Bản Chất Của Dối Trá
Chương 2B
Môn Golf
Thuế thu nhập đang biến ngày càng nhiều người Mỹ thành kẻ dối trá hơn cả môn golf.
– WILL ROGERS
Trong một cảnh phim Huyền thoại về Bagger Vance, nhân vật của Matt Damon, Rannulph Junuh, đang cố gắng quay lại cuộc chơi, nhưng anh đã mắc một lỗi nghiêm trọng và đánh bóng văng vào rừng. Sau khi đưa bóng trở lại bãi cỏ, anh đã vung gậy ngay sát quả bóng để dọn đường cho cú đánh kế. Nhưng đường gậy của anh đã làm quả bóng khẽ lăn đi. Theo đúng luật, anh phải tính đó là một cú đánh hợp lệ. Vào thời khắc đó của trận đấu, Junuh đã ghi đủ điểm để vươn lên dẫn đầu và nếu lờ đi sự việc này, anh có thể sẽ chiến thắng, sẽ tạo nên một cú ngược dòng ngoạn mục và giành lại vinh quang trước đây. Chàng trợ thủ trẻ của anh đã khóc lóc nài nỉ Junuh bỏ qua pha chạm bóng. “Đó chỉ là tai nạn,” cậu nói, “và điều luật đó cũng thật ngu ngốc. Thêm nữa, sẽ chẳng ai biết đâu.” Junuh quay lại nhìn cậu và nghiêm giọng, “Nhưng tôi biết. Và cậu cũng biết.”
Ngay đến đối thủ của Junuh cũng cho rằng quả bóng chỉ khẽ lắc lư và trở lại ngay vị trí cũ, hay chính ánh nắng đã khiến Junuh lầm tưởng rằng bóng có di chuyển. Nhưng Junuh vẫn khăng khăng rằng quả bóng đã lăn. Kết quả, họ đã hòa nhau trong danh dự.
Cảnh phim trên được lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật trong Giải Mỹ Mở rộng năm 1925. Tay golf Bobby Jones đã phát hiện quả bóng chuyển động rất khẽ khi ông chuẩn bị cho cú đánh trên sân. Chẳng ai chứng kiến, thậm chí chẳng ai hay biết, nhưng ông vẫn tính nó thành một gậy cho chính mình và để thua cả trận đấu. Khi mọi người phát hiện ra điều ông làm và cánh phóng viên bắt đầu vây lấy ông, Jones đã yêu cầu họ đừng tường thuật lại sự việc và bảo rằng: “Các anh có khi lại ca ngợi tôi vì đã không cướp nhà băng cũng nên.” Khoảnh khắc huyền thoại về đức trung thực cao quý này cho đến nay vẫn được những người yêu thích bộ môn golf truyền tai nhau – như một lẽ tất yếu.
Với tôi, cảnh tượng này – cả trên phim lẫn trong đời thực – đã vẽ nên một hình ảnh lãng mạn lý tưởng trong bộ môn golf. Nó đã thể hiện sự tranh đấu nội tâm giữa một người đàn ông với bản thân anh ta, và làm nổi bật cả tài năng lẫn đức cao thượng. Có lẽ chính những phẩm chất tự thân, tự giác cùng chuẩn mực đạo đức cao đẹp là lý do khiến môn golf thường được ví với đạo đức trong kinh doanh (ở đây, ta sẽ không bàn đến việc nhiều doanh nhân đang dành quá nhiều thời gian trên sân golf). Không như các môn thể thao khác, golf không có trọng tài, người phân xử hay ban giám khảo để đảm bảo các đấu thủ luôn tuân thủ luật chơi hay ra tay can thiệp trong các tình huống tranh chấp. Người chơi golf, cũng như một doanh nhân, phải tự quyết định điều gì có thể hay không thể chấp nhận. Các tay golf và doanh nhân phải tự quyết định những việc họ sẵn sàng hoặc không sẵn sàng thực hiện, vì chẳng có ai giám sát hay kiểm tra họ trong phần lớn thời gian. Thực tế, ba nguyên tắc bất thành văn của môn golf chính là: (1) Đánh đúng chỗ bóng dừng, (2) đánh khi tìm được sân, và nếu bạn không làm được cả hai, (3) hãy chơi đẹp. Nhưng “đẹp” vốn dĩ là khái niệm rất khó định nghĩa. Xét cho cùng, nhiều người có thể sẽ không tính đến những thay đổi ngẫu nhiên và vụn vặt từ vị trí của quá bóng sau khi di chuyển gậy, và vẫn xem đó là “chơi đẹp”. Dường như chính việc bị xử phạt do quả bóng bất ngờ di chuyển mới đáng gọi là bất công.
