Thầy thông ngôn

ĐÃ KHÔNG VUI MÀ LẠI MANG XẤU



Cách chẳng bao lâu, thầy có ý coi mấy thầy trong tòa bố thường hay dụm năm dụm ba mà nói to nói nhỏ với nhau, mà hễ thấy thầy lại gần thì họ tản lạc đi chỗ khác, hoặc kiếm chuyện khác mà nói.

          Bữa nọ đúng bảy giờ rưỡi sớm mai, trống hầu trong trại lính nghe ình-ình. Thầy thông Phong mặc một bộ đồ tây trắng, chơn mang giày vàng, cổ thắt cà-ra-hoách rằn, thủng thẳng bước vô Toà bố, hương chức và dân đứng dựa cửa chực hầu, ai thấy thầy cũng vẹt trống đường và chấp tay xá sát rạt. Thầy cứ ngó ngay trước mặt mà đi, dường như đi ngoài đồng trống.

          Khi vô tới bàn thầy thấy trên bàn lính trạm đã để sẵn hai phong thơ. Thầy cầm ngoài bao thì thấy một cái chữ của cha mình viết, còn một cái chữ nghều ngoào như chữ con nít, không biết của ai. Thầy kéo ghế ngồi rồi xé bức thơ của cha mà đọc. Trong thơ ông Hương sư Sắc viết có mấy hàng thăm vợ chồng thầy và nói rằng: Chừng nửa tháng nữa ruộng cấy xong rồi hai ông bà sẽ lên mà thăm cháu nội.

          Thầy đọc rồi liền xé mà quăng trong giỏ rác, rồi mới tới bức thơ thứ nhì mà đọc. Bức thơ nầy tuồng chữ lăng-quăng, nói như vầy:

          Thầy thông ơi!

          Thầy là người có học thức, mà sao thầy tối tăm đến nỗi vợ thầy lấy trai mấy tháng nay mà thầy im-lìm không trừng trị nó vậy? Tôi thấy thầy tôi thương nên viết mấy hàng nầy mà mách cho thầy biết. Vợ thầy nó lấy xã Xà, nếu thầy không tin lời tôi thì bữa nào vợ thầy đi đánh bài ban đêm, thầy rình mà coi thì thầy sẽ thấy rõ.

Một người anh em bạn.

 

          Sớm mai trời mát mẻ, mà thầy đọc thơ rồi mồ hôi nhỏ giọt, cặp mắt chóa loà. Bức  thơ còn trải để trước mắt, hai tay chống trán, thầy ngồi gục mặt xuống bàn. Thôi rồi! Còn gì là giàu sang, tưởng sắc cầm hoà hiệp, vàng đá trăm năm, nào hay đâu vợ chẳng biết kính trọng chồng, mà bây giờ sanh tâm gạt chồng đi ân ái với kẻ khác nữa, làm cho gia đình tan rã, thinh giá[1] nhơ nhuốt, thôi, còn gì nữa mà trông mong, còn gì nữa mà ao ước.

          Thầy nghĩ tới đó gan teo ruột nát, nước mắt chảy dầm dề. Mấy ngày ấy quan Chánh chủ tỉnh mắc đi Sài-gòn, thầy không có việc nên ngồi thong thả một mình mà khóc trót giờ. Có lúc thầy giận muốn xách dao mà giết xã Xù là đứa phá cang thường của thầy, về giết luôn Như Hoa là đàn bà đê tiện không biết giữ tri nh tiết, rồi thầy cắt họng thầy chết theo nữa, cho khỏi vòng áo não.

          Thầy đã tính làm như vậy mà rồi thầy lại nghĩ vợ mình có tánh hỗn ẩu và hay bài bạc, chớ không lẽ đê tiện nỗi đành lòng thất tiết với chồng. Thiên hạ xấu lắm, hay ganh hiền ghét ngõ, có lẽ họ thấy mình làm vịêc có quyền, lại thêm có vợ giàu sang, họ muốn bại mình nên họ gởi thơ nói xấu cho vợ mình đặng phá hoại gia đình sự nghiệp của mình chơi cho đã ghét.

