Ben Joyce! Cái tên ấy gây ấn tượng như một tiếng sét đánh.
Ayrton đứng phắt dậy. Khẩu súng lục loáng lên trong tay hắn. Một phát nổ, Glenarvan bị trúng đạn ngã xuống. Bên ngoài vang lên tiếng súng bắn nhau.
John Mangles và hai thuỷ thủ định lao đến Ben Joyce, nhưng tên tội phạm láo xược đã biến mất, nhập cùng đồng bọn tản ra cửa rừng. Căn lều trống trải không có gì che đỡ đạn. Glenarvan bị thương nhẹ đã đứng dậy được.
– Nấp vào xe! Nấp vào xe! – John Mangles vừa hét, vừa dắt theo Helena và Mary.
Lát sau, hai người phụ nữ đã an toàn núp sau thành xe làm bằng ván dây, John Mangles, thiếu ta, Paganel và hai thuỷ thủ chộp lấy súng của mình, chuẩn bị bắn trả bọn tội phạm. Glenaravan và Robert nhập chỗ Helena và Mary, còn Olbinett thì vội vã tham gia chiến đấu. Tất cả những sự việc ấy diễn ra nhanh như chớp, John Mangles chăm chú quan sát trước cửa rừng, Ben Joyce vừa đến chỗ bọn cướp, tiếng súng cũng im bặt. Những bụi cây cao im phăng phắc. Không còn dấu hiệu nào của sự tấn công nữa. Thiếu tá và John Mangles truy lòng đến tận rừng. Không thấy còn tên nào nữa.
– Bọn tội phạm lẩn trốn hết rồi! – John Mangles nói.
– Đúng, – thiếu tá xác nhận, – chính điều ấy mới làm tôi lo ngại. Tôi muốn mặt giáp mặt với chúng. Con hổ ở đồng bằng không đáng sợ bằng con rắn trong bụi rậm! Ta hãy lùng sục kỹ những lùm cây chung quanh xe.
Thiếu tá và John Mangles xem xét cẩn thận địa hình từ cửa rừng tới sông Snowy, không phát hiện ra tên tội phạm nào. Bọn Ben Joyce đã bay biến như bầy ác điểu vậy. Sự lạ lùng quá mức ấy khiến các nhà thám hiểm càng thấy không an toàn. Bởi vậy, họ quyết định phải cảnh giác hơn. Cỗ xe kéo – cái “pháo đài” thực sự bị sa lầy trong vũng bùn đất sét ấy bây giờ được lấy làm trung tâm của trại.
Mối quan tâm đầu tiên của Helena và Mary là băng bó vết thương cho Glenarvan. Lúc ông ngã xuống bởi viên đạn của Ben Joyce, Helena đã hoảng hốt lao tới chỗ chồng. Sau khi hoàn hồn, người phụ nữ dũng cảm ấy đã giúp chồng lách vào trong xe. Khi cởi áo kiểm tra lại vai Glenarvan, thiếu tá xem xét kỹ vết thương, thấy viên đạn không đụng vào xương hay gân. Vết thương ra nhiều máu, nhưng Glenarvan vẫn có thể cử ộng các ngón tay và cánh tay một cách bình thường. Điều đó làm cho vợ ông và những người cùng đi yên tâm. Glenarvan được băng bó lại ngay và sau đấy ông yêu cầu mọi người không nên bận tâm quá về ông. Đã đến lúc cần phải làm sáng tỏ tất cả những điều đã xảy ra. Trừ Mulradi và Wilson đứng gác bên ngoài, những người còn lại đều vào bên trong xe và yêu cầu thiếu tá giải thích rõ ràng những điều ấy.
Trước khi bắt đầu kể, Mac Nabbs đã nói cho Helena biết sự thật về bọn phạm nhân tù khổ sai đã vượt ngục Perth vào hoành hành ở tỉnh Victoria này, về tai nạn xe lửa xảy ra trên cầu Camden có bàn tay chúng nhúng vào (tất cả những điều ấy trước đây Glenarvan không muốn cho vợ biết để tránh sự hoang mang, lo sợ). Thiếu tá cũng đã đưa cho Helena xem tờ “Báo Australian và New-Zealand” mà ông mua được ở Syemour, rồi nói thêm rằng cảnh sát đã treo giải một trăm đồng Sterling cho ai lấy được đầu Ben Joyce, một tên cướp nguy hiểm đã gây nhiều tội ác ở vùng này suốt một năm rưỡi qua.
