Tấn Thảm Kịch Của Tàu Korosko
CHƯƠNG 6
Thế là tàu Korosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự báo động sẽ không được loan ra ở Ouadi-halfa trước khi các nhà chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Belmont mà bọn Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ.
Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc. hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh mới của những sự bực bội.
“Đó là tù trưởng Abderrahman” y nói. “Bây giờ thì tôi sợ rằng khi tới Khartoum chúng ta không còn sống nữa!”
Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn của kinh Coran cho tới chung cuộc của chúng… Lão khởi đầu bằng việc chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động.
“Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?” Cô Adams hỏi, cô là người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. “Ông ta có dáng điệu rất phi phàm”.
“Đó là tên chỉ huy mới” Cochrane đáp.
– Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ?
-“Có thưa cô” anh thông ngôn nói “Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối cao”
– Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Mathews của giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không?
– Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính cô, thì cô cảm thấy thế nào?
-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà ấy đã giao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi nhìn thấy cả hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên trong tờ Boston Herald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ phải viết những bài tường thuật!
-“Ông Stuart đáng thương” Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê sảng đơn điệu của ông mục sư. “Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta có thể làm được điều gì cho ông ấy không”.
“Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy” đại tá Cochrane nói “Ông Belmont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông, nhưng không nhìn thấy ai khác nữa”.
Chúng dẩn bà ấy tới đây”. Belmont kêu lên. “Cám ơn Thượng đế! Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. Norah, chúng đã không làm tổn hại mình chứ, tôi hy vọng…?”
Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà, từ trên lưng lạc đà xuống.
Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo, với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này không có cùng chung một giáo điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an- nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du trên mặt tảng đá hoa cương.
“Các ban khốn khổ! ” người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn “tôi thấy rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil, và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông thấy ông Headingly, cả ông Brown nữa. Và ông Stuart khốn khổ! ông ấy ra thế nào rồi?
“Headingly và Brown không còn biết ưu phiền nữa”, ông chồng bà trả lời. “Norah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!”
-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-halfa.
-Thành phố có được báo động không?” ông đại tá hỏi.
– Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn Ả Rập đã bắn theo trong một lúc lâu.
“Thật vậy à?” Belmont kêu lên “như thế đoàn quân trú phòng phải nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh!
Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành hoài nghi.
“Nếu họ không tới với lực lượng mạnh” ông đáp, ” thì tốt hơn là họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng sẽ kháng cự kịch liệt… “
Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. “…Lạy Chúa tôi!” ông lẩm bẩm nói. “Cái cảnh này rất đáng xem!”
Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất. Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp, có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Juby và những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn, thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc tốt đẹp hơn.
Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm. Belmont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stuart cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà. Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên trời làm thành một vệt trắng.
“Anh thông ngôn!” ông đại tá quát lớn. “Nói với chúng là chúng bỏ quên ông Stuart”.
“Thưa ông vô ích thôi!” Mansoor đáp lại. “Họ nói rằng ông ấy mập quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?”.
Cochrane la lớn:
– Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết khát! ông tù trưởng đâu?…
Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc; những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Belmont tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã giao nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết.
Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về chính trị trên boong tàu Korosko, dưới ánh sáng những ngôi sao Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn. Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau, một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo, không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong điệp khúc ấy những câu:
“Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta,
Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta… “
Ông Stuart đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành này đã ở rất gần ngày trở về rồi… Tiếng hát dần dà thấp giọng xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la của sa mạc.
“Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?” Belmont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá.
Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển.
– Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy kẻ nào đã đánh tôi?
– Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng ngang tầm con lạc đà của Fardet đó.
– Tên thanh niên với bộ ria mép… Với ánh sáng này tôi không phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó lúc ban ngày. Cám ơn Belmont!
– Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông.
– Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể.
– Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy?
Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời.
– Ông bạn Belmont thân mến, sự thật là… Tôi tin chắc rằng việc này sẽ chỉ có hai chúng ta biết… nhất là đừng nhắc lại việc đó với các đàn bà!… Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc nào cũng quí giá với tôi, tôi…
“Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!” anh chàng người Ái Nhĩ Lan kêu lên.
“Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!” ông đại tá nói một cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của ngày hôm sau. “
Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gian mà họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ thấy ở những bộ mặt của họ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.