          Thầy nghĩ tới đó thầy đã bớt buồn, nên lấy khăn lau nuớc mắt rồi xếp bức thơ bỏ vào bốp phơi[2]. Thầy bước lại đứng dựa cửa sổ mà ngó ra ngoài lộ. Thầy thấy hương chức họ đi hầu, đương nói đương cười với nhau, chẳng hiểu vì cớ nào mà thầy lại thẹn thầm, nên thầy trở lại bàn mà ngồi, tính lấy giấy tờ công văn ra mà làm. Thầy làm cũng không được, nên khoanh tay dựa ngửa trên ghế mà suy nghĩ. Thầy nghĩ một hồi rồi lấy giấy viết một bức thơ gởi về cho cha mẹ, nói dối rằng thầy đương tính dọn nhà chỗ khác nên khuyên cha mẹ đợi chừng nào thầy dọn nhà xong, thầy cho hay rồi sẽ xuống.

          Chừng tan hầu thầy cứ ngồi ghì đó hoài, chờ mấy thầy đi về hết rồi thầy mới thủng thỉnh đi sau một mình.

          Thầy về thấy vợ còn nằm ngủ trong mùng, còn con thì còn đương nằm giỡn với con vú. Thầy thay đổi quần áo rồi bồng con mà hun và biểu con vô kêu vợ dậy ăn cơm.

          Như Hoa thức dậy rửa mặt lại ngồi bàn ăn cơm, nói chuyện với chồng, la rầy tôi tớ như thường, chẳng thấy có gì lạ. Thầy ngồi ăn mà cứ liếc ngó cô hoài, nhiều lúc thầy muốn lấy bức thơ đưa cho cô xem rồi hỏi cô có sanh tâm làm quấy như vậy hay không, mà rồi thầy không đưa, có ý muốn để thủng thẳng dò lòng cô.

          Lúc uống nước thầy hỏi thình lình như vầy:

–         Nghe nói mấy tháng nay xã Xù đánh bài ăn nhiều lắm,có thiệt như vậy hay không mình há?

          Cô đáp gọn gàng rằng:

–         Không biết…Tôi có đánh với nó một sòng gì đó chớ có đánh thường đâu mà biết.

          Có mấy lời đó mà làm thầy hết nghi bụng cô, tin chắc rằng họ ganh ghét nên họ rơi thơ mà phá gia đạo cang thường của thầy, chớ cô là con nhà giàu sang không lẽ cô quên phẩm giá. Buổi chiều thầy làm việc như thường, không ão não thiết tha như buổi mai nữa. Hễ thầy nhớ tới bức thơ rơi thì thầy không giận vợ, mà thầy lại oán người khiếp nhược nặc danh mà báo hại gia đạo thầy.

          Tối bữa đó ăn cơm rồi cô đốt đèn đọc chuyện.

          Thầy thấy vậy mà hỏi sao cô không đi đánh bài mà chơi. Cô lắc đầu mà đáp:

–         Ba biểu mình chiều thứ bảy về trong nhà đặng coi giấy tờ gì đó không biết.

          Thầy tin như lời, nên trưa thứ bảy đi hầu về ăn cơm rồi thầy thay áo đổi quần rồi rủ cô đi với thầy. Cô lắc đầu đáp rằng:

–         Tôi đi mới về còn đi chi nữa. Mình đi không biết chừng sớm mai tôi qua rồi tôi rước mình về.

          Thầy mượn ghe nhỏ đưa qua Phú-hội. Khi thầy bước lên nhà thì thấy nhà cửa vắng teo, hỏi chúng nó nói ông bà Cai Tổng đi qua Hồng-ngự mà thăm con trai lớn. Thầy lấy làm lạ, chẳng hiểu vì cớ nào cha vợ đã nhắn mình qua mà sao lại bỏ đi Hồng-ngự. Thầy nằm trên ghế xích-đu lúc lắc một hồi, mặt mày buồn so.

          Thầy suy nghĩ hay là vợ nó bày chước gạt mình đi khỏi đặng đêm nay nó thong thả. Thầy nghĩ đến đó mồ hôi nhỏ giọt, chạy ra mé sông muốn đi về liền, ngặt chiếc ghe đưa thầy qua đó đã về rồi, nên thầy trở vô, tính để tối biểu bạn trong nhà đưa thầy về mà rình coi vợ ở nhà làm việc chi cho biết.

          Thầy chấp tay sau đít cứ thơ thẩn đi vô đi ra, nhăn mặt châu mày coi bộ thầy lo lắng bứt-rứt lắm. Chiều bạn trong nhà dọn cơm cho thầy ăn. Thầy bưng chén cơm mà trí thầy lơ lửng, tưởng mấy lời trong bức thơ hôm nọ, làm cho thầy đau lòng ngao ngán, nuốt cơm mà như nuốt đá, nên thầy ăn có nửa chén rồi bỏ đũa đi uống nước.