Nhưng làm sao Mac Nabb phát hiện được viên hoa tiêu Ayrton lại chính là Ben Joyce? Điều bí mật mà mọi người đều muốn biết ấy đã được thiếu tá kể như sau:
Ngay từ hôm đầu, Mac Nabbs đã cảm thấy không thể hoàn toàn tin tưởng Ayrton được. Hai, ba sự việc nhỏ, cái nhìn trao đổi giữa viên hao tiêu và thợ rèn bên bờ sông Wimerra, hắn muốn tránh đi những thành phố và làng mạc, hắn cứ khăng khăng đòi đưa “Ducan” đến vùng duyên hải phía đông. Cái chét đột ngột của mấy con bò và ngựa. Cuối cùng là cái gì đó không thành thật trong cách cư xử của tên hoa tiêu – tất cả những điều ấy đã gây cho thiếu tá sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cho đến trước khi xảy ra những sự việc trong đêm vừa qua thì Mac Nabbs vẫn không khẳng định được vì sao ông lại nghi ngờ Ayrton.
Đêm qua, ông đã rời trại, len lỏi giữa những bụi cây cao, đi nửa dặm đến chỗ có những bóng người mà từ xa ông phát hiện thấy và khả nghi. Dưới ánh sáng lân tinh lờ mờ hất ra từ những cây nấm, ông thấy có ba người đang dò xét những dấu vết trên mặt đất. Trong số đó, Mac Nabbs nhận ra tên thợ rèn ở Black Point. “Đúng bọn nó rồi”, – một tên nói. “Ừ”, – tên khác lên tiếng, – “có dấu ba lá trên móng ngựa đây này” – “Dấu móng ngựa đi từ sông Wimerra tới”. – “Mấy con ngựa chết rồi”. – “Thuốc độc sẵn ngay đây mà lại”. – “Đủ giết cả trung đoàn kỵ mã cũng được ấy chứ”, – “Ừ, cái giống cây thuốc độc ấy thế mà hay!”
– Đến đây chúng bỗng im lặng. – Mac Nabbs nói tiếp: – rồi chúng lại đi. Tôi mới chỉ nghe được lõm bõm mấy câu, nên cố bám theo chúng. Lát sau, chúng lại tiếp tục câu chuyện. “Ben Joyce cừ thật đấy! – Tên thợ rèn lên tiếng, – đúng là một hoa tiêu giỏi! Cái vụ lão định cướp tàu mới ghe chứ! Nếu kế hoạch của lão ta mà thành công thì tụi mình giàu to! Lão Ayrton này là quỷ chứ đâu phải là người”, “Không, hãy gọi lão Ben Joyce, lão xứng đáng với cái tên đó”. Sau đấy, bọn chúng ra khỏi rừng. Đến đây thì tôi đã biết rõ đầu đuôi câu chuyện rồi, nên quay về, thiếu tá ngừng lại.
Những người bạn của ông ngồi im ngẫm nghĩ.
– Thế là Ayrton nhử ta đến đây để cướp của và giết người? – Glenarvan giận tím mặt, nói.
– Đúng, – thiếu tá đáp.
– Và bọn chúng đã theo hút ta từ sông Wimerra tới đây, đợi dịp là ra tay.
– Đúng.
– Vậy nghĩa là tên bất nhân hoàn toàn không phải là thuỷ thủ tàu “Britania”. Nghĩa là hắn đã ăn cắp cái tên và bản hợp đồng làm thuê trên tàu của một gã Ayrton nào đó.
Mọi người nhìn Mac Nabbs, vì hẳn là trong đầu ông ta chắc cũng đã từng nảy ra những ý nghĩ như vậy rồi.
– Có thể nói một cách chính xác về tất cả những chuyện đó như thế này, – thiếu tá đáp bằng một giọng bình tĩnh vốn có của mình. Tôi cảm thấy rằng tên cái con người ấy vẫn chính là Ayrton, Ben Joyce là tên lóng của hắn ta. Không nghi ngờ gì nữa, hắn biết Harry Grant và từng làm hoa tiêu trên tàu “Britania”. Việc này, việc khác đều khẳng định những chi tiết mà hắn đã nhắc lại và câu chuyện của bọn tội phạm mà tôi vừa kể đã xác minh điều đó. Ta không nên sa vào những giả định vô ích, mà nên thừa nhận rằng Ayrton và Ben Joyce là một, tức là tên thuỷ thủ trên tàu “Britania” trước đây, nay đã trở thành tên cầm đầu một bọn tội phạm vượt ngục.