BẤT CHẤP DI SẢN cao quý mà giới chơi golf vẫn cam đoan về môn thể thao của họ, ngày càng có nhiều người đánh giá môn thể thao này theo cách nhìn của Will Rogers: nó sẽ biến bất kỳ ai thành kẻ lừa dối. Hãy thôi suy nghĩ về điều đó, bạn sẽ thấy sự thật không đến nỗi bất ngờ. Trong môn golf, người chơi phải đánh quả bóng bé xíu trên một khoảng cách xa – và đầy chướng ngại – để đưa nó vào lỗ. Nói cách khác, đó là thử thách vô cùng khó khăn và mệt mỏi; và nếu phải tự đánh giá màn trình diễn của bản thân, sẽ có nhiều lúc chúng ta muốn dung túng đôi chút cho chính mình, nhất là khi tính điểm theo luật chơi.
Như vậy, với sứ mệnh tìm hiểu sâu hơn về thói bất lương, chúng tôi đã chuyển hướng tiếp xúc với khá nhiều golf thủ quốc gia. Năm 2009, Scott McKenzie (khi đó còn chưa tốt nghiệp trường Duke) và tôi đã cùng tiến hành một nghiên cứu; cụ thể, chúng tôi sẽ đặt cho vài nghìn tay golf một loạt câu hỏi về cách họ chơi bóng và – quan trọng nhất – cách họ gian lận. Chúng tôi yêu cầu họ hình dung ra các tình huống trong đó họ không bị ai quan sát (tình huống thông thường khi chơi golf), và họ có thể quyết định nên tuân thủ luật chơi (hay không) mà không phải bận tâm về hậu quả. Với sự trợ giúp của một công ty quản lý sân golf, chúng tôi đã gửi e-mail đến các tay golf trên khắp nước Mỹ, và đề nghị họ tham gia một khảo sát về golf với cơ hội nhận được một bộ dụng cụ chơi golf cao cấp. Khoảng 12 nghìn golf thủ đã hưởng ứng lời kêu gọi của chúng tôi, và dưới đây là những gì chúng tôi nhận được.
Dịch chuyển quả bóng
“Hãy hình dung”, chúng tôi hỏi người tham gia, “khi một tay golf bình thường tiến đến quả bóng, họ bỗng nhận ra họ sẽ có lợi thế lớn nếu quả bóng nằm xa hơn vị trí hiện tại khoảng 10cm. Bạn có cho rằng tay golf đó thông thường sẽ dịch chuyển quả bóng xa thêm 10cm hay không?”
Câu hỏi này được chúng tôi trình bày dưới ba phiên bản khác nhau, trong đó mỗi phiên bản sẽ tượng trưng cho một cách thức cải thiện vị trí bất lợi của quả bóng (nhân đây, cũng thật trùng hợp khi thuật ngữ chỉ vị trí quả bóng trong môn golf lại được gọi là “lie” – “dối trá”). Bạn có cho rằng một tay golf bình thường sẽ sẵn sàng (1) dùng gậy dịch chuyển quả bóng thêm 10cm; hoặc (2) dùng chân; hoặc (3) nhấc hẳn quả bóng lên và đặt xuống vị trí ưng ý?
Các câu hỏi “dịch chuyển bóng” nói trên được chúng tôi thiết kế nhằm khám phá liệu trong môn golf – cũng như trong các thí nghiệm trước của chúng tôi – khoảng cách từ hành vi bất chính có làm thay đổi khuynh hướng hành xử phi đạo đức hay không. Nếu yếu tố khoảng cách cũng có tác dụng giống như trong thí nghiệm “thẻ tượng trưng” được đề cập trước đó (xem lại Chương 2, “Cấp số giả dối”), chúng tôi sẽ dự đoán mức độ gian lận thấp nhất dành cho tình huống người chơi nhấc hẳn quả bóng bằng tay; mức độ gian lận cao thứ hai cho tình huống dùng chân dịch chuyển bóng; và mức độ gian lận cao nhất – tương đương với khoảng cách lớn nhất – khi người chơi sử dụng công cụ để dịch chuyển bóng (gậy đánh golf); vì nhờ thế, người chơi sẽ không phải tiếp xúc trực tiếp với quả bóng.
