7 Thói Quen Để Thành Đạt
Thói quen thứ hai: BẮT ĐẦU TỪ MỤC TIÊU ĐÃ ĐƯỢC XÁC ĐỊNH
Các nguyên tắc lãnh đạo bản thân
“Những gì lùi lại phía sau, những gì còn ở phía trước đều chẳng là gì so với cái nằm bên trong chính bản thân mỗi người.”
– Oliver Wendell Holmes
Bây giờ, bạn hãy tìm một chỗ yên tĩnh và tập trung vào những trang tiếp theo để thực sự mở ra cánh cửa của sự thay đổi bên trong tâm hồn mình.
Bằng trí tưởng tượng, hãy hình dung bạn đang dự đám tang một người thân. Hình dung bạn lái xe đến nhà tang lễ hay nhà thờ, rồi đưa xe vào bãi đỗ, xuống xe. Khi bạn bước vào bên trong tòa nhà, bạn để ý thấy các vòng hoa, và nghe tiếng nhạc cầu hồn thâm trầm. Bạn nhận ra những gương mặt quen thuộc, bạn bè và gia đình… Bạn cảm nhận được sự chia sẻ, cảm thông từ những người hiện diện xung quanh bạn.
Khi tiến lên và nhìn vào quan tài, bạn thình lình đối mặt với chính mình. Đây sẽ là lễ tang của chính bạn sau vài chục năm nữa. Tất cả những người này đến đây để viếng bạn, để bày tỏ tình cảm yêu thương và sự cảm kích về sự cống hiến của bạn.
Khi ngồi vào băng ghế chờ buổi lễ bắt đầu, bạn đọc tờ chương trình trong tay. Sẽ có bốn người đọc điếu văn. Đầu tiên là một người trong gia đình bạn. Người thứ hai là một người bạn – anh ta hiểu rất rõ về bạn. Người thứ ba là một đồng nghiệp của bạn. Và người thứ tư là một vị linh mục – đại diện cộng đồng nơi bạn sinh sống. Bạn muốn những người đọc điếu văn này nói gì về con người và cuộc đời bạn?
Bạn muốn họ mô tả bạn là một người chồng/vợ, một người cha/mẹ, một đứa con, một người bạn, hay một đồng nghiệp như thế nào?
Bạn muốn họ thấy được tính cách gì ở con người bạn? Hay bạn muốn họ ghi nhớ sự cống hiến hoặc thành tích nào đó của bạn? Hãy nhìn những người xung quanh bạn và tự hỏi bạn đã làm được gì để trở thành một tấm gương sáng trong lòng họ?
Trước khi đọc tiếp, hãy dành vài phút để ghi chép cảm tưởng của bạn. Việc này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn Thói quen thứ hai.
1. “BẮT ĐẦU TỪ MỤC TIÊU ĐÃ ĐƯỢC XÁC ĐỊNH”
CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Nếu tham gia một cách nghiêm túc vào thí nghiệm trên, sẽ có những khoảnh khắc bạn chạm đến những giá trị cơ bản, sâu xa trong tâm hồn mình. Bạn sẽ có cuộc tiếp xúc ngắn với hệ thống hướng dẫn nội tâm ngay tại trung tâm Vòng tròn Ảnh hưởng của bạn.
Hãy ngẫm nghĩ những lời sau đây của Joseph Addison:
“Khi nhìn vào bia mộ của những con người vĩ đại, mọi cảm giác ghen tỵ trong tôi biến mất. Khi đọc văn bia ghi lại những lời hay ý đẹp, mọi dục vọng tầm thường trong tôi tiêu tan. Khi chứng kiến nỗi đau buồn khôn xiết của những bậc cha mẹ bên nấm mồ, tôi quặn lòng thương cảm. Khi đứng trước nấm mồ của cha mẹ, tôi nghĩ đến hư danh của những kẻ mà chúng ta buộc phải tuân lệnh: các bậc vua chúa. Họ nằm bên cạnh những kẻ đã hạ bệ họ – những kẻ kình địch lại sát vai nhau khi lìa đời. Trước những anh hùng hào kiệt đã phân chia thế giới bằng các cuộc tranh chấp đổ máu, tôi suy ngẫm trong đau buồn và ngạc nhiên trước toan tính nhỏ nhặt của loài người. Khi đọc những ngày tháng ghi trên bia mộ, trong đó có một số người vừa chết vào ngày hôm qua, và một số đã chết cách đây 600 năm, tôi nghĩ đến cái ngày trọng đại khi tất cả chúng ta đều là những người đương thời, và cùng nhau hiện diện…”
Mặc dù Thói quen thứ hai áp dụng trong nhiều hoàn cảnh và cung bậc cuộc sống khác nhau, nhưng ứng dụng cơ bản nhất của nó là bắt đầu ngay từ ngày hôm nay bằng những mục tiêu đã được xác định. Lấy hình tượng, hình ảnh hay mô thức cuối đời bạn làm khung tham chiếu hay chuẩn mực để xem xét mọi thứ khác. Mỗi chặng đường đời – hành vi của bạn ngày hôm nay, trong tương lai, tuần sau, tháng sau – sẽ được xem xét trong bối cảnh tổng thể bao gồm những điều có ý nghĩa nhất đối với bạn. Bằng cách ghi nhớ những mục tiêu đó, bạn mới có thể tin chắc vào những gì bạn làm, vào một ngày cụ thể nào đó, sẽ không vi phạm các chuẩn mực mà mình đã xác định là quan trọng nhất. Và mỗi một ngày bạn sống sẽ góp phần tích cực cho mục tiêu mà bạn đã xác định trong suốt cuộc đời mình.
Bắt đầu từ mục tiêu đã được xác định có nghĩa là xuất phát bằng một sự hiểu biết rõ ràng về đích đến của bạn. Điều đó có nghĩa là bạn biết nơi mình muốn đến, do đó bạn sẽ hiểu rõ hiện tại mình đang ở đâu để luôn đi đúng hướng.
Con người thật dễ sa vào những chiếc bẫy của đời thường, của cuộc mưu sinh hàng ngày. Họ lao vào làm việc ngày một nhiều hơn nhằm leo lên bậc cao nhất của chiếc thang danh vọng, để rồi phát hiện ra rằng chiếc thang bắc nhầm bức tường. Mọi người đều bận rộn, thậm chí rất bận rộn với cuộc sống nhưng sự bận rộn đó nhiều khi không mang lại hiệu quả. Cuối cùng, họ phát hiện ra rằng họ đã giành được những thắng lợi rỗng tuếch. Thành công đạt được bằng cái giá của những thứ còn quý giá hơn chính sự thành công. Những con người thuộc mọi tầng lớp xã hội – bác sĩ, viện sĩ, diễn viên, chính trị, doanh nhân, vận động viên, thợ ống nước… – thường phấn đấu để có được thu nhập nhiều hơn, địa vị xã hội cao hơn, hay trình độ chuyên môn tốt hơn. Nhưng rồi họ lại phát hiện ra rằng động cơ thúc đẩy họ đạt được mục tiêu đã che khuất những gì thực sự có ý nghĩa với họ.
Cuộc sống của chúng ta sẽ khác đi nếu chúng ta nhận thức được điều gì thực sự quan trọng và giữ những hình ảnh đó trong tâm trí. Chúng ta sẽ làm chủ được bản thân và làm những điều có ý nghĩa nhất. Chúng ta có thể rất bận rộn, làm việc rất tốt nhưng chỉ có hiệu quả khi chúng ta bắt đầu bằng một mục tiêu rõ ràng.
Nếu cân nhắc kỹ những điều bạn muốn nghe người khác đánh giá về mình, bạn sẽ tìm ra định nghĩa của sự thành công. Định nghĩa đó có thể rất khác với định nghĩa bạn đang nghĩ trong đầu, có thể không phải là tiền tài, địa vị, danh tiếng hay bất cứ thứ gì mà bạn phấn đấu để đạt cho bằng được.
Khi bắt đầu một cách có mục đích, bạn sẽ có một viễn cảnh khác biệt. Một người đã hỏi một người khác khi người bạn chung của họ mất đi: “Anh ấy có để lại gì nhiều không?”. Người kia đáp: “Anh ấy để lại tất cả”.
2. MỌI SỰ VẬT ĐỀU ĐƯỢC SÁNG TẠO HAI LẦN
Thói quen bắt đầu từ mục tiêu đã được xác định được dựa trên nguyên lý mọi sự vật đều được sáng tạo hai lần. Sáng tạo lần thứ nhất là sáng tạo tinh thần, và sáng tạo lần thứ hai là sáng tạo vật chất.
Hãy lấy việc xây một ngôi nhà làm ví dụ. Bạn đã sáng tạo nó bằng hình ảnh trong đầu đến từng chi tiết trước khi hạ búa đóng chiếc đinh đầu tiên lên công trình. Bạn cố gắng hình dung một cách rõ ràng kiểu dáng ngôi nhà. Nếu muốn có một ngôi nhà mà cả gia đình có thể sum họp, bạn vạch ra kế hoạch xây một căn phòng nơi mọi người có thể quây quần vui vẻ bên nhau. Hoặc muốn tạo không gian mở cho phòng chơi của bọn trẻ, bạn sẽ mở một cánh cửa lùa… Bạn dự định điều đó bằng ý tưởng cho đến khi có được một bức tranh rõ ràng về ngôi nhà bạn muốn.
Rồi bạn thể hiện ý tưởng đó trên bản vẽ và lên kế hoạch thi công. Tất cả điều này được thực hiện trước khi việc động thổ bắt đầu. Nếu không làm như vậy thì ở lần sáng tạo thứ hai, tức là sự sáng tạo vật chất, bạn sẽ phải có nhiều thay đổi tốn kém, có thể khiến chi phí tăng gấp đôi.
Quy tắc của thợ mộc là “hai lần đo, một lần cắt”, nghĩa là bạn phải suy nghĩ kỹ mọi thứ trước khi hành động. Bạn phải chắc chắn rằng bản thiết kế, tức sự sáng tạo đầu tiên, phải thực sự đúng với cái bạn muốn có, sau đó mới sử dụng đến gạch và vữa. Nghĩa là bạn bắt đầu công việc bằng một mục đích đã xác định rõ ràng.
Hãy xem một ví dụ khác trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu muốn thành công, bạn phải xác định rõ ràng mục tiêu kinh doanh của mình. Bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng về sản phẩm hay dịch vụ mà bạn muốn đưa vào thị trường, rồi tổ chức các hoạt động có liên quan như tài chính, nghiên cứu và phát triển, sản xuất, tiếp thị, nhân sự, cơ sở vật chất v.v. Kế hoạch, mục tiêu ban đầu thường quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Phần lớn các thất bại trong kinh doanh đều khởi phát từ sự sáng tạo đầu tiên: thiếu vốn, đánh giá sai thị trường hay không có một kế hoạch kinh doanh khả thi.
Làm cha làm mẹ cũng vậy, nếu muốn nuôi dạy con cái thành người có trách nhiệm, có kỷ luật và tự giác, bạn phải bám sát mục đích đó khi tiếp xúc hàng ngày với con cái. Bạn không được xâm phạm tính tự giác hay lòng tự trọng của chúng.
Người ta thường sử dụng nguyên tắc sáng tạo hai lần trong nhiều lĩnh vực và ở nhiều mức độ khác nhau của cuộc sống. Trước khi thực hiện một cuộc hành trình, bạn cần xác định trước đích đến và vạch ra một lộ trình tốt nhất. Trước khi trồng cây trong vườn, bạn đã có kế hoạch trước trong đầu, có thể trên giấy. Bạn viết bài diễn văn ra giấy trước khi đọc. Bạn hình dung trước cảnh bài trí khuôn viên ngôi nhà trước khi trang trí nó, bạn thiết kế mẫu thời trang của mình trước khi cắt may.
Do đó, tùy mức độ hiểu rõ nguyên tắc sáng tạo hai lần và nhận trách nhiệm cho cả hai lần sáng tạo mà chúng ta hành động và mở rộng Vòng tròn Ảnh hưởng của mình.
3. DỰ KIẾN HAY MẶC NHIÊN
Theo nguyên tắc, tất cả mọi sự vật đều được sáng tạo hai lần, nhưng không phải mọi sáng tạo đầu tiên đều dựa trên dự kiến. Trong cuộc sống cá nhân, nếu không phát triển sự tự nhận thức của mình và có trách nhiệm đối với những sáng tạo đầu tiên, thì chúng ta sẽ phó mặc cho người khác và hoàn cảnh khách quan nằm ngoài Vòng tròn Ảnh hưởng định hình phần lớn cuộc sống của mình. Chúng ta sống một cách bị động theo các kịch bản áp đặt từ bên ngoài như gia đình, cộng sự, kế hoạch của người khác và các sức ép của hoàn cảnh.
Tất cả những điều đó là do người khác hoặc ngoại cảnh chứ không phải là do các nguyên tắc mang lại. Chúng phát sinh từ tâm lý dễ bị tổn thương của chúng ta, từ sự lệ thuộc quá nhiều vào người khác, từ nhu cầu được thừa nhận, yêu thương, từ cảm giác về tầm quan trọng và giá trị hay một cảm giác nào đó mà chúng ta lưu tâm.
Dù chúng ta có nhận thức hay kiểm soát được hay không thì vẫn có sự sáng tạo lần thứ nhất cho mỗi cuộc đời của chúng ta. Tự chúng ta sáng tạo lần thứ hai để trở thành một con người tích cực, hoặc là sản phẩm sáng tạo lần thứ hai của người khác, của hoàn cảnh hay của thói quen quá khứ.
Những khả năng đặc biệt của con người cùng trí tưởng tượng và lương tâm cho phép chúng ta xem xét những sáng tạo đầu tiên và giúp chúng ta chịu trách nhiệm viết tiếp kịch bản của đời mình. Nói cách khác, thói quen thứ nhất nói rằng “Bạn là người sáng tạo”, còn Thói quen thứ hai là sự sáng tạo đầu tiên.
4. LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ – HAI SỰ SÁNG TẠO
Thói quen thứ hai dựa vào các nguyên tắc về lãnh đạo bản thân, tức lãnh đạo là sáng tạo thứ nhất. Lãnh đạo không phải là quản lý. Quản lý là sáng tạo lần thứ hai. Đây là nội dung chúng ta sẽ thảo luận ở phần Thói quen thứ ba.
Quản lý là sự tập trung vào những vấn đề cụ thể: “Làm cách nào tôi có thể hoàn thành công việc đó?”. Lãnh đạo là sự tập trung vào cái mấu chốt, quan trọng: “Điều tôi muốn đạt được là gì?”. Theo lời Peter Drucker và của Warren Bennis, “Quản lý là làm đúng các công việc, còn lãnh đạo là làm những việc đúng”. Quản lý là hiệu năng của việc leo các nấc thang đến thành công; còn lãnh đạo là xác định xem cái thang đó có được bắc đúng bức tường hay không.
Bạn có thể hiểu một cách nhanh chóng sự khác nhau giữa hai khái niệm này qua ví dụ sau.
Hãy tưởng tượng một nhóm thợ dùng dao rựa để phát quang đường rừng. Họ chỉ là những người thợ, những người giải quyết vấn đề. Những người quản lý theo sau họ, mài sắc các dao rựa, viết ra các hướng dẫn và thiết lập các chính sách, thực hiện các chương trình huấn luyện cơ bắp, đưa vào áp dụng các công nghệ mới, lên thời gian biểu làm việc và tính toán lương bổng cho những người thợ. Còn người lãnh đạo là người leo lên ngọn một cái cây cao nhất, quan sát toàn bộ và thét lên: “Nhầm cánh rừng rồi!”.
Nhưng phản ứng thường thấy của những người thợ vừa giỏi tay nghề vừa chăm chỉ và các nhà quản lý mẫn cán là gì? “Ông im đi cho! Chúng tôi đang làm được rất nhiều việc đây này!”.
Chúng ta thường chú tâm vào các chi tiết mà quên đi cái tổng thể, vì thế chúng ta thường bị chệch hướng. Sự thay đổi rất nhanh chóng của môi trường sống làm cho lãnh đạo hiệu qua trở nên quan trọng hơn bao giờ hết – cả trong cuộc sống độc lập hay tương thuộc.
Chúng ta ngày càng cần có một tầm nhìn và một chiếc la bàn chứ không phải chỉ một tấm bản đồ chỉ đường. Chúng ta thường không biết địa hình phía trước là gì, cần vượt qua chướng ngại nào; phần lớn mọi việc phụ thuộc vào sự phán đoán của chúng ta ở từng thời điểm cụ thể. Nhưng chiếc la bàn nội tâm không phải luôn chỉ đúng hướng.
Sự thành đạt – thậm chí cả sự sinh tồn – không chỉ phụ thuộc đơn thuần vào nỗ lực của chúng ta, mà còn ở chỗ nỗ lực đó đúng hướng hay không. Sự thay đổi muôn hình vạn trạng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất và nghề nghiệp đòi hỏi lãnh đạo phải được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu và quản lý đứng hàng thứ hai.
