Thôi Miên Nhìn Từ Góc Độ Tâm Lý Học

Chương 1. PHẦN MỞ ĐẦU –



I. THUẬT THÔI MIÊN THỜI CỔ ĐẠI

“Thôi miên”, còn gọi là “Thôi hồn đại pháp”, là phương pháp khống chế hành vi, tâm lý… của con người. Trong thời cổ đại, con người cho rằng “linh hồn”, “tâm” là thế lực điều phối hành vi, tâm lý của mình, họ chưa biết rằng trung tâm điều phối ấy chính là đại não, vì thế họ gọi hiện tượng khống chế hành vi, tâm lý của một người lên người khác là “thôi hồn”, là “thôi miên”. Mấy ngàn năm nay, “Thôi miên thuật” tồn tại trong nhân gian bằng diện mạo thần bí, con người biết đến nó phần lớn là thông qua tiểu thuyết, phim ảnh; nó được dùng để trang bị cho những nhân vật bàng môn tả đạo, thần bí, ma quái, vô hình; mang đến cho mọi người cảm giác hoang mang, sợ hãi, cuối cùng bị xem như một loại “yêu thuật”. Chúng tôi cho rằng đã đến lúc nhìn “Thôi miên thuật” trên lập trường của khoa học hiện đại, trả về cho nó những giá trị vốn có.

Lịch sử ứng dụng thuật thôi miên khá dài lâu, vốn có từ thời đại nguyên thuỷ. Nó có mối liên quan mật thiết với tôn giáo, chính trị và y học. Trong thời đại khoa học ngày nay, phạm vi sử dụng của nó ngày càng rộng rãi hơn. Nó chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong tâm lý học cổ kim. Không ít các nhà khoa học trên thế giới đã dày công nghiên cứu thuật thôi miên từ nhiều góc độ khác nhau. Họ sớm khẳng định tính khoa học và giá trị ứng dụng của thuật thôi miên vào y học trị liệu và đời sống hàng ngày, có thể nói “thần mật” của thuật thôi miên đã bị con người khám phá!

Các bộ tiểu thuyết võ hiệp hiện đại thường có những cảnh thế này: Một đại hiệp sĩ đang đánh nhau với yêu quái đã sắp thắng, nhưng yêu quái bỗng lấy ra quả cầu bằng thuỷ tinh chiếu vào mắt hiệp sĩ, hiệp sĩ bị bất ngờ đánh mất tập trung trong giây lát. Chỉ chờ có vậy, yêu quái lập tức niệm chú, hiệp sĩ bị chú thuật ấy thôi miên, bị khống chế.

Vậy thuật thôi miên có thật giống như thế không?

Người nắm được thuật thôi miên có thể khống chế được người khác không?

Chúng ta có nên học thuật thôi miên không?

Muốn trả lời cho các câu hỏi này, chúng ta phải tìm hiểu thế nào là thuật thôi miên. Trong quyển sách này chúng tôi sẽ giải thích thuật thôi miên từ khi ra đời, quá trình phát triển và giá trị tồn tại của nó trong thời đại cổ xưa cũng như thời hiện đại.

Người đọc có thể sẽ hỏi:

– Tôi có thể học thuật thôi miên không?

Chúng tôi khẳng định rằng có thể.

“Nhiếp tâm” là chỉ sự khống chế tâm lý người khác. “Nhiếp tâm thuật” là chỉ cho các phương pháp thôi miên. Từ xưa đến nay người ta dùng thuật thôi miên vào nhiều mục đích khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn là thao túng thân tâm của người khác.

Nói theo nghĩa rộng, từ ngày có nhân loại là đã có thuật thôi miên. Thời cổ đại đã có hai pháp môn thuật thôi miên, đó là chúc do thuật và thuật thôi miên. Ở Trung Quốc, chúc do thuật là một phương pháp thôi miên được sử dụng rộng rãi trong việc trị bệnh. Điều này còn được ghi chép lại trong bộ sách y học nổi tiếng của Trung Quốc là “Hoàng Đế Nội kinh”.

