Bản Chất Của Dối Trá

Chương 10



Lời kết chưa ưng ý

Chúng ta vẫn chưa đủ giả dối!

Xuyên suốt cuốn sách này, chúng ta đã biết rằng bản chất sự lương thiện và bất lương đều dựa trên sự kết hợp giữa hai loại động cơ khác hẳn nhau. Một mặt, chúng ta muốn được lợi từ sự lừa dối (đây là động lực kinh tế dựa trên lý trí); nhưng mặt khác, chúng ta cũng muốn tự xem mình là những cá nhân tuyệt vời (đây là động lực tâm lý). Có lẽ, bạn sẽ nghĩ rằng chúng ta không thể chạm đến cả hai mục tiêu trên cùng lúc – cũng như không thể giữ được chiếc bánh nếu đã ăn nó – nhưng học thuyết cấp số giả dối được đề cập trong phần trước đã chứng minh rằng: khả năng lập luận linh hoạt và hợp lý hóa sự việc sẽ cho phép chúng ta làm được điều đó. Về cơ bản, chỉ cần đảm bảo gian lận ở mức thấp, chúng ta sẽ vẫn còn chiếc bánh trên tay sau khi nếm nó (một ít). Chúng ta vẫn có thể vừa thu hoạch lợi ích từ hành vi bất chính, vừa duy trì được hình ảnh tích cực về bản thân chúng ta.

Như đã thấy, một số lực tác động nhất định – như khoản tiền chúng ta muốn đạt được hay khả năng bị bắt quả tang – sẽ có ảnh hưởng đến bản chất con người, nhưng không quá ghê gớm như chúng ta vẫn nghĩ. Và đồng thời, một số lực tác động khác lại có sức ảnh hưởng lớn hơn dự kiến: điển hình như lời thức tỉnh của lương tâm, khoảng cách từ hành động đến số tiền, mâu thuẫn lợi ích, sự đuối sức, hàng giả, sự khơi gợi từ các thành tích tự thêu dệt, tính sáng tạo, khả năng người khác chứng kiến hành động của chúng ta, hay sự quan tâm đối với thành viên trong nhóm.

TUY TRỌNG TÂM của các thí nghiệm khác nhau được trình bày tại đây đều hướng đến thói bất lương, nhưng chúng ta vẫn phải nhớ rằng hầu hết những người tham gia trong các thí nghiệm trên đều là người tốt; họ đến từ các trường đại học danh tiếng, và nhiều khả năng sẽ vươn đến những vị trí có thế lực và tầm ảnh hưởng lớn trong tương lai. Họ không phải là mẫu người tiêu biểu cho hành vi gian dối. Thật ra, họ cũng giống như tôi, như bạn và như hầu hết mọi người trên hành tinh này; điều đó đồng nghĩa tất cả chúng ta đều có khả năng gian lận đôi chút.

Tuy điều này nghe có vẻ bi quan, nhưng phần còn lại của sự thật chính là: phần lớn con người chúng ta đều lương thiện hơn hẳn những gì học thuyết kinh tế tiêu chuẩn đã dự đoán. Trên thực tế, nếu nhìn từ quan điểm đơn thuần theo lý trí (hay mô hình SMORC), chúng ta vẫn chưa đủ giả dối. Hãy tính xem trong những ngày vừa qua, bạn đã bao nhiêu lần đứng trước cơ hội gian dối mà không bị bắt quả tang. Có thể đó là một đồng nghiệp nữ để quên ví tiền trên bàn khi cô tham dự một phiên họp dài. Có thể đó là một người lạ trong quán cà phê nhờ bạn trông giúp chiếc máy tính xách tay khi họ bận đi vệ sinh. Có thể đó là anh thu ngân tính sót một món trong giỏ hàng của bạn, hay chính bạn khi đi ngang một chiếc xe đạp không khóa cổ trên con đường vắng. Trong bất kỳ tình huống nào kể trên, một hành động SMORC “chân chính” phải là chiếm lấy chiếc xe đạp, chiếc máy tính, ví tiền hay không đề cập đến món hàng còn sót lại. Ấy thế mà, chúng ta vẫn bước qua vô số miếng mồi thơm hàng ngày mà chẳng bận tâm ngó ngàng đến chúng. Điều này cũng đồng nghĩa chúng ta đã có bước xuất phát tốt trong nỗ lực cải thiện phẩm chất đạo đức.

Còn những tội ác “thật sự” thì sao?

