Mỗi con người là duy nhất, chẳng ai cần tới
Ai và nỗi đau của chúng ta là hòn đảo hoang
Không một bóng người.
Albert Cohen[38]
NGÀY 18 THÁNG CHẠP
Mặc dù thực lòng không muốn nhưng Nathan vẫn phải giữ lời hứa với vợ: đưa Bonnie đến chơi với ông bà ngoại suốt hai ngày dài đằng đẵng.
Anh thức dậy và bất chấp lúc sáng sớm đã không ngần ngại gọi điện cho Jeffrey Wexler để báo rằng hai bố con sẽ đến. Anh biết rằng khái niệm “sáng sớm” không nằm trong vốn từ vựng của họ, ngay cả trong kì nghỉ lễ.
Tối qua Bonnie đã đi ngủ muộn, anh đợi đến tám giờ mới đánh thức con bé dậy, phải đến một tiếng rưỡi sau, hai bố con mới lên đường được, sau khi đỗ lại trước tiệm Starbucks để uống một ly sô cô la nóng ngon tuyệt có vị thục quỳ.
Nathan đã quyết định lái chiếc xe địa hình. Nó chạy vững chãi hơn trong trời tuyết. Cũng giống như mẹ mình, Bonnie rất thích những chiếc xe to và những bánh xe khổng lồ của chúng. Được ngồi ở vị trí rất cao so với mặt đất, con bé có cảm giác như được ngồi trong khoang điều khiển một con ta id=”filepos1031126″>u vũ trụ bay trên mặt đất với độ cao tầm thấp.
Tới nay đã gần ba mươi năm tục gia đình Wexler nghỉ Giáng sinh trong vùng núi Berkshires nằm ở phía tây Massachusetts. Khởi hành từ New York, chuyến đi hơi dài nhưng quang cảnh vùng này quả là tuyệt đẹp với những ngọn đồi tạo thành nhiều thung lũng và những ngôi làng thơ mộng điển hình của Tân Anh Quốc. Anh lái theo đường số 7 qua Norwalk, thị trấn Great Barrington rồi thẳng hướng Stock bridge. Anh điều khiển xe rất thận trọng: đường đôi chỗ hơi trơn trượt. Tuyết phủ một lớp mỏng như bụi trên cảnh vật đang trải ra trước mắt họ.
Bonnie nhét một đĩa CD vào ổ đọc: một khúc ứng tấu piano của Keith Jarrett nằm trong album nhạc chủ đề của phim Phù thủy xứ Oz.
Cô bé bắt đầu lẩm nhẩm hát theo:
Somewhere, over the rainbowl[39]…
Vừa hát, Bonnie vừa thực hiện “cú nháy mắt đúp” trứ danh của mình và anh thấy con bé thật đáng yêu với chiếc mũ lưỡi trai bóng chày to quá cỡ đội để bảo vệ làn da khỏi nắng hắt. Lén quan sát con gái, anh không khỏi kỳ lạ vì đã sinh ra một đứa con gái dễ sống đến vậy.
Tự đáy lòng, anh vẫn cảm thấy hãnh diện vì đã đủ sức nuôi dạy con bé đúng cách. Anh và Mallory, hai người đã cố tỏ ra nghiêm khắc từ rất sớm và đề ra một số nguyên tắc cơ bản: tôn trọng mọi người và nhận thức rằng quyền lợi bao giờ cũng đi kèm với nghĩa vụ.
Hai vợ chồng cưỡng lại cám dỗ để không nuông chiều con gái: không giày thể thao giá hai trăm đô la hay những thứ quần áo hàng hiệu với giá trên trời. Họ thấy điều đó hơi có chút gì đó sỗ sàng, cũng giống như từ hèn hạ dùng để đánh giá về thái độ của những bậc phụ huynh đôi khi để con cái xúc phạm mình bằng những lời lẽ vô văn hóa, vậy mà lại thán phục vốn từ ngữ đa dạng của con mình thay vì la mắng chúng!