Ở các nước Âu, Mỹ, phương pháp thôi miên thường được gọi là “thuật thôi miên”. Phạm vi ứng dụng của thuật thôi miên cũng vô cùng rộng lớn, nhưng được dùng nhiều nhất là trong tâm lý trị liệu. Đến thế kỷ XIX, thuật thôi miên được gọi chung là “vu thuật”. Có học giả còn cho rằng thuật thôi miên là kỹ thuật thôi miên của người cổ đại, được các dân tộc thiểu số gìn giữ và lưu truyền ra thế giới bên ngoài.

Trong thời cổ đại, chính trị, y học, nông nghiệp v.v… đều liên quan mật thiết đến tôn giáo. Điều này chính là điểm hấp dẫn các nhà nghiên cứu hiện đại. Tại sao tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn như vậy?

Muốn hiểu được điều này chúng ta hãy thử xem một vài hoạt động mê tín ở một số địa phương Trung Quốc.

Đây là hoạt động mê tín của một số dân tộc thiểu số vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu…

Khi gia đình có người chết, người ta lập tức mời vu sư đến cúng tế. Phục trang của vu sư như thần như quỷ, hết sức dị thường. Vu sư mang theo các đồ đệ, ngồi xung quanh linh cữu của người chết niệm thần chú, gõ thanh la, đốt hương, đốt giấy tiền, vàng bạc, v.v… lúc khoảng 10 giờ đêm. Những người xun quanh nhìn, nghe… cũng dường như đều bị hút hồn theo. Đột nhiên trong các đồ đệ của vu sư có người ngã ra bất tỉnh nhưng hai mắt vẫn mở trừng trừng. Có người thì ngậm miệng không nói, có người thì nói năng lung tung, có người lại tự xưng là Thiên cẩu tinh, Thái Bạch kim tinh v.v…

Hoặc nếu không xưng thì vu sư đến trước mặt người đồ đệ ấy hỏi:

– Ngươi là ai?

– Tôi là Diệu Đạo Chân Quân!

– Ngươi đến đây làm gì? Ai bảo ngươi đến? Biết ngài là người tâm thành, kính đạo nên Ngọc Đế sai tôi đến.

– Ta niệm một biến chú hiện hình, xin Chân Quân người hãy hiển linh giải tai giải nạn cho nơi này!

Kế đến vu sư đọc chú, đánh thanh la v.v…

Lúc ấy khoảng 12 giờ đêm. Nghe nói đây là thời gian thần linh linh hiển nhất.

Đọc xong chú, vu sư lại hỏi:

– Người cha bệnh qua đời, con hiếu lo tang sự. Xin hỏi, con cái có thiếu sót gì không?

– Mùng 8 tháng trước, vốn là ngày không được sát sánh, nhưng chúng nó đã cắt cổ một con gà nên đã phạm “huyết quang tinh”. Thần linh bẩm cáo với Ngọc Đế, Ngọc Đế hạ lệnh trị tội. Cha các ngươi vốn có thể sống thêm một năm nữa nhưng vì tội này mà phải chết.

Cũng có khi linh hồn của người cha nhập vào thân của một trong những người thân trong gia đình. Rồi những đứa con thi nhau hỏi cha mình lúc sống đã làm những gì, còn tài sản cất giấu ở nơi nào không v.v…

Đấy có phải quá thần bí không?

Nếu hiểu thực chất của thuật thôi miên thì không khó giải thích các hiện tượng này.

Đầu tiên, khi người thân đã quá mệt mỏi vì tang chế, phải quỳ suốt đêm, lại nghe tiếng thần chú, tiếng thanh la.. tất cả đều bị nhiếp hồn vào cảnh giới của âm thanh huyền bí, của khói hương mờ ảo, người mạnh khỏe thế nào cũng cảm thấy thần trí mơ hồ. Đúng lúc ấy họ bị vu sư thôi miên, đi vào trạng thái thôi miên. Thế là mọi người cứ cho đó là hồn nhập thân.

Trạng thái tinh thần của người bị hồn nhập thân ấy không khác với trạng thái người có bệnh thái tâm lý, nói đúng hơn là một hiện tượng của bệnh thái tâm lý.

Khi có một người nào đó hỏi:

– Cha có biết chuyện năm năm trước con bị ngã từ trên núi xuống không?

