài khoản trong ngân hàng.
Mỗi thớ cơ trên mặt Marylin căng lên.
– Anh thật khốn nạn!
Catherine không thể nghe tiếp nữa, cô cắt ngang.
– Đây không phải là nơi bàn bạc chuyện đó. Hai anh chị làm ơn ra khỏi phòng!
Hai anh em im lặng, nhìn nhau với ánh mắt nảy lửa như thể ai là người đầu tiên ra khỏi phòng sẽ là kẻ đầu hàng. Rồi Ivan bước ra, dáng đi dọa dẫm trong bộ com-lê thêu hoa. Em gái anh ta là Marylin, mỗi đường nét đều lộ rõ đây là một bà nội trợ ở thành thị rất mệt mỏi. Cô xiết chặt tay bố, rồi theo anh trai ra ngoài.
Ở hành lang, Catherine báo cho họ tin xấu.
– Bố của anh chị đã bị hôn mê sau vụ tai nạn. Thận của ông ấy hoạt động ngày càng kém. Do bệnh tiểu đường lâu năm, chúng đã bị hư hại nhiều và vụ chấn thương khiến mọi thứ tồi tệ hơn.
– Bao nhiêu trong số đó là do ca mổ? – Ivan hỏi – Cô đã tiêm cho bố tôi bao nhiêu thuốc gây mê?
Catherine cố nén cơn giận ngày càng tăng, bình tĩnh nói.
– Ông ấy đã bất tỉnh khi nhập viện. Thuốc mê không phải là nguyên nhân. Chính sự hủy hoại các mô đã gây áp lực cho thận và thận của ông ấy đang dần dần ngừng hoạt động. Thêm vào đó, chúng tôi chẩn đoán ông ấy mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nó đã ăn vào xương. Ngay cả khi ông ấy tỉnh lại thì những vấn đề đó vẫn còn.
– Cô muốn bỏ cuộc phải không? – Ivan hỏi.
– Tôi chỉ muốn anh chị nghĩ lại về tình trạng hôn mê của ông ấy. Nếu tim ông ấy ngừng đập thì chúng tôi sẽ không thể khiến ông ấy tỉnh lại nữa. Chúng tôi chỉ có thể để ông ấy ra đi yên bình.
– Ý cô là chỉ cần để ông chết.
– Đúng vậy.
Ivan khịt mũi.
– Hãy để tôi kể cô nghe về bố tôi. Ông không phải là người bỏ cuộc. Và tôi cũng vậy.
– Vì Chúa, Ivan, đây không phải là vấn đề thắng thua! – Marylin gắt – Mà đây là việc để bố đi khi nào.
– Và cô cũng mong điều đó mau chóng xảy ra đúng không? – Anh ta bực bội, quay lại đối mặt với cô – Khi có dấu hiệu khó khăn đầu tiên, cô em Marylin bé nhỏ đã bỏ cuộc và để bố mình chết. Ồ, bố sẽ không bao giờ bỏ tôi.
Cặp mắt Marylin chứa chan nước mắt.
– Đó không phải là vì bố phải không? Đó là vì anh chỉ muốn chiến thắng thôi phải không?
– Không, đó là để cho bố có cơ hội chiến đấu – Ivan nhìn Catherine – Tôi muốn mọi việc được làm vì bố tôi. Tôi chỉ mong điều đó phải thật rõ ràng.
Marylin lau nước mắt trên mặt khi nhìn anh trai bỏ đi.
– Làm sao anh ấy có thể nói là yêu bố trong khi chẳng bao giờ đến thăm ông? – Cô nhìn Catherine – Tôi không muốn bố tôi tỉnh lại. Cô có thể ghi lại điều đó vào hồ sơ bệnh án không?
Đây là tình thế khó xử về mặt đạo lý mà bác sỹ nào cũng sợ. Mặc dù Catherine đứng về phía Marylin nhưng những lời cuối cùng của anh trai cô có tính đe dọa rõ ràng.
Cô nói.
– Tôi không thể thay đổi mọi việc cho đến khi cô và anh trai cô thống nhất về vấn đề này.
– Anh ấy sẽ không bao giờ đồng ý. Cô đã nghe anh ấy rồi đấy.
– Vậy thì cô phải nói chuyện thêm với anh ấy. Hãy thuyết phục anh ấy!
– Cô sợ anh ấy sẽ kiện cô phải không? Đó là lý do tại sao cô không chịu thay đổi yêu cầu.
– Tôi biết anh ấy tức giận.
Marylin buồn bã gật đầu.
– Đó là cách anh ấy chiến thắng. Anh ấy luôn chiến thắng.
Mình có thể khâu một cơ thể liền lại, Catherine nghĩ. Nhưng mình không thể hàn gắn gia đình đã tan vỡ này.