Kết quả đã cho thấy rằng: trong môn golf, tương tự như các thí nghiệm trước của chúng tôi, thói gian lận quả thực cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ khoảng cách tâm lý trong hành động. Việc gian lận bỗng trở nên đơn giản hơn khi có thêm nhiều bước chắn giữa chúng ta với hành vi bất chính. Những người tham gia trả lời cũng cảm giác rằng dịch chuyển quả bóng bằng gậy sẽ là cách dễ dàng nhất, và họ khẳng định một tay golf thông thường sẽ làm thế trong 23% thời gian thi đấu. Tiếp theo là hành vi “đá quả bóng” (14% thời gian); và cuối cùng, nhấc hẳn quả bóng lên chính là cách cải thiện vị trí bóng gây cắn rứt lương tâm nhất (chỉ 10% thời gian).
Kết quả trên đã chứng minh rằng: nếu chúng ta nhấc quả bóng lên và đặt lại nó, chúng ta sẽ không thể chối cãi mục đích và chủ ý hàm chứa trong hành động, và từ đó, chúng ta cũng không thể phớt lờ và phải thừa nhận mình đã có hành động phi đạo đức. Khi dùng giày đá quả bóng, khoảng cách của hành động được kéo giãn hơn đôi chút, nhưng chúng ta vẫn là người vừa “ra chân”. Nhưng khi vung gậy chạm nhẹ (đặc biệt nếu ta làm bóng dịch chuyển một cách thô thiển và thiếu chính xác), chúng ta có thể biện hộ cho hành động vừa rồi tương đối dễ dàng. “Suy cho cùng,” chúng ta sẽ tự nhủ, “có lẽ nhờ chút may mắn nào đó mà quả bóng đã di chuyển như vậy.” Trong trường hợp này, ta hoàn toàn có thể tha thứ cho bản thân.
Thực hiện lại cú đánh
Chuyện kể rằng: vào thập niên 1920, có một tay golf người Canada tên David Mulligan đang thi đấu cho một câu lạc bộ golf vùng Montreal. Một ngày nọ, ông phát bóng và cảm thấy không hài lòng về đường gậy của mình, nên đã đặt bóng xuống và thử lại lần nữa. Theo lời kể, ông đã gọi đó là một “cú đánh điều chỉnh”, nhưng các đồng đội của ông lại nghĩ “mulligan” nghe sẽ hay hơn nhiều; và từ hôm đó, tên ông đã trở thành thuật ngữ chính thức cho “cú đánh lại” trong môn golf.
Ngày nay, nếu cú đánh thật sự quá tệ, tay golf có thể xí xóa nó và xem như một “mulligan”; sau đó, anh ta sẽ đặt bóng trở lại điểm giao bóng, và tự ghi điểm như thể chưa từng thực hiện cú giao trên (một người bạn của tôi thậm chí còn gọi chồng cũ của vợ anh ta là “mulligan”). Nghiêm túc mà nói, những cú “mulligan” đều không hợp lệ, nhưng trong các trận giao hữu, người chơi đôi khi cũng ngầm đồng tình và cho phép. Hiển nhiên, dù “mulligan” được cho là sai luật hay hợp lệ, thì người chơi golf vẫn cứ thực hiện chúng; và những cú “mulligan” trái luật này chính là trọng tâm trong nhóm câu hỏi tiếp theo của chúng tôi.
Chúng tôi tiếp tục hỏi người tham gia về khả năng họ sẽ đánh những cú “mulligan” nếu biết chắc sẽ không bị người khác phát hiện. Trong tình huống nhất thứ nhất, chúng tôi hỏi họ về khả năng một người sẽ thực hiện cú “mulligan” sai luật ngay từ lỗ đầu tiên. Đến tình huống thứ hai, chúng tôi vẫn hỏi họ về khả năng thực hiện cú đánh trên, nhưng lần này ở lỗ thứ chín.
Cụ thể hơn, luật chơi không có sự phân biệt nào giữa hai hành động trên: chúng đều bị cấm. Đồng thời, việc hợp lý hóa một cú đánh lại dường như sẽ dễ dàng hơn nếu bóng còn ở lỗ thứ nhất, thay vì lỗ thứ chín. Nếu bạn đang ở lỗ thứ nhất và bắt đầu lại, bạn có thể giả vờ rằng: “giờ mình sẽ bắt đầu lại trận đấu, và kể từ giờ mình sẽ tính điểm mọi cú đánh.” Nhưng nếu bạn đã chơi đến lỗ thứ chín, bạn sẽ không thể giả vờ rằng cuộc chơi vẫn chưa bắt đầu. Điều này đồng nghĩa nếu bạn thực hiện một cú “mulligan”, bạn phải thừa nhận mình đã không tính một lượt đánh.