Chuyện này chỉ có người cha và người đang hỏi biết. Nhưng vì người đang bị thôi miên kia đang ở trong trạng thái tâm linh cảm ứng rất cao, có thể cảm ứng được những gì người đang hỏi kia nghĩ trong lòng, nên các câu trả lời đều chính xác.

Tuy nhiên, vu sư không hề biết là các hành động, ngôn ngữ cử chỉ của mình trong buổi tế lễ đã vô tình dẫn dắt người xung quanh vào trạng thái thôi miên nên họ cũng tưởng thật mình đã “thần nhân hợp nhất” (thần và người hợp nhất), thật sự có năng lực thông linh.

Ngay chính tác dụng của việc mình làm các vu sư còn không biết thì làm sao những người bình thường có thể đoán biết? Vì thế tất cả đều phó thác cho quỷ thần, lấy quỷ thần ra giải thích.

Cho đến thời Đường, Nguyên thì Chúc do thuật đã trở thành một chuyên khoa thuộc y học. Đời Đường gọi là “Chú cấm”, đời Nguyên gọi là “Chúc do”, về sau được gọi là “chúc do khoa”, là một trong 13 khoa của Trung y, đồng thời có chức danh riêng cho thầy thuốc khoa này, gọi là Chúc do sư.

Từ cuối đời Thanh trở về sau, Chúc do thuật dường như chỉ còn lưu hành trong các hoạt động mê tín của dân gian.

Khoảng nửa đầu thế kỷ XX, Trung y vẫn còn gọi ngành trị liệu tâm lý là “Chúc do”. Nhưng từ đó về sau nữa thì Chúc do thuật bị gọi là vu thuật và hoàn toàn bị phủ nhận. Ngày nay muốn tìm lại giá trị thật của chúc do, của thuật thôi miên không phải là việc dễ vì thật sự có quá ít người hiểu biết về chúng.

Thôi miên thuật của phương Tây, trước thế kỷ XIX cũng bị xem là vu thuật và được giới y học ứng dụng vào trị liệu.

Năm 1841 bác sĩ ngoại khoa người Anh tên là Bleide đã ứng dụng thành công “vu thuật” ấy vào việc trị liệu, và đã đổi tên thành “thuật thôi miên”. Qua nghiên cứu, ông khẳng định rằng không có thế lực quỷ thần nào trong quá trình thôi miên cả. Ông chỉ ra cách thức làm cho người bệnh đi vào trạng thái thôi miên. Ông cho người bệnh nhìn chăm chú vào một vật thể phát quang và chẳng bao lâu sau người ấy quả thật đã bị thôi miên. Ông đã trị bệnh cho họ ngay trong trạng thái bị thôi miên ấy. Đến năm 1943, quyển sách tổng kết thành quả nghiên cứa thuật thôi miên ra đời, tên sách là “Thần kinh thôi miên học”.

Kể từ đó, thuật thôi miên trở thành một chuyên ngành của y học từ châu Âu sang châu Mỹ, Nhật Bản v.v…

Cũng trong thời gian này, một khoa học gia người Liên Xô đã nghiên cứu và giải thích thôi miên theo hệ thống từ góc độ sinh lý. Tư tưởng học thuật này của ông đã trở thành cơ sở lý luận cho thôi miên học ở Đông âu.

II. HIỆN TƯỢNG THÔI MIÊN TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY

Thôi miên không có gì là thần bí cả. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, hiện tượng này diễn ra rất thường xuyên, có thể nói chúng ta đã dùng nó trong trạng thái vô thức. Ví dụ, như muốn làm cho người chú ý, muốn thuyết phục người, muốn buôn bán thuận lợi v.v… chúng ta thường dùng thuật thôi miên. Đây là thuật thôi miên ở khái niệm rộng. Như vậy, thuật thôi miên không chỉ giới hạn trong kỹ thuật thôi miên năm phút như sách vở đã ghi chép, mà nó đa dạng vô cùng, chỉ khác nhau ở trình độ, kỹ thuật mà thôi.