Trong số tất cả các thí nghiệm chúng tôi đã thực hiện trên hàng nghìn người – và hết lần này đến lần khác – chúng tôi đã phát hiện những tay gian lận vô cùng xăng xái, hay những kẻ sẵn sàng đoạt lấy nhiều tiền nhất có thể. Chẳng hạn, trong thí nghiệm ma trận, chúng tôi chưa bao giờ chứng kiến bất kỳ ai tuyên bố họ đã giải đúng 18, hoặc 19 câu trên tổng số 20 câu đố. Nhưng có một lần, một người chơi đã tuyên bố họ giải đúng được toàn bộ 20 câu ma trận. Đó là những kẻ đã quyết định sẽ bỏ đi với càng nhiều tiền càng tốt, sau khi phân tích rõ lợi-hại. May mắn thay, chúng tôi chưa phải chạm trán quá nhiều người trong số họ; và do họ chỉ tồn tại như ngoại lệ chứ không phải quy luật, chúng tôi chỉ mất khoảng vài trăm đô-la. (Không quá ly kỳ, nhưng cũng không quá tệ.) Đồng thời, chúng tôi cũng có trong tay hàng nghìn người chơi “chỉ” gian lận vài câu ma trận, nhưng vì họ là đa số, nên chúng tôi đã phải mất hàng nghìn đô-la cho họ – nhiều hơn rất nhiều so với những kẻ tích cực gian lận nói trên.

Dựa trên tổn thất đến từ những người chơi tích cực gian lận và gian lận ở mức thấp, tôi ngờ rằng các thí nghiệm của chúng tôi đã đưa ra ngụ ý về thói bất lương trong xã hội. Có rất ít kẻ “trộm cắp” ở mức độ nghiêm trọng. Tuy nhiên, lại có rất nhiều người tốt gian lận “chỉ một chút” vào lúc này hay lúc khác, bằng cách làm tròn giờ công hạch toán của họ, khai báo giá trị tổn thất cao hơn trong hợp đồng bảo hiểm, hay đề xuất những phương pháp điều trị không cần thiết. Các doanh nghiệp cũng tìm ra rất nhiều phương cách gian lận ở mức thấp. Hãy nghĩ đến các hãng cung cấp thẻ tín dụng chuyên tăng lãi suất (dù rất ít) mà không nêu rõ lý do, hay phát minh ra mọi kiểu chi phí ẩn và tiền phạt (hành động được họ biện minh là “cải thiện doanh thu”). Hãy nghĩ đến các ngân hàng chuyên trì hoãn quá trình rút tài khoản để họ có thể nắm giữ tiền của bạn thêm một hoặc hai ngày, hay tính phí cắt cổ cho việc bảo vệ số tiền trội chi và cho việc sử dụng thẻ ATM. Tất cả đều cho thấy rằng: tuy lưu ý đến các hành vi sai trái trắng trợn là điều cần thiết, nhưng tìm cách ngăn chặn các hình thức gian dối nhỏ hơn và phổ biến hơn cũng là yêu cầu vô cùng quan trọng – đó là những hành vi ảnh hưởng đến hầu hết chúng ta hiện nay – dù với tư cách thủ phạm hay nạn nhân.

Lời nhắn nhủ về khác biệt văn hóa

Tôi thường di chuyển rất nhiều; nhờ đó, tôi đã có dịp gặp gỡ rất nhiều người trên khắp thế giới; và mỗi khi có cơ hội, tôi lại hỏi họ về quan niệm đạo đức và trung thực tại đất nước của họ. Kết quả, tôi đã dần hiểu được những khác biệt trong văn hóa – trên khía cạnh tôn giáo, quốc gia hay doanh nghiệp – đóng vai trò ra sao đối với thói bất lương.

Nếu bạn sinh trưởng ngoài nước Mỹ, hãy thử suy nghĩ về vấn đề này: người dân tại đất nước của bạn lừa dối nhiều hơn hay ít hơn người Mỹ? Sau khi đặt ra câu hỏi trên cho rất nhiều người đến từ nhiều quốc gia, chúng tôi đã nhận thấy họ đều tin tưởng rất mạnh mẽ vào sự lừa dối tại đất nước của mình, và hầu hết đều tin rằng: người dân tại quê hương họ lừa dối nhiều hơn người Mỹ (cùng một số ngoại lệ có thể đoán trước đối với người dân tại Canada và các nước Bắc Âu).

Hiểu rằng đây chỉ là những ấn tượng chủ quan, chúng tôi đã rất tò mò muốn biết liệu điều này có thật sự ý nghĩa với họ hay không. Do vậy, tôi đã quyết định kiểm chứng những quan niệm văn hóa này một cách trực tiếp hơn. Để khám phá những khác biệt về văn hóa, trước hết, chúng tôi phải tìm cách san phẳng các hình thức khích lệ bằng tài chính tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Chẳng hạn, nếu chúng tôi luôn trả một số tiền tương đương 1 đô-la cho mỗi câu hỏi được giải đúng, thì phần thưởng này có thể quá cao tại một số khu vực, nhưng lại thấp hơn lại các khu vực khác. Ý tưởng đầu tiên của chúng tôi là sử dụng một loại sản phẩm được thừa nhận trên toàn thế giới, chẳng hạn như một chiếc hamburger McDonald’s. Chiếu theo phương pháp đó, người chơi sẽ được nhận số tiền bằng ¼ giá trị chiếc hamburger McDonald’s được bán trong khu vực đối với mỗi đáp án đúng. (Phương pháp này cũng giả định rằng những người định giá lại McDonald’s luôn hiểu rõ sức mua kinh tế tại từng địa điểm, và định giá tương ứng cho sản phẩm của họ.)