Đôi khi Nathan vẫn băn khoăn về tương lai của những đứa trẻ không được dạy dỗ đến nơi đến chốn đo. Chắc chắn chúng sẽ trở thành những thanh niên ấu trĩ và theo đuổi chủ nghĩa cá nhân, sau khi đã được nuông chiều và được đối xử như những hoàng tử, công chúa tính cách đồng bóng thất thường, rồi sớm muộn cũng sẽ ngã thật đau khi khám phá những nhượng bộ và tước đoạt mà cuộc sống không thiếu dịp đòi hỏi.
Anh liếc nhìn con gái. Được ru ngủ bởi nhạc Jazz, con bé đã ngủ thiếp từ lúc nào, tay nắm chặt, đầu tựa vào khung cửa sổ tràn ngập ánh nắng.
Anh nghĩ về tương lai.
Cho đến thời điểm này, việc dạy dỗ con bé chưa là quá khó, nhưng đoạn đường gian nan nhất vẫn còn ở phía trước.
Bởi chắc chắn sẽ đến một ngày con bé đòi đi chơi buổi tối, đòi xỏ khuyên ở cánh mũi hay nơi nào đó trên cơ thể….. Đúng vậy, sẽ luôn có một thời điểm cô con gái bé bỏng dễ thương biến thành một thiếu niên bạc bẽo, tin chắc cha mẹ mình chỉ là những cụ khốt không biết cảm thông.
Mallory sẽ chỉ còn một mình để đối diện với cuộc khủng hoảng ấy. Anh sẽ không còn ở bên để ủng hộ cô. Anh sẽ không được biết nỗi lo sợ của đêm đầu tiên Bonnie không về nhà ngủ, không được biết người bạn trai đầu tiên con bé dẫn về nhà ra mắt, không được biết chuyến du lịch đầu tiên con bé muốn cùng lũ bạn gái đi đến đầu kia đất nước….. Thế nhưng đó cũng là một thách thức rất thú vị mà anh cảm thấy mình hoàn toàn có thể vượt qua được.
Nếu như anh không được chờ đợi ở một nơi khác.
Mối đồng cảm với Bonnie đôi khi đưa anh trở về với những ngày đầu của thời thơ ấu, khi giữa mẹ và anh tồn tại một sự đồng lõa thực sự, trước khi anh cố tình tạo cho mình một vẻ gần như lãnh đạm chỉ vì lầm tưởng rằng cơ may duy nhất để vươn lên trong xã hội là chối bỏ gốc gác xuất thân. Thật khó cho con trai người giúp việc khi muốn chinh phục New York hoa lệ!
Chỉ đến gần đây, anh mới nhận ra mình rốt cuộc đã nhận từ mẹ nhiều hơn là anh vẫn hình dung. Bà đã truyền cho anh lòng dũng cảm và đức hy sinh, một năng lực để dám đối diện với thực tế dù có xảy ra chuyện gì đi nữa.
Nhưng anh đã để bà qua đời không một lời cám ơn về món quà đó. Những năm cuối đời của bà, tức là lúc cuộc sống của anh bắt đầu dư dả, anh đã có thể xích lại gần bà và tận hưởng thành công cùng người mẹ đã tần tảo nuôi mình. Anh đã có thể nói với bà rằng: “Mẹ thấy đấy, mẹ con mình đã thoát khỏi cảnh nghèo ổ rồi, mẹ đã không hy sinh vô ích. Con đang rất hạnh phúc”. Thay vào đó, anh đã không còn đến thăm nom bà đều đặn như trước nữa. Quá bận rộn trong cuộc chiến của riêng mình, anh bằng lòng với việc chu cấp tiền hàng tháng để bà có thể an hưởng tuổi già mà không phải lao động vất vả. Và những lần anh ghé thăm bà đều chóng vánh như cơn gió thoảng. Anh nói vài câu cho phải phép trước khi ra đi và để lại một xấp tiền (mỗi lúc một dày hơn) thay lời xin lỗi vì đã là đứa con bất hiếu.
Hôm nay, anh cảm thấy tội lỗi vô cùng khi nghĩ đến những dịp đã bỏ lỡ, nhưng đó không phải là kỷ niệm duy nhất khiến lương tâm anh day dứt.