          Lối bảy giờ rưỡi tối, thầy nói dối với bạn trong nhà rằng, thằng Jean ấm đầu, thầy lo sợ ở chơi không đặng nên biểu bạn chèo ghe đưa thầy về.

          Thầy về tới Châu-đốc, ghe ghé tại cầu tàu cho thầy lên, thầy nghe đồng hồ trong nhà gõ mười hai giờ. Thầy biểu ghe trở về, rồi thầy thủng thẳng lần bước  đi về nhà. Mấy tiệm ở dọc theo đường đã ngủ hết. Ngoài đường cũng chẵng có ai đi, duy có một tên lính mã-tà đương thơ thẩn đi tuần, gặp thầy lật đật xá, và xa xa có mấy đứa nhỏ đương ngồi vây gánh mì mà ăn, còn chú chệc bán mì thì đứmg chống tay lên đòn gánh mà gõ lắc-cắc cụp, lắc-cắc cụp…

          Thầy về tới cửa, đứng lóng tai mà nghe trong nhà im lìm, từ trên tới từng dưới đèn tắt tối mò. Thầy kêu cửa, thì thằng Lung là đứa ở nấu ăn, đốt đèn rồi mở cửa cho thầy vô. Thầy vừa bước vô liền hỏi rằng:

–         Cô mầy ngủ hay là đi đâu?

          Thằng Lung sật sừ đáp rằng:

–         Thưa, hồi tối tôi dọn dẹp rồi đi chơi, đến chín giờ tôi về ngủ liền, không biết cô có ngủ trên lầu hay là cô đi chơi.

          Thầy tuốt lên lầu, dở mùng dòm không thấy vợ, thầy lắc đầu chắc lưỡi, mặt tái tay run, thầy quẹt hộp quẹt đốt đèn rồi kêu con vú thức dậy hỏi cô đi đâu. Con vú mở mắt thấy thầy, liền lồm cồm ngồi dậy đáp rằng:

–         Thưa, cô đi chơi.

–         Đi hồi nào?

–         Đi hồi tám chín giờ gì đó tôi quên.

–         Có ai lại rủ hay tự mình ra đi.

–         Thưa…Đi một mình…Không thấy ai rủ.

          Thầy thấy con vú ú ớ thầy càng nghi, nên châu mày gảy đầu rồi hỏi tiếp rằng:

–         Cô có nói đi chơi nhà nào hay không?

–         Thưa, cô dặn nếu có ai hỏi thì nói cô đi đánh bài dưới nhà Hội đồng Sỉa.

          Thầy đứng suy nghĩ một hồi leo lên võng nằm gác tay qua trán mà đưa. Thầy nằm lim dim, mà ngực tức như đá dằn, ruột nóng tợ lửa đốt. Thầy muốn tin vợ đi đánh bài, và muốn trách mình nghi bậy nên dở mùng leo lên giường mà nằm ngủ. Thầy kéo cái gối mà nằm, lại thấy có một miếng giấy nhỏ xếp bằng ngón tay lăn theo cái gối. Thầy lấy đem lại dựa đèn rồi mở ra mà đọc thì thấy một bức thơ nói như vầy:

          Tình nhân rất yêu mến ôi! qua có việc mắc đi Sài-gòn gần một tuần nay, không giáp mặt với em được thì qua ăn không ngon, nằm không ngủ, bâng khuâng ngơ ngẩn, dường như kẻ không hồn. Nay qua mới về tới đây, vậy xin em liệu thế nào tối thứ bảy nầy ta gặp nhau mà tỏ tình thân ái một đêm cho phỉ lòng mơ ước, nếu được như vậy ngày mai qua chết  đi nữa qua cũng vui lòng.

          Thơ không ký tên, viết có mấy hàng mà thôi, mà cũng đủ chứng rằng trọn một tuần trước Như Hoa không đi đánh bài và bỏ về Phú-hội, ấy là tại tình lang đi khỏi, và đủ chỉ rằng Như Hoa gạt chồng về Phú-hội đặng đêm nay cô thong thả hội diện với tình lang.

          Thương thay, thầy thông Phong đọc bức thơ rồi thì tay chơn run bây bẩy, mặt mày xây bô bổ, thầy nắm miếng giấy chắc cứng mà chạy xuống thang lầu, rồi biểu thằng Lung mở cửa cho thầy đi, mình mặc đồ mát đầu không đội nón.