Đúng như dự đoán – dựa trên những gì đã biết về hành vi tự bào chữa cho bản thân từ những thí nghiệm trước – chúng tôi đã phát hiện ra sự khác biệt lớn trong việc các tay golf sẵn sàng thực hiện cú đánh lại. Những người tham gia đã dự đoán khoảng 40% golf thủ sẽ thực hiện cú “mulligan” ngay từ lỗ đầu tiên, trong khi (chỉ?) 15% golf thủ thực hiện nó ở lỗ thứ chín.
Thực tế lập lờ
Trong nhóm câu hỏi thứ ba, chúng tôi đã yêu cầu các tay golf thử hình dung họ đã mất đến 6 gậy để hoàn thành một lỗ chuẩn-5-gậy (một lỗ mà những người chơi tốt có thể hoàn thành trong 5 gậy). Trong phiên bản thứ nhất, chúng tôi hỏi “liệu một tay golf bình thường có sẵn lòng điền số ‘5’ vào phiếu điểm thay vì ‘6’ hay không”. Với phiên bản thứ hai, chúng tôi lại hỏi về “khả năng một tay golf bình thường sẽ báo chính xác số điểm, nhưng lại đếm từ 6 thành 5 khi cộng dồn điểm của họ; từ đó, họ vẫn ăn bớt được số gậy trong trận đấu, nhưng là do cộng điểm sai.
Ở đây, chúng tôi muốn biết liệu người chơi có tự bào chữa dễ dàng hơn không nếu họ viết sai số điểm ngay từ ban đầu, vì một khi đã “giấy trắng mực đen”, sẽ rất khó để chối cãi nếu họ cộng điểm sai (na ná như hành vi nhấc bóng bằng tay). Suy cho cùng, cộng điểm sai là hành vi gian lận rõ ràng và có chủ đích, nên không thể dễ dàng cho qua. Đó chính xác là những gì chúng tôi thu được. Người tham gia đã dự đoán rằng: trong trường hợp đó, 15% golf thủ sẽ điền số gậy tốt hơn, trong khi có rất ít người (khoảng 5%) cố ý cộng điểm sai.
Golf thủ vĩ đại Arnold Palmer từng nói, “Tôi có một mánh có thể giúp tôi bỏ xa bất kỳ ai đến 5 gậy trong một trận đấu golf. Đó chính là viên tẩy.” Tuy nhiên, đa phần các tay golf lại không muốn theo con đường này, hoặc ít nhất họ sẽ chọn được thời điểm gian lận dễ dàng hơn nếu ghi sai số điểm ngay từ ban đầu. Từ đó, chúng ta sẽ đến với một câu hỏi theo kiểu “muối bỏ biển” muôn thuở: nếu một tay golf mất 6 gậy cho một lỗ chuẩn-5-gậy, không ghi lại điểm số, và không ai hay biết điều đó – thì điểm cho anh ta là 6 hay 5?
NÓI DỐI VỀ điểm số theo cách này sẽ giống với tình huống được mô tả trong một thí nghiệm tư duy kinh điển: “Con mèo của Schrödinger.” Edwin Schrödinger là một nhà vật lý học người Áo; năm 1935, ông đã mô tả một kịch bản như sau: Một con mèo bị nhốt trong chiếc hộp thép cùng một chất đồng vị phóng xạ có thể sẽ phân rã hoặc không phân rã. Nếu nó phân rã, sẽ có một chuỗi sự kiện phát sinh từ cái chết của con mèo. Nếu không, con mèo vẫn sống bình thường. Trong câu chuyện của Schrödinger, đến khi nào chiếc hộp vẫn đóng kín, con mèo sẽ còn được đặt giữa ranh giới sinh tử; chẳng ai có thể khẳng định nó còn sống hay đã chết. Kịch bản của Schrödinger được dựng nên nhằm tranh biện cho một cách diễn giải trong vật lý rằng: cơ học lượng tử không thể giải thích hiện thực khách quan – có chăng, nó chỉ đưa ra các khả năng. Giờ hãy bỏ qua khía cạnh vật lý học thuần túy, câu chuyện về con mèo của Schrödinger sẽ giúp chúng ta suy nghĩ thấu đáo hơn về điểm số trong môn golf. Số điểm này rất giống với con mèo còn-sống-hay-đã-chết của Schrödinger: trừ khi được viết hẳn trên phiếu, nó sẽ không tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào. Và chỉ khi được viết ra, nó mới được nhìn nhận là một “hiện tượng khách quan”.