Cuối cùng, chúng tôi đã quyết định chọn một phương pháp khá tương đồng, đó là sử dụng “chỉ số bia.” Chúng tôi sẽ dựng lên một chiếc quầy tại các quán bar địa phương, và trả cho người tham gia số tiền bằng ¼ giá trị một két bia nhỏ cho mỗi ma trận họ tuyên bố giải đúng. (Để đảm bảo người chơi không bị say từ trước, chúng tôi chỉ tiếp cận trước khi họ vào quán bar.)

DO SINH TRƯỞNG tại Israel, nên tôi đặc biệt muốn tìm hiểu cách đánh giá của người Israel (tôi phải thừa nhận tôi đã nghĩ rằng người Israel lừa dối nhiều hơn người Mỹ). Nhưng hóa ra, những người Israel tham gia trò ma trận chỉ gian lận tương đương với mức độ của người Mỹ. Do đó, chúng tôi đã quyết định kiểm chứng thêm tại nhiều quốc gia khác. Shirley Wang, một cộng tác viên người Trung Quốc, đã luôn tin rằng người Trung Quốc lừa dối nhiều hơn người Mỹ. Nhưng một lần nữa, người chơi tại Trung Quốc cũng cho thấy cùng mức độ gian dối. Francesca Gino, vốn xuất thân từ Ý, đã tự tin khẳng định rằng người Ý là những kẻ hay lừa dối nhất. “Tiến lên nước Ý, rồi chúng tôi sẽ cho các bạn biết lừa dối là gì,” cô cổ vũ với giọng hào hứng. Tuy nhiên, thực tế lại chứng minh cô đã sai. Chúng tôi cũng đi đến những kết quả tương tự tại Thổ Nhĩ Kỳ, Canada và Anh Quốc. Quả thực, số trường hợp gian dối dường như luôn bằng nhau lại mọi quốc gia – hay ít nhất cũng tại những nơi chúng tôi đã kiểm chứng.

Làm sao chúng tôi có thể chấp nhận rằng những thí nghiệm của mình đã không cho thấy bất kỳ điểm khác biệt nào về thói gian dối giữa rất nhiều quốc gia và nền văn hóa, trong khi rất nhiều người luôn khẳng định rằng các quốc gia khác nhau sẽ lừa dối với mức độ khác nhau? Và làm thế nào chúng tôi có thể chấp nhận sự tương đồng trong kết quả, trong khi mức độ tham nhũng tại các quốc gia, các nền văn hóa và châu lục luôn thể hiện sự khác biệt? Theo tôi, cả hai quan điểm trên đều đúng. Dữ liệu của chúng tôi đã phản ánh đúng khía cạnh quan trọng và chân thực của sự lừa dối, và cả khác biệt về văn hóa. Và sau đây là lý do:

Trò ma trận của chúng tôi đã nằm ngoài bất kỳ bối cảnh văn hóa nào. Có nghĩa rằng, nó không phải là một phần tất yếu trong môi trường xã hội hay văn hóa. Do đó, nó chỉ kiểm chứng được khả năng linh hoạt về đạo đức, cũng như khả năng nhìn nhận tình huống và hành vi theo hướng phản ánh có lợi cho chúng ta. Trong khi đó, hoạt động hàng ngày của chúng ta lại gắn liền với bối cảnh văn hóa phức tạp. Bối cảnh văn hóa này có thể tác động đến thói bất lương theo hai hướng chính: thứ nhất, nó có thể nắm bắt các hoạt động nhất định và diễn giải chúng nằm trong hay nằm ngoài phạm vi đạo đức. Thứ hai, nó cũng có thể thay đổi độ lớn của cấp số giả dối, đồng thời xem đó là yếu tố chấp nhận được trong phạm vi nhất định.

Ví dụ, hãy xem xét các trường hợp đạo văn. Tại các trường đại học Mỹ, đạo văn là sai phạm hết sức nghiêm trọng; nhưng tại các nền văn hóa khác, nó lại được xem là trò may rủi giữa sinh viên và giáo ban. Tại đây, nếu bị bắt quả tang, thay vì được gọi thẳng là “hành vi lừa dối”, nó lại trở thành “tiêu cực.” Tương tự, tại một số cộng đồng, các kiểu gian dối khác nhau – như trốn đóng thuế, dính vào bê bối, tải dữ liệu trái phép hay vượt đèn đỏ khi đường vắng – sẽ bị phê phán; nhưng tại một số cộng đồng khác, cũng những hành vi trên lại bị phớt lờ, hay thậm chí được tôn lên thành “quyền được phép khoe khoang.”

Tất nhiên, chúng ta sẽ còn khám phá thêm nhiều điều mới mẻ về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đối với hành vi lừa dối, bao gồm cả những tác động xã hội góp phần hạn chế thói bất lương, lẫn các động cơ lôi kéo khiến tình trạng tha hóa đạo đức và tham nhũng trở nên phổ biến.