          Thầy xâm xâm đi riết lại nhà Hội đồng Sỉa, kêu cửa mà kiếm vợ. Đứa ở trong nhà mở cửa. Thầy hỏi trong nhà có đánh bài hay không, nó nói không có, mà thầy hỏi từ hồi tối đến giờ có cô thông lại chơi hay không, nó cũng nói không có. Thầy trở ra ngoài châu mày tức giận, mà nước mắt tuôn dầm dề.

          Thầy đi tuốc lại nhà xã Xù thì thấy trong nhà vắng teo. Thầy nghĩ xã Xù là con nhà giàu, trong nhà có cha mẹ lại có vợ nữa, nên không lẽ dám dắt vợ mình về nhà, chắc là chúng nó hẹn hò với nhau rồi mượn nhà nào đó rồi nói chuyện, mà bây giờ biết nhà nào?

          Thầy bối rối nên đi khắp các nẻo đường, thấy nhà nào mở cửa đốt đèn thầy cũng đứng dòm, nghe tiếng ai nói chuyện thầy cũng lóng mà nghe. Thầy thẩn thơ, thơ thẩn ai gặp cũng lấy làm kỳ. Thầy đi cho đến bốn giờ khuya, trở về nhà hỏi thằng Lung coi vợ đã về hay chưa, nó nói chưa, thầy lại đi nữa.

          Lối năm giờ, trời tuy sáng mà còn mờ mờ, thầy đương đi dọc theo dãy phố mé sông, bỗng thấy xa xa có dạng một người đàn bà đi trước, coi như cô thông mà cách chừng năm ba thước có một người đàn ông đi theo nữa. Thầy bươn bả đi riết theo, lúc gần tới nhà thầy thì người đàn ông đã biến đi đâu mất, chỉ có mình cô thông đương đứng trước nhà kêu cửa mà thôi.

          Cô vừa bước vô cửa, thình lình nghe tiếng có người bước theo sau, cô day lại ngó thấy thầy, cô sửng sốt, mặt tái ngắt, cô hỏi bài hãi rằng:

–         Mình đi đâu đó vậy?

          Thầy giận quá dằn không được, nên xốc tới xô cô vô nhà. Cô té nhằm cái mặt bàn đá nhỏ để gần đó, bàn ngã lăn, mặt đá rớt bể nát.

          Thầy thấy cô té đã không thèm đỡ, mà lại còn xốc tới cho cô một bốp tay mà mắng rằng:

–         Mầy là quân khốn nạn! Đờn bà mà bỏ nhà đi đâu một đêm nay vậy hử? Mầy nói cho tao nghe thử coi.

          Cô nổi giận, không còn sợ nữa, nên trợn mắt ngó thầy mà đáp rằng:

–         Tao muốn đi đâu thì đi, mầy không phép tra hỏi. Tao đi đánh bài tao chơi! Sao mầy dám đánh tao. Tao thua tiền của cha mầy hay sao mà mầy nói?

–         Mầy đánh bài nhà nào?

          Cô quày quả bỏ đi lên lầu, và đi và nói rằng:

–         Mầy muốn làm dữ để rồi mầy coi tao. Mầy tưởng tao màng mầy lắm há?

          Thầy thấy vợ đã quấy mà còn nói cầu cao thì thầy giận run, nên tuốt lên lầu mà hỏi nữa rằng:

–         Mầy đámh bài nhà nào, sao tao hỏi mầy không nói? Mầy nói với con vú mầy đánh bài nhà Hội đồng Sỉa, sao tao lại đó tao kiếm lại không có mầy? Vậy chớ đêm nay mầy ở đâu và hồi nãy thằng nào đưa mầy về đó mầy nói cho tao biết.

–         Mầy không phép tra hỏi tao việc gì hết.  Mầy đã đánh tao rồi, bây giờ tao với mầy không còn vợ chồng gì nữa. Mầy làm thầy thông thầy ký mà mầy ăn ở như quân du côn. Tao là đàn bà, sao mầy dám đánh tao?

          Cô nói mấy lời rồi chun vô mùng mà nằm. Thầy giận cùng trí, hồi nãy quên cách tao nhã của người có học nên xô đánh mà mắng nhiếc vợ, rồi bây giờ cũng quên cách khôn ngoan, không biết lấy lời khéo léo mà thử tình vợ, lại nói cộc cằn rằng:

–         Mầy là gái có chồng mà còn lấy trai, tao đánh nát đầu cũng đáng nữa. Hứ, thứ đồ hư mà còn nói ong óng với ai đó.