Trong kinh doanh, thị trường thay đổi nhanh đến mức nhiều sản phẩm và dịch vụ rất thành công chỉ vài năm trước thì nay đã trở nên lạc hậu. Người lãnh đạo chủ động phải luôn theo dõi sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đặc biệt là thói quen và động cơ của khách hàng, để đưa ra những nguồn lực cần thiết giúp cho doanh nghiệp đi đúng hướng.
Những thay đổi như nới lỏng quản lý của nhà nước trong ngành hàng không, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe, và nâng cao chất lượng xe ô-tô nhập khẩu đều có tác động đáng kể đến môi trường kinh doanh. Nếu các doanh nghiệp không theo dõi môi trường kinh doanh, kể cả các nhóm nhân viên của mình, và sáng suốt lãnh đạo thì không một kỹ năng quản trị nào có thể cứu doanh nghiệp đó khỏi sụp đổ.
Quản lý hiệu quả mà không lãnh đạo đúng hướng thì cũng giống như “siết chặt các ghế ngồi trên boong tàu Titanic”. Không có sự thành công nào trong quản lý có thể bù đắp được những sai lầm trong lãnh đạo. Thế nhưng, lãnh đạo không phải là công việc dễ dàng, bởi chúng ta thường bị vướng vào mô thức quản lý.
Tại buổi họp cuối cùng trong chương trình Phát triển quản lý kéo dài một năm tại Seattle, chủ tịch một công ty dầu khí đến gặp tôi và nói: “Này Stephen, khi ông nêu ra sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý, tôi đã xem lại vai trò chủ tịch công ty của tôi và nhận ra rằng tôi chưa bao giờ lãnh đạo cả. Tôi chỉ lao vào làm công tác quản lý, bị chôn vùi trong hàng đống công việc sự vụ hàng ngày. Do đó, tôi đã quyết định giao cho người khác làm việc đó. Tôi thật sự muốn thực hiện vai trò lãnh đạo, dẫn dắt công ty của mình.
Nhưng đó không phải là một việc dễ dàng. Tôi đã phải trải qua cảm giác hụt hẫng khó chịu của sự rút lui này. Tôi không đụng đến những công văn khẩn cấp đang chất đầy trên bàn, cũng không giải quyết hàng tá công việc không tên khác… Tất cả đã có cấp dưới của tôi chịu trách nhiệm. Tôi bắt đầu vật lộn với những vấn đề về phương hướng, về xây dựng nền văn hóa công ty, phân tích sâu thị trường và nắm bắt các thời cơ mới. Những người khác cũng cảm thấy hụt hẫng vì phong cách làm việc thay đổi. Họ không còn được tiếp cận tôi dễ dàng như trước, trong khi vẫn muốn gặp tôi bất kỳ lúc nào để xin ý kiến, nhờ giúp giải quyết những vấn đề hàng ngày.
Nhưng tôi đã thật sự thay đổi. Tôi tin rằng việc mình cần phải làm là lãnh đạo. Và tôi đã làm được. Đến hôm nay, toàn bộ công việc kinh doanh của chúng tôi đã khác hẳn. Chúng tôi thích nghi hơn với môi trường mới của công ty. Doanh thu tăng gấp đôi và lợi nhuận tăng gấp bốn lần. Tôi đã thực hiện được vai trò lãnh đạo.”
Tôi tin rằng các bậc cha mẹ cũng thường bị vướng vào mô thức quản lý. Họ chỉ chú trọng đến việc giám sát, hiệu quả và kỷ cương thay vì mục đích và tình cảm gia đình. Tương tự, trong cuộc sống riêng của chúng ta lại càng thiếu sự lãnh đạo. Chúng ta lao vào quản lý bản thân sao cho có hiệu quả, đặt ra và phấn đấu để đạt được các mục tiêu trong khi chưa xác định rõ những giá trị của mình.
5. TRỞ THÀNH NGƯỜI SÁNG TẠO ĐẦU TIÊN CỦA CHÍNH MÌNH Như chúng ta nhận thấy ở phần trước, tính chủ động được dựa trên cơ sở tự nhận thức – một khả năng đặc biệt của con người. Hai khả năng thiên phú nữa giúp chúng ta mở rộng tính chủ động và thực hiện vai trò lãnh đạo cá nhân trong cuộc sống là trí tưởng tượng và lương tâm.
Nhờ có trí tưởng tượng, chúng ta có thể hình dung được những tiềm năng của bản thân. Nhờ có lương tâm, chúng ta có thể tiếp cận các quy luật phổ biến hay các nguyên tắc, bằng chính tài năng riêng của mình và của người khác. Với những nguyên tắc chỉ đạo bản thân, chúng ta có thể khai thác bản thân một cách hiệu quả. Kết hợp với sự tự nhận thức, những khả năng này sẽ giúp chúng ta đủ sức viết lấy “kịch bản” cho chính mình.
Do chúng ta đã sống với nhiều “kịch bản” từ bên ngoài, nên quá trình viết “kịch bản” cho chính mình trở thành một quá trình “viết lại kịch bản”, hay thay đổi một số mô thức cơ bản mà chúng ta đã có. Khi nhận ra những “kịch bản” không hiệu quả, những mô thức không đúng hay không hoàn hảo trong con người mình, chúng ta có thể chủ động bắt tay vào viết lại những kịch bản đó.
Theo tôi, một trong những câu chuyện hấp dẫn nhất của quá trình viết lại “kịch bản” nằm trong cuốn tự truyện của Anwar Sadat – Tổng thống quá cố của Ai Cập. Sadat đã từng được nuôi dưỡng, dạy dỗ và hun đúc lòng căm thù Israel. Ông từng tuyên bố trên đài truyền hình quốc gia rằng: “Tôi sẽ không bao giờ bắt tay với một người Israel khi nào họ còn chiếm dù chỉ một tấc đất của người Ai Cập. Không bao giờ! Không bao giờ!”. Và những đám đông dân chúng trong cả nước đã từng hô vang “Không bao giờ! Không bao giờ!”. Ông đã tập hợp được sức mạnh và ý chí thống nhất của cả nước vào “kịch bản” đó của mình.
“Kịch bản” này rất độc lập và mang tính dân tộc cực đoan, nó kích động tinh thần dân chúng một cách sâu sắc. Nhưng nó cũng rất điên rồ và Sadat biết rõ điều đó.
Do đó, ông đã viết lại “kịch bản” cho mình, miêu tả lại quá trình ông đã học được khi còn là một thanh niên bị giam cầm tại xà lim 54, một xà lim biệt lập của nhà tù trung tâm Cairo, do dính líu vào một âm mưu chống lại vua Farouk. Ông đã học được cách bứt ra khỏi tâm trí của mình để nhìn lại “kịch bản” một cách khôn ngoan hơn. Ông học cách làm cho tâm trí của mình trống rỗng, bằng một quá trình thiền định sâu sắc để tập trung vào các “kịch bản” của bản thân.
Ông kể lại rằng ông đã gần như không còn muốn rời xà lim nhà tù nữa, vì tại đó ông đã nhận ra thành công thực sự là thành công của bản ngã. Đó không phải là sự giàu có mà là có được sự tự chủ và chiến thắng chính bản thân mình.
Trong thời kỳ cầm quyền của Nasser, có thời gian Sadat bị giáng chức. Mọi người nghĩ rằng ông sẽ mất tinh thần, nhưng không phải như vậy. Họ muốn áp đặt “kịch bản” của họ lên ông mà không biết rằng ông chỉ đang chờ đợi thời cơ.
Và khi thời cơ đến, tức khi trở thành tổng thống Ai Cập và đối mặt với những thực tại chính trị, ông đã “viết lại kịch bản” của bản thân đối với Israel. Ông đã đến thăm Quốc hội Israel (Knesset) tại Jerusalem và mở ra một trong những phong trào hòa bình chưa từng có trong lịch sử thế giới, một sáng kiến táo bạo dẫn đến Hiệp ước Camp David giữa Ai Cập và Israel.
Sadat đã biết dùng sự tự nhận thức, trí tưởng tượng và lương tâm của mình để lãnh đạo bản thân, làm thay đổi một mô thức cốt lõi và cách nhìn về hoàn cảnh. Ông đã tác động vào trọng tâmVòng tròn Ảnh hưởng của mình để thay đổi mô thức đó – một thay đổi làm ảnh hưởng đến hàng triệu con người trong Vòng tròn Quan tâm lớn hơn. Trong quá trình phát triển sự tự nhận thức, nhiều người trong chúng ta phát hiện ra những “kịch bản” kém hiệu quả, những thói quen đã được ăn sâu và hoàn toàn không nên có và không phù hợp với những điều chúng ta thực sự quý trọng trong cuộc sống. Thói quen thứ hai nói rằng chúng ta không cần phải chung sống với những “kịch bản” đó. Chúng ta có quyền sử dụng trí tưởng tượng và óc sáng tạo của mình để viết lại những “kịch bản” mới hiệu quả hơn, phù hợp hơn với những giá trị sâu sắc nhất và những nguyên tắc đúng đắn, mang lại ý nghĩa thật sự.
Nếu là một người có phản ứng quá mức trong việc dạy dỗ con cái thì mỗi khi chúng bắt đầu làm điều gì đó sai trái, tôi sẽ không kiềm chế được cơn giận dữ. Tôi không tập trung vào sự trưởng thành lâu dài hay cảm thông mà vào hành vi nhất thời. Tôi đang cố gắng để chiến thắng trong một trận đấu, chứ không phải cả cuộc chiến.
Khi đó, tôi sử dụng uy quyền của mình, la hét, nạt nộ, đe dọa và trừng phạt các con tôi. Và tôi chiến thắng. Tôi đứng đó, trong vinh quang, giữa mối quan hệ cha con bị đổ vỡ khi chúng bên ngoài tỏ ra khuất phục nhưng trong lòng thì chống lại. Chúng cố gắng kìm nén những cảm xúc mà về sau sẽ bùng phát một cách tệ hại hơn.
Giờ đây, nếu tôi là người ngồi dự lễ tang như đã tưởng tượng ở phần đầu, và một trong những đứa con tôi chuẩn bị lên tiếng. Tôi muốn nghe nó nói về tôi như về một người cha đã dạy dỗ, rèn luyện ý thức kỷ luật cho anh em chúng với lòng yêu thương vô bờ, chứ không phải bằng những trận đòn và lời la mắng. Tôi muốn con tim và khối óc của con tôi tràn đầy những kỷ niệm sâu sắc, những khoảng thời gian đầy ý nghĩa mà chúng tôi có với nhau. Tôi muốn con tôi nhớ đến tôi như một người cha đáng kính, người chia sẻ cả niềm vui lẫn nỗi buồn cho tới lúc nó trưởng thành. Tôi muốn con tôi nhớ lại những lúc nó đến với tôi để tâm sự những khó khăn và ưu tư mà nó gặp phải. Tôi muốn nó hiểu rằng dù không phải là người hoàn hảo nhưng tôi đã cố gắng hết sức để làm bất cứ điều gì có thể cho các con. Và có lẽ hơn bất cứ người nào khác trên cõi đời này, tôi là người yêu thương chúng nhất.
Lý do mà tôi muốn có được những điều trên là vì sâu thẳm trong tâm hồn, tôi yêu quý con tôi và xem trọng vai trò làm cha của mình.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng nhìn thấy những giá trị đó. Tôi bị sa lầy trong “một đống vụn vặt”. Những gì quý giá nhất lại bị chôn vùi dưới tầng tầng lớp lớp của những bức bối, thúc ép hàng ngày. Tôi trở nên luôn bị động, và cách cư xử với các con lại mâu thuẫn với tình cảm tôi thật sự dành cho chúng.
Vì tôi là một con người biết tự nhận thức, vì tôi có trí tưởng tượng và lương tâm, nên tôi có thể kiểm tra những giá trị sâu sắc nhất của mình. Tôi có thể nhận thấy “kịch bản” tôi đang sống không phù hợp với những giá trị đó, rằng cuộc đời tôi không phải là “sản phẩm” của “bản thiết kế” của riêng tôi. Nhưng tôi có thể thay đổi và sống theo trí tưởng tượng của mình thay vì dựa vào trí nhớ. Tôi có thể gắn bản thân vào những tiềm năng vô hạn thay vì vào quá khứ hữu hạn. Tôi có thể trở thành người sáng tạo đầu tiên của chính mình.
Bắt đầu từ mục tiêu đã được xác định có nghĩa là thực hiện các vai trò khác nhau trong cuộc đời với những giá trị và phương hướng rõ ràng. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm đối với sự sáng tạo đầu tiên của chính mình, phải viết lại “kịch bản” cho bản thân để tạo mô thức hành vi và thái độ phù hợp với những giá trị sâu sắc cũng như những nguyên tắc đúng đắn.
Điều đó có nghĩa là tôi phải bắt đầu cuộc sống hàng ngày bằng những giá trị đó để khi đối diện với những thăng trầm, thách thức cuộc đời, tôi có thể hành xử bằng nhân phẩm của mình mà không cần phải hành động theo cảm tính hoặc bị hoàn cảnh tác động. Tôi có thể thực sự trở thành người luôn chủ động và sống theo các giá trị tốt đẹp, vì những giá trị đó rất rõ ràng đối với tôi.
6. TUYÊN NGÔN SỨ MÊNH CÁ NHÂN
Cách hiệu quả nhất để bắt đầu từ mục tiêu đã được xác định mà tôi từng biết là thiết lập một bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân hay một triết lý, một niềm tin. Tuyên bố đó thể hiện rõ bạn muốn trở thành người thế nào (tính cách), sẽ làm gì (cống hiến, thành tích), lấy giá trị và nguyên tắc nào làm nền tảng.
Vì mỗi người là một cá thể, nên tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân sẽ phản ánh tính chất đơn nhất này, cả về nội dung và hình thức. Một người bạn của tôi, Rolfe Kerr, đã xác lập sứ mệnh của mình như sau:
“Trước hết, phải thành công trong cuộc sống gia đình.
Tìm kiếm và sống xứng đáng với sự hỗ trợ tuyệt vời từ những người xung quanh.
Luôn sống lương thiện.
Luôn nhớ đến những người có công giúp đỡ mình.
Lắng nghe cả hai phía trước khi phán quyết.
Sẵn lòng nhận lời khuyên của người khác.
Bênh vực những người vắng mặt.
Chân thành nhưng quyết đoán.
Mỗi năm thành thạo một việc mới.
Có kế hoạch công việc ngày mai ngay từ hôm nay.
Không ngồi yên chờ đợi.
Luôn duy trì một thái độ tích cực.
Luôn có óc hài hước.
Trật tự ngăn nắp trong sinh hoạt cá nhân và công việc.
Đừng sợ mắc sai lầm – chỉ sợ thiếu óc sáng tạo, thiếu tinh thần xây dựng và sửa chữa sai lầm.
Luôn tạo điều kiện cho cấp dưới thành công.
Nghe nhiều hơn nói.
Dồn hết khả năng và nỗ lực vào công việc hiện thời, không bận tâm về công việc sắp tới hay sự thăng quan tiến chức.”
Còn đây là bản tuyên ngôn sứ mệnh của một phụ nữ đang cố gắng cân bằng giữa cuộc sống gia đình và sự nghiệp:
“Tôi sẽ cố gắng tạo sự cân bằng giữa nghề nghiệp và gia đình một cách tốt nhất, vì cả hai điều này đều quan trọng đối với tôi.
Ngôi nhà của tôi sẽ là nơi mà tôi, gia đình, bạn bè và những ai tới thăm có thể tìm thấy niềm vui, sự thoải mái, bình yên và hạnh phúc. Mặc dù vậy, tôi vẫn sẽ cố gắng tạo một môi trường sống sạch sẽ, ngăn nắp và tiện nghi.
Tôi sẽ vận dụng sự hiểu biết của mình để chọn lựa cách thức ăn uống, đọc sách, giải trí, làm các việc nội trợ khác.
Tôi đặc biệt quan tâm đến việc dạy con cái biết yêu thương, cùng học tập tiến bộ. Tôi coi trọng các giá trị, quyền tự do và các nghĩa vụ trong xã hội của chúng ta. Tôi sẽ là một công dân có trách nhiệm, nhiệt tình tham gia vào các hoạt động chính trị để tiếng nói và lá phiếu của mình góp phần xây dựng cộng đồng.
Tôi sẽ là một người biết khởi động, chủ động thực hiện các mục tiêu của đời mình.
Tôi sẽ chủ động trước các hoàn cảnh và cơ hội, chứ không bị động đối phó.
Tôi sẽ luôn giữ mình, tránh xa các thói nghiện ngập và hư hỏng. Tôi sẽ phát triển các thói quen giúp mình thoát khỏi những khuôn mẫu lạc hậu và hạn hẹp để mở rộng khả năng cũng như lựa chọn của mình.
Tôi sẽ là chủ nhân chứ không phải là nô lệ của đồng tiền.
Tôi sẽ luôn tìm cách độc lập về tài chính. Những gì tôi muốn tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính của tôi. Trừ khoản vay dài hạn mua nhà và xe ô-tô, tôi sẽ không vay nợ để mua bất kỳ thứ gì khác. Tôi sẽ làm nhiều, tiêu xài ít và thường xuyên dùng số tiền dư để tiết kiệm hoặc đầu tư.