Đó hầu như là bí mật chỉ hai mẹ con anh biết với nhau. Một quãng thời gian dài họ không bao giờ nhắc lại nhưng vẫn nhớ về nó tới tận phút lìa đời.
Lúc đó, anh vừa bước sang tuổi mười ba. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1977, khoảng đầu tháng Tám, trong kì nghỉ hè cuối cùng của anh với Mallory, tại Nantucket(mùa hè mà anh đã có dịp hôn môi cô lần đầu tiên…. nhưng đó lại là chuyện khác).
Hồi năm ngoái, sau khi vượt qua các kì thi trắc nghiệm với kết quả xuất sắc, anh đã đỗ vào trường Wallace School danh giá của Manhattan.
Ngay cả khi trường áp dụng chế độ cấp học bổng với một số ít học sinh đạt kết quả xuất sắc với mức hỗ trợ là một nửa học phí thì nửa còn lại vẫn thuộc phần đóng góp của phụ huynh. Đối với Eleanor Del Amico, đó là một khoản tiền quá lớn. Nathan hiểu anh đang đòi hỏi ở mẹ một sự hy sinh quá sức, bởi lẽ trường yêu cầu phải đóng đủ học phí ngay trước kì học đầu tiên. Nhưng anh đã giải thích với bà rằng đó là một sự đầu tư cho tương lai: cơ hội duy nhất để anh không trở thành một tên cu li hay thợ lau cửa kính.
Mùa hè năm đó: Eleanor không còn một xu dính túi: mùa đông trước, bệnh viêm phế quản mãn tính buộc bà phải nhập viện điều trị mất vài ngày và tiêu tốn những khoản lớn. Đầu tháng, bà đã xin Wexler ứng trước lương để nộp học phí cho con trai. Nhưng Jeffrey luôn cứng nhắc với những nguyên tắc chặt chẽ của mình, đã dứt khoát từ chối.
“Đó chính là tâm địa bẩn thỉu của họ, mẹ anh đã nói với anh như vậy, con đã cứu mạng con gái họ và họ từ chối giúp con những chuyện đơn giản nhất.”
Bà đã không lầm, dù Nathan không muốn bà nhắc lại chuyện ấy – chuyện xảy ra cách đó đã nhiều năm – để cố gắng cầu xin ông chủ điều gì đó.
Chính trong hoàn cảnh này, chiếc lắc tay nạm ngọc trai nằm trong tráp đựng đồ trang sức của Lisa Wexler đã không cánh mà bay.
Nathan không hiểu tại sao nhưng mọi nghi ngờ chẳng mấy chốc đều chĩa về phía mẹ cậu và… chính bản thân cậu. Jeffrey Wexler đã tra hỏi cả hai mẹ con như thể đã chắc chắn về tội lỗi của họ. Ông ta thậm chí đã lục soát cả hai mẹ con, bắt họ đứng úp mặt vào tường, hai tay giơ cao. Vào thời đó, Nathan còn chưa học luật và chưa hề biết rằng những hành động tương tự là phạm pháp. Vì người phụ nữ giúp việc nhất quyết không nhận đã lấy chiếc vòng, Jeffrey đã lục lọi trong phòng bà, mở tung từng ngăn kéo, dốc ngược từng vali, hệt như một cuộc khám xét. Vì vẫn chẳng tìm thấy gì, ông đã dọa báo cảnh sát, tưởng rằng điều đó sẽ khiến Eleanor khiếp sợ. Nhưng bà vẫn một mực cự tuyệt, gần như quỳ gối trước ông chủ: “Không phải tôi, thưa ông Wexler, xin thề là tôi không ăn cắp vật gì cả.”
Cuối cùng cậu chuyện khép lại bằng một sự thải hồi. Trái với ý của vợ, Jeffrey đã không nhờ cảnh sát can thiệp mà chọn giải pháp cho Eleanor thôi việc không kèm theo một khoản phụ cấp nào. Ngay giữa mùa hè, mất hết danh dự và hầu như không còn một xu dính túi, Nathan cùng mẹ đã lại đi về phía cái nóng của New York.