          Cô nằm trong mùng giõ miệng ra mà nói rằng:

–         Tao lấy ai mầy phải chỉ ra, chớ mầy nói xấu cho tao thì tao đào nát hết đa, nói cho mà biết.

–         Tao có đủ bằng cớ tao mới nói chớ? Mầy không có lấy thằng xã Xù hay sao nè? Tao bắt được thơ tao còn  nắm trong tay đây, mầy còn chối gì nữa đựơc. Để rồi tao qua Phú-hội tao thưa thằng cha mầy coi.

–         Mầy nói động tới cha tao không được đa. Cha tao hay cha tao bửa đầu mầy đa, nói cho mầy biết! Hứ quân trôi sông lạc chợ mà không biết thân, lại còn nói lớn lối.

          Thầy xốc lại dở mùng muốn bóp họng cho vợ chết đặng đã nư giận. May thầy dằn được, nên thầy nạt một tiếng lớn biểu:

–         Nín!

          Rồi bỏ đi xuống từng dưới. Thầy năm trên ghế xích-đu, tức giận và hổ thẹn hết sức mà nói không ra được, chỉ lấy khăn đậy mặt rồi khóc mà thôi. Thầy nghĩ tới duyên phận chừng nào thầy buồn chừng ấy.

          Cưới được vợ giàu sang, tưởng là có phước lớn, nào đâu hay vợ hỗn hào kêu hãnh, coi chồng như gia dịch, khinh cha mẹ chồng như tá điền, hễ mở miệng ra thì nói giọng ỷ tiền, chớ không có một lời nhơn nghĩa. Mà thói hỗn hào ấy có lẽ chừng khôn lớn nó cải sửa lại được, nên dầu nó hỗn hào mình có thể dung chế cho nó. Bây giờ nó sanh tâm kết ngoại tình với người khác thì mình làm sao mà ở đời với nó được.

          Thầy nghĩ tới đó thì teo gan héo ruột, lửa giận phừng phừng. Thầy muốn lấy dao chạy lên lầu giết phức vợ rồi cắt họng mà chết theo với nó.

          Đương lúc ấy con vú lại bồng thằng Jean ở trong đi ra. Đi gần tới chỗ thầy nằm, thằng Jean thấy thầy nó ngó rồi hả miệng cười tích toác. Thầy thấy con như vậy thì thầy đứt ruột, nghĩ rằng nếu mình giết vợ rồi tự vận chết theo, bỏ con lại cho ai nuôi? Thầy cứ nằm tính tới nghĩ lui hoài, hết giận rồi rầu, hết rầu rồi khóc. Đến trưa, trẻ ở dọn cơm mời ăn, thầy không thèm biểu kêu vợ, một mình ngồi lại bàn ăn, chan canh lùa riết hết một chén cơm rồi thay quần áo mượn ghe đi Phú-hội.

          Thầy qua tới, thì cha mẹ vợ đi Hồng-ngự chưa về. Thầy nằm nhà trước gác tay qua trán, nhắm mắt lim dim mà suy nghĩ. Vì thầy thức sáng đêm mà nghểu nghến ngoài đường mệt mỏi, nên thầy nằm một lát rồi ngủ quên.

          Đến tối hai vợ chồng Cai Tổng Luông về. Thầy giựt mình thức dậy thì nghe có tiếng vợ nói trong buồng. Thầy không biết vợ đã qua tới hồi nào.

          Ông Cai Tổng Luông hỏi sơ thầy ít tiếng rồi nổi đèn mà hút. Thầy bước ra trước sân, tính để một lát rồi sẽ mời đủ cha mẹ vợ ra mà kể tội của vợ cho cha mẹ nó nghe.

          Không biết cô Như Hoa ở trong buồng nói với mẹ những tiếng gì mà cách chẳng bao lâu, bà Cai Tổng bước ra kêu rể mà hỏi rằng:

–         Ba à, vô biểu chút nào. Làm giống gì mà vợ chồng bây rầy rà với nhau vậy hử? Mà có rầy với nhau thì mầy nói tiếng chi mà nói, chớ sao mầy đặt chuyện vợ mầy lấy trai, rồi mầy đánh đập nó và chửi mắng vợ chồng tao? Mầy thệt là quá rồi đa! Tao thấy mầy làm việc dưới Long-xuyên nghèo cực tội nghiệp, tao gả con cho mầy, lại biểu cậu Hội đồng nó xin cho mầy đổi về trên nầy, lo cho mầy đứng bàn quan lớn, sắm nhà của tử tế cho mầy ở, rồi bây giờ mầy trả ơn cho vợ chồng tao đó đa há?