Ngoài ra, tôi sẽ dùng tiền và tài năng mình làm cho cuộc sống của người khác vui vẻ hơn, bằng sự phục vụ và đóng góp từ thiện của mình.”
Bạn có thể xem bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân là một “bản hiến pháp” của cá nhân bạn. Và, như mọi bản hiến pháp trên thế giới, về cơ bản, “hiến pháp” của bạn là không thay đổi. Như Hiến pháp Hoa Kỳ chẳng hạn, trong hơn 200 năm qua, nó chỉ có 26 bổ sung, sửa đổi, trong đó bản gốc chỉ sửa đổi đúng 10 điểm.
Hiến pháp Hoa Kỳ là tiêu chuẩn để đánh giá bất kỳ bộ luật nào của nước Mỹ. Đây là văn bản mà tổng thống Mỹ nhận trách nhiệm bảo vệ và ủng hộ khi tuyên thệ nhậm chức, đây là cơ sở pháp lý cho việc nhập quốc tịch Hoa Kỳ của người dân. Đây là nền tảng và trung tâm giúp dân chúng vượt qua những biến động lớn như cuộc nội chiến Mỹ, chiến tranh Việt Nam, vụ bê bối Watergate. Đây là các chuẩn mực thể hiện bằng văn bản – những chuẩn mực then chốt dùng để đánh giá và điều hành mọi thứ khác. Những nguyên tắc này đem lại cho bản Hiến pháp một sức mạnh vô tận, ngay cả trong trường hợp có những sự mơ hồ và thay đổi trong xã hội, như Thomas Jefferson đã nói: “Nền an ninh đặc biệt của chúng ta nằm ở bản Hiến pháp này”.
Tương tự như vậy, bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân dựa trên những nguyên tắc đúng đắn, trở thành một chuẩn mực cho mỗi người. Nó trở thành bản hiến pháp của cá nhân, làm cơ sở cho việc đưa ra những quyết định lớn, là phương hướng cho cả cuộc đời bạn, là cơ sở cho những quyết định hàng ngày bạn đưa ra, mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh sống hay những xúc cảm. Nó cũng đem lại cho mỗi cá nhân nguồn sức mạnh lớn lao giữa những biến cố của cuộc đời.
Con người không thể chung sống với sự thay đổi nếu trong họ không có một hạt nhân vững chắc và bất biến theo thời gian. Chìa khóa dẫn tới khả năng tạo ra thay đổi là một nhận thức trước sau như một rằng bạn là ai, bạn muốn làm gì, và bạn coi trọng điều gì.
Có bản tuyên ngôn sứ mệnh, chúng ta có thể cùng bay bổng với những thay đổi. Chúng ta không còn quan tâm đến định kiến hay thành kiến. Chúng ta không cần phải tìm hiểu, rập khuôn, phân loại mọi thứ và mọi người để hòa hợp với thực tại.
Môi trường sống của chúng ta cũng đang thay đổi với một nhịp điệu không ngừng gia tăng. Sự thay đổi chóng mặt đó làm kiệt sức nhiều người, khiến họ không đủ sức đương đầu với cuộc sống. Họ trở nên bị động và thường đầu hàng, với hy vọng theo thời gian, rồi những điều tốt đẹp cũng sẽ đến…
Nhưng không phải ai cũng vậy. Trong các trại tập trung của bọn Đức quốc xã, Viktor Frankl đã học được nguyên tắc luôn chủ động và tầm quan trọng của việc xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống. Ông đã phát triển khái niệm “Liệu pháp biểu tượng” thành một triết lý và đưa ra giảng dạy. Điều cốt lõi của triết lý này là: nhiều chứng bệnh về tinh thần và cảm xúc thật ra là do tâm trạng bị đè nén, trống rỗng, cảm thấy cuộc đời vô nghĩa… của con người. “Liệu pháp biểu tượng” xóa bỏ cảm giác tiêu cực đó bằng cách giúp cho từng cá nhân tìm thấy ý nghĩa đơn nhất và sứ mệnh của bản thân trong cuộc sống.
Một khi nhận thức được sứ mệnh của mình, bạn sẽ có được nền tảng của tính chủ động. Bạn sẽ có được tầm nhìn về những giá trị dẫn dắt cuộc đời bạn. Bạn sẽ có phương hướng cơ bản để từ đó đặt ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Bạn sẽ có được sức mạnh của “bản hiến pháp” cá nhân được viết ra dựa trên các nguyên tắc đúng đắn, dùng làm căn cứ để đánh giá một cách hữu hiệu mọi quyết định về việc sử dụng tốt nhất thời gian, sức lực và tài năng của bạn.
7. TRUNG TÂM CỦA VÒNG TRÒN ẢNH HƯỞNG
Để có thể viết được một bản tuyên ngôn sứ mệnh, chúng ta phải bắt đầu ngay tại trung tâm Vòng tròn Ảnh hưởng của mình. Trung tâm này bao gồm những mô thức cơ bản nhất – những lăng kính – mà qua đó chúng ta có thể nhìn ra thế giới.
Chính tại trung tâm này, chúng ta xử lý tầm nhìn và những giá trị của mình, sử dụng khả năng tự nhận thức để xem xét các “bản đồ” chỉ dẫn. Và nếu có được các nguyên tắc đúng đắn, chúng ta sẽ biết chắc các “bản đồ” chỉ đúng đường, biết chắc các mô thức của mình được dựa trên các nguyên tắc và cơ sở hiện thực. Chính tại đây, chúng ta sử dụng lương tâm làm la bàn để chỉ ra tài năng riêng biệt và phạm vi có thể cống hiến của mình, sử dụng trí tưởng tượng để hình dung đích đến. Tất cả những điều đó nhằm mang lại cho chúng ta những cơ sở của một bản hiến pháp cá nhân. Cũng chính tại đây, những nỗ lực tập trung của chúng ta sẽ đạt được kết quả lớn nhất. Khi tập trung vào trung tâm của Vòng tròn Ảnh hưởng, chúng ta sẽ mở rộng nó. Đây là việc tạo ra PC (năng lực sản xuất) có sức mạnh và ảnh hưởng to lớn đến sự thành đạt ở mọi mặt trong cuộc sống chúng ta.
Bất cứ cái gì nằm tại trung tâm của cuộc sống sẽ là nguồn gốc cho sự an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực của chúng ta.
An toàn biểu hiện ý thức của bạn về giá trị, cá tính, nền tảng tình cảm, lòng tự trọng và các thế mạnh của bạn.
Định hướng là nguồn gốc các phương hướng trong cuộc sống của bạn. Bản đồ dẫn đường, tức khung tham chiếu nội tâm của bạn – là cái chỉ cho bạn điều gì đang xảy ra
– bao gồm các nguyên tắc, các tiêu chuẩn ngầm chi phối những quyết định và hành động của bạn.
Khôn ngoan là tầm nhìn tương lai và nhận thức về sự cân bằng, sự am hiểu của bạn đối với cách áp dụng các nguyên tắc khác nhau trong cuộc sống và sự liên hệ giữa chúng. Nó bao gồm khả năng phán đoán, suy xét và hiểu biết. Đó là một chỉnh thể tổng hợp của suy nghĩ hay kinh nghiệm – một tổng thể độc nhất và trọn vẹn.
Năng lực là khả năng hành động, là tiềm lực để hoàn thành một công việc nào đó. Đây là khả năng cơ bản để thực hiện việc lựa chọn và đưa ra các quyết định. Nó cũng bao gồm khả năng vượt qua những thói quen cố hữu để hình thành những thói quen ở mức cao hơn, có hiệu quả hơn.
Bốn yếu tố này – an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực – phụ thuộc lẫn nhau. Rõ ràng, an toàn và định hướng sẽ đem lại khôn ngoan thật sự, là chất xúc tác để giải phóng năng lực. Khi cả bốn nhân tố này cùng có mặt, kết hợp hài hòa và bổ sung cho nhau, chúng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn có thể sản sinh ra một nhân cách cao quý, một tính cách cân bằng và một con người toàn vẹn.
Các yếu tố hỗ trợ này cũng gắn kết với mọi khía cạnh khác của cuộc sống và không chỉ xuất hiện một lần. Mức độ phát triển từng yếu tố được thể hiện trên một chuỗi liên tục, giống như các bước liên tục của sự trưởng thành được mô tả ở phần trên. Ở đầu dưới của chuỗi, bốn nhân tố này đều yếu, nghĩa là về cơ bản, bạn phụ thuộc vào hoàn cảnh, vào người khác, vào những thứ bạn không kiểm soát một cách trực tiếp. Ở đầu trên của chuỗi, bạn kiểm soát được tình hình; khi đó, bạn có sức mạnh độc lập và nền tảng cho các mối quan hệ đa dạng, tương thuộc lẫn nhau.
An toàn của bạn nằm đâu đó trên chuỗi liên tục giữa cực không an toàn nằm ở một đầu, nơi cuộc sống của bạn chịu sự chi phối bởi các xung lực hay thay đổi, và đầu kia, nơi bạn ý thức được giá trị bản chất và sự an toàn cá nhân. Định hướng của bạn dao động trên chuỗi liên tục, từ những nguồn lực dao động bên ngoài cho đến sự điều khiển nội tại vững vàng. Khôn ngoan của bạn nằm đâu đó giữa một tấm bản đồ hoàn toàn sai lệch, nơi mọi thứ bị bóp méo và không ăn khớp nhau hoặc có thể giữa một tấm bản đồ chính xác, hoàn hảo về cuộc sống, nơi mọi thành phần và nguyên tắc liên
hệ với nhau một cách hợp lý. Năng lực của bạn nằm giữa một cực là sự bất động – một con rối cho người khác giật dây – và cực kia là sự chủ động, nghĩa là sức mạnh hành động theo những giá trị của chính bạn.
Vị trí của những yếu tố này trên một chuỗi liên tục biểu hiện sự hòa nhập, hài hòa, cân bằng. Ảnh hưởng tích cực của chúng đối với mọi mặt cuộc sống của chúng ta là vô cùng cần thiết – là chức năng trọng tâm, là mô thức thiết yếu, cốt lõi ở mỗi người.
8. CÁC TRỌNG TÂM TRONG CUỘC SỐNG
Mỗi người đều có một trọng tâm trong cuộc sống dù rằng chúng ta thường không nhận ra điều đó. Hãy khảo sát tóm tắt các trọng tâm khác nhau hay các mô thức cốt lõi trong chúng ta để hiểu rõ ảnh hưởng của chúng đến bốn nhân tố cơ bản – an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực – nêu trên.
Trọng tâm phối ngẫu. Quan hệ hôn nhân có thể là mối quan hệ thân mật, mãn nguyện, lâu dài và có ảnh hưởng nhất đối với con người. Nó giúp các mối quan hệ khác phát triển. Do vậy, việc một người nào đó tập trung chú ý vào vợ hay chồng mình là điều rất tự nhiên và đúng đắn.
Tuy nhiên, kinh nghiệm và quan sát thực tế cuộc sống lại cho chúng ta một bức tranh hoàn toàn khác. Sau nhiều năm tham gia xử lý một số cuộc hôn nhân gặp rắc rối, tôi nhận ra những sợi chỉ xuyên suốt dệt nên hầu hết các mối quan hệ hôn nhân đó là sự lệ thuộc mạnh mẽ về mặt tình cảm. Chúng ta sẽ dễ bị tổn thương bởi tâm trạng, tình cảm, hành vi và cách cư xử của người bạn đời, bởi các điều kiện bên ngoài tác động đến quan hệ vợ chồng, ví dụ một đứa con mới chào đời, tác động của gia đình bên vợ/chồng, những khó khăn tài chính, sự thành công về mặt xã hội của một trong hai người v.v.
Khi trách nhiệm tăng lên và sự căng thẳng xuất hiện trong quan hệ hôn nhân, chúng ta có xu hướng quay trở lại các “kịch bản” đã được trang bị trong giai đoạn trưởng thành. Và người bạn đời của chúng ta cũng thế. Thông thường, kịch bản của hai bên không giống nhau, vì vậy xuất hiện cách xử lý khác nhau về các vấn đề như tài chính, nuôi dạy con cái, tình cảm vợ chồng… Khi những vấn đề này kết hợp với sự lệ thuộc tình cảm trong hôn nhân thì mối quan hệ lấy phối ngẫu làm trọng tâm sẽ bộc lộ mọi điểm yếu của nó.
Khi chúng ta lệ thuộc vào người chúng ta đang có xung đột thì nhu cầu và xung đột luôn hòa lẫn vào nhau. Kết quả thường thấy là hành động yêu – ghét thái quá, đối đầu hay trốn chạy, rút lui hay gây hấn, cay đắng, đố kỵ, hoặc ngấm ngầm đua tranh. Khi những trạng thái tiêu cực này xảy ra, chúng ta càng lún sâu vào các thói quen cũ nhằm biện minh cho hành vi của mình và trả đũa người vợ hoặc chồng.
Rõ ràng, khi bị tổn thương nặng nề, chúng ta cảm thấy cần phải phòng thủ để tránh đau đớn lần nữa. Vì vậy, chúng ta thường dùng những ngôn từ mỉa mai, châm chọc và chỉ trích để che đậy sự yếu đuối bên trong con người mình. Cả vợ và chồng đều có ý chờ bên kia nhân nhượng tình cảm trước, để rồi nhận lấy sự thất vọng và càng cảm thấy oán trách đối phương.
Mối quan hệ như vậy chỉ chứa đựng an toàn hão huyền. Định hướng lúc này chỉ dựa vào cảm xúc nhất thời. Còn khôn ngoan và năng lực bị chìm lấp trong mối quan hệ tương tác tiêu cực và đối nghịch.
Trọng tâm gia đình. Một trọng tâm tự nhiên, đúng đắn và đáng chú ý khác thường thấy là gia đình. Đây là lĩnh vực được tập trung và đầu tư nhiều, tạo ra những cơ hội lớn cho các mối quan hệ sâu sắc, cho sự yêu thương, chia sẻ, và nhiều nhân tố khác để làm cuộc sống có ý nghĩa. Nhưng vì là một trọng tâm, nên bản thân nó cũng lại có khả năng phá hoại chính các yếu tố cần thiết bảo đảm cho sự thành công trong cuộc sống gia đình.
Những người lấy gia đình làm trọng tâm của cuộc sống có nhận thức về sự an toàn hay giá trị của bản thân xuất phát từ truyền thống, nền tảng giáo dục hay danh dự của gia đình. Do vậy, họ dễ bị tổn thương trước mọi sự thay đổi về truyền thống hay văn hóa, hoặc bất kỳ tác động nào làm phương hại đến gia đình họ.
Những bậc cha mẹ lấy gia đình làm trọng tâm thường không có được sự tự do về tình cảm để chăm sóc con cái ở mức cao nhất. Nếu họ quan niệm sự an toàn của họ xuất phát từ gia đình thì nhu cầu sống hòa hợp với con cái có thể làm lu mờ tầm quan trọng của việc đầu tư lâu dài vào sự trưởng thành và phát triển của chúng. Họ chỉ có thể tập trung vào uốn nắn các hành vi nhất thời. Bất cứ hành vi nào họ cho là không thích hợp đều bị coi là mối đe dọa cho sự an toàn của gia đình họ. Do vậy, họ trở nên thất vọng, dễ dàng chịu sự chi phối bởi những cảm xúc nhất thời hoặc những vấn đề trước mắt, hơn là chú ý đến sự trưởng thành và phát triển lâu dài của con cái. Họ có thể phản ứng thái quá và trừng phạt con cái do nóng nảy hoặc yêu thương chúng một cách có điều kiện, khiến cho chúng bị lệ thuộc về tình cảm, trở nên ngang ngạnh và quậy phá.
Trọng tâm tiền bạc. Một trọng tâm khác, hợp lý và rất phổ biến trong cuộc sống của nhiều người, là việc kiếm tiền. Trong bảng thứ tự ưu tiên hay chuỗi liên tục các nhu cầu, thì sự an toàn về vật chất và tài chính luôn đứng hàng đầu. Các nhu cầu khác thậm chí còn không được kể đến cho đến khi nhu cầu cơ bản được thỏa mãn, chí ít là ở mức tối thiểu.
Hầu hết mọi người đều phải đối mặt với sự âu lo về mặt tài chính. Nhiều tác động của xã hội có thể gây ảnh hưởng và đe dọa đến tình hình tài chính, tuy không phải lúc nào chúng ta cũng thể hiện sự lo lắng này ra bên ngoài.
Có rất nhiều lý do chính đáng để kiếm tiền, chẳng hạn như nhu cầu tích lũy, chăm sóc gia đình. Tuy rất quan trọng, nhưng nếu chỉ tập trung vào việc kiếm tiền, coi đó là trọng tâm của cuộc sống thì bản thân nó sẽ đem lại tác hại.