Những điều Mac Nabbs nói không ai phản ứng lại.
– Vậy bây giờ, – Glenarvan nói, – bác giải thích cho tôi được chứ Mac Nabbs, bằng cách nào và tại sao, tên hoa tiêu của thuyền trưởng Harry Grant lại đến được Australie?
– Bằng cách nào ư? Tôi không biết, – thiếu tá đáp. – Cả cảnh sát cũng đã tuyên bố họ không biết gì hơn tôi về điều ấy. Tại sao ư? Tôi cũng không biết nữa. Đây là điều bí mật mà chỉ có tương lại mới khám phá ra được mà thôi.
– Đến cảnh sát cũng không ngờ rằng Ayrton và Ben Joyce là một tên, – John Mangles nhận xét.
– Anh nói đúng, John, – thiếu tá đáp, – Do đó, những tin tức này cũng có thể giúp ích cho việc truy lùng của cảnh sát.
– Rõ ràng là tên bất nhân đã lọt vào trong trại của Paddy O’Moore với một mục đích tội lỗi, – Helena nói.
– Dĩ nhiên, – Mac Nabbs tán thành, – Có lẽ hắn định làm một điều ngu ngốc gì đó ở trại của người Irlande. Một sự ngẫu nhiên đã dẫn hắn đến với chúng ta. Hắn đã nghe được những điều Glenarvan nói, nghe lại lịch vụ đắm tàu, và vốn là một tên táo tợn, hắn đã quyết định lợi dụng việc này để mưu tính lợi ích cá nhân. Rồi ta lập đoàn thám hiểm. Lúc ở bờ sông Wimerra, hắn đã móc với người của hắn là tên thợ rèn và làm dấu để theo chân chúng ta…. Tên Ben Joyce đã dùng lá cây độc để giết hại số bò và ngựa của chúng ta. Cuối cùng, thời cơ đã đến, hắn dẫn chúng ta vào bãi sình lầy ven sông Snowy và giao chúng ta vào tay bọn tù khổ sai vượt ngục do hắn cầm đầu.
Mọi việc đã rõ ràng. Thiếu tá đã vén bức màn quá khứ của Ben Joyce và tên bất lương ấy đã lộ nguyênhình là một tên tội phạm xấc xược và nguy hiểm. Những mưu đồ của hắn giờ đây đã hoàn toàn bị bóc trần. Mọi người yêu cầu Glenarvan hết mình cảnh giác.
Việc phát hiện ra sự phản bội của Ayrton làm tiêu tan mọi hy vọng tìm thấy Harry Grant. Để dụ Glenarvan đi sâu vào đất liền, tên tội phạm đã bịa ra vụ đắm tàu ở vùng duyên hải Australie. Điều ấy đã được nhắc đến trong câu chuyện của bọn cướp mà Mac Nabbs nghe được. Không bao giờ “Britania” lại bị va vào đá ngầm ở vịnh Twofold – Bay cả! Không bao giờ Harry Grant lại đặt chân lên lục địa Australie. Thế là lần thứ hai việc giải thích sai nội dụng bức thư đã dẫn những người thám hiểm đi chệch đường.
Thông cảm với nỗi đau khổ của những đứa con thuyền trưởng Grant, mọi người trong đoàn im lặng. Mà biết nói gì để an ủi chúng kia chứ. Robert khóc, ôm chặt lấy chị. Paganel lầu bầu nói với vẻ bực tức:
– Chà, bức thư bất hạnh này! Gần một tá người điên đầu vì mi đây!
Và, tự giận mình, nhà địa lý đáng kính đấm đấm tay vào trán, tưởng muốn bể đầu ra.
Trong khi đó, Glenarvan đi lại chỗ Mularady và Wilson đang đứng gác.
– Mới đây nhất, các bạn không thấy động tĩnh gì chứ? – Glenarvan hỏi họ.
– Không, thưa huân tước, – Wilson đáp. – Bọn cướp chắc là đã chạy cách đây vài dặm rồi.
– Có lẽ chúng ít quá, nên không dám tấn công chúng ta. – Mularady nói thêm – Cõ lẽ tên Ben Joyce đã đi chiêu mộ thêm bọn tù khổ sai khác đang hoành hành ở chân núi quanh đây.