TÁI BÚT: CÓ LẼ tôi nên thừa nhận rằng: trong tất cả các thí nghiệm về văn hóa, đã có đôi lúc chúng tôi phát hiện thấy điểm khác biệt. Có lần, tôi đã cùng Racheli Barkan tiến hành thí nghiệm tại một quán bar thuộc thủ đô Washington, nơi rất nhiều viên chức quốc hội tụ tập. Sau đó, chúng tôi lại tiến hành thí nghiệm tương tự tại một quán bar thuộc New York, nơi hò hẹn lý tưởng của các nhân viên nhà băng Phố Wall. Đó cũng là lúc chúng tôi tìm thấy điểm khác biệt về văn hóa. Bạn nghĩ ai sẽ lừa dối nhiều hơn, các chính trị gia hay giới ngân hàng? Tôi đã khá chắc chắn rằng đó là các chính trị gia, nhưng kết quả lại chứng minh ngược lại: các nhân viên nhà băng đã gian lận gần gấp đôi. (Tuy nhiên, trước các bạn bắt đầu hoài nghi bạn bè mình trong giới ngân hàng và tin tưởng các bằng hữu chính trị gia, bạn nên biết rằng hầu hết các chính trị gia tham gia thí nghiệm của chúng tôi chỉ thuộc hạng trung – và đa phần là viên chức quốc hội. Do đó, họ có thừa thời gian để phát triển đủ lông cánh.)

LỪA DỐI VÀ BỘI BẠC

Hiển nhiên, không cuốn sách nào về thói gian dối có thể hoàn thiện nếu thiếu đi dăm ba vụ ngoại tình cùng các kiểu lừa bịp phức tạp, rối rắm lấy cảm hứng từ quan hệ hôn nhân. Xét cho cùng, trong một số ngôn ngữ phổ biến, lừa dối thực chất cũng đồng nghĩa với bội bạc.

Trên thực tế, bội bạc có thể được xem là một trong những “nguyên liệu” chính của trò giải trí kịch tính nhất thế giới. Nếu những chuyên gia ngoại tình đương thời như Liz Taylor, Hoàng tử Charles, Tiger Woods, Eliot Spitzer, Arnold Schwarzenegger cùng nhiều nhân vật khác không lừa dối bạn đời của họ, thì chắc hẳn những tờ tin nhanh và các kênh tin tức giải trí đã đói rỗng ruột (theo cách nào đó).

Xét theo học thuyết cấp số giả dối, sự bội bạc nhiều khả năng chính là hình tượng nguyên mẫu cho toàn bộ những đặc điểm của thói gian dối mà chúng ta đang nhắc đến. Ban đầu, nó chỉ là mẫu chuẩn (hay một trong các mẫu chuẩn) của một hành vi không bắt nguồn từ quá trình cân nhắc lợi-hại. Tôi ngờ rằng khuynh hướng bội bạc sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng biện hộ với chính bản thân. Một hành động nhỏ ban đầu (có thể là một nụ hôn) sẽ trở thành thứ hấp lực dẫn đến những mắc míu sâu xa hơn – và hết lần này đến lần khác. Khi thoát khỏi lề thói hàng ngày, chẳng hạn như tham gia một chuyến du lịch hay chơi một séc quần vợt – những tình huống trong đó các nguyên tắc xã hội dần trở nên mơ hồ – chúng ta có thể tự nâng cao khả năng biện minh cho hành động bội bạc của mình. Và với những người đủ sáng tạo, như diễn viên, nghệ sĩ hay chính trị gia – vốn nổi tiếng về sự thiếu chung thủy – họ sẽ dễ dàng bịa ra những lý do giải thích vì sao hành động đó là đúng đắn, hay thậm chí đáng làm. Và tương tự như các hình thức lừa dối khác, sự bội bạc sẽ chịu ảnh hưởng từ những hành động xung quanh chúng ta. Một người nếu quen biết nhiều bạn bè hay gia đình từng dính vào các vụ bê bối như thế, sẽ dễ có khả năng bị những điều phơi bày trước mắt họ làm ảnh hưởng.

Với tất cả tính phức tạp, sắc thái và tầm quan trọng xã hội nói trên, bạn sẽ tự hỏi tại sao cuốn sách này không dành hẳn một chương nói về sự bội bạc, và tại sao chủ đề hấp dẫn này lại chỉ được gói gọn trong một phần nhỏ. Vấn đề chính là dữ liệu. Nói chung, tôi thích rút ra kết luận từ các thí nghiệm và dữ liệu thực tế. Tiến hành thí nghiệm về sự bội bạc là điều bất khả thi, và do đó, bản chất các dữ liệu cũng rất khó phỏng đoán. Điều này đồng nghĩa chúng ta buộc phải suy luận – và chỉ có suy luận – về sự bội bạc.

Chúng ta nên làm gì tiếp theo?

Vậy, chúng ta đã có mặt đây, vây quanh bởi xấu xa dối trá. Như những vần thơ Apoth E. Cary (biến tấu từ “người bào chế thuốc” – “apothecary”) đã viết nên năm 1873:

Lừa bịp, lừa bịp khắp mọi nơi

Từ quy mô, cho đến tướng hình;

Hãy tháo bỏ đi lớp mặt nạ,

Bạn sẽ chẳng còn gì ngoài dối trá.