Hãy xem lại lần nữa bốn nhân tố cần thiết cho cuộc sống: an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực. Giả sử tôi tìm thấy an toàn của mình chủ yếu từ công việc làm ăn, hay từ thu nhập hoặc lợi nhuận. Do có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các nền tảng kinh tế này, nên tôi sẽ bận tâm và lo lắng, đề phòng và bảo vệ bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho chúng. Khi nhận thức về giá trị cá nhân của tôi xuất phát từ tiền bạc, tôi sẽ dễ bị tổn thương bởi những tác động bên ngoài. Nhưng công việc và tiền bạc tự thân nó không đem lại khôn ngoan, định hướng mà chỉ đem lại năng lực và an toàn ở mức độ hạn chế. Hạn chế của trọng tâm tiền bạc chính là nó thường đem lại sự khủng hoảng trong cuộc sống của chính bạn hay người thân của bạn.
Những người lấy tiền bạc làm trọng tâm cuộc sống thường gạt gia đình hay các ưu tiên khác sang một bên. Họ cho rằng mọi người sẽ thông cảm vì nhu cầu kinh tế phải là trước hết. Tôi còn nhớ một câu chuyện mà tôi có dịp chứng kiến như sau. Một ông bố sắp sửa dẫn các con đi xem xiếc như đã hứa thì nhận được điện thoại từ công ty. Đó là cuộc gọi của cấp trên bảo ông đến ngay công ty giải quyết công việc, nhưng ông đã từ chối. Khi bà vợ nói rằng ông nên đi làm thì hơn, ông trả lời: “Công việc rồi sẽ lại đến, nhưng tuổi thơ của các con thì không”. Từ đó, trong tâm trí, các con ông không bao giờ quên được những cử chỉ quan tâm, tuy nhỏ, nhưng là bằng chứng xác thực của tình yêu mà bố luôn dành cho chúng.
Trọng tâm công việc. Những người lấy công việc làm trọng tâm trong cuộc sống có thể trở thành những kẻ “tham công tiếc việc”. Họ hy sinh cả sức khỏe, các mối quan hệ và nhiều mặt quan trọng khác của cuộc sống. Đặc tính cơ bản của họ được quyết định bởi tính chất công việc: “Tôi là bác sĩ”, “Tôi là nhà văn”, “Tôi là nghệ sĩ”…
Vì nhận thức về giá trị của họ chỉ gói gọn trong công việc, nên cảm giác an toàn trong họ dễ bị tổn thương bởi những gì ngăn cản họ tiếp tục công việc. Định hướng cuộc sống của họ luôn phụ thuộc vào nhu cầu công việc. Khôn ngoan và năng lực cũng sẽ bị giới hạn trong phạm vi công việc. Do đó, họ luôn tỏ ra kém nhạy bén trong các lĩnh vực khác của cuộc sống như mối quan hệ gia đình, ứng xử xã hội…
Trọng tâm tài sản. Động lực sống của nhiều người khác lại là quyền sở hữu của cải vật chất – không chỉ đối với tài sản hữu hình như nhà lầu, xe hơi, thuyền buồm và đồ trang sức, mà còn cả những tài sản vô hình như danh tiếng, sự vinh quang và địa vị xã hội. Đa số chúng ta đều nhận thức được qua kinh nghiệm sống của mình về sự khiếm khuyết của trọng tâm này, đơn giản bởi vì chúng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố và có thể mất đi nhanh chóng.
Nếu cảm giác về sự an toàn của tôi dựa vào danh tiếng hay số của cải vật chất có được thì cuộc sống của tôi luôn trong tình trạng bị đe dọa và lo âu. Tôi thường xuyên lo sợ tài sản của mình bị trộm hoặc mất giá. Nếu gặp ai có địa vị cao hơn, giàu có hay nổi tiếng hơn, tôi sẽ cảm thấy tự ti. Còn nếu gặp ai hèn mọn hơn, thấp kém hơn về tiền tài, địa vị, tôi sẽ cảm thấy kiêu hãnh. Nhận thức của tôi về giá trị bản thân luôn luôn biến động. Tôi không có được cảm giác yên ổn hay một bản ngã ổn định. Tôi sẽ không ngừng tìm cách giữ gìn, bảo vệ tài sản, cổ phiếu, địa vị và tiếng tăm của mình. Chúng ta từng nghe kể hoặc chứng kiến nhiều người tự kết liễu cuộc đời vì bị sạt nghiệp hay danh tiếng chính trị bị hoen ố.
Trọng tâm hưởng lạc thú. Một trọng tâm khác thường thấy, có quan hệ chặt chẽ với trọng tâm tài sản là trọng tâm hưởng lạc thú. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự khoái lạc luôn luôn tồn tại và được khuyến khích. Truyền hình và phim ảnh luôn đáp ứng nhu cầu của con người ở khía cạnh này, luôn khắc họa một cách sinh động những thú vui mà người khác có hoặc có thể tận hưởng trong cuộc sống một cách dễ dàng và “đầy thú vị”. Nhưng trong khi hào quang lấp lánh của lối sống hưởng thụ được khắc họa một cách quá mức thì kết quả tự nhiên của nó – tức tác động của nó đến nội tâm con người, đến tính hiệu quả, đến các mối quan hệ – lại ít khi được nhận diện một cách chính xác.
Sự giải trí vô hại ở mức vừa phải có thể làm thư giãn thể chất và tâm hồn, giúp nuôi dưỡng mối quan hệ gia đình và các mối quan hệ khác. Nhưng bản thân thú vui không đem lại sự thỏa mãn sâu sắc và lâu dài hay một cảm giác toại nguyện. Người lấy thú vui làm trọng tâm cuộc sống sẽ rất chóng chán sau khi được thỏa mãn, và họ không ngừng đòi hỏi nhiều hơn, cao hơn. Rơi vào trạng thái này, người ta gần như trở thành một người ích kỷ, vô độ, họ giải thích mọi thứ trong cuộc đời qua những vui thú mình được tận hưởng.
Những kỳ nghỉ dài lê thê, ném tiền vào sòng bạc, nhảy nhót thâu đêm tại các vũ trường, hay đơn giản như xem quá nhiều phim ảnh… – nghĩa là dùng quá nhiều thời gian cho những thú vui vô bổ – sẽ làm hoang phí cuộc đời chúng ta, khiến cho năng lực bị tê liệt, trí tuệ ngừng phát triển, đầu óc và tinh thần bị mê muội và tâm hồn chai sạn. An toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực lúc bấy giờ sẽ nằm tận đáy của chuỗi phát triển.
Malcolm Muggeridge6 viết trong cuốn Lời chứng của thế kỷ 20 như sau:
“Ngày nay, mỗi khi nhìn lại cuộc đời mình, tôi giật mình nhận ra rằng những điều trước đây tôi cho là có ý nghĩa nhất, có sức hấp dẫn nhất thì nay lại trở nên phù phiếm và vô nghĩa tột độ! Đó là tham vọng thành công bằng mọi giá; là sự hãnh diện vì được mọi người biết đến và ca ngợi; là những vui thú vật chất từ việc kiếm nhiều tiền, chinh phục được nhiều cô gái đẹp, có những chuyến chu du khắp thế giới như quỷ Satan. Tất cả giải thích và giúp tôi hiểu được thế nào là sự phù du giả tạo của thế giới này.
Hồi tưởng lại, tất cả những trò tự mãn này xem ra chỉ là một sự huyền hoặc, cái mà Pascal gọi là “lướt trên cõi tục”.
Trọng tâm bạn/thù. Những người trẻ tuổi thường có xu hướng lấy bạn bè làm trọng tâm cuộc sống của mình.
Đối với họ, việc gia nhập vào một nhóm bạn đồng trang lứa là một việc vô cùng quan trọng. Tấm gương xã hội bị méo mó và luôn thay đổi trở thành nguồn lực cho bốn nhân tố chi phối cuộc sống, dẫn đến sự phụ thuộc nhiều hơn vào sự biến đổi của tâm trạng, tình cảm, thái độ và hành vi của người khác.
Việc lấy bạn bè làm trọng tâm cuộc sống cũng có thể chỉ tập trung vào một vài người, nó có một số đặc điểm giống trường hợp trọng tâm phối ngẫu. Xu hướng lấy bạn bè làm trọng tâm có thể là nguyên nhân gây ra sự lệ thuộc tình cảm vào một cá nhân, sự phát triển của nhu cầu/xung đột theo đường xoắn ốc và mối quan hệ tương tác tiêu cực.
Ngược lại, cũng có số ít người lấy đối thủ làm trọng tâm cuộc sống, đặc biệt khi họ có sự tương tác thường xuyên với đối thủ. Tuy ít ai làm điều này một cách có ý thức, nhưng không phải là không phổ biến. Khi ai đó cảm thấy mình bị đối xử bất công bởi người có ảnh hưởng lớn về tình cảm hay về mặt xã hội, thì anh ta sẽ rất dễ dàng chú tâm vào sự bất công và coi người kia là “trọng tâm” cuộc sống của mình. Thay vì sống một cách luôn chủ động cho cuộc đời mình, người lấy đối thủ làm trọng tâm phản ứng lại một cách thụ động tùy vào hành vi và thái độ của đối thủ.
Tôi có một anh bạn giảng dạy tại một trường đại học. Anh ta đã trở nên quẫn trí vì sự yếu kém của một người quản lý – người có mối quan hệ rất xấu với anh ta. Anh ta đã để suy nghĩ của mình về người này chi phối đến mức trở thành nỗi ám ảnh. Điều này ảnh hưởng đến cả quan hệ của anh với gia đình, với nhà trường và các đồng nghiệp. Cuối cùng, anh đi đến quyết định sẽ rời bỏ trường đại học đó để tìm công việc khác.
“Liệu anh có thực sự muốn tiếp tục ở lại trường, nếu không có người đó không?”, tôi hỏi.
“Vâng, đúng vậy”, anh ta trả lời, “Vì chừng nào còn có mặt hắn ta ở đây, cuộc đời tôi còn bị gián đoạn, bị làm cho đảo lộn. Tôi phải đi thôi”.
“Tại sao anh lại lấy người này làm trọng tâm của cuộc đời anh?”, tôi hỏi lại.
Anh ta giật mình vì câu hỏi này. Nhưng rồi anh phủ nhận nó. Và tôi chỉ cho anh ta thấy rằng anh đang để cho một cá nhân cùng với sự yếu kém của họ làm méo mó toàn bộ “tấm bản đồ” cuộc đời mình, phá hoại niềm tin, và cả mối quan hệ với người thân. Cuối cùng, anh ta thừa nhận rằng con người đó đã có ảnh hưởng đến anh, nhưng phủ nhận việc tự anh đưa ra sự lựa chọn này. Anh ta đổ trách nhiệm cho người quản lý nọ và tuyên bố bản thân anh không có trách nhiệm gì trong việc này.
Chúng tôi tiếp tục trao đổi. Dần dần, anh ta cũng nhận thấy rằng quả thật anh cũng có một phần trách nhiệm, nhưng vì anh đã xử lý trách nhiệm này không tốt, nên trở thành người vô trách nhiệm.
Nhiều người ly hôn cũng bị rơi vào tình trạng tương tự. Họ không thoát ra được tâm trạng oán giận, cay đắng và trách móc người vợ/chồng đã ly dị. Trong nhận thức tiêu cực, về mặt tâm lý, họ vẫn còn là vợ chồng, thế nên người này mới cần đến những nhược điểm của người kia để biện hộ, bào chữa cho mình.
Nhiều đứa trẻ vị thành niên sống trầm lặng hay phóng túng với sự căm ghét cha mẹ chúng. Chúng lên án cha mẹ về những hành động lạm dụng, bỏ rơi hay thiên vị trong quá khứ, và chúng chọn thái độ căm ghét làm trọng tâm cuộc sống của mình khi lớn lên. Chúng sống một cách bị động theo “kịch bản” được hình thành từ thái độ đó.
Người lấy bạn hoặc thù làm trọng tâm cuộc sống sẽ không có được an toàn và thanh thản trong tâm hồn. Cảm giác về giá trị bản thân dễ thay đổi. Họ thường bị chi phối bởi tâm trạng, xúc cảm hay hành vi của người khác. Định hướng ở những người này phụ thuộc vào nhận thức và phản ứng của người khác, còn khôn ngoan bị hạn chế bởi lăng kính xã hội, bởi nỗi ám ảnh về đối thủ. Những người này không có năng lực và phần lớn bị người khác điều khiển.
Trọng tâm tôn giáo. Tôi tin rằng hầu hết những ai thực sự gắn bó với bất cứ một tôn giáo nào đó cũng sẽ nhận ra việc đi lễ tại nhà thờ/chùa chiền không đồng nghĩa với đức tin của cá nhân. Một số người quá bận rộn với các hoạt động thờ cúng và công việc của giáo hội đến nỗi trở nên vô cảm đối với những nhu cầu bức thiết của những người xung quanh họ, đi ngược lại chính những lời giáo huấn mà họ đã tuyên xưng một cách sâu sắc. Trong khi lại có những người không thường xuyên đi lễ, thậm chí chưa bao giờ đi, nhưng thái độ và hành vi của họ lại thể hiện sự tập trung một cách chân thực vào các nguyên tắc đạo đức cơ bản của tôn giáo.
Nhờ tham gia từ rất sớm vào các hoạt động giáo hội và các nhóm phục vụ cộng đồng có tổ chức, tôi khám phá ra rằng việc đi lễ không nhất thiết có nghĩa là sống theo các nguyên tắc được nêu ra trong các buổi giảng đạo. Người ta một mặt rất năng động trong hoạt động tôn giáo, nhưng mặt khác lại có thể không làm theo giáo lý hay kinh thánh.
Trong cuộc sống, việc lấy tôn giáo làm trọng tâm, tạo ấn tượng hay giữ thể diện có thể trở thành mối quan tâm bao trùm, dẫn đến thói đạo đức giả, làm băng hoại phẩm giá cá nhân và các giá trị chân thực khác.
Định hướng xuất phát từ lương tri xã hội, và người lấy tôn giáo làm trọng tâm thường tùy tiện gán cho người khác các nhãn hiệu giả tạo như là “tích cực” “tiêu cực”, “tự do”, “chính thống” hay “bảo thủ”.
Vì tôn giáo là tổ chức chính thức bao gồm các chính sách, chương trình và cộng đồng tín đồ nên tự nó không thể đem lại cho người ta sự an toàn sâu sắc và vĩnh viễn hay một ý thức về giá trị nội tại. Sống theo các nguyên tắc được giáo huấn, người ta có thể làm được điều đó, nhưng chỉ bản thân tôn giáo thôi thì không thể. Nhà thờ cũng không thể cho người ta một cảm giác thường xuyên được định hướng.
Những người lấy tôn giáo làm trọng tâm thường có xu hướng sống biệt lập, suy nghĩ và hành động của họ cũng có nét khác biệt so với người không theo tôn giáo. Thiếu vắng tính tổng thể, tính thống nhất hay hoàn thiện là một mối đe dọa đối với sự an toàn, tạo ra nhu cầu giả tạo và sự tự mãn.
Việc coi tôn giáo là mục đích chứ không phải là phương tiện làm xói mòn sự khôn ngoan và cảm giác cân bằng của con người. Mặc dù tôn giáo dạy con người về nguồn gốc của năng lực, nhưng bản thân tôn giáo không phải là năng lực. Tôn giáo chỉ là một phương tiện đưa sức mạnh tinh thần đến với con người.
Trọng tâm hướng về bản thân. Có lẽ trọng tâm phổ biến nhất ngày nay là trọng tâm hướng về bản thân mà hình thức dễ thấy nhất là sự ích kỷ. Người lấy bản thân làm trọng không hề quan tâm đến những người xung quanh.
Đối với trọng tâm hướng về bản thân thì an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực rất ít khi hiện diện. Cũng như biển Chết ở Israel, nó chỉ nhận vào mà không bao giờ cho đi. Vì thế, nó trở nên cạn kiệt.
Mặt khác, nếu quan tâm đến sự phát triển của bản ngã theo quan điểm cao cả hơn, đó là hoàn thiện năng lực cá nhân để phục vụ, xây dựng và đóng góp một cách có ý nghĩa thì sẽ làm tăng đáng kể bốn nhân tố chi phối cuộc sống.
Trên đây là một số trọng tâm phổ biến mà con người thường sử dụng để tiếp cận cuộc sống. Bạn có thể dễ dàng nhìn thấy trọng tâm cuộc sống của người khác nhưng khó nhận ra trọng tâm của mình. Bạn có thể biết ai đó xem việc kiếm tiền là quan trọng hơn mọi thứ khác trên đời hoặc dùng hết sức để biện minh cho mình trong một mối quan hệ đang trở nên tồi tệ. Nhưng nếu chịu khó quan sát, đôi khi bạn sẽ nhìn xa hơn để nhận ra trọng tâm nào đã tạo ra hành vi đó.
9. NHẬN DIÊN TRỌNG TÂM CỦA BẠN
Vậy bạn đang đứng ở đâu? Trọng tâm cuộc sống của bạn là gì? Đôi khi, điều này không dễ nhìn thấy.
Có thể cách tốt nhất để nhận diện trọng tâm của bạn là xem xét kỹ các nhân tố chi phối cuộc sống của bạn. Nếu có thể nhận diện ra một hay nhiều trường hợp mô tả dưới đây, bạn có thể lần theo dấu vết để tìm ra trọng tâm phát sinh ra nó, loại trọng tâm có thể đang làm hạn chế khả năng thành đạt của bạn.