Đó là nỗi nhục nhã tệ nhất trong đời anh: đã bắt gặp ánh mắt của Mallory, giữa lúc bị ép sát vào tường để khám người như một tên trộm. Anh cảm thấy bị hạ nhục và khinh rẻ đến tột độ. Nỗi hổ thẹn ấy vẫn theo anh đến tận ngày hôm nay, khắc sâu vào một góc tâm trí, nhưng nó cũng trở thành một động lực mạnh mẽ, như thể từ ngày hôm đó anh đã biết, rằng anh không bao giờ đủ cao thượng để quên đi mối nhục này. Chiếm được thế thượng phong là chưa đủ đối với anh. Anh muốn nhiều hơn thế nữa: đánh bại Jeffrey với vụ kiện tệ hại này, buộc ông ta phải trả giá cho nỗi nhục ngày nào của anh và chấp nhận nhượng lại cho anh căn hộ trong tòa nhà San Remo, món bất động sản trị giá nhiều triệu đô la. Anh biết rõ sự đối đầu này khiến cho Mallory buồn lòng. Nhưng ngay cả viễn cảnh giết chết người mình yêu cũng không ngăn cản được anh. Đôi khi người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả với mong muốn đạt được điều gì đó.
Tuy nhiên, điều nhức nhối nhất, đó là rốt cuộc anh đã tin Wexler hơn là tin mẹ mình. Anh chưa bao giờ nhắc lại chuyện lắc tay với bà, nhưng sau khi suy xét vấn đề theo mọi hướng, anh đã đi tới chỗ tin rằng mẹ mình đã ăn cắp món trang sức đó thật. Và bà làm như vậy là vì anh. Tháng mười năm 1977, tiền học phí của đã may mắn được thanh toán và phút cuối, điều này đã cho phép anh tiếp tục theo học trong trường. Lúc bấy giờ, anh đã không tìm hiểu tại sao một phép lạ như thế lại có thể xảy ra. Nhưng vào những ngày sầu muộn, sự thật khủng khiếp này lại vang lên: mẹ anh đã trở thành một kẻ bất lương, đó là vì anh.
Bonnie vừa mở hé một bên mắt. Hai bố con chỉ còn cách đích vài trăm mét.
Nằm ở vị trí trung tâm của vùng núi Berkshires, Stockbridge là một thành phố nhỏ xinh đẹp được những người thổ dân Mohican tạo nên trước khi những nhà truyền giáo xuất hiện, quấy phá cuộc sống bình yên của họ và khăng khăng biến họ thành tín đồ Cơ Đốc giáo. Gia đình Wexler sở hữu một dạng khu trại chăn nuôi ngay tại cửa ngõ thành phố. Thực ra đó là một ngôi nhà nghỉ nơi thôn dã rất duyên dáng với một đàn ngựa, trong đó có một con thuộc giống ngựa lùn được Bonnie rất mực cưng chiều.
Nathan nhấn còi ôtô trước cánh cổng có lắp đặt camera giám sát. Vài giây sau, hai cánh cổng mở toang, nhường lối cho chiếc xe địa hình tiến vào trên một lối đi rải sỏi. Anh đỗ xe gần ngôi nhà gỗ xinh xắn, nơi ở của vợ chồng người gác cổng. Lần cuối cùng tới đây, anh thậm chí đã không bước xuống xe.
Lần này thì khác.
Goodrich đã khuyên anh hòa giải mọi việc để tìm đến sự thanh thản trước khi chết. Vậy thì anh sẽ nghe theo lời khuyên của lão chứ sao! Jeffrey sẽ chỉ có được lời khuyên đó sau khi đã xì tiền ra. Nathan đã quyết định sẽ tiết lộ cho ông ta biết điều mà anh chưa từng nói cho ai biết. Một điều gì đó có khả năng tàn phá danh tiếng anh và vĩnh viễn gạch tên anh khỏi danh sách luật sư đoàn.