– Có lẽ thế, – Glenarvan tán thành. – Bọn bất lương này nhát gan. Chúng biết ta có súng. Có thể là chúng đợi đêm xuống mới tấn công chúng ta. Khi trời tối thì phải tăng cường cảnh giác. Chà, nếu như chúng ta thoát khỏi vùng đầm lầy này và tiếp tục đi về vùng duyên hải thì đỡ biết bao! Nhưng nước sông lên đã ngăn trở chúng ta. Giá có một cái mảng nào đấy chở chúng ta sang được bờ bên kia thì tôi sẵn sàng bỏ vàng ra mua bằng bất kỳ giá nào.
– Vậy sao huân tước không ra lệnh cho chúng tôi đóng mảng, – Wilson nói. – Cây ở đây thì bao nhiêu cũng có mà.
– Đúng thé, Wilson ạ. – Glenarvan đáp. – Nhưng sông Snowy không phải là một con sông bình thường, mà là một dòng lũ bất trị.
Lúc đó John Mangles, thiếu tá và Paganel đến gặp Glenarvan. Họ vừa mới đi khảo sát sông Snowy về. Sau những cơn mưa cuối cùng, nước mưa đã lên sáu mươi phân nữa. Nước chảy xiết John Mangles nói rằng không thể qua sông được.
– Nhưng cũng không thể khoanh tay ngồi đây được nữa, – anh ta nói thêm. – Điều mà chúng ta định làm trước khi Ayrton phản bội thì bây giờ theo toi vẫn cần thiết.
– Anh muốn nói gì, John! – Glenarvan hỏi.
– Tôi muốn nói rằng chúng ta cần phải có chi viện khẩn cấp, nếu không thể đi Twofold – Bay thì đi Melbourne. Chúng ta còn một con ngựa. Huân tước giao nó cho tôi, tôi xin đi Melbourne.
– Nhưng đó là một ý đó mạo hiểm John ạ, – Glenarvan nói. – Đấy là chưa kể đến nỗi nguy hiểm của cuộc hành trình hai trăm dặm trên một vùng đất không quen biết. Nên hiểu rằng bọn tay chân của Ben Joyce có lẽ đã ngăn chặn mọi con đường rồi.
– Tôi biết, thưa huân tước, nhưng tôi cũng còn biết rằng không thể kéo dài tình trạng này. Ayrton yêu cầu một tuần lễ để đưa đoàn thuỷ thủ tàu “Ducan” đến đây, tôi xin bảo đảm sẽ cùng “Ducan” trở lại bờ sông này sau sáu ngày thôi. Vậy ý huân tước thế nào, xin ra lệnh.
Trước khi Glenarvan trả lời, Paganel nói:
– Tôi xin có một nhận xét, đi Melbourne là nên, nhưng tôi không đồng ý để John Mangles đi. Anh ấy là thuyền trưởng “Ducan” vì vậy không thể liều mình được, thay vào đó, tôi xin đi.
– Ý kiến hay đấy, – thiếu tá khen. – Nhưng tại sao phải đích thực là ông, hả Paganel.
– Thế chẳng nhẽ chúng tôi không đi được sao? – Mularady và Wilson đồng thanh nói.
– Các bạn tưởng rằng tôi sợ phải chạy ngựa trên chặng đường hai trăm dặm đó sao, – Mac Nabbs phát biểu.
– Các bạn của tôi, – Glenarvan lên tiếng. – Nếu một người trong chúng ta p hải đi Melbourne thì chúng ta hãy rút thăm, Paganel, ngài viết tên mọi người đi.
– Dẫu thế nào cũng không thể viết tên huân tước được – John Mangles tuyên bố.
– Vì sao? – Glenarvan hỏi.
– Huân tước để huân tước phu nhân Helena ở lại đây sao đành, vả lại, vết thương của huân tước chưa lành.
– Glenarvan, huân tước không thể bỏ đoàn, – Paganel kêu lên.
– Tất nhiên, – Mac Nabbs khẳng định. – Vị trí của huân tước là ở đây, huân tước không thể đi.
– Bổn phận tôi phải hy sinh cá nhân, – Glenarvan nói. – Đang lúc nguy nan, tôi không chịu nhường ai gánh vác bổn phận ấy. Ngài viết đi, Paganel. Hãy để cho tên tôi hoà chung với tên của bạn bè tôi, và lạy chúa, mong sao tôi được trúng thăm.
Mọi người đành phải làm theo ý của Glenarvan. Tên của ông được ghi cùng với tên của những người khác. Họ bắt đầu bốc thăm và Mularady đã bắt trúng. Chàng thuỷ thủ dũng cảm bật lên tiếng reo “hoan hô”.