Lòng nhân chỉ là lớp vỏ bọc,

Từ thiện giúp kẻ dối yên thân;

Ta lừa bịp, từ nhà, ra ngoài ngõ,

Lừa bịp theo ta khắp xa gần.

Ôi thế gian, nơi lọc lừa đầy rẫy,

Trong tay phường trộm cướp, bất lương,

Một kẻ vừa đi, hai kẻ đến,

Mặc ta gian dối suốt đêm trường.

—APOTH E. CARY ,

“HỒI TƯỞNG TỪ MỘT GIA ĐÌNH LỪA BỊP ”1

Như đã thấy, chúng ta đều có khả năng lừa dối, và cũng vô cùng tài tình trong việc tự thuyết phục bản thân vì sao điều đó không hề dối trá và phi đạo đức. Tệ hơn nữa, chúng ta còn có khuynh hướng “lây nhiễm” thứ sâu bọ gian dối từ kẻ khác; và một khi đã hành động thiếu trung thực, chúng ta sẽ dễ dàng lặp lại các hành vi sai trái đó.

Vậy chúng ta phải đối phó với thói gian dối ra sao? Chúng ta vừa trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ, và đó chính là cơ hội tuyệt vời để nhìn lại những thất bại của con người, cũng như vai trò của phi lý trí trong đời sống và xã hội nói chung. Nhằm ứng phó với thứ thảm họa nhân tạo này, chúng tôi đã có những bước tiếp cận với một số khuynh hướng phi lý trí, và từ đó đã bắt đầu đánh giá lại phương pháp tiếp cận thị trường của chúng ta. Thánh địa lý trí đã bắt đầu rung chuyển, và với vốn hiểu biết ngày một sâu sắc về sự phi lý, chúng ta có thể cân nhắc và tái thiết lại các hình thức thể chế mới, và cuối cùng sẽ tránh được những cơn khủng hoảng tương tự trong tương lai. Nếu chúng ta không làm thế, cuộc khủng hoảng vừa qua sẽ trở nên vô nghĩa.

“MEMENTO MORI”

Có rất nhiều mối quan hệ khả dĩ có thể viện dẫn giữa đế chế La Mã cổ đại và ngành ngân hàng hiện nay, nhưng quan trọng nhất có lẽ là câu thành ngữ “memento mori.” Vào thời kỳ hoàng kim của đế chế La Mã, các tướng lĩnh sau khi giành được những chiến thắng quan trọng sẽ diễu hành giữa đám đông dân chúng, và giương cao chiến lợi phẩm của họ. Những tướng lĩnh này sẽ khoác áo choàng tím và vàng kim theo nghi thức, đội vòng nguyệt quế và sơn đỏ khuôn mặt trong khi được công kênh từ cổng thành đến ngai vàng. Dân chúng tung hô họ, chúc mừng họ, và ngưỡng mộ họ. Tuy nhiên, buổi lễ vẫn còn một nghi thức sau cùng: một nô lệ sẽ bước cạnh vị tướng trong suốt ngày khải hoàn, và để ngăn vị dũng tướng đang say men chiến thắng khỏi sa vào thói ngông cuồng, tên nô lệ sẽ thì thầm nhiều lần vào tai anh ta, “Momento mori” – có nghĩa là, “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ chết.”

Nếu tôi được phép xây dựng phiên bản hiện đại của câu thành ngữ trên, tôi chắc sẽ chọn “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ thất bại,” hoặc “Hoặc nhớ rằng ngươi phi lý.” Song, bất kể câu phương ngôn có là gì, thì việc nhận ra những hạn chế của bản thân cũng chính là bước quan trọng đầu tiên dẫn dắt ta ra quyết định chính xác hơn, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, cũng như hàn gắn thể chế của mình.

NHƯ ĐÃ ĐỀ CẬP, nhiệm vụ của chúng ta chính là nỗ lực tìm kiếm những phương pháp hiệu quả và thực tiễn nhằm ứng phó với thói gian dối. Các trường viện kinh doanh đã bổ sung môn đạo đức kinh doanh vào giáo trình, các công ty cũng yêu cầu nhân viên tham gia những chuyên đề về quy tắc ứng xử, còn chính phủ thì đã có các chính sách công khai. Thế nhưng, bất kỳ ai từng chứng kiến một tình huống gian dối sẽ lập tức nhận ra rằng các biện pháp trên đều không hiệu quả. Và nghiên cứu được trình bày tại đây cũng cho thấy rằng các phương án tạm bợ sẽ kết thúc trong thất bại, vì một lý do đơn giản: chúng chưa xét đến khía cạnh tâm lý của thói gian dối. Suy cho cùng, mỗi khi các chính sách và quy trình được xây dựng nhằm ngăn chặn tình trạng lừa dối, chúng sẽ nhắm đến các hành vi và động cơ cần được thay đổi. Và nhìn chung, khi các biện pháp can thiệp được huy động, họ sẽ trông cậy vào mô hình SMORC. Song, như chúng ta đã thấy, mô hình này sẽ bất lực trước những tác động lôi kéo đứng sau sự lừa dối.