Khi anh còn là sinh viên, nghề luật sư đã tạo ra sức lôi cuốn lạ thường với anh. Anh đã nhắm tới nó như một mục đích, một phương tiện để bảo vệ những kẻ yếu nhất, những người cũng giống như anh, xuất thân từ tầng lớp nghèo khó. Nhưng nghề luật sư chỉ còn ý nghĩa chừng nào người ta tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc đạo đức nhất định. Và Nathan đã luôn làm đúng như vậy….. trừ một lần duy nhất.
Anh sập cửa xe. Mặt trời đã lên cao và gió cuốn theo vài đám mây nhỏ màu vàng nâu.
Anh nhìn thấy Jeffrey đang từ xa thong thả tiến về phía
Bonnie, người luôn biến những chuyện nhỏ nhặt nhất thành một ngày hội, bắt đầu chạy tới chỗ ông ngoại, miệng thốt lên những tiếng mừng rỡ.
Chẳng mấy chốc, Nathan chỉ còn cách Wexler vài mét.
Đứng nhìn chòng chọc vào mắt bố vợ, anh lại có cảm giác như mọi lần khác: Mallory rất giống bố. Cũng đôi mắt màu xanh nhạt và sáng, cũng khuôn mặt thanh nhã và duyên dáng.
Đúng vậy, Mallory giống bố như đúc. Điều này giải thích cho việc, mặc dù trong lòng chất chứa oán hận như thế, Nathan vẫn không thể hoàn toàn ghét bỏ ông ta được.
Vừa gặp mặt, Nathan đã yêu cầu được nói chuyện riêng và lúc này, họ chỉ có hai người với nhau trong phòng làm việc. Không ai khác ngoài hai người với nhau.
Ông ta và anh.
Wexler dùng bật lửa có gắn đèn pin châm một điếu xì gà ngắn và dày, loại ông ta vẫn giữ thói quen hút vào bất cứ giờ nào trong ngày. Ông ta bắt đầu rít từng hơi ngắn, trong khi đó Nathan đang ngắm các giá chật ních những gáy sách bằng da với vẻ sành sỏi, những tác phẩm pháp lý nổi tiếng.
Jeffrey đã bài trí phòng làm việc của mình như một thư viện thu nhỏ thực thụ. Những bóng đèn xanh lam và vàng rực chiếu sáng những món đồ gỗ quý được phủ bên ngoài một lớp gỉ đồng và cái bàn làm việc rộng mênh mông la liệt những chồng hồ sơ, những hộp đĩa hát và hai chiếc máy tính xách tay kết nối hệ thống cơ sở dữ liệu. Chỉ còn vài tháng nữa là chính thức nhận quyết định nghỉ hưu nhưng rõ ràng Jeffrey vẫn luôn là người xông xáo trong công việc.
Ông đã có một bước khởi đầu khá khôi hài. Ngay từ hồi thiếu niên đã tỏ ra xuất sắc trong môn bóng chày, ông buộc phải từ bỏ môn thể thao ưa thích sau một cú ngã trong chuyến dã ngoại trên núi. Vụ tai nạn để lại hậu quả khá nghiêm trọng – một vết nứt dài trên hộp sọ – buộc ông phải dồn hết năng lượng vào việc học. Là sinh viên đứng đầu khóa của mình ở Havard, sau khi ra trường, công việc đầu tiên của ông là làm phụ tá cho một thẩm phán, trước khi gia nhập một trong những văn phòng luật danh giá nhất Boston. Những năm gần đây, nhìn ra x hướng tương lai, ông đã lo liệu để tạo dựng cơ nghiệp của riêng mình, chuyên phụ trách những vụ kiện mang tính đoàn thể. Ông đã bảo vệ thành công quyền lợi của những công nhân làm việc trong xưởng đóng tàu hải quân được đặt trong vùng mỏ amiăng. Về sau, ông đã tích cóp được cả một gia tài sau khi nhân danh những nạn nhân của thuốc lá và nhận được những khoản bồi thường béo bở từ các nhà khai thác dịch vụ điện thoại di động, nguyên đơn là các nạn nhân mắc bệnh u não, họ tố cáo các nhà khai thác đã che giấu khách hàng nguy cơ nhiễm xạ điện từ.