Thông thường, trọng tâm cuộc sống của một người là sự kết hợp cùng một lúc các trọng tâm lại với nhau. Hầu hết cuộc sống của mọi người chịu sự chi phối của nhiều sự tác động. Tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài hay từ bên trong, một trọng tâm cụ thể nào đó có thể được kích hoạt cho đến khi các nhu cầu cơ bản được thỏa mãn. Sau đó, một trọng tâm khác trở thành lực lượng chi phối.
Nếu chuyển đổi từ trọng tâm này sang trọng tâm khác, kết quả tương đối mà bạn thu được cũng giống như khi chơi trò tàu lượn, có lúc bạn lên đến đỉnh cao nhưng cũng có lúc lại xuống thấp. Bạn cố tìm cách bù đắp điểm yếu này bằng cách vay mượn năng lực từ nơi khác. Ở đây không có một định hướng nhất quán nào, không có một sự khôn ngoan bền vững, một năng lực ổn định hay một ý thức nào về an toàn và giá trị nội tại cá nhân. Điều lý tưởng là tạo ra một trọng tâm rõ ràng để bạn có thể đạt được an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực ở mức độ cao nhằm giúp
luôn chủ động cũng như kết hợp hài hòa mọi mặt cuộc sống.
10. TRỌNG TÂM HƯỚNG VỀ NGUYÊN TẮC
Bằng cách hướng cuộc sống vào các nguyên tắc đúng đắn, chúng ta sẽ tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bốn yếu tố hỗ trợ cuộc sống của mình.
Sự an toàn của chúng ta xuất phát từ việc hiểu rằng những nguyên tắc đúng đắn sẽ không bao giờ thay đổi. Các nguyên tắc không phản ứng với bất kỳ tác động nào bên ngoài. Chúng không bao giờ trở nên bất thường và khó kiểm soát. Chúng không bao giờ rình rập để làm hại chúng ta. Chúng không phụ thuộc vào hành vi của người khác, vào môi trường hay các trào lưu thời thượng. Nhưng chúng cũng không chỉ cho chúng ta những con đường tắt hay các giải pháp tạm bợ. Hãy nhớ rằng các nguyên tắc đúng đắn không bao giờ chết. Chúng không xuất hiện hôm nay rồi biến mất vào ngày mai. Chúng không thể bị phá hủy bởi bất cứ một thảm họa hay biến cố nào.
Có thể thấy các nguyên tắc là những chân lý cơ bản và sâu xa, những sự thật hiển nhiên tồn tại bao đời, những mẫu số chung của mọi thứ. Chúng là những sợi chỉ bện chặt vào nhau bằng sự chính xác, sự nhất quán, vẻ đẹp và sức mạnh xuyên suốt cuộc sống.
Trong một số hoàn cảnh và ở một số người, các nguyên tắc đôi khi bị bỏ qua. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có thể tin rằng chúng có sức mạnh hơn cả con người hay hoàn cảnh. Hàng ngàn năm lịch sử loài người đã từng chứng kiến điều đó. Quan trọng hơn nữa là chúng ta có thể làm cho nó phát huy tác dụng trong cuộc sống.
Tất nhiên, chúng ta không thể biết hết mọi việc. Kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta về những nguyên tắc đúng đắn bị giới hạn bởi chính sự thiếu hiểu biết về bản chất thật sự của con người và thế giới xung quanh, bởi hàng đống những triết lý và lý thuyết trái với các nguyên tắc đúng đắn. Những ý tưởng sai trái này có thể được chấp nhận theo từng thời điểm, nhưng chúng sẽ không tồn tại lâu dài vì được xây dựng từ các nền tảng sai lầm.
Chúng ta bị giới hạn, nhưng chúng ta có thể đẩy lùi các giới hạn đó. Sự hiểu biết và trưởng thành giúp chúng ta tìm ra các nguyên tắc đúng đắn với niềm tin rằng càng học nhiều, càng đặt tiêu cự của lăng kính chính xác thì qua đó, chúng ta càng nhìn nhận thế giới một cách rõ ràng hơn. Các nguyên tắc không thay đổi, chỉ có sự hiểu biết của chúng ta về chúng là thay đổi.
Khôn ngoan và định hướng lấy nguyên tắc làm trọng tâm xuất phát từ những “bản đồ” đúng đắn, từ bản chất của sự vật trong hiện tại, quá khứ và/hoặc tương lai. Các “bản đồ” chính xác sẽ giúp chúng ta nhìn thấy rõ đích đến của mình và biết làm thế nào để đến đó. Chúng ta có thể dựa trên các số liệu chính xác để ra quyết định nhằm giúp cho việc thực hiện được dễ dàng và có ý nghĩa.
Năng lực cá nhân được tạo ra khi sống theo nguyên tắc là sức mạnh của một người biết tự nhận thức, có tri thức và luôn chủ động, không bị hạn chế bởi thái độ, hành vi của người khác hay bởi tác động của hoàn cảnh và môi trường.
Hạn chế duy nhất có tính thực tế đối với năng lực là hệ quả tự nhiên của bản thân các nguyên tắc. Chúng ta tự do lựa chọn hành động dựa trên sự hiểu biết về các nguyên tắc đúng đắn, nhưng chúng ta không được tự do lựa chọn hệ quả của các hành động đó. Hãy nhớ rằng, “khi bạn nhấc một đầu của chiếc gậy lên thì bạn cũng nhấc luôn cả đầu bên kia”.
Các nguyên tắc đều gắn liền với hệ quả tự nhiên. Khi sống phù hợp với chúng, chúng ta sẽ thu được những hệ quả tích cực; nếu xem thường chúng, chúng ta sẽ nhận lấy hậu quả. Nhưng vì các nguyên tắc này áp dụng cho mọi người, dù họ có nhận thấy hay không, nên sự hạn chế này mang tính phổ quát. Và, càng biết nhiều các nguyên tắc đúng đắn, chúng ta càng có nhiều lựa chọn để hành động một cách khôn ngoan.
Bằng cách tập trung vào các nguyên tắc vĩnh cửu và bất biến, chúng ta sẽ tạo ra mô thức cơ bản cho một cuộc sống tích cực. Đây là trọng tâm mở ra triển vọng cho mọi trọng tâm khác.
Hãy nhớ rằng mô thức của bạn là nguồn gốc hình thành thái độ và hành vi của bạn. Mô thức cũng giống như một cặp kính, nó ảnh hưởng đến cách bạn nhìn nhận mọi thứ trong cuộc sống của mình. Những điều trong cuộc sống, khi nhìn bằng mô thức các nguyên tắc đúng đắn, sẽ rất khác biệt với khi nhìn bằng các mô thức trọng tâm khác.
Để nhanh chóng hiểu được sự khác biệt do trọng tâm tạo nên, chúng ta hãy xem xét một vấn đề cụ thể bằng các trọng tâm khác nhau. Bạn hãy lần lượt nhìn qua từng lăng kính một để cảm nhận phản ứng từ mỗi trọng tâm khác nhau ra sao ở ví dụ sau:
Giả sử tối nay bạn rủ vợ đi xem hòa nhạc. Bạn đã mua vé và cô ấy rất háo hức. Lúc này là 4 giờ chiều.
Đột nhiên, sếp gọi bạn vào phòng và nói ông ấy muốn bạn chuẩn bị ngay tài liệu cho một cuộc họp quan trọng sẽ diễn ra vào 9 giờ sáng hôm sau.
Nếu bạn xem trọng gia đình, trọng tâm của bạn sẽ là vợ mình. Bạn có thể nói với sếp rằng bạn không thể ở lại làm việc và bạn cùng vợ đi xem hòa nhạc vì đã lên kế hoạch. Bạn cũng có thể cảm thấy cần ở lại làm việc để tránh các rắc rối về sau trong quan hệ với sếp, nhưng bạn sẽ làm như thế một cách miễn cưỡng. Nếu ở lại làm việc, bạn cảm thấy rất lo lắng về phản ứng của vợ và tìm cách biện hộ cho quyết định của mình để tránh làm vợ thất vọng và giận dỗi.
Nếu bạn xem trọng tiền bạc, suy nghĩ chính của bạn sẽ là thu nhập làm thêm giờ hay hệ quả của việc làm thêm giờ đối với khả năng tăng lương, thăng chức sau này. Bạn sẽ gọi điện thoại cho vợ bảo rằng bạn phải ở lại làm việc ngoài giờ và nghĩ rằng cô ấy sẽ thông cảm vì vấn đề tài chánh phải đặt lên hàng đầu.
Nếu xem trọng công việc, bạn có thể suy nghĩ về cơ hội. Bạn có thể học được nhiều hơn qua công việc. Bạn có thể “lấy điểm” với sếp và qua đó củng cố sự nghiệp của mình. Bạn có thể tự khen mình đã sáng suốt làm thêm ngoài giờ, một bằng chứng cho
thấy bạn là nhân viên rất nhiệt tình và vợ bạn sẽ tự hào về bạn.
Nếu xem trọng tài sản, bạn có thể nghĩ đến những thứ có thể mua được nhờ thu nhập làm việc thêm giờ. Hoặc bạn có thể cho rằng uy tín của bạn tại công ty – cũng là một thứ tài sản – sẽ tăng lên nếu bạn ở lại làm thêm giờ. Ngày mai, mọi người sẽ được biết bạn là một nhân viên đáng quý, dám hy sinh và tận tụy trong công việc như thế nào.
Nếu lấy thú vui làm trọng, bạn có thể từ chối đề nghị của sếp và đi xem hòa nhạc, mặc dù vợ bạn có thể muốn bạn ở lại công sở để làm thêm ngoài giờ. Bạn nghĩ rằng mình xứng đáng được hưởng một buổi tối thoải mái.
Nếu xem bạn bè là trọng, bạn sẽ cân nhắc có nên mời bạn bè cùng đi xem hòa nhạc với vợ chồng bạn hay không. Hoặc bạn quan sát xem bạn bè, đồng nghiệp của bạn có cùng bạn ở lại làm ngoài giờ hay không.
Nếu lấy đối thủ làm trọng, bạn có thể đồng ý ở lại làm việc muộn vì bạn biết điều này sẽ làm tăng lợi thế cho bạn, giúp bạn “qua mặt” đối thủ. Trong khi “hắn” đi chơi, thì “mình” cố gắng làm việc cật lực, cả công việc của “mình” lẫn của “hắn”. Bạn quyết hy sinh thú vui riêng vì cơ hội được chứng tỏ năng lực của mình trước sếp, đồng thời “hạ bệ” đối thủ.
Nếu xem tôn giáo là trọng, quyết định của bạn có thể bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ rằng làm một “tín đồ gương mẫu” thì bạn cần phải xử lý sao cho đúng mực trong tình huống này.
Nếu bạn xem bản thân mình là trọng, bạn sẽ tập trung vào việc gì có lợi nhất cho bạn: ghi điểm với sếp hay dành cho vợ một buổi tối lãng mạn? Mối quan tâm chính của bạn là các phương án khác nhau sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích cá nhân. Khi sử dụng nhiều cách khác nhau để xem xét một vấn đề, trong sự tương tác hàng ngày với những người xung quanh, bạn có ngạc nhiên khi gặp phải vấn đề về cách nhìn “cô gái/bà lão” hay không? Bạn có nhìn thấy các trọng tâm này ảnh hưởng như thế nào đến các động cơ, quyết định hàng ngày, đến hành động (hay phản ứng), đến lý giải của bạn về các sự kiện đó hay không? Đó là lý do vì sao sự hiểu biết về trọng tâm trở nên rất quan trọng. Và nếu trọng tâm đó không làm cho bạn trở thành một người luôn chủ động, bạn cần phải thay đổi mô thức để chuyển sang trọng tâm khác có thể giúp bạn thực hiện được điều này.
Là người lấy nguyên tắc làm trọng tâm, bạn luôn cố gắng tách mình ra khỏi những cảm xúc do hoàn cảnh và các nhân tố khác mang lại để đánh giá các phương án khác nhau trong cuộc sống. Hãy nhìn nhận mọi việc trong tổng thể – nhu cầu làm việc, nhu cầu tình cảm gia đình, các nhu cầu khác cũng như các hệ quả đến từ những quyết định khác nhau – để đưa ra giải pháp tốt nhất.
Việc bạn chọn đi xem hòa nhạc hay ở lại làm them ngoài giờ chỉ là một phần rất nhỏ của một quyết định có hiệu quả. Có thể bạn có lựa chọn giống nhau với các trọng tâm khác nhau, nhưng sẽ có nhiều khác biệt đáng kể khi bạn xuất phát từ mô thức lấy nguyên tắc làm trọng tâm.
Trọng tâm An toàn Định hướng Khôn ngoan Năng lực
Nếu bạn lấy Sự an toàn của Các nguyên tắc Sự suy xét của Năng lực của bạn
nguyên tắc làm bạn dựa vào các giúp bạn định bạn bao gồm chỉ bị hạn chế
trọng tâm nguyên tắc đúng hướng đâu là những kết quả lâu bởi sự hiểu biết
đắn, không thay đích đến và cách dài, phản ánh sự và tuân theo quy
đổi, bất kể điều thức để đi đến cân bằng, khôn luật tự nhiên, các
kiện hay hoàn đó. ngoan và chắc nguyên tắc đúng
cảnh bên ngoài. Bạn sử dụng số chắn. đắn cũng như hậu
Bạn biết rằng các liệu chính xác để Bạn nhìn sự vật quả tự nhiên của
nguyên tắc đúng đưa ra quyết định khác đi, suy nghĩ chính các nguyên
đắn có thể được khả thi và có ý và hành động tắc.
trải nghiệm nhiều nghĩa. khác với phần Bạn trở thành một
lần trong cuộc Bạn đứng tách lớn những người cá nhân biệt tự
sống của bạn. riêng khỏi thực bị động. nhận thức, có
Là thước đo về trạng cuộc sống, Bạn nhìn thế giới kiến thức, luôn
sự hoàn thiện của tình cảm và hoàn thông qua mô chủ động, hầu
bản thân, các cảnh, nhìn vào thức cơ bản – mô như không bị hạn
nguyên tắc đúng tổng thể cân bằng. thức này làm cho chết bởi thái độ,
đắn hoạt động Quyết định và cuộc sống có hiệu hành vi, hành
với sự chính xác, hành động của quả trong tương động của người
nhất quán, vẻ đẹp bạn phản ánh sự lai. khác.
và sức mạnh. cân nhắc và hậu Bạn nhìn thế giới Khả năng hành
Các nguyên tắc quả cả ngắn lẫn qua những đóng động vượt xa các
đúng đắn giúp dài hạn. góp của mình cho nguồn lực của
bạn hiểu được sự Trong mọi hoàn cuộc sống và cho bạn và khuyến
phát triển của bản cảnh, bạn chủ những người xung khích cách sống
thân, cho bạn động chọn giải quanh. phụ thuộc lẫn
niềm tin để học pháp tốt nhất, đặt Bạn có lối sống nhau ở mức cao.
nhiều hơn, nhờ đó các quyết định luông luôn chủ Quyết định và
có them kiến thức dựa trên lương động, theo đuổi hành động của
và hiểu biết. tâm được các việc phục vụ và bạn khong bị thúc
Nguồn lực an nguyên tắc định giúp đỡ người đẩy bởi sự hạn
toàn sẽ là một hướng. khác. chế hiện thời về
nền tảng cố định, Bạn lý giải mọi tài chính hay
bất biến để bạn kinh nghiệm trong hoàn cảnh. Bạn
xem thay đổi như cuộc sống dưới được tự do trong
là một cuộc phiêu góc độ các cơ hội mối quan hệ
lưu và cơ hội lý để học tập và tương thuộc.
thú để được cống đóng góp.
hiến.
Trước hết, bạn hành động không phải do tác động của người khác hay do hoàn cảnh. Bạn chủ động trong việc lựa chọn giải pháp bạn cho là tốt nhất. Bạn đưa ra quyết định của mình một cách có ý thức và có hiểu biết.
Thứ hai, bạn biết quyết định của mình đưa ra là hiệu quả nhất vì nó được dựa trên các nguyên tắc với những kết quả lâu dài có thể dự đoán được.
Thứ ba, điều bạn lựa chọn sẽ đóng góp cho những giá trị tối ưu trong cuộc đời bạn. Quyết định “ở lại làm thêm giờ để có lợi thế hơn người khác tại công ty” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác so với mục đích muốn đóng góp cho sự vững mạnh của công ty hay biểu hiện sự tôn trọng sếp của bạn. Kinh nghiệm bạn có được khi thực hiện các quyết định của mình sẽ đem lại chất lượng và ý nghĩa cho cả cuộc sống của bạn.
Thứ tư, bạn có thể giao tiếp với vợ và sếp của bạn trong mạng lưới vững chắc các mối quan hệ tương thuộc mà bạn đã tạo ra. Vì là người độc lập, nên bạn có thể có được các quan hệ này một cách hiệu quả. Nếu nắm chức vụ cao trong công ty, bạn có thể giao việc chuẩn bị tài liệu cho cấp dưới đáng tin cậy của mình, trong khi vẫn có thể đi xem hòa nhạc cùng vợ. Phần việc quan trọng còn lại, bạn có thể đến công ty thật sớm vào sáng hôm sau để giải quyết nốt.