Thôi miên rất đơn giản? Không hẳn như vậy. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thuật thôi miên là dùng một phương pháp để khống chế tâm lý của người khác, sau đó là khống chế luôn cả hành vi. Nó có tính bá đạo, cưỡng bức, có thể làm cho đối phương mất hết tự chủ, rơi vào trạng thái mơ hồ, chỉ biết nghe theo mệnh lệnh người khác mà hành động một cách vô ý thức. Còn thuật thôi miên hiểu theo nghĩa rộng là cách thuyết phục, thu phục lòng người của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Cũng có thể hiểu nó như một lực hút, một lực hấp dẫn giữa người với người vậy. Một quyển sách hay, một bộ phim làm cảm động lòng người, có thể khiến cho người xem lúc vui, lúc buồn, theo tình tiết câu chuyện thì bản thân nó đã có thuật thôi miên. Hoặc với các đoạn phim quảng cáo, người làm phim luôn tận dụng mọi kỹ xảo để hấp dẫn người xem. Không ít người sau khi nghe quảng cáo đã không ngần ngại mua ngay sản phẩm ấy, nhưng khi mang về nhà thì mới nhận ra là mình không cần nó.

Tôi còn nhớ khi giảng về “thuật thôi miên” (thuật thôi miên đôi mắt) tại học viện y ở Bắc Kinh, có một đồng nghiệp đã hỏi tôi: “Tôi đã yêu thầm một cô sinh viên cuối khóa, nhưng chưa từng nói chuyện gì với nhau, làm sao để cô ấy chú ý đến tôi đây?”. Tôi đã trả lời anh ấy rằng: “Nếu anh viết thư, chưa chắc cô ấy nhận, vì hai người chưa quen biết nhau, các cô gái lại hay e thẹn sẽ không nhận cách tiếp cận này. Tốt nhất là dùng nghệ thuật ám thị. Đầu tiên anh nên tìm hiểu về tên tuổi, gia cảnh, nơi ở của cô ấy rồi rủ một người bạn đi cùng, đến làm quen cô ấy, dĩ nhiên là với một lý do khéo léo nào đó mà cô ấy có thể thấp nhận được. Ví dụ cô ấy giỏi đánh cầu lông, anh nên lấy lý do đó mời cô ấy đánh cầu chung. Dù cô ấy có đồng ý hay từ chối thì anh cũng đã thành công, vì anh đã để lại một ấn tượng nào đó trong lòng cô ấy. Sau đó vài hôm, anh lại đến tìm, như hỏi cô ấy về cách đánh cầu lông, v.v… Đấy là phương pháp dùng thuật thôi miên theo nghĩa rộng.

Thế còn theo nghĩa hẹp thì sao? Có một người quen kể cho tôi nghe câu chuyện. Anh ấy làm biên tập viên tho một nhà xuất bản. Lần nọ, anh ấy gặp một nhà khí công, hai người cùng nhau đến nhà hàng ăn cơm. Người phục vụ mang đũa bát sạch đến, thức ăn mang ra sau. Khi ấy, có một nữ phục vụ khác đi thu gom bát đĩa dơ. Cô ta cứ gom, gom từ bàn này qua bàn khác, gom đến bàn của anh ấy, chuẩn bị lấy đi bát đũa sạch vừa được dọn ra. Nhà khí công mỉm cười nói: “Cô làm sao thế? Chúng tôi vẫn chưa dùng bữa đấy!”. Nữ phục vụ giật mình, nói: “Thành thật xin lỗi!”, nhưng một lúc sau, khi cô ta thu dọn bát đĩa ở nơi khác thì lại tiếp tục đến bàn của anh ấy, định gom bát ra như lần trước. Nhà khí công bèn lớn tiếng quát: “Chẳng phải đã bảo cô rồi sao, chúng tôi vẫn chưa dùng bữa!”. Nữ phục vụ lại giật mình, xin lỗi. Đây là trường hợp hiếm hoi, chưa từng xảy ra trước đó. Khi anh bạn tìm hiểu thì mới biết nhà khí công kia đã dùng thuật thôi miên với cô ấy. Có thể thấy, thuật thôi miên có sức cương bách mạnh vô cùng. Nếu dùng nó để thực hiện tội ác thì quả rất đáng sợ. Gần đây có hiện tượng dùng thuật thôi miên để gạt lấy của cải của người lương thiện. Ví dụ có một người phụ nữ 55 tuổi đang đứng đón xe buýt, một phụ nữ khác tầm 35 tuổi đến nói nhỏ với bà ta rằng: “Tôi có thuốc trị ung thư rất hiệu nghiệm, chị có cần không?”. Người phụ nữ lớn tuổi đáp: “Không cần!”, nhưng ngay lúc đó, có một người đàn ông khoảng 40 đi ngang, vỗ vai người phụ nữ 55 tuổi kia, nói: “Mua đi!”, thế là người phụ nữ ấy dốc hết tiền trong túi ra mua lọ thuốc chống ung thư giả ấy. Khi về đến nhà, người phụ nữ này mới biết là mình đã bị lừa.