Nathan buộc phải thừa nhận điều này: Wexler đã làm rất tốt công việc của mình. Đó là một trong những luật sư cuối cùng thuộc thế hệ cũ, một trong những người nuối tiếc một thời đã xa, thời những người làm luật hành động vì niềm tin vào công lý hơn là mục đích thương mại. Kể ra cũng từng có thời, họ đã cùng nhau nuôi dưỡng một mối đồng cảm, trước khi câu chuyện về chiếc lắc tay không cánh mà bay làm hỏng mọi chuyện. Và ngay cả hôm nay, Nathan vẫn không khỏi thầm ngưỡng mộ sự nghiệp của bố vợ.
Jeffrey luồn tay tới dây đai.
– Thế nào, cậu có chuyện gì hệ trọng muốn nói với tôi? Ông ta cất giọng hỏi trước khi nhả một cum khói nữa.
– Ông còn nhớ vụ kiện giữa hai chúng ta chứ… Nathan mở lời.
Jeffrey liền lộ vẻ tức tối.
– Nếu cậu đến đây để khơi lại những bất đồng cũ này thì….
Nathan không để cho ông ta nói thêm. Anh đã dốc hết bầu tâm sự đang chất chứa.
– Tôi đã mua vị thẩm phán đó, anh ngắt lời ông ta, tôi đã mua được thẩm phán Livingstone. Tôi đã chuyển tới thẩm phán một khoản tiền lót tay thông qua một trong những phụ tá của ông ta để ông ta đưa ra phán quyết có lợi cho tôi.
Jeffrey không có phản ứng gì khác thườn. Đó là một người đàn ông cứng rắn, đằng sau vẻ tử tế nhã nhặn bề ngoài, ông ta có thói quen không bao giờ để lộ cảm xúc của mình.
Nhưng hôm nay, Nathan không có mấy ấn tượng về điều đó: ông ta có vẻ mệt mỏi, đôi mắt thâm quầng, những nếp nhăn, bộ râu không buồn cạo
– Tôi muốn trả thù, Jeffrey ạ, muốn giành lấy từ tay ông căn hộ ở San Remo để bù lại những gì ông đã gây ra cho mẹ tôi. Nhưng tôi chỉ tìm ra cách này và tôi đã vi phạm lời tuyên thệ.
Wexler gật đầu, có vẻ như đang suy nghĩ rất lung, rồi ông ta hơi há miệng nhưng không nói nên lời.
Thay vào đó, ông ta lại gần cửa sổ, đôi mắt nhìn chăm chú vào những ngọn đồi phủ tuyết trắng.
Quay lại nhìn tôi đây này, Jeffrey. Nghe tôi nói đây.
Đứng đằng sau lưng ông, Nathan tiếp tục với những lời lẽ trách móc. Đã bị chôn vùi quá lâu, giờ đây từ ngữ tự chúng tuôn ra không cần anh phải gắng sức.
– Hãy nhớ lại đi, Jeffrey, khi tôi lên tám và ông dẫn tôi đi câu, vừa câu cá vừa kể cho tôi nghe về những vụ kiện ông đã thắng. Tôi tin rằng chính từ giờ phút đó, tôi đã quyết định lớn lên cũng sẽ trở thành một luật sư giống như ông. Tôi đã học vì bản thân mình, tất nhiên, nhưng ngay từ đầu, chuyện đó phần nhiều cũng là để giành được sự công nhận từ phía ông. Tôi đã ngây thơ khi tưởng rằng ông sẽ chấp nhận tôi, rằng ông sẽ hãnh diện về tôi. Ông không thể hình dung tôi đã mong được ông chấp nhận đến thế nào đâu.
Tôi đã mong có một người cha như ông biết chừng nào….
Bầu không khí yên lặng bao trùm. Jeffrey quay người lại để đương đầu với cơn giận của người trước đây đã từng là con rể mình.