– Thưa huân tước, tôi sẵn sàng lên đường.
Glenarvan bắt tay Mulrady. Anh chàng đi về phía xe. Còn thiếu tá và John Mangles ở lại gác.
Được biết Mulrady sẽ đi Melbourne, Helena đã nói với người thuỷ thủ trẻ trung thực ấy những lời xúc động tận đáy lòng. Ai cũng biết Mulrady là một người dũng cảm, tháo vát, kiên cường, và lá thăm đã chọn đúng mặt anh tài.
Mulrady được lệnh lên đường lúc tám giờ tối, Wilson lo việc thắng ngựa. Anh ta nảy ra sáng kiến lấy móng của một con ngựa chết hồi đêm thay vào móng có hình ba lá để bọn cướp không thể phát hiện dấu vết của Mulrady.
Trong lúc đó, Glenarvan viết thư cho Tom Austin, nhưng ông không thể viết được vì cánh tay bị thương. Ông nhờ Paganel viết giúp. Nhà bác học đang mải tập trung suy nghĩ điều gì lung lắm, nên hình như không để ý chung quanh. Cần nói rằng việc lá thư bị giải thích sai nội dung luôn ám ảnh ông. Ông đã tìm mọi cách đặt ngược, đặt xuôi các từ trong thư, cố tìm ra ý mới. Công việc ấy cuốn hút hết tâm lực của ông.
Tất nhiên ông đã không nghe thấy lời đề nghị của Glenarvan, nên huân tước phải nhắc lại.
– À tuyệt, tôi sẵn sàng! – Paganel lên tiếng.
Nói xong, ông liền lấy cuốn sổ ghi chép của mình ra, xé một tờ giấy, cầm bút chì và sẵn sàng viết.
Glenarvan bắt đầu đọc “chính tả” như sau:
– Tôi ra lệnh Tom Austin cho tàu “Ducan” ra khơi và đi…
Paganel viết đến đây, tình cờ ông trông thấy tờ “Báo Australie và New – Zealand” rơi xuống đất. Tờ báo được gấp lại, nên trong cả cái tên báo dài viết bằng tiếng Anh – “Australian and New – Zealand Gazette”, ông chỉ nhìn thấy năm chữ sau cùng của từ “New – Zealand”. Cây bút chì của Paganel bỗng dừng lại, nhà địa lý hình như đã quên bẵng cả Glenarvan lẫn bức thư của ông ta và những gì ông ta vừa đọc cho viết.
– Paganel! – Glenarvan kêu.
– Ối! – nhà địa lý giật mình.
– Ông làm sao vậy? – Thiếu tá hỏi.
– Không sao cả, không sao cả, – Paganel lúng túng, rồi ông ta lẩm bẩm một mình “Aland! Aland!” (1)
Ông chồm dậy và chụp lấy tờ báo. Ông rũ tờ báo và cố kìm không nói thành lời.
Huân tước phu nhân, Mary, Robert, Glenarvan ngạc nhiên nhìn nhà địa lý không hiểu lý do gì làm ông hồi hộp thế.
Paganel dường như đột ngột bị mất trí. Nhưng, trạng thái kích thích thần kinh của ông không bị kéo dài. Nhà bác học dần dần bình tĩnh lại. Niềm vui ánh lên trong đôi mắt của ông đã vụt tắt. Ông ngồi vào chỗ cũ và nói bình tĩnh:
– Tôi xin hầu ngài, thưa huân tước!
Glenarvan lại đọc cho ông viết tiếp. Lá thư được viết với nội dung như sau:
“Tôi ra lệnh Tom Austin cho “Ducan” ra khơi ngay và đi theo vĩ tuyến 37 đến vùng duyên hải phía đông Australie!”
Viết xong, nhà địa lý đưa thư cho Glenarvan. Vết thương làm cho huân tước khó khăn lắm mới ký được vào thư. Sau đó, Paganel tay vẫn còn run vì xúc động, đề lên phong bì: “Gửi Tom Austin, phó thuyền trưởng tàu “Ducan”, Melbourne”
Rồi ông ra khỏi xe, vừa làm điệu bộ vừa nhắc đi nhắc lại những lời khó hiểu:
– Aland! Aland! Zealand!
Chú thích
(1) 5 con chữ sau cùng của từ Zealand trong tên báo tiếng Anh “Australian and New –Zealand Gazette”: Báo nước Úc và Tân Tây Lan.