Đấy chính là mặt nguy hại của thuật thôi miên.

Từ xưa đến nay, thuật thôi miên được quy vào phạm trù mê tín, và nó cũng được dùng rất nhiều trong lĩnh vực này. Sau thập niên 80 của thế kỷ XX lại xuất hiện một loại mê tín khác, gọi là “mê tín hiện đại”, như “truy cầu ngoại khí”, “tiên nhân trị bệnh”, “tiếp nhận tin tức của người ngoài hành tinh” v.v… Những điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến y học và đời sống của con người hiện đại.

III. PHƯƠNG PHÁP NẮM VỮNG THUẬT THÔI MIÊN

Nói “nhiếp tâm thuật” có lẽ nhiều người không biết, nhưng nếu nói “thuật thôi miên” thì nhiều người có lẽ đã nghe qua. Gần đây có những công trình nghiên cứu về “chúc do thuật”, “ý niệm thuật”, “tư duy truyền cảm thuật” (tâm linh cảm ứng thuật) v.v…, nhưng các thuật ấy không phổ biến bằng thuật ám thị. Trong cuộc sống hàng ngày, hoặc cố ý, hoặc vô ý, chúng ta thường dùng đến thuật ám thị, chẳng qua là chưa hệ thống lại và nâng cấp về mặt lý luận mà thôi.

Ám thị thuật và thuật thôi miên có mối quan hệ mật thiết với nhau, có người còn cho rằng chúng có cùng phương pháp, bởi thuật thôi miên từ đầu đến cuối đều dùng thuật ám thị, vì thế họ cho rằng “ám thị là mẹ của thuật thôi miên”. Người quan niệm như thế là đã bỏ sót một yếu tố rất quan trọng: tuy thuật thôi miên dùng ám thị nhưng với mục đích là đưa đối phương nhập vào trạng thái thôi miên, sau đó trong trạng thái thôi miên lại dùng thuật ám thị thao túng hành vi, tâm lý của đối phương, hoàn thành cả quá trình trong trạng thái thôi miên. Còn thuật ám thị chủ yếu khống chế người trong trạng thái người ấy hoàn toàn sáng suốt, chỉ dùng ám thị để truyền đạt ý muốn của mình, làm cho người khác bất giác thi hành theo ý mình muốn, không cần thiết phải đưa đối phương vào trạng thái mơ hồ như thuật thôi miên. Đấy chính là điểm khác nhau giữa ám thị thuật và thuật thôi miên.

Ám thị thuật là cơ sở, là nền tảng của thuật thôi miên. Trong cuộc sống, con người thường dùng thuật ám thị với người khác và bị người khác ám thị. Nếu người nào cao tay ám thị hơn thì sẽ có nhiều biện pháp thu phục người khác hơn, mối quan hệ xã hội của họ cũng tốt hơn. Người lãnh đạo nếu biết sử dụng thuật ám thị thì hiệu quả của mình cũng được nâng cao hơn.

Trong trạng thái sáng suốt, năng lực nhận thức của con người rất lớn nên cần phải có thủ thuật ám thị cao minh mới khiến người khác làm theo ý mình, bất tri bất giác rơi vào trạng thái thôi miên.

Trong trạng thái thôi miên, nhận thức của con người dần dần yếu đi. Học thuật thôi miên khó là cách dùng thuật ám thị này.

“Chúc do thuật” cũng đặt nền tảng trên thuật ám thị. Nhưng chúc do thuật dùng mê tín quỷ thần để ám thị người. Có lúc chúc do thuật khiến cho con người nhập vào trạng thái hoang mang, sau đó tiếp tục dùng thuật ám thị để khống chế. Có lúc dùng thần chú để ám thị. Cho dù phương pháp nào thì chúc do thuật cũng phải dùng đến ám thị.