– Ông đã có thể chấp nhận tôi kia mà! Nathan dằn từng tiếng. Tôi đã chứng tỏ được năng lực của mình. Tôi đã phải vất vả khó nhọc lắm mới làm được điều đó. Tôi cứ nghĩ năng lực và tài cán là những giá trị được ông coi trọng. Vậy mà, ông đã đẩy tôi tới chỗ làm ô uế nghề nghiệp của mình, đến chỗ dùng tiền mua chuộc một thẩm phán không khác nào một tên lưu manh hèn hạ….
– Tôi đã cứu cậu, cuối cùng Jeffrey cũng cắt ngang lời anh.
– Ông đang nói gì vậy
– Thẩm phán Livingstone vốn là bạn học của tôi. Lúc diễn ra vụ kiện, lão ta có đến tìm tôi để báo tôi biết mưu toan hối lộ của cậu.
Nathan bàng hoàng.
– Gì kia?
Vị luật sư già buông một tiếng thở dài và dường như đang lục tìm trong trí nhớ.
– Livingstone đích thị là một tên vô lại nhưng lão ta đủ thận trọng để không bao giờ bị mua chuộc. Tôi đã quyết định đưa lão gấp đôi số tiền của cậu để lão không tố cáo cậu với nhà chức trách và để lão đưa ra một lời phán quyết có lợi cho cậu.
– Nhưng tại sao thế, Jeffrey, tại sao kia chứ?
Jeffrey im lặng một lát mới thú nhận bằng giọng pha chút ngập ngừng:
– Vì Mallory, tất nhiên rồi, tôi không muốn con bé bị kéo vào vụ tai tiếng này cùng cậu. Và còn vì…. cậu nữa. Đó là chuyện tôi mắc nợ cậu.
Nathan nhíu mày. Bố vợ anh đã đoán ra được điều anh đang băn khoăn. Mắt nhìn vào khoảng không vô định, ông làm quá khứ sống dậy.
– Tối hôm đó, buổi tối mùa hè năm 1977, tôi đã uống quá chén. Lúc đó tôi đang trải qua một thời kì khó khăn, cả trong công việc lẫn trong cuộc sống gia đình. Tôi đang trên đường trở về từ Boston, Lisa đã nhờ tôi ghé qua tiệm kim hoàn để lấy chiếc lắc tay bà ấy gửi lại đó để sửa cái móc cài. Trước khi về nhà, tôi đã ghé qua nhà một nữ phụ tá, đồng thời là người tình của tôi và ở lại đó đến cuối giờ chiều. Dĩ nhiên, tôi chưa bao giờ hứa hẹn gì với cô ta cả, vào thời đó và trong giới luật sư chúng ta, không ai ly dị vợ để kết hôn với một nữ thư ký cả, nhưng cô ta đã gần như tống tình tôi với hy vọng tôi sẽ bỏ vợ. Rời khỏi nhà cô ta, tôi nhớ là mình đã dừng chân trong quán bar khách sạn để uống một ly whisky. Tuy nhiên, tôi không chỉ dừng lại ở một ly mà đã nốc liên tiếp bốn hay năm ly gì đó. Tôi đoán là cậu cũng biết qua về vấn đề của tôi với rượu…..
Nathan vẫn còn chưa hiểu sự thể ra sao.
– Thế là thế nào?
– Thời gian đó, tôi nốc rượu vô tội vạ, Jeffrey giải thích. Tôi đang mắc chúng nghiện rượu kinh niên.
Nathan đã tính đến mọi chuyện, chỉ trừ sự tiết lộ kiểu này.
– Nhưng từ khi nào vậy?
– Vào đầu những năm 80, tôi đã cai thành công nhưng rồi lại tái nghiện lần nữa. Tôi đã thử mọi cách: chấp nhận những đợt trị liệu dài ngày, tham gia hiệp hội phòng chống nghiện rượu….. nhưng quả không dễ dàng gì để đến tham dự những buổi nói chuyện đó, để thừa nhận rằng cậu là một người mắc nghiện và thảo luận những vấn đề tuyệt đối riêng tư trước những kẻ hoàn toàn xa lạ.