Nếu thật sự mong muốn hạn chế tình trạng lừa dối, chúng ta sẽ chọn cách can thiệp nào? Đến đây, tôi tin chắc rằng nếu muốn nắm cơ hội dập tắt thói gian dối, chúng ta phải bắt đầu từ việc tìm hiểu nguyên nhân khiến mọi người hành xử bất chính ngay từ ban đầu. Với xuất phát điểm trên, chúng ta có thể hướng đến những phương thuốc hữu hiệu hơn. Đơn cử, do đã biết rằng con người luôn muốn tỏ ra mình lương thiện, nhưng cũng muốn hưởng lợi từ hành vi gian dối, chúng ta có thể phát đi lời thức tỉnh ngay thời điểm cám dỗ xảy ra, và tạo được hiệu quả bất ngờ. Tương tự, nhờ thấu hiểu bản chất và ảnh hưởng sâu sắc của mâu thuẫn lợi ích đối với bản thân mình, chúng ta sẽ tích cực phòng tránh và điều chỉnh mâu thuẫn lợi ích thường xuyên hơn. Chúng ta cũng cần hiểu rõ tác động từ môi trường, cũng như ảnh hưởng của sự kiệt quệ về thể chất lẫn tinh thần đối với thói gian dối. Và hiển nhiên, một khi đã nắm rõ tính lây nhiễm xã hội của nó, chúng ta có thể tiếp thu gợi ý từ Học thuyết Khung Cửa sổ Vỡ để ngăn chặn hành vi lừa dối lây lan trong xã hội.

ĐIỀU THÚ VỊ CHÍNH LÀ, chúng ta đã trải qua rất nhiều thể chế xã hội dường như được cố ý lập nên nhằm giúp ta khởi động lại kim chỉ nam đạo đức và vượt qua hiệu ứng “quái-quỷ-thật.” Chính những nghi thức khởi tạo này – từ lễ xưng tội của tín đồ Công giáo cho đến lễ sám hối Yom Kippur, và từ tháng chay Ramanda cho đến tuần chay Sabbath – đã cho chúng ta cơ hội tự trấn tĩnh, thôi sa vào trụy lạc và mở ra một trang mới trong cuộc đời. (Đối với những độc giả vô thần, hãy nghĩ đến những cam kết trong đêm Giao thừa, những bữa tiệc sinh nhật, những lần thay đổi công việc và những cuộc chia tay đẫm nước mắt như cơ hội để “làm lại từ đầu.”) Gần đây, chúng tôi cũng vừa bắt đầu thực hiện một số thí nghiệm cơ bản về tính hiệu quả của các biện pháp khởi tạo khác nhau (thông qua một phiên bản vô thần của lễ xưng tội), và có vẻ như nó đã đảo ngược thành công hiệu ứng quái-quỷ-thật.

Từ quan điểm xã hội học, tôn giáo đã phát triển theo nhiều hướng khác nhau, và góp phần giúp xã hội chống lại những khuynh hướng hủy hoại tiềm ẩn, bao gồm cả khuynh hướng giả dối. Tôn giáo và các nghi thức tôn giáo đã nhắc nhở chúng ta về bổn phận đạo đức của mình theo nhiều cách; chẳng hạn, hãy nhớ lại người đàn ông Do Thái với chiếc khăn tzitzit trong Chương 2 (“Cấp số Giả dối”). Trong khi đó, người Hồi giáo lại sử dụng những hạt cườm “tasbih” hoặc “mishaba” trong nghi thức nhắc lại 99 cái tên của Thượng đế nhiều lần mỗi ngày. Ngoài ra, còn có những tín đồ cầu nguyện hàng ngày và những người xưng tội (“Thưa Cha, xin hãy tha thứ cho tội lỗi của con”), hay nghi lễ “prayaschitta” của người Hindu, cùng vô số những lời nhắc nhở mang tính tín ngưỡng khác vốn không thua kém gì Mười Điều răn trong thí nghiệm của chúng tôi.

Xét đến mức độ hiệu quả của các phương pháp trên, chúng ta có thể tính đến việc lập nên những cơ chế có liên quan (dù là vô thần) trong lĩnh vực kinh doanh và chính trị. Có lẽ chúng ta nên yêu cầu giới công chức và doanh nhân tuyên thệ, tuân thủ một bộ luật đạo đức hay thậm chí cầu xin tha thứ hết lần này đến lần khác. Và có lẽ chính những phiên bản thế tục của các nghi thức sám hối và cầu xin tha thứ sẽ giúp những kẻ mang ý định lừa dối lưu tâm hơn hành động của họ, tạo nên một bước ngoặt mới, và từ đó củng cố lập trường đạo đức của mình.