          Thầy thông giận vợ trắc nết, tính vô mét với cha mẹ vợ coi hai ông bà xử lẽ nào. Chẳng dè thầy chưa kịp nói mà lại nghe những lời cay đắng như vậy làm cho thầy phải thối chí buồn lòng, chẳng còn kiêng nể chi nữa hết, nên thầy đem đầu đuôi mọi việc thuật lại rõ ràng cho cha mẹ nghe, nào là thầy được thơ rơi, nào là vợ gạt thầy đi Phú-hội, nào là thầy trở về gặp bức thơ của trai tại giường, nào là cô bỏ nhà đi sáng một đêm, nào là thầy thấy khuya cô về lại có trai đưa cô, đi gần tới cửa. Thầy nói lớn ôm sòm không sợ xấu hổ với tôi tớ ở trong nhà, rồi thầy đọc luôn hai bức thơ cho cha mẹ vợ nghe nữa.

          Bà Cai Tổng để cho thầy nói dứt lời rồi bà mới nói rằng:

–         Mầy không thương con tao mầy muốn nói sao cũng được. Con tao nó có tật đánh bài. Sao từ khi cưới nó về đến nay mầy không rầy nó, để bây giờ nó đi đánh bài nó chơi mầy lại kiếm chuyện mà nói xấu như vậy. Tao biết rồi, vì vợ chồng tao không cho tiền nên mầy giận mầy muốn làm hư danh giá vợ chồng tao, chớ không có chi hết. Mầy có bắt được nó ăn nằm với ai hay không mà mầy dám nói nó đi lấy trai?

          Thầy giận mặt tái mét, liền đáp rằng:

–         Vậy chớ hai bức thơ tôi mới đọc cho má nghe đó không đủ bằng cớ hay sao?

–         Mầy muốn sanh chuyện mầy viết thơ đó, ai biết được.

–         Má nói tức quá! Con má đã thúi-ình[3], mà má không trừng trị nó, má lại còn binh nó nữa chớ!

–         Thôi đừng có má tía gì nữa. Mầy chê con tao hư, mầy không bằng lòng ở đời với nó thì mầy đến toà mà xin để nó đi. Tao không màng gì đâu. Tao nghĩ tao giận quá, không biết ai xúi giục hồi trước tao gả con cho mầy chi vậy, để tao gả nó cho chó còn có nghĩa hơn.

          Thầy nghe chừng nào càng thêm giận chừng nấy, liếc ngó cha vợ, trông coi ông xử lẽ thế nào. Té ra ông cứ nằm làm thuốc mà hút, không thèm nói chi hết.

          Như Hoa ở trong buồng nghe mẹ nói như vậy, cô lại óng tiếng mà nói tiếp rằng:

–         Má đừng có thèm nói với quân khốn khiếp đó nữa mà! Má đuổi nó đi ra khỏi nhà, đừng để nó nói hoài con ghét lắm.

          Thầy nghe nói mấy lời bất nghĩa của vợ càng thêm giận nên nói rằng:

–         Mầy khỏi đuổi mà! Thứ vợ mà nhơ nhuốc như  vậy tao có màng đâu.

          Cô đáp rằng:

–         Tao lại màng mầy lắm sao? Mầy xin để tao đi cho mau. Con mầy đó mầy bắt mà nuôi. Cái giống trôi sông lạc chợ đó tao không thèm nuôi đâu. Mầy để tao rồi coi tao có chồng khác bằng mười mầy hay không mà.

          Ông Cai Tổng thấy con rể óng tiếng nói qua lại hoài, chừng ấy ống mới ngồi dậy mà phân rằng:

–         Thôi hai đứa bây không nên nói nhiều lời. Vợ chồng nếu thương nhau thì phải nhịn nhau, bằng không thương nhau thì thôi, còn rầy rà kiếm chuyện nói xấu nhau mà làm chi.

            Thầy thông nghe cha vợ nói xuôi xị, liệu nói nữa không ích gì nên từ cha mẹ vợ xuống ghe mà về. Vợ chồng ông Cai Tổng không cầm lại ăn cơm, mà cũng không có một lời an-ủi.

 


[1] tiếng tăm và danh giá

[2] (portefeuilles), ví tiền giấy

[3] rất hôi, thúi kinh khủng


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.