Cuối cùng, bạn cảm thấy dễ chịu về quyết định của mình. Bất cứ việc gì bạn quyết định thực hiện, bạn đều tập trung hết sức để hoàn thành một cách vui vẻ, thoải mái nhất.
Là người lấy nguyên tắc làm trọng tâm, bạn sẽ có một cái nhìn khác về mọi việc. Và vì thế, bạn sẽ hành động khác. Khi đạt được sự an toàn, định hướng, khôn ngoan và năng lực ở mức độ bền vững và ổn định, bạn sẽ có được nền tảng cho một cuộc sống luôn chủ động và thành đạt.
11. THIẾT LẬP VÀ VẬN DỤNG
BẢN TUYÊN NGÔN SỨ MÊNH CÁ NHÂN
Khi đi sâu vào bên trong con người mình, hiểu và điều chỉnh các mô thức cơ bản cho phù hợp với các nguyên tắc, chúng ta sẽ tạo ra được một trọng tâm hiệu quả, mạnh mẽ và một thấu kính để nhìn thế giới xung quanh. Sau đó, ta mới điều chỉnh tiêu cự của nó để liên hệ với thế giới một cách hữu hiệu nhất.
Frankl nói rằng chúng ta phát hiện chứ không phải phát minh ra sứ mệnh cuộc đời của mình. Tôi rất thích cách dùng từ của ông. Tôi nghĩ mỗi chúng ta đều có một chiếc máy theo dõi đặt bên trong, hoặc tri giác, hoặc nhận thức – những thứ giúp chúng ta nhận biết tính đơn nhất và khả năng đóng góp của từng cá nhân. Theo lời Frankl: “Mỗi cá nhân đều có một sự nghiệp hay sứ mệnh riêng biệt trong đời và không thể thay đổi vì họ chỉ sống được một lần. Vì vậy, mỗi người có một nhiệm vụ riêng và những cơ hội riêng để thực hiện nó”.
Chúng ta cần lưu ý tầm quan trọng đặc biệt của tính luôn chủ động và việc tập trung vào Vòng tròn Ảnh hưởng của chúng ta. Đi tìm vài ý nghĩa trừu tượng đối với cuộc sống bên trong Vòng tròn Quan tâm chính là hành vi từ bỏ trách nhiệm luôn chủ động, phó mặc việc sáng tạo lần thứ nhất của mình cho hoàn cảnh hay người khác.
Ý nghĩa cuộc sống xuất phát từ nội tâm, theo lời Frankl: “Xét cho cùng, người ta không nên hỏi ý nghĩa cuộc sống của mình là gì mà nên hiểu chính bản thân mình phải là người trả lời câu hỏi đó. Nói cách khác, mỗi người đều bị cuộc sống chất vấn, và anh ta chỉ có thể trả lời bằng cuộc sống của mình, bằng việc có trách nhiệm với nó”.
Trách nhiệm cá nhân hay tính luôn chủ động đóng vai trò quan trọng trong sự sáng tạo lần thứ nhất. Trở lại phép ẩn dụ về máy vi tính, thói quen thứ nhất cho rằng “Bạn là người lập trình”, còn theo thói quen thứ hai, “Bạn hãy viết ra chương trình”. Bạn sẽ không thực sự đầu tư vào việc “viết chương trình” nếu bạn chưa nhận thấy trách nhiệm của mình là “người lập trình”.
Là người chủ động, chúng ta có thể quyết định trở thành loại người nào và làm gì trong cuộc sống của mình. Chúng ta có thể viết ra một bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân, một bản “hiến pháp” cá nhân.
Bản tuyên ngôn sứ mệnh không phải là thứ bạn có thể viết được ngay. Nó đòi hỏi sự suy ngẫm, phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng và thường được viết đi viết lại nhiều lần để có được sự hoàn chỉnh. Có thể bạn phải mất nhiều tuần lễ hay thậm chí nhiều tháng để có thể có được bản tuyên ngôn vừa ý. Dù như vậy, bạn vẫn muốn thường xuyên xem lại và bổ sung, sửa đổi hàng năm, do nảy sinh những ý tưởng mới hoặc do hoàn cảnh thay đổi.
Nhưng về cơ bản, tuyên ngôn sứ mệnh của bạn được ví như một bản “hiến pháp” thể hiện nhất quán tầm nhìn và các giá trị của bạn. Nó sẽ trở thành tiêu chuẩn để bạn đối chiếu, đánh giá mọi khía cạnh cuộc sống.
Tôi thường xem đi xem lại bản tuyên ngôn của mình và chỉ mới hoàn tất nó trong thời gian gần đây. Mỗi khi ngồi một mình trên bãi biển hay trong những lúc dừng chân sau một chặng đường dài, tôi lại lấy ra cuốn sổ tay và ghi chú những điều đã làm được hay chưa làm được. Có khi phải mất vài tiếng đồng hồ mới xong việc đó, nhưng nó mang lại cho tôi cảm giác sáng tỏ, có tổ chức và có trách nhiệm, một cảm giác hân hoan và tự do.
Tôi nhận ra quá trình làm công việc này cũng quan trọng như kết quả của nó. Lập ra hay sửa chữa, bổ sung bản tuyên ngôn sứ mệnh sẽ làm bạn thay đổi bởi vì nó buộc bạn phải suy nghĩ về các ưu tiên của mình một cách thấu đáo, thận trọng và gắn liền hành động với niềm tin của bạn. Khi bạn làm được điều đó, người khác sẽ nhận thấy bạn không còn bị động trước bất cứ điều gì xảy đến. Bạn sẽ ý thức được sứ mệnh cần thực hiện và sẽ rất tự hào về điều đó.
12. VẬN DỤNG TƯ DUY Ở TẦM CAO MỚI
Khả năng tự nhận thức giúp chúng ta đánh giá tư duy của chính mình. Điều này đặc biệt có ích trong việc xây dựng tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân, cho phép chúng ta thực hiện Thói quen thứ hai – trí tưởng tượng và nhận thức, hai chức năng chủ yếu của bán cầu não phải. Hiểu được cách khai thác khả năng não phải sẽ làm tăng đáng kể khả năng sáng tạo lần thứ nhất của chúng ta.
Rất nhiều công trình nghiên cứu lớn đã được tiến hành trong nhiều thập kỷ qua về tính ưu thế của não bộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy mỗi bán cầu não có xu hướng chuyên môn hóa và có ưu thế về một số chức năng khác nhau, xử lý các loại thông tin khác nhau, giải quyết các loại vấn đề khác nhau.
Về cơ bản, bán cầu não trái có ưu thế về lô-gíc/ngôn từ, còn bán cầu não phải có ưu thế về trực giác và sáng tạo. Bán cầu trái xử lý lời nói, bán cầu phải xử lý hình ảnh; bán cầu trái xử lý bộ phận và chi tiết, bán cầu phải xử lý tổng thể và các mối quan hệ giữa các chi tiết. Bán cầu trái xử lý phân tích, nghĩa là chia nhỏ thông tin; bán cầu phải xử lý tổng hợp, nghĩa là tập hợp dữ liệu lại với nhau. Bán cầu trái xử lý tư duy theo tuần tự; bán cầu phải xử lý tư duy đồng thời và kết hợp.
Bán cầu trái gắn với thời gian, bán cầu phải tự do về thời gian. Mặc dù con người sử dụng cả hai bên não bộ, nhưng ở từng người bán cầu não bên này thường có xu hướng chiếm ưu thế hơn bên kia. Thật lý tưởng nếu chúng ta có thể khai thác và phát triển khả năng kết hợp cả hai bán cầu não cùng một lúc để có thể cảm nhận được tình huống xảy ra và chọn phương pháp thích hợp để xử lý. Thế nhưng, người ta lại có xu hướng rút vào “vùng an toàn” của bán cầu não chiếm ưu thế của mình và xử lý mọi tình huống theo bán cầu não này.
Theo lời Abraham Maslow7: “Ai hay dùng búa thường nghĩ mọi thứ đều là đinh”. Lại thêm một yếu tố khác nữa có ảnh hưởng đến các nhận thức khác nhau về hình ảnh “cô gái/bà lão”. Đó là sự tùy thuộc vào việc bán cầu não nào chiếm ưu thế hơn ở từng
người.
Chúng ta sống trong một thế giới mà bán cầu não trái chiếm phần lớn ưu thế. Lời nói, sự cân đo và logic chiếm vị trí thống lĩnh, còn khía cạnh sáng tạo, nghệ thuật, trực giác, cảm tính ở hàng thứ yếu. Nhiều người cảm thấy khó khăn hơn khi muốn khai thác tiềm năng não phải của mình.
Phải thừa nhận rằng cách lý giải trên đây là quá đơn giản, và chắc chắn các công trình nghiên cứu trong thời gian tới sẽ cho chúng ta nhiều hiểu biết hơn về hoạt động của não. Nhưng vấn đề chính ở đây là chúng ta có khả năng thực hiện nhiều quá trình tư duy khác nhau, nhưng chỉ chưa khai thác hết tiềm năng của mình mà thôi. Khi khám phá được những khả năng khác nhau của não bộ, chúng ta có thể sử dụng trí tuệ của mình một cách có ý thức để đáp ứng các nhu cầu cụ thể hiệu quả hơn.
13. HAI PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC TIỀM NĂNG
CỦA BÁN CẦU NÃO PHẢI
Nếu chúng ta sử dụng lý thuyết ưu thế của não bộ làm căn cứ, thì điều rõ ràng là chất lượng của sự sáng tạo lần thứ nhất của chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng khai thác não phải. Càng sử dụng được nhiều khả năng của nó, chúng ta càng có thể tưởng tượng, tổng hợp, chuyển hóa thời gian và hoàn cảnh cũng như phác thảo một bức tranh toàn cảnh về những điều chúng ta mong muốn trong cuộc sống của mình.
Mở rộng viễn cảnh cuộc sống
Đôi khi, chúng ta bị bứt ra khỏi môi trường, cấu trúc tư duy của bán cầu não trái và chuyển sang phải bởi một trải nghiệm bất ngờ. Cái chết của người thân, căn bệnh hiểm nghèo, khánh kiệt tài chính, hoặc tai ương nghịch cảnh có thể làm chúng ta bừng tỉnh, nhìn vào cuộc đời của mình, và tự hỏi bản thân những câu hỏi hóc búa: “Điều gì mới thực sự quan trọng nhất? Tại sao tôi phải làm điều tôi đang làm?”.
Nhưng nếu là người luôn chủ động, bạn sẽ không cần phải trông chờ vào hoàn cảnh hay sự giúp đỡ của người khác mới có thể mở rộng các viễn cảnh cuộc sống. Bạn có thể tự làm điều này một cách có ý thức.
Có một số phương pháp thực hiện nó. Chẳng hạn, dựa vào sức mạnh của trí tưởng tượng, bạn có thể tưởng tượng ra đám tang của chính bạn, như chúng ta đã làm ở phần đầu của chương này, hay viết ra bài điếu văn cho chính mình. Hãy viết thật lòng và thật chi tiết.
Bạn có thể tưởng tượng lễ kỷ niệm lần thứ 25 và 50 ngày cưới của bạn. Hãy để vợ hoặc chồng bạn cùng tưởng tượng với bạn. Cố gắng rút ra bản chất của mối quan hệ gia đình mà bạn đã xây dựng trong suốt 25 hay 50 năm đó.
Bạn có thể tưởng tượng viễn cảnh bạn nghỉ hưu. Bạn muốn có thành tích gì, cống hiến gì trong sự nghiệp của mình? Bạn có kế hoạch gì sau khi nghỉ hưu?
Bạn muốn bắt đầu một nghề thứ hai? Hãy mở rộng tâm trí mình. Hãy tưởng tượng ra
những chi tiết phong phú nhất. Hãy sử dụng càng nhiều giác quan càng tốt.
Tôi đã từng thử nghiệm những bài tập tưởng tượng tương tự với các lớp học của tôi tại trường đại học. “Giả dụ rằng các em chỉ còn sống hết học kỳ này thôi”, tôi nói với sinh viên, “và trong học kỳ này mỗi em phải trở thành một sinh viên tốt của trường. Hãy tưởng tượng xem các em nên làm những gì, nên sống như thế nào”.
Lập tức mọi thứ được đặt vào một viễn cảnh khác hẳn. Những giá trị trước đây không nhận thấy nay bỗng xuất hiện rõ nét.
Tôi cũng yêu cầu từng sinh viên sống với viễn cảnh của mình trong vòng một tuần và ghi nhật ký những trải nghiệm của mình. Kết quả rất đáng khích lệ. Các em bắt đầu viết thư cho cha mẹ để bày tỏ tình cảm, rằng chúng yêu quý họ như thế nào. Những sinh viên đang bất hòa với anh chị em, hay bạn bè thì cố gắng hàn gắn lại.
Một đề tài trung tâm, xuyên suốt mọi hoạt động của giới trẻ và được ưu tiên hàng đầu
– đó là tình yêu. Với nhận thức rằng chỉ còn sống một thời gian ngắn nữa, những hành động và lời nói thiếu suy nghĩ, những lên án, đổ lỗi hay xúc phạm người khác đối với các em nay trở thành vô nghĩa. Những nguyên tắc và giá trị của cuộc sống giờ trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Có một số phương pháp sử dụng trí tưởng tượng để tiếp cận với những giá trị. Và mọi phương pháp tôi từng sử dụng đều có hiệu quả như nhau. Khi người ta thực hiện quyết tâm tìm ra điều gì là quan trọng nhất đối với cuộc sống, trở thành con người như thế nào và muốn làm gì, thì họ sẽ trở nên rất cung kính. Họ bắt đầu có tư duy ở tầm cao hơn hiện tại và cả tương lai.
Hình dung và quyết tâm thực hiện
Lãnh đạo bản thân không phải là một trải nghiệm đơn lẻ, cũng không phải là sự bắt đầu và kết thúc bằng việc viết ra tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân. Đúng hơn, đó là một quá trình liên tục nhằm duy trì tầm nhìn và những giá trị để điều chỉnh nhịp sống sao cho phù hợp với những gì bạn cho là quan trọng nhất. Và trong nỗ lực đó, sức mạnh của bán cầu não phải có thể sẽ có ích cho bạn, khi bạn muốn gắn kết tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân của mình vào cuộc sống. Đó là một ứng dụng khác của thói quen bắt đầu từ mục tiêu đã được xác định.
Chúng ta hãy quay trở lại ví dụ đã đề cập trước đây. Giả sử tôi là người cha biết yêu thương con cái và tôi cho đó là một trong những giá trị cơ bản trong bản tuyên ngôn sứ mệnh của mình. Và, giả sử trong cuộc sống hàng ngày, tôi thường có những hành động thái quá.
Tôi có thể sử dụng khả năng hình dung của bán cầu não phải để viết ra một bản quyết tâm giúp bản thân trở nên phù hợp với những giá trị sâu sắc hơn của mình trong cuộc sống hàng ngày.
Một bản quyết tâm đúng gồm năm thuộc tính cơ bản: cá nhân, tích cực, ở thì hiện tại, có thể hình dung được và thuộc về tình cảm. Như vậy, tôi có thể viết đại loại như sau:
“Điều đáng hài lòng (tình cảm) là tôi (cá nhân) đang phản ứng (thì hiện tại) bằng sự khôn ngoan, tình yêu thương, tính kiên định và tự chủ (tích cực) mỗi khi con cái có hành vi sai lệch”.
Sau đó tôi có thể hình dung ra nó. Tôi có thể dành vài phút mỗi ngày để hoàn toàn thư giãn cả tâm hồn lẫn thể xác của mình, suy nghĩ về các tình huống khi con cái tôi có hành vi không đúng, mường tượng ra chúng một cách cụ thể. Tôi có thể cảm nhận mặt ghế tôi ngồi, sàn nhà dưới chân mình, chiếc áo tôi đang mặc. Tôi có thể hình dung chiếc áo con gái tôi mặc, nét mặt của nó. Các chi tiết tôi hình dung càng rõ ràng, sinh động bao nhiêu, tôi sẽ càng cảm nhận sự trải nghiệm của mình sâu sắc hơn bấy nhiêu, và càng ít có cảm giác là người đứng ngoài quan sát bấy nhiêu.
Tôi có thể hình dung viễn cảnh con gái tôi có một hành động cụ thể nào đó mà thông thường, điều này làm tim tôi đập thình thịch và nổi cơn thịnh nộ. Nhưng thay vì phản ứng như thường lệ, tôi lại có được sự tự chủ như đã nêu trong bản quyết tâm trên. Tôi có thể viết thành chương trình, thành “kịch bản” phù hợp với những giá trị và tuyên ngôn sứ mệnh của mình.
Nếu tôi thực hiện như vậy ngày này qua ngày khác, hành vi của tôi sẽ thay đổi. Thay vì sống theo các “kịch bản” do cha mẹ viết ra, hoặc do xã hội hay môi trường đem lại, tôi sẽ sống theo “kịch bản” do chính tôi viết ra, xuất phát từ hệ thống các giá trị mà mình lựa chọn.