MỘT TRONG CÁC loại hình nghi thức khởi tạo thú vị nhất chính là phép rửa tội có mặt trong khá nhiều giáo phái khác nhau. Tiêu biểu trong số đó là Opus Dei, một cộng đồng Công Giáo bí mật, nơi giáo chúng phải tự nhục hình bản thân rằng roi quất. Tôi không nhớ chính xác chúng tôi đã bắt đầu bàn đến Opus Dei trong hoàn cảnh nào, nhưng khi đó, Yoel Inbar (giáo sư Đại học Tilburg), David Pizarro, Tom Gilovich (đều đến từ Đại học Cornell) và tôi đã tự hỏi: liệu việc tự hành xác và các hành vi tương tự có phản ánh thứ khao khát bản năng được gột rửa chính mình hay không? Liệu cảm giác đã làm điều sai trái có biến mất khi ta tự phạt mình? Và liệu nỗi đau đớn do chính mình gây nên có giúp ta cầu xin tha thứ và bắt đầu lại một lần nữa?

Thể theo phương pháp tự hành xác của giáo phái Opus Dei, chúng tôi đã quyết định tiến hành một thí nghiệm với phiên bản bớt máu me hơn của roi quất – và lựa chọn những cơn sốc điện ít đau đớn làm điều kiện trong thí nghiệm. Khi người tham gia trình diện tại phòng thí nghiệm thuộc Đại học Cornell, chúng tôi sẽ yêu cầu một số người viết ra một trải nghiệm trong quá khứ khiến họ cảm thấy tội lỗi; tiếp theo, chúng tôi yêu cầu một nhóm khác viết ra một trải nghiệm khiến họ đau buồn; và cuối cùng, chúng tôi yêu cầu nhóm thứ ba viết ra một trải nghiệm trung tính – không buồn cũng không vui. Sau khi để họ thú nhận về một trong ba loại trải nghiệm trên, chúng tôi sẽ yêu cầu họ tham gia một thí nghiệm “khác” liên quan đến những cú sốc điện do tự thân gây ra.

Trong bước thí nghiệm tiếp theo, chúng tôi sẽ nối cổ tay người tham gia với một chiếc máy gây sốc. Khi việc kết nối hoàn tất, chúng tôi sẽ hướng dẫn người tham gia cách điều chỉnh điện thế và phải nhấn nút nào để tạo cú giật gây đau đớn. Chúng tôi đã điều chỉnh chiếc máy xuống mức điện thế thấp nhất có thể, rồi yêu cầu người tham gia nhấn công tắc; sau đó, chúng tôi tiếp tục tăng thêm một mức điện thế, rồi lại yêu cầu họ nhấn công tắc. Quy trình cứ lặp lại như vậy cho đến khi họ không chịu được áp lực từ dòng điện.

Chúng tôi không quá tàn ác như bạn nghĩ đâu; mặc dù vậy, chúng tôi vẫn muốn xem người tham gia sẽ tự đẩy họ đến giới hạn đau đớn ra sao, cũng như mức độ phụ thuộc của cơn đau do chính họ gây ra đối với tình huống thí nghiệm sẽ như thế nào. Và quan trọng nhất, chúng tôi muốn biết liệu việc gợi nhớ lại những trải nghiệm tội lỗi có khiến họ khao khát gột rửa bản thân bằng cách tìm đến đau đớn hay không. Kết quả, trong các tình huống trung tính và đau buồn, mức độ tự gây đau đớn của người tham gia đều dừng lại ở mức thấp. Thế nhưng, những người tham gia trong tình huống tội lỗi lại sẵn sàng chịu đựng những cú sốc do chính họ gây ra ở mức điện thế cao hơn hẳn.

Cũng khó khăn như cách chúng tôi chấp nhận tiến hành thí nghiệm này nhằm ủng hộ nghi thức của giáo phái Opus Dei, chúng tôi vẫn phải tôn trọng kết quả sau cùng, dù có ra sao. Theo đó, hình thức rửa tội thông qua nỗi đau đớn từ việc tự hành xác, đã chạm đến cách thức đối diện với cảm giác tội lỗi nguyên sơ nhất của chúng ta. Có lẽ “nhận thức được sai lầm,” “thừa nhận nó” và “tự trừng phạt thể xác” là một công thức hiệu quả để cầu xin sự tha thứ và mở ra một trang mới trong đời. Đến đây, tuy không đề xuất rằng chúng ta nên áp dụng biện pháp này, nhưng tôi có thể kể tên vài chính trị gia và doanh nhân mà tôi sẽ không ngại thử nghiệm nó lên họ – chỉ để xem hiệu quả thế nào thôi.

VÀI NĂM TRƯỚC, tôi đã gặp gỡ một phụ nữ khi tham gia hội nghị, và cô đã tiết lộ với tôi một trường hợp hết sức kinh điển (và tinh tế hơn hẳn) về sự khởi tạo. Theo lời cô kể, chị cô đang sống tại Nam Mỹ; và một ngày nọ, cô chị đã phát hiện ra rằng: cứ cách vài ngày một lần, người hầu gái lại ăn cắp một ít thịt trong tủ đông. Cô chị không quá bận tâm về điều này (trừ khi cô không có đủ thịt để chuẩn bị bữa tối, và tình huống khi đó sẽ rất khó xử), nhưng cô vẫn cảm thấy cần phải làm điều gì đó. Bước đầu tiên, cô quyết định khóa tủ đông lại. Sau đó, cô nói với người hầu gái rằng cô đang nghi ngờ ai đó làm việc trong nhà thường xuyên lấy trộm thịt trong tủ đông, nên cô muốn chỉ có hai người được giữ chìa khóa. Cô cũng thưởng cho người hầu gái một khoản nho nhỏ vì trách nhiệm cộng thêm này. Với vai trò mới, quy định mới, và hình thức giám sát mới, tình trạng trộm cắp đã lập tức chấm dứt.