“Ý niệm thuật” dường như không liên quan gì đến thuật ám thị, nhưng kỳ thực nó cũng dùng đến thuật ám thị. Khi tiến hành ý niệm thuật, lúc mới bắt đầu không dùng thuật ám thị thì có thể dùng ý niệm trực tiếp tác động lên đối phương, làm cho đối phương rơi vào trạng thái hoang mang, tinh thần bất định, sau đó dùng tâm linh truyền cảm chỉ thị cho đối phương. Nhưng muốn cho đối phương tiếp tục làm theo sự sắp đặt của mình thì phải dùng đến thuật ám thị.

Khí công đạo dẫn thuật lưu hành trong nhân gian với hai hình thức. Một là hoàn toàn dùng hành vi để ám thị, ngoại khí căn bản không tồn tại. Hai là dùng ngoại khí để truyền đạt tin tức đến đối phương. Hai hình thức này luôn đối kháng với nhau, không có con đường nào hòa hợp.

Muốn nắm vững thuật thôi miên thì phải có can đảm thực hành, thành công hay thất bại đều là những kinh nghiệm tốt. Trước tiên phải hiểu rõ cách làm việc và cách nói chuyện của mình, sau đó lồng nghệ thuật ám thị vào trong đó. Phải chú ý, ám thị không phải là dùng lời nói để ra lệnh mà là khiến cho đối phương nghe theo mình mà không hề nhận ra điều đó. Khi trình độ ám thị cao thì mới biết được thế nào là bản chất thực sự của thuật thôi miên.

IV. NGHIÊM TÚC HỌC TẬP, NĂM VỮNG MỨC ĐỘ

Học thuật thôi miên không được nuôi ý tưởng học để lợi mình hại người. Đây là điều tiên quyết!

Khi người bị ám thị đánh mất khả năng tự khống chế, muốn họ dốc hết tiền bạc của cải ra, họ cũng làm, sau đó còn có thể xóa sạch đoạn ký ức ấy của họ, do đó dùng thuật thôi miên để phạm tội là khả năng có thể xảy ra. Đấy không phải là mục đích của thuật thôi miên.

Học thuật thôi miên là để điều chỉnh cho người những nhận thức, những cách nhìn không đúng đắn về sự vật, hiện tượng, giúp điều trị những chứng bệnh về thần kinh, về tâm lý. Với mục đích học trong sáng thì thuật thôi miên là một môn học vô cùng cần thiết cho mọi người, có lợi cho xã hội. Còn nếu bạn học thuật thôi miên để lợi mình hại người thì thật đáng tiếc cho cuộc đời của bạn, vì chính bạn đang tự đào hố chôn mình.

Chị A là người kinh doanh, không ngại tốn nhiều tiền để học vài “chiêu” thôi miên, nghĩ rằng sẽ áp dụng vào việc buôn bán của mình, có thể mua giá thấp, bán giá cao v.v… kết quả là sau khi học xong, không thực hành được gì cả. Nguyên nhân là do chị A đã xem nhẹ việc thôi miên một con người. Khi hai bên thảo luận giá cả, con người ở trạng thái bị kích động mạnh, rất khó thôi miên được.

Sinh viên thường có mơ ước học được thuật thôi miên. Nếu học thuật thôi miên với mục đích chân chính thì rất có lợi cho việc học và sinh hoạt của họ. Nhưng cũng đáng buồn cười là một số sinh viên học thuật thôi miên chỉ để… có được người yêu trong mộng mà thôi!

Có người hỏi: “Có thể dùng thuật thôi miên để khiến người làm việc cho mình không?” Tôi đáp: “Nếu vì lợi mình hại người, phản lại quy luật sống, trái với quy tắc hành vi, quy luật bình thường thì sẽ bị phê phán, lên án, có khi còn bị truy cứu hình sự nữa!. Tuy nhiên trong một vài tình huống đặc biệt nào đó, như phải khống chế các nhân viên quá khích, điều tra tội phạm… thì có thể dùng thuật thôi miên để thu phục họ.