BẠN SẼ TỰ HỎI vì sao chúng tôi lại hỏi những người tham gia về một “tay golf bình thường” thay vì về hành động của chính họ trên sân đấu. Nguyên nhân bởi chúng tôi đã dự đoán rằng: như bao người khác, các golf thủ của chúng tôi sẽ nói dối nếu họ được hỏi về khuynh hướng hành động phi đạo đức của chính bản thân. Nhờ đặt câu hỏi về hành vi của người khác, chúng tôi kỳ vọng họ sẽ thoải mái nói ra sự thật mà không cảm thấy đã tự thừa nhận một hành vi xấu xa nào đó.
Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn muốn kiểm tra xem các tay golf sẽ sẵn sàng thừa nhận những hành động phi đạo đức nào của chính họ. Chúng tôi nhận thấy nếu so với những “golf thủ gian lận khác”, thì những người tham gia nghiên cứu của chúng tôi quả thực xứng danh thiên thần: khi được hỏi về hành vi của bản thân, họ đã thừa nhận có dùng gậy dịch chuyển quả bóng đến vị trí ưng ý trong khoảng 8% thời gian thi đấu. Hành động đá quả bóng thậm chí còn hiếm hơn (chỉ 4% thời gian), còn “nhấc bóng lên và đặt lại” chỉ xảy ra trong khoảng 2,5% thời gian thi đấu. Lúc này, tuy 8%, 4% và 2,5% có thể là những con số lớn (đặc biệt khi sân golf có đến 18 lỗ và có vô số cách để gian lận), nhưng chúng vẫn còn khá khiêm tốn nếu so với những gì “các tay golf khác” đã làm.
Chúng tôi cũng nhận thấy điểm khác biệt tương tự trong những câu trả lời về cú đánh mulligan và cách ghi điểm. Những người tham gia đã phản hồi rằng họ chỉ thực hiện cú đánh lại ở lỗ thứ nhất trong 18% thời gian, và ở lỗ thứ chín trong 4% thời gian. Họ cũng nói rằng họ chỉ ghi sai số điểm trong 4% thời gian, và duy nhất 1% thời gian cho hành vi nghiêm trọng như “cộng nhầm” điểm số.
Dưới đây là bảng tóm tắt kết quả của chúng tôi:
Dạng câu hỏi | Câu hỏi | Khuynh hướng gian lận | |
Tay golf khác | Người trả lời | ||
Dịch chuyển bóng | Bằng gậy | 23% | 8% |
| Bằng chân | 14% | 4% |
| Bằng tay | 10% | 2,5% |
Đánh lại (mulligan) | Lỗ thứ nhất | 40% | 18% |
| Lỗ thứ chín | 15% | 4% |
Tính điểm | Điền sai | 15% | 4% |
| Cộng sai | 5% | 1% |
Tôi không chắc bạn hiểu những điểm khác biệt trên ra sao; nhưng với tôi, có vẻ như các tay golf không chỉ gian lận rất nhiều khi thi đấu, mà họ còn nói dối về việc đó nữa.
VẬY CHÚNG TÔI đã rút ra được gì từ cuộc phiêu lưu trên sân cỏ? Dường như khuynh hướng gian lận trong môn golf cũng hàm chứa rất nhiều vấn đề từng được chúng tôi khám phá trong các thí nghiệm lý thuyết. Khi hành động của chúng ta ngày càng cách xa việc thực hiện hành vi bất chính, và khi chúng ta có thể dung túng cho chúng ngày càng dễ dàng hơn, các tay golf – cũng như bao người khác trên hành tinh này – sẽ nhận thấy việc gian lận cũng dần trở nên đơn giản. Như tất cả mọi người, dường như các tay golf cũng có khả năng lừa dối, nhưng đồng thời lại tự nhận mình là kẻ trung thực. Và chúng tôi đã hiểu thêm được gì về thói gian lận của các doanh nhân? Khi luật lệ được diễn dịch một cách công khai, khi xuất hiện nhiều tình huống mơ hồ, và khi mọi người được tự ý cho điểm “phần trình diễn” của họ – thì ngay đến một môn thể thao cao quý như golf cũng có thể ẩn tàng những cạm bẫy dối trá.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.