Tôi đã giúp đỡ và động viên con trai mình, Sean, sử dụng quá trình xây dựng bản quyết tâm này trong suốt sự nghiệp chơi bóng bầu dục của nó. Chúng tôi hướng dẫn nó thực hiện điều này khi nó còn chơi ở vị trí trung vệ tại trường trung học, cho đến khi tự nó xây dựng bản quyết tâm đầu tiên của mình.
Chúng tôi cố gắng làm cho cu cậu có trạng thái tâm lý thoải mái nhất bằng kỹ thuật thở sâu và thư giãn các cơ bắp. Rồi tôi giúp cu cậu hình dung viễn cảnh bản thân đang trong một tình huống rất gay go như có một cú lao bóng chớp nhoáng vào thẳng mình. Nó sẽ phải phán đoán tình huống và phản ứng lại cú tấn công đó. Nó sẽ phải hình dung việc ra hiệu cho đồng đội sau khi phán đoán hướng phòng ngự. Nó phải hình dung cú đón bóng, rồi cú nhận bóng thứ hai, thứ ba. Nó sẽ phải hình dung ra các phương án mà thông thường nó không thực hiện.
Có lần, nó tâm sự với tôi rằng nó luôn cảm thấy bị quá căng thẳng. Khi chúng tôi nói chuyện với nhau, tôi mới nhận ra nguyên nhân sâu xa là do nó đang tự kỷ ám thị quá mức về tình trạng căng thẳng đó. Do vậy, tôi hướng dẫn nó tập trung vào các biện pháp thư giãn những lúc bị sức ép. Chúng tôi phát hiện ra bản chất của sự hình dung là rất quan trọng. Nếu hình dung chệch đối tượng, bạn sẽ hành động sai.
Tiến sĩ Charles Garfield đã thực hiện cuộc nghiên cứu sâu rộng về những người đạt thành tích đỉnh cao, cả trong thể thao và kinh doanh. Trong công trình nghiên cứu Chương trình của NASA, Charles Garfield đã bị lôi cuốn bởi những thành tích đỉnh
cao của các nhà du hành vũ trụ. Họ luyện tập mọi thứ trên mặt đất, lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần các động tác mô phỏng trong môi trường giả định, trước khi bay lên không gian vũ trụ.
Một trong những kết quả nghiên cứu chính của ông là việc phát hiện ra rằng hầu hết các vận động viên đẳng cấp thế giới và các nhà hoạt động chuyên nghiệp hàng đầu khác đều là những người có óc hình dung rất tốt. Họ nhìn thấy; họ cảm thấy; họ trải nghiệm trước khi thực sự hành động. Họ thường bắt đầu bằng cách đặt ra đích đến trong tâm trí.
Về phần mình, bạn cũng có thể thực hiện điều này trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trước một cuộc biểu diễn, một buổi thuyết trình bán hàng, một cuộc đối đầu khó khăn, bạn hãy hình dung viễn cảnh của nó một cách rõ ràng, sinh động, thường xuyên và lặp đi lặp lại. Đồng thời, cũng nên cố gắng tạo ra một “vùng bình yên” trong tâm hồn để khi bước vào tình huống thật, bạn sẽ không thấy bỡ ngỡ và sợ hãi.
Bán cầu não phải, vốn chi phối tính sáng tạo và óc hình dung, là tài sản quan trọng nhất của bạn, không chỉ đối với việc lập tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân mà còn đối với việc áp dụng nó vào thực tế cuộc sống.
Một số công trình gần đây trong lĩnh vực này có thể kể đến như Lập trình hóa tiềm thức, Lập trình hóa ngôn ngữ não bộ, Các hình thức thư giãn mới và Các phương pháp độc thoại. Tất cả các vấn đề này đều có liên quan đến việc giải thích, chi tiết hóa và tập hợp các nguyên tắc khác nhau của quá trình sáng tạo lần thứ nhất.
Trong quá trình lãnh đạo bản thân một cách có hiệu quả, các phương pháp hình dung và quyết tâm thực hiện xuất hiện một cách tự nhiên từ nền tảng tư duy có mục đích và các nguyên tắc đã trở thành trọng tâm trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Những kỹ thuật này rất có tác dụng trong việc viết lại “kịch bản” và tái lập trình, trong việc lập ra các bản quyết tâm đó. Tôi tin rằng những nguyên tắc chính của mọi xã hội, mọi thời đại, mọi nền văn minh, mọi tôn giáo cũng như phương thức ứng dụng vào thực tế cuộc sống đều giống nhau, dù được che đậy dưới nhiều lớp vỏ ngôn từ khác nhau – đạo đức, kinh thánh, thiền định, hiệp ước… – và nhiều hình thức khác nhau khi vận dụng trí tưởng tượng và nhận thức.
Nhưng nếu các phương pháp này trở thành một phần của Đạo đức Nhân cách, tách khỏi cơ sở của tính cách và các nguyên tắc, thì chúng có thể được sử dụng không đúng hoặc bị lạm dụng để phục vụ cho các trọng tâm khác, đặc biệt là trọng tâm bản ngã – lợi ích cá nhân.
Hình dung va quyết tâm thực hiện là các hình thức của lập trình hóa. Chúng ta cần tránh không để mình rơi vào việc lập trình không phù hợp với trọng tâm, hay lập trình dựa vào các trọng tâm tiền bạc, trọng tâm bản ngã hoặc các trọng tâm không dựa trên những nguyên tắc đúng đắn.
Trí tưởng tượng có thể được sử dụng để đạt được lợi ích thoáng qua. Nhưng tôi tin
rằng, muốn sử dụng khả năng này ở cấp độ cao hơn, chúng ta cần phải hòa hợp nó với lương tâm để bứt ra khỏi cái tôi của mình và xây dựng một cuộc sống nhằm cống hiến cho xã hội. Cuộc sống này dựa trên mục đích duy nhất và các nguyên tắc chi phối thực tại mang tính tương thuộc.
14. NHẬN DIÊN VAI TRÒ VÀ MỤC TIÊU
Trong khi bạn cố gắng mường tượng ra các hình ảnh, cảm xúc, hình tượng từ bán cầu não phải qua những lời lẽ trong tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân thì bán cầu não trái cũng góp phần quan trọng trong việc chi phối tính lô-gíc/ngôn từ. Cũng giống như việc tập thở sâu giúp kết hợp hài hòa thể xác và tâm hồn, viết lách là một loại hoạt động kết hợp cơ bắp, thần kinh, tâm lý giúp nối liền ý thức với tiềm thức, gạn đục khơi trong tư duy và tách tổng thể ra thành các bộ phận.
Mỗi người có nhiệm vụ, vai trò khác nhau trong cuộc sống, tùy theo năng lực và lĩnh vực hoạt động khác nhau trong từng phạm vi trách nhiệm. Chẳng hạn, những vai trò khác nhau của tôi là một cá nhân, một người chồng, người cha, người thầy, một tín đồ công giáo, một doanh nhân. Và mỗi vai trò này đều có tầm quan trọng như nhau đối với tôi.
Một trong những vấn đề cản trở quá trình đi lên của chúng ta trong cuộc sống là chúng ta không có được tầm nhìn khái quát, tổng thể. Chúng ta mất ý thức về sự cân bằng, về một hệ sinh thái tự nhiên cần thiết để sống có hiệu quả. Chúng ta có thể bị công việc cuốn đi mà không quan tâm đến sức khỏe của mình. Viện cớ tập trung cho sự nghiệp, chúng ta còn có thể bỏ rơi các mối quan hệ quý giá.
Bạn có thể có được bản tuyên ngôn sứ mệnh cân bằng hơn, dễ thực hiện hơn nếu chia nhỏ nó thành các lĩnh vực, trong đó, bạn nêu cụ thể vai trò và các mục tiêu muốn đạt được trong từng lĩnh vực. Hãy nhìn vào vai trò nghề nghiệp của bạn – một nhân viên bán hàng, một trưởng phòng hay một chuyên gia phát triển chiến lược kinh doanh. Những giá trị nào sẽ là phương hướng chủ đạo của bạn? Tiếp theo, hãy suy nghĩ về vai trò trong cuộc sống riêng của bạn – người chồng/vợ, người cha/mẹ, người láng giềng hay bạn bè. Bạn có vai trò thế nào trong các mối quan hệ đó? Đâu là điều quan trọng đối với bạn? Cuối cùng, hãy nghĩ về vai trò của bạn trong cộng đồng – các lĩnh vực chính trị, dịch vụ công cộng, các tổ chức tình nguyện…
Một nhà quản lý đã sử dụng ý tưởng về việc xác định vai trò và mục tiêu để xây dựng bản tuyên ngôn sứ mệnh như sau:
Sứ mệnh của tôi là sống trung thực và đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống của nhiều người khác.
Để hoàn thành được sứ mệnh này, tôi sẽ:
– Tham gia các hoạt động từ thiện: Đi tìm và yêu thương một hoặc nhiều người – bất kể hoàn cảnh họ như thế nào.
– Hy sinh: Dành thời gian, tài năng và nguồn lực để thực hiện sứ mệnh của mình.
– Truyền cảm hứng: Giảng giải bằng cách đưa dẫn chứng rằng tất cả chúng ta đều là những đứa con của Đấng thiêng liêng, đều có thể chiến thắng được mọi trở ngại.
– Ảnh hưởng tốt đến người khác: Hành động của tôi sẽ đem lại điều tốt đẹp cho cuộc sống của nhiều người khác.
Để thực hiện được sứ mệnh trên, những vai trò sau đây sẽ được tôi ưu tiên:
– Người chồng: Vợ tôi là người quan trọng nhất trong cuộc đời của tôi. Chúng tôi sẽ cùng nhau đóng góp cho kết quả của sự hòa hợp, công việc, từ thiện và tiết kiệm.
– Người cha: Tôi sẽ giúp đỡ con cái ngày càng sống vui vẻ hơn.
– Con trai /Anh em trai: Tôi luôn sẵn sàng để giúp đỡ và yêu thương.
– Tín đồ công giáo: Chúa có thể tin ở tôi rằng tôi sẽ giữ lời thề của mình và sẽ phụng sự những người con khác của Chúa.
– Hạt nhân của sự thay đổi: Tôi sẽ là chất xúc tác cho sự phát triển, nâng cao hiệu quả của tổ chức.
– Học giả: Mỗi ngày, tôi sẽ học thêm những điều mới.
Viết bản tuyên ngôn sứ mệnh của mình thông qua các vai trò quan trọng trong cuộc sống sẽ đem đến cho bạn sự cân bằng và hài hòa. Nó giúp bạn nắm giữ từng vai trò một cách rõ ràng. Bạn còn có thể thường xuyên kiểm điểm lại các vai trò của mình để bảo đảm rằng không bị thu hút quá mức vào một vai trò nào mà quên đi những vai trò quan trọng khác.
Sau khi nhận diện các vai trò khác nhau trong cuộc sống, bạn có thể nghĩ về các mục tiêu dài hạn mà bạn muốn hoàn thành cho từng vai trò của mình. Lúc này, chúng ta lại cần đến bán cầu não phải để có được trí tưởng tượng, sự sáng tạo, nhận thức và nguồn cảm hứng. Nếu những mục tiêu này mở rộng tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân dựa trên các nguyên tắc đúng đắn, chúng sẽ rất khác với các mục tiêu mà nhiều người thường đặt ra. Chúng sẽ phù hợp với các mô thức, các quy luật tự nhiên, cho bạn sức mạnh lớn hơn để thực hiện chúng. Đó không phải là những mục tiêu của người khác mà chính là của bạn. Chúng phản ánh những giá trị sâu sắc nhất, trí tuệ riêng và nhận thức về sứ mệnh của bạn. Chúng xuất phát từ các vai trò trong cuộc sống mà bạn đã lựa chọn.
Một mục tiêu hữu hiệu chủ yếu tập trung vào kết quả hơn là hoạt động. Nó sẽ chỉ cho bạn đâu là đích đến, và trong quá trình đó, giúp bạn xác định mình đang đứng ở đâu. Nó cho bạn thông tin quan trọng về cách đi đến đích cũng như thời gian bao lâu. Nó thống nhất những nỗ lực và nguồn lực của bạn, đem lại ý nghĩa và mục đích cho hành động của bạn. Và cuối cùng, nó có thể biến thành thói quen hàng ngày để bạn trở thành người luôn chủ động, biết chịu trách nhiệm về cuộc đời mình, biết nỗ lực để hoàn thành tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân của mình.
Các vai trò và mục tiêu sẽ cho bạn cấu trúc và phương hướng để bắt đầu xây dựng tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân. Chỉ cần nhận diện được các lĩnh vực khác nhau trong
cuộc sống của bạn và hai hoặc ba kết quả quan trọng cần phải đạt được trong mỗi lĩnh vực để tiến lên là bạn có thể có một viễn cảnh tổng thể cho cuộc sống và một nhận thức về phương hướng của bản thân.
Khi chuyển sang Thói quen thứ ba, chúng ta sẽ đi sâu hơn vào các mục tiêu ngắn hạn. Việc quan trọng lúc này là nhận diện các vai trò và mục tiêu dài hạn vì nó có liên quan mật thiết đến tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân của bạn.
15. TUYÊN NGÔN SỨ MÊNH GIA ĐÌNH
Vì Thói quen thứ hai được xây dựng theo các nguyên tắc nên phạm vi ứng dụng của nó rất rộng. Ngoài đối tượng là cá nhân thì gia đình, các nhóm, các tổ chức xã hội cũng sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu họ biết bắt đầu bằng một mục tiêu rõ ràng.
Nhiều gia đình thực hiện nếp sống dựa trên cơ sở các giai đoạn khó khăn, các giải pháp tạm thời và sự thỏa mãn trước mắt mà không phải trên các nguyên tắc đúng đắn. Các dấu hiệu bất ổn xuất hiện mỗi khi sự căng thẳng và sức ép tăng lên, khiến người ta trở nên hoài nghi, chỉ trích, bắt đầu la hét và có những hành động thái quá, hoặc rơi vào trạng thái trầm uất. Trẻ con được nuôi dưỡng trong một môi trường như thế, về sau thường nghĩ cách duy nhất để giải quyết mâu thuẫn là phản kháng hoặc thoái lui.
Nền tảng của mọi gia đình là những gì bất biến và luôn tồn tại, đó là tầm nhìn và những giá trị được chia sẻ. Bằng cách viết ra tuyên ngôn sứ mệnh gia đình, bạn sẽ thể hiện được những nền tảng vững chắc đó.
Tuyên ngôn sứ mệnh này sẽ trở thành bản “hiến pháp” của gia đình bạn. Nó là chuẩn mực, tiêu chí, thước đo để đánh giá và quyết định mọi vấn đề trong gia đình. Nó tạo ra tính liên tục và thống nhất cũng như định hướng tương lai cho gia đình. Khi các giá trị cá nhân hài hòa với các giá trị gia đình thì mỗi thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau hành động vì những mục đích chung mà họ đã nhận thức sâu sắc.
Viết và hoàn chỉnh tuyên ngôn sứ mệnh là cách chủ yếu để cải thiện cuộc sống gia đình. Cùng nhau tạo nên một tuyên ngôn sứ mệnh gia đình chính là xây dựng năng lực PC để thực hiện nó. Bằng cách tiếp nhận ý kiến từ các thành viên trong gia đình, soạn thảo, tiếp thu thông tin phản hồi, sửa đổi, bổ sung… bản tuyên ngôn, gia đình bạn sẽ có dịp trao đổi, bàn bạc về những vấn đề thực sự quan trọng.
Một tuyên ngôn sứ mệnh đúng đắn nhất là kết quả từ sự đóng góp của mọi thành viên trong gia đình trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có chính kiến riêng, cùng nhau hợp tác để tạo ra một cái chung lớn nhất – mà một thành viên khi đứng riêng lẻ không thể làm được. Thỉnh thoảng, bạn nên xem xét lại bản tuyên ngôn sứ mệnh gia đình để mở rộng viễn cảnh, điều chỉnh trọng tâm hay phương hướng, sửa đổi, bổ sung hoặc đưa vào những mục tiêu mới. Những việc làm này sẽ giúp các thành viên trong gia đình luôn thống nhất với nhau về những giá trị và mục đích chung.
Tuyên ngôn sứ mệnh sẽ trở thành khuôn khổ cho tư duy, cho việc cai quản gia đình. Vào những thời điểm khó khăn, nó sẽ nhắc nhở các thành viên về những điều quan
trọng nhất, cho họ phương hướng để giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định dựa trên các nguyên tắc đúng đắn.
Bạn nên treo bản tuyên ngôn sứ mệnh gia đình lên tường, trong phòng chung của gia đình để mọi người có thể nhìn thấy và tự giám sát mình hàng ngày.