Khi dùng thuật thôi miên, đối tượng có thể làm theo lời sai khiến của nhà thôi miên (người thực hiện việc thuật thôi miên), nhưng chúng ta có thể sử dụng nó vào những việc lớn như ký kết hợp đồng kinh doanh có được không? Vấn đề này rất phức tạp, chúng tôi cho rằng nếu thuyết phục đối phương hợp tác để hai bên cùng có lợi thì có thể, nhưng nếu chỉ nghĩ đến mình thì không nên. Mặt khác, nếu hợp đồng của bạn làm tổn hại lợi ích đối phương quá lớn thì đối phương bị kích thích mạnh, khó làm cho họ rơi vào trạng thái mơ hồ được; mà nếu làm được, khi đối phương trở lại trạng thái bình thường cũng sẽ hiểu hết mọi việc, liệu bạn còn có thể đứng chân trên thị trường nữa không?

Chọn lựa điều kiện để thực hành thuật thôi miên rất quan trọng. Điều kiện quyết định bạn có thể đưa đối phương dần dần rơi vào trạng thái mơ hồ hay không?

Anh B muốn thay đổi việc làm vì phát hiện công việc hiện tại không thích hợp với mình, anh muốn làm thợ điện và đã có trình độ thích hợp với công việc này, nhưng anh không thể thuyết phục lãnh đạo cho anh thay đổi công tác. Sau đó, anh đến bệnh viện để xin giấy chứng nhận sức khỏe của anh không phù hợp với công việc hiện tại. Bác sĩ dĩ nhiên không đồng ý, nhưng cũng gợi ý cho anh:

– Công ty của anh hiện nay có phân xưởng điện không?

– Có hiện đang thiếu người.

– Quản lý phân xưởng điện có đồng ý cho anh gia nhập không?

– Đồng ý. Ông ấy rất thân với tôi.

– Vậy thì anh hãy về nói với quản lý phân xưởng điện làm một bản báo cáo gửi lên lãnh đạo xin thêm thợ điện. Khi nhận được đơn yêu cầu, lãnh đạo chắc chắn sẽ nghĩ ngay đến anh.

Anh ta về làm theo lời khuyên của vị bác sĩ nọ, quả nhiên chỉ vài ngày sau là đã được chuyển công tác. Ví dụ này thể hiện rõ ràng rằng, thuật thôi miên trên căn bản là sử dụng thuật ám thị, còn thuật thôi miên chân chính là để đối phương rơi vào trạng thái mơ hồ, nghe theo bất kỳ lời sai khiến nào của nhà thôi miên.

Chúng ta không thể tùy tiện dùng thuật thôi miên với người khác, bởi nó không có lợi cho cả ta lẫn người vì cả hai đều bị tổn hao tinh lực. Tinh lực mỗi người đều có hạn, vì thế dù là một nhà thôi miên cũng phải hạn chế tần số sử dụng thuật thôi miên.

Nếu so sánh đối tượng bị dùng thuật thôi miên thì người nữ dễ rơi vào trạng thái mơ hồ hơn nam giới. Người trẻ dễ bị thôi miên hơn người già, người trình độ văn hóa thấp dễ rơi vào trạng thái mơ hồ hơn người trí thức… Cá tính của từng người cũng tác động lên quá trình thôi miên. Về việc phân loại cá tính của người, hiện nay vẫn không có hệ thống, không có tiêu chuẩn nào rõ ràng. Khoa học hiện đại phát hiện trong cơ thể người có những vi lượng hóa học điều tiết sự xung đột của tinh thần. Một loại là huyết thanh tố, một loại là thượng thận tố. Nếu cả hai hoạt động không bình thường, mất cân đối sẽ làm cho tâm tính con người trở nên bất thường, dễ buồn vui nóng giận vô cớ. Điều này cũng giải thích tại sao tính tình của mỗi người mỗi khác, người có huyết thanh tố nhiều, khứ giáp thận thượng tuyền tố ít thì tính tình dễ bị kích động. Còn huyết thanh tố ít, khứ giáp thận thượng tuyền tố nhiều thì tính tình sẽ ngược lại. Vì thế trước khi tiến hành thuật thôi miên thì phải nói chuyện, tiếp xúc đối phương để tìm hiểu tính cách của họ để quyết định nên thực hiện thôi miên ở mức độ nào.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.