Nỗi đau và sự xung đột của cuộc gặp mặt đó vẫn bám lấy Catherine khi cô ra khỏi bệnh viện một giờ sau. Đó là chiều thứ sáu và một kỳ nghỉ cuối tuần rảnh rỗi đang chờ cô phía trước. Nhưng khi lái xe ra khỏi bến đỗ của trung tâm y tế, cô không cảm thấy tự do chút nào. Hôm nay thậm chí còn nóng bức hơn hôm qua, nhiệt độ lên tới ba mươi hai độ. Và cô thèm khát sự mát mẻ trong căn hộ của mình, muốn ngồi xuống cùng cốc trà đá rồi bật kênh Khám phá trên ti vi.
Cô đang chờ ở chỗ đường giao nhau để đèn chuyển sang màu xanh thì ánh mắt cô bị thu hút bởi tên phố cắt ngang. Phố Worcester.
Đây là khu phố Elena Ortiz sống. Địa chỉ của nạn nhân đã được nhắc đến trong bài báo trên tờ Quốc tế Boston mà Catherine đã buộc mình phải đọc.
Đèn chuyển màu. Cô bị thôi thúc và lái xe rẽ vào phố Worcester. Trước đây cô chẳng có lý do gì để rẽ vào phố này nhưng có điều gì đó lôi kéo cô về phía đó. Đó chính là mong muốn bệnh hoạn. Cô muốn nhìn thấy chỗ tên sát nhân đã ra tay, muốn nhìn thấy tòa nhà, nơi ác mộng của riêng cô đã biến thành sự thật với một cô gái khác. Tay cô đẫm mồ hôi. Cô cảm thấy mạch mình đập nhanh hơn khi cô nhìn những số nhà bên đường tăng dần.
Khi đến chỗ ở của Elena Ortiz, cô phanh lại.
Dinh thự này chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì gợi cho cô sự sợ hãi và chết chóc. Cô chỉ thấy một tòa nhà ba tầng bằng gạch.
Cô bước ra khỏi xe, nhìn những ô cửa tầng trên. Cửa sổ nào là cửa sổ căn hộ của Elena Ortiz? Cửa sổ có rèm mở chăng? Hay là ô cửa có một rừng chậu cây? Cô đi về phía lối vào, quan sát tên của những người thuê nhà. Có sáu căn hộ, tên người thuê ở căn hộ 2A bỏ trống. Elena đã bị xóa tên, nạn nhân đã bị loại khỏi danh sách những người còn sống. Không ai muốn nhớ về cái chết.
Theo tờ Quốc tế, tên sát nhân đã đột nhập bằng đường thoát hiểm. Quay trở lại vỉa hè, Catherine để ý thấy hàng rào mắt cáo bằng thép ở khu ngõ hẻm của tòa nhà. Cô đi vài bước trong con hẻm tối, rồi đột ngột dừng lại. Tóc gáy cô dựng ngược. Cô quay lại nhìn khu phố và thấy một chiếc xe tải đi qua, một phụ nữ đang chạy bộ, một đôi tình nhân đang vào xe. Chẳng có gì khiến cô cảm thấy bị đe dọa nhưng cô không thể vờ như không có những tiếng kêu im lặng hoảng loạn.
Cô trở lại xe, khóa cửa xe, ngồi bám chặt vô lăng và nói đi nói lại với chính mình.
Chẳng có vấn đề gì cả. Chẳng có vấn đề gì – một luồng khí lạnh phả vào qua bộ phận thông hơi và cô mới thấy mạch mình đập chậm lại một chút. Cuối cùng, cô thở dài và ngả người về sau.
Ánh mắt cô lại hướng về phía căn hộ của Elena Ortiz.
Khi đó, cô mới chú ý một chiếc ô tô đậu trong con hẻm và để ý thấy biển xe đăng ký ở bộ phận hãm phanh phía sau.
POSEY5.
Lập tức, cô lục tung ví, tìm tấm danh thiếp của vị thám tử hôm trước. Tay cô lẩy bẩy bấm số trên máy di động.
Anh nhận điện, trịnh trọng nói.
– Thám tử Moore đây!
– Tôi là Catherine Cordell – Cô nói – Mấy hôm trước anh có đến gặp tôi.
– Vâng. Bác sỹ Cordell?
– Elena Ortiz có lái một chiếc ô tô Honda màu xanh lá cây không?
– Xin lỗi?
– Tôi cần biết biển số đăng ký của cô ấy.
– Tôi xin lỗi, tôi không hiểu.
– Hãy nói cho tôi! – Mệnh lệnh chắc nịch của cô làm anh giật mình. Cô im lặng rất lâu trên điện thoại.
– Để tôi xem – Anh nói. Cô nghe thấy tiếng chuông điện thoại và tiếng nhiều người đàn ông nói chuyện ở đầu kia. Anh trở lại.
– Đó là biển đăng ký ảo… Tôi nghĩ nó có liên quan đến công việc kinh doanh hoa của gia đình.
– POSEY 5 – Cô thầm thì.
Cô dừng lại.
– Đúng thế – Anh nói. Giọng anh đột nhiên trầm xuống và cảnh giác.
– Hôm trước, khi nói chuyện với tôi, anh hỏi tôi có biết Elena Ortiz không.
– Và cô nói là không.
Catherine run rẩy thở hắt ra.
– Tôi nhầm.