– Tôi… tôi không rõ, Nathan ấp úng.
Lần này thì đến lượt Jeffrey kinh ngạc.
– Tôi cứ nghĩ Mallory phải kể chuyện này với cậu rồi chứ.
Lần đầu tiên trong đời, Nathan nhìn thấy nỗi xúc động long lanh trong mắt bố vợ. Bất chấp nỗi hổ thẹn của mình, Jeffrey vẫn rất tự hào rằng cô con gái đã giữ điều bí mật này lâu đến thế, ngay cả với người đàn ông mà con bé yêu.
Nghe lời xung tội của ưl, Nathan tin mình đã có lời giải đáp cho rất nhiều câu hỏi mà anh đã nhiều lần tự đặt ra về nỗi dằn vặt luôn ám ảnh cuộc sống của Mallory.
Jeffrey tiếp tục câu chuyện còn đang dang dở.
– Khi về đến Nantucket, tôi đã không tìm thấy món đồ trang sức kia đâu. Rất lâu sau đó, cô thư ký mới thú nhận chính cô ta đã đánh cắp để gây bất hòa giữa hai vợ chồng tôi. Nhưng lúc đó thì tôi chưa hề biết chiếc lắc tay lạc đi đâu. Tôi rất hoảng và sáng hôm sau, khi vợ hỏi đến nó, tôi không nghĩ ra cách nào hay hơn là nói dối rằng đã cất lại vào hộp nữ trang của bà ấy. Đó là lý do đẩy chúng tôi đến chỗ buộc mẹ cậu tội ăn cắp. Tôi nghĩ Lisa cũng chỉ làm ra vẻ tin vào câu chuyện này, nhưng điều đó cho phép chúng tôi giữ được thể diện với người ngoài
Ông dừng lại hồi lâu trước khi nói thêm bằng giọng đều đều không âm sắc:
– Tôi rất lấy làm tiếc, Nathan, tôi đã quá hèn nhát.
Rốt cuộc ông cũng đã nói ra được câu đó.
Mất một hồi lâu, Nathan không thể thốt nên lời. Lời thú tội này khiến anh cùng lúc thấy nhẹ nhõm và kinh sợ. Không, mẹ anh không phải là kẻ ăn cắp nhưng bà lại là nạn nhân của một nỗi bất công quá lớn. Còn Jeffrey, người mà anh vẫn tưởng là tư cách đầy mình và không thể phạm sai lầm hóa ra lại là một kẻ dối trá, nghiện rượu và có nhân tình. Ông chỉ là một con người như bao kẻ khác. Như anh.
Anh ngẩng đầu nhìn bố vợ và nhận ra rằng, thật kỳ lạ, mối oán hận đối với ông đã hoàn toàn tan biến. Anh thậm chí không muốn phán xét ông. Giờ không phải là lúc để làm chuyện đó nữa rồi. Anh nhận thấy nét mặt của ông dãn ra như thể chính ông cũng chờ đợi bấy lâu nay để có thể trao gửi những tâm sự này. Thực ra, cả hai người họ đều đã sống với một điều bí mật luôn đè nặng trong lòng và phá hỏng những giây phút sống của họ.
Jeffrey là người đầu tiên lên tiếng phá tan sự im lặng:
– Tôi biết nói chuyện này ra không thể xóa sạch tội lỗi của mình, ông bắt đầu, nhưng tôi vẫn kín đáo thu xếp để mẹ cậu tìm được chỗ làm mới và năm đó, chính tôi đã trả phần tiền học phí còn lại cho cậu.
– Ông nói đúng, Nathan đáp, mắt đỏ hoe, giờ có thú thật cũng không thể xóa sạch được tội lỗi của ông.
Jeffrey tiến về phía két sắt đặt trong phòng làm việc, mở khóa và lấy ra một vật gì đó, rồi run rẩy trao nó cho Nathan.
Đó là chiếc lắc tay có bốn hàng ngọc trai với móc khóa bằng bạc, có nạm những viên kim cương nhỏ xíu.