Tôi nghĩ phương pháp này đã chứng minh hiệu quả nhờ nhiều lý do. Tôi cũng cho rằng thói quen trộm cắp của người hầu gái đã phát triển khá giống với hành vi gian dối chúng ta đang thảo luận. Nó có thể bắt nguồn từ một hành động nhỏ (“Tôi chỉ lấy một ít khi đang dọn dẹp thôi mà”), nhưng khi đã trộm cắp một lần, chúng ta sẽ dễ dàng lặp lại nhiều lần nữa. Nhờ khóa kín tủ đông và giao thêm trách nhiệm cho người hầu gái, chị của cô bạn tôi đã mở ra cho người phụ nữ khốn khổ này một lối thoát, và làm sống lại bản tính lương thiện trong cô. Tôi cũng cho rằng: việc tin tưởng người hầu gái đến mức trao cho cô chìa khóa chính là yếu tố quan trọng giúp thay đổi quan điểm của cô về việc lấy cắp thịt, và giúp thiết lập lại quy chuẩn xã hội về sự trung thực trong ngôi nhà. Trên hết, do chỉ có chìa khóa mới mở được tủ đông, nên bất kỳ hành động trộm cắp nào giờ đây cũng trở nên chủ tâm hơn, có ý thức hơn, và khó tự bào chữa hơn. Điều này cũng không khác lắm với diễn biến sau khi chúng tôi buộc người chơi di chuyển con trỏ xuống cuối màn hình, và xem trước đáp án một cách chủ tâm (xem lại Chương 6, “Lừa dối bản thân”).

Điểm cốt yếu chính là: chúng ta càng phát triển và thích nghi với các cơ chế trên bao nhiêu, thì chúng ta sẽ càng dễ hạn chế thói gian dối bấy nhiêu. Điều này không phải bao giờ cũng đơn giản, nhưng thật sự khả thi.

QUAN TRỌNG HƠN, chúng ta phải lưu ý rằng việc tạo ra một điểm dừng cùng cơ hội mở ra một khởi đầu mới có thể diễn ra trên bình diện xã hội rộng lớn hơn. Ủy ban Sự thật và Hòa giải tại Nam Phi là một ví dụ điển hình cho loại tiến trình này. Mục đích của ủy ban kiểu tòa án này chính là tạo điều kiện chuyển đổi từ hình thức chính quyền phân biệt chủng tộc – chế độ đã từng đàn áp gay gắt phần lớn người dân Nam Phi trong hàng thập kỷ – sang một tương lai dân chủ mới. Tương tự như các phương pháp khác nhằm “chấm dứt hành vi sai trái, tạm dừng, và khởi đầu lại,” mục tiêu của ủy ban này là hòa giải, chứ không phải trừng phạt. Tôi tin chắc sẽ không ai dám quả quyết hội đồng này có thể xóa tan những ký ức và tàn dư đau buồn về thời kỳ phân biệt chủng tộc a-pa-tít, hay bất kỳ vết thương nào từng in dấu thời kỳ trên có thể được lãng quên và chữa lành hoàn toàn. Song, nó vẫn nhắc nhở tôi về một ví dụ quan trọng; trong đó, việc ý thức được hành vi sai trái và thành tâm cầu xin tha thứ sẽ góp phần đưa con người trở về với đường ngay nẻo chính.

CUỐI CÙNG, CÓ LẼ chúng tôi nên thử đánh giá những gì đã học hỏi được về thói bất lương gian dối từ một quan điểm rộng hơn, và xem thử có thể rút ra được gì từ lý trí và phi lý trí một cách tổng quát. Qua từng chương khác nhau, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều động cơ lý trí được cho rằng sẽ dẫn dắt hành vi gian dối – nhưng thực tế lại không phải. Và cũng có rất nhiều động cơ phi lý trí tưởng như sẽ không thể tác động đến hành vi gian dối – nhưng thật ra lại có thể. Sự bất lực này trong nỗ lực nhận biết “tác động nào đang thật sự diễn ra” và “động cơ nào là phi lý trí” cũng chính là điều chúng ta thường chứng kiến trong quá trình ra quyết định và trong các nghiên cứu tâm lý học hành vi.

May mắn thay, chúng ta sẽ không bất lực đến thế khi đối diện với các nhược điểm của con người (bao gồm cả thói bất lương). Một khi đã hiểu hơn về nguyên nhân thật sự dẫn đến hành vi chưa-ưng-ý, chúng ta sẽ có thể khám phá những phương hướng mới nhằm kiểm soát hành động và cải thiện kết quả. Đó là mục tiêu đích thực của xã hội học, và tôi tin chắc rằng hành trình này sẽ còn hệ trọng và thú vị hơn trong những năm sắp tới.

Từ người bạn phi lý,

Dan Ariely


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.