Khi mọi thành viên đọc những lời nói về tình yêu thương, về sự độc lập có trách nhiệm, hợp tác, giúp đỡ, đáp ứng nhu cầu, phát triển tài năng, quan tâm và phụng sự người khác, thì họ sẽ tìm thấy một số chuẩn mực để hành động một cách có ý nghĩa nhất. Khi đặt ra kế hoạch và mục tiêu hoạt động của gia đình, ý nghĩ đầu tiên của chúng ta thường là: “Dưới ánh sáng của các nguyên tắc này, chúng tôi sẽ phấn đấu cho những mục đích gì? Chương trình hành động của chúng tôi ra sao để thực hiện mục tiêu và thể hiện các giá trị này?”.
Chúng ta sẽ thường xuyên nhìn lại bản tuyên ngôn và xác định lại mục tiêu cùng những việc cần làm ít nhất hai lần trong năm, để phản ánh thực trạng, cải thiện tình hình và củng cố nó. Điều đó sẽ làm đổi mới chúng ta, giúp ta cam kết lại điều đã hứa và vững tin vào mục tiêu đang phấn đấu.
16. TUYÊN NGÔN SỨ MÊNH TỔ CHỨC
Các tuyên ngôn về sứ mệnh cũng rất quan trọng đối với các tổ chức. Một trong những công việc chính của tôi với các tổ chức là giúp họ xây dựng các tuyên ngôn sứ mệnh một cách hiệu quả. Để làm được điều đó, không chỉ riêng các nhà hoạch định chiến lược mà mọi người trong tổ chức phải tham gia thật sự. Một lần nữa, phương pháp xây dựng bản tuyên ngôn cũng quan trọng như chính nội dung của nó, là chìa khóa để ứng dụng nó vào thực tiễn.
Mỗi lần đến công ty IBM để quan sát quy trình huấn luyện, tôi luôn cảm thấy rất phấn khích. Thỉnh thoảng, tôi thấy lãnh đạo công ty xuống gặp nhân viên và truyền đạt ba điều trọng yếu của IBM: phẩm cách của mỗi nhân viên, sự xuất sắc trong công việc và sự hoàn hảo trong phục vụ khách hàng.
Ba điều này đại diện cho Niềm tin IBM. Mọi thứ khác có thể thay đổi, nhưng ba nhân tố này thì không. Giống như sự thẩm thấu, hệ thống niềm tin này lan tỏa vào mọi ngóc ngách trong tổ chức của họ, tạo nên nền tảng vững chắc cho các giá trị chung cũng như sự an toàn cho mọi nhân viên.
Lần nọ, tôi tham gia huấn luyện một nhóm khoảng 20 người cho công ty IBM tại New York. Có một người trong nhóm bị bệnh. Anh ấy gọi điện báo cho vợ mình ở California. Cô ấy rất lo ngại vì bệnh của anh ấy cần được điều trị đặc biệt. Những người phụ trách lớp học của IBM dự tính đưa anh ấy đến một bệnh viện tốt có các bác sĩ chuyên khoa giỏi. Nhưng qua điện thoại, họ thấy vợ anh ấy không yên tâm: cô ấy thực sự muốn đưa chồng mình về nhà để bác sĩ riêng chữa trị.
Thế là họ quyết định đưa anh ấy về nhà. Vì sợ tốn nhiều thời gian nếu chờ chuyến bay theo lịch, họ quyết định dùng máy bay trực thăng chở anh ấy đến sân bay và thuê hẳn
một chiếc máy bay chỉ để đưa anh ấy về California.
Tôi không rõ toàn bộ chi phí cho sự việc trên là bao nhiêu; có lẽ phải đến vài ngàn đô-la. Đó là bằng chứng thuyết phục nhất về sự quý trọng nhân viên của IBM. Đối với những người có mặt trong khóa học thì đây là chính sách bình thường biểu thị niềm tin của IBM đối với nhân viên và họ không ngạc nhiên về việc đó. Nhưng riêng tôi cảm thấy rất ấn tượng.
Lần khác, tôi phụ trách một lớp huấn luyện cho 175 nhà quản trị của các trung tâm thương mại tại một khách sạn cao cấp. Tôi thực sự bất ngờ với chất lượng phục vụ của khách sạn này. Chất lượng của họ không nằm ở vẻ hào nhoáng thường thấy, mà từ bên trong, ở mọi cấp bậc, không cần đến bất kỳ hình thức kiểm tra, giám sát nào.
Tôi nhận phòng hơi muộn. Tôi hỏi nhân viên tiếp tân rằng nhà hàng còn mở cửa không và họ có thể phục vụ thức ăn tại phòng không. Anh ấy trả lời: “Không, thưa ông Covey, nhưng nếu ông muốn, tôi sẽ đi lấy bánh mì sandwich và rau trộn hay bất cứ món gì ông cần mà trong bếp chúng tôi còn”. Thái độ của anh ấy thể hiện sự quan tâm thật sự đến việc ăn ở và sự thoải mái của tôi.
“Ông có muốn đi xem phòng họp ngay bây giờ không?”, anh ấy tiếp tục hỏi, “Ông có đủ mọi thứ ông cần chưa? Ông có cần tôi giúp gì nữa không? Tôi luôn có mặt và sẵn sàng phục vụ ông!”.
Tôi không thấy có ai để mắt giám sát anh ấy cả. Người nhân viên này thực sự chân thành.
Ngày hôm sau, vào giữa buổi thuyết trình, tôi phát hiện ra là tôi đã không chuẩn bị sẵn bút dạ quang. Đến giờ giải lao, tôi ra hành lang và gặp một nhân viên đang phục vụ một phòng họp khác. “Tôi có chút rắc rối”, tôi nói, “Tôi đang giảng trong phòng họp kia và chỉ có vài phút nghỉ giải lao. Tôi rất cần một vài cây bút dạ quang, anh có thể giúp tôi không?”.
Anh ấy quay lại, lướt nhanh bảng tên trên ngực áo tôi và nói: “Thưa ông Covey, tôi sẽ lo việc này cho ông ngay”.
Anh ấy không nói “Xin lỗi, tôi không thể giúp ông được vì đang bận việc của mình” hay “Được rồi, ông thử hỏi tại bàn tiếp tân xem sao” mà rất sẵn lòng giúp đỡ. Rõ ràng, anh ấy rất vui khi làm việc đó.
Một lát sau, tôi đứng trong một góc tiền sảnh ngắm nhìn một vài tác phẩm nghệ thuật. Một nhân viên khách sạn bước đến và nói: “Thưa ông Covey, ông có muốn xem cuốn sách giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật trưng bày trong khách sạn này không?”. Sao mà đoán trúng ý tôi thế. Đúng là “tất cả vì khách hàng”.
Sau đó, tôi quan sát thấy một nhân viên đứng trên một chiếc thang đang lau cửa sổ phòng tiền sảnh. Từ trên cao, anh ấy trông thấy một người phụ nữ đang bước đi rất khó khăn ngoài sân với cây gậy trong tay. Bà ấy chưa đến nỗi té ngã và xung quanh còn có vài người khác. Nhưng anh ấy vẫn leo xuống, chạy ra sân và giúp bà ấy đi vào
tiền sảnh rồi mới trở lại làm nốt công việc của mình.
Tôi muốn tìm hiểu bằng cách nào mà khách sạn này có thể xây dựng thành công nét văn hóa trong đó các nhân viên nhận thức sâu sắc về giá trị phục vụ khách hàng như vậy. Tôi đã phỏng vấn các nhân viên phục vụ phòng, hầu bàn, vận chuyển hành lý và phát hiện ra rằng thái độ phục vụ này đã được thấm nhuần vào khối óc, con tim và trở thành một thói quen của mọi nhân viên làm việc tại đây.
Tôi bước qua cửa sau khách sạn để vào nhà bếp. Tại đây tôi nhìn thấy khẩu hiệu nói về giá trị trọng tâm “Phục vụ từng khách hàng vô điều kiện”. Cuối cùng, tôi đến gặp người quản lý khách sạn và nói: “Công việc của tôi là giúp các tổ chức xây dựng tinh thần đồng đội và văn hóa phục vụ. Nhưng tôi thực sự bất ngờ với những gì các bạn làm được tại đây”.
“Ông có muốn biết chìa khóa thực sự là gì không?”, người quản lý hỏi lại và đưa ra một tuyên ngôn sứ mệnh của hệ thống khách sạn này.
Sau khi đọc xong, tôi thừa nhận: “Đây quả là một tuyên ngôn đầy ấn tượng. Nhưng tôi biết có nhiều công ty cũng có những tuyên ngôn sứ mệnh rất ấn tượng”.
“Thế ông có muốn xem bản tuyên ngôn sứ mệnh riêng của chúng tôi không?”, anh ấy lại hỏi.
“Một bản tuyên ngôn cho riêng khách sạn này thôi à?” “Đúng vậy!”
“Nghĩa là khác với tuyên ngôn của hệ thống khách sạn này?”
“Đúng thế. Nó phù hợp với tuyên ngôn đó, nhưng tuyên ngôn này gắn liền với thực tế
, môi trường và thời gian của chúng tôi”, anh ấy đưa cho tôi một tờ giấy khác. “Thế ai lập ra bản tuyên ngôn sứ mệnh này?”, tôi hỏi.
“Tất cả mọi người”
“Tất cả mọi người? Có đúng là tất cả mọi người?” “Đúng thế!”
“Kể cả nhân viên phục vụ phòng?” “Đúng vậy!”
“Nhân viên hầu bàn?” “Vâng!”
“Nhân viên văn phòng?”
“Đúng. Ông có muốn xem tuyên ngôn sứ mệnh của nhóm nhân viên tiếp tân phục vụ ông tối qua không?”. Và anh ấy rút ra một bản tuyên ngôn sứ mệnh mà họ đã viết, gắn kết với những bản tuyên ngôn sứ mệnh khác. Tất cả mọi người, ở mọi cấp bậc, đều tham gia vào việc này.
Tuyên ngôn sứ mệnh của khách sạn đó có thể ví như cái trục của bánh xe lớn. Từ đó sinh ra các tuyên ngôn riêng của từng nhóm nhân viên cụ thể. Nó được dùng làm tiêu chuẩn để ra quyết định. Nó chỉ rõ họ đại diện cho những gì, họ liên hệ với khách
hàng như thế nào, liên hệ với nhau ra sao. Nó có ảnh hưởng đến phong cách của các nhà quản lý và lãnh đạo, đến các chính sách của công ty: lương bổng, tuyển dụng người mới, đào tạo và phát triển nhân viên… Tất cả mọi mặt của tổ chức đó, về cơ bản được tập trung vào cái trục gọi là tuyên ngôn sứ mệnh của tổ chức.
Sau này, tôi có dịp đến khách sạn khác trong cùng hệ thống khách sạn này. Yêu cầu đầu tiên của tôi là được xem bản tuyên ngôn sứ mệnh. Tôi được hiểu thêm về câu khẩu hiệu “Phục vụ từng khách hàng vô điều kiện.”
Trong thời gian ba ngày, tôi quan sát mọi tình huống cần đến sự phục vụ và nhận thấy chất lượng phục vụ ở đây rất ấn tượng và hoàn hảo. Việc phục vụ luôn được cá nhân hóa, nghĩa là phục vụ đến từng người. Chẳng hạn, tại khu vực bể bơi, tôi hỏi nhân viên hồ bơi chỗ nào có vòi nước uống, anh ấy dẫn tôi đến tận nơi.
Nhưng điều gây ấn tượng nhất đối với tôi là nhìn thấy một nhân viên dám tự mình nhận lỗi với cấp trên. Chúng tôi gọi món ăn phục vụ tại phòng và được cho biết thời điểm món ăn sẽ được chuyển đến. Trên đường đi, người phục vụ làm đổ nước sô-cô-la nóng, và phải mất vài phút để thay đồ uống, khăn lót. Do đó, họ chuyển món ăn lên phòng chậm mất 15 phút so với thời gian đã thông báo. Chúng tôi không có ý gì phàn nàn. Nhưng sáng hôm sau, người quản lý đã gọi điện thoại đến xin lỗi chúng tôi và mời chúng tôi bữa ăn sáng tự chọn hoặc được phục vụ miễn phí tại phòng như một cách để bù đắp sự chậm trễ đã gây ra.
Người ta sẽ nói thế nào về văn hóa của một tổ chức khi một nhân viên tự nhận lỗi của mình, cái lỗi chỉ mình anh ấy biết, với cấp trên để khách hàng, tức người thuê phòng, được chăm sóc tốt hơn?
Như đã nói, tôi biết nhiều công ty có bản tuyên ngôn sứ mệnh rất ấn tượng, nhưng có một sự khác biệt thực sự giữa tính hiệu quả của một bản tuyên ngôn do mọi người trong tổ chức cùng tham gia viết và bản tuyên bố chỉ do vài lãnh đạo chóp bu viết.
Một trong những vấn đề cơ bản trong các tổ chức, kể cả trong gia đình, là người ta không bận tâm đối với những quyết định do người khác đưa ra. Đơn giản là họ không tin những quyết định đó.
Rất nhiều lần khi làm việc với các tổ chức, tôi gặp những người có mục tiêu hoàn toàn khác với mục tiêu của tổ chức. Tôi cũng thường thấy các chính sách khen thưởng hoàn toàn không ăn khớp với các hệ thống giá trị được nêu ra.
Mỗi khi bắt đầu làm việc với một công ty, tôi đều hỏi họ: “Có bao nhiêu người ở đây biết là các ông có bản tuyên ngôn sứ mệnh này? Có bao nhiêu người trong số các ông biết nội dung của nó nói gì? Có bao nhiêu người trong số các ông tham gia xây dựng bản tuyên ngôn này? Bao nhiêu người thực sự chấp nhận và sử dụng nó làm khung tham chiếu cho mình để đưa ra các quyết định?” .
Không tham gia, sẽ không có cam kết. Hãy đánh dấu và gạch dưới những chữ này: Không tham gia, nghĩa là sẽ không có cam kết thực hiện.”
Còn đối với giai đoạn ban đầu, khi một người mới vào tổ chức, hay khi đứa con trong gia đình còn nhỏ, bạn có thể vạch ra cho họ thấy mục tiêu, và họ sẽ dễ dàng chấp nhận, đặc biệt nếu có mối quan hệ, định hướng và huấn luyện tốt.
Nhưng khi người ta trưởng thành hơn và cuộc sống có ý nghĩa riêng tư nhiều hơn, họ sẽ muốn được thật sự tham gia. Nếu không được tham gia, họ sẽ không chấp nhận mục tiêu do người khác áp đặt. Khi đó, bạn sẽ gặp vấn đề lớn về động cơ mà bạn không thể giải quyết ở trình độ tư duy như khi xây dựng mục tiêu.
Đó là lý do vì sao việc xây dựng bản tuyên ngôn sứ mệnh của tổ chức đòi hỏi phải có thời gian, sự kiên trì, kỹ năng, sự đồng cảm và sự tham gia của nhiều người. Một lần nữa, đây không phải là việc có thể hoàn thành ngay. Nó đòi hỏi thời gian, các nguyên tắc đúng đắn, sự chân thành, dũng cảm và trung thực để liên kết các hệ thống, cấu trúc, phong cách quản lý với tầm nhìn và các giá trị được mọi người trong tổ chức chia sẻ. Tuy nhiên, do dựa trên các nguyên tắc đúng đắn, việc xây dựng bản tuyên ngôn này sẽ thành công.
Bản tuyên ngôn sứ mệnh của tổ chức – một bản tuyên ngôn thực sự phản ánh tầm nhìn cũng như các giá trị được mọi người trong tổ chức thừa nhận và chia sẻ – sẽ tạo ra sự thống nhất và cam kết thực hiện rất mạnh mẽ, sẽ tạo ra trong tâm trí mọi người một khung tham chiếu, một bộ tiêu chí hay định hướng nhằm tự kiểm soát bản thân. Họ không cần người khác chỉ đạo, kiểm tra, phê bình vì đã biến những gì là trọng yếu của tổ chức thành thói quen của mình.
GỢI Ý ÁP DỤNG:
1. Dành chút thời gian để ghi lại cảm tưởng của bạn trong một lễ tang tưởng tượng như ở phần đầu chương này. Bạn có thể dựa vào bảng dưới đây để sắp xếp ý tưởng của mình.
Lĩnh vực hoạt động Tính cách Cống hiến Thành tích
Gia đình
Bạn bè
Công việc
Phục vụ cộng đồng, v.v…
2. Dành vài phút và viết ra vai trò của mình theo cách nhìn mới của bạn. Bạn có hài lòng với hình ảnh cuộc sống của mình không?
3. Sắp xếp thời gian để tiến hành viết bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân.
4. Bắt đầu sưu tầm các ghi chép và các ý tưởng bạn có thể dùng để làm tư liệu cho bản tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân của mình.
5. Nhận diện một viễn cảnh bạn sẽ gặp phải trong tương lai gần và áp dụng nguyên tắc sáng tạo tinh thần. Viết ra kết quả bạn mong muốn và những bước dẫn đến các kết quả đó.
6. Chia sẻ Thói quen thứ hai với gia đình hay cộng sự và gợi ý bạn sẽ cùng họ bắt đầu quá trình xây dựng bản tuyên ngôn sứ mệnh của gia đình hoặc của nhóm.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.