Tàu “Macquarie” đi chậm chạp. Chủ tàu hình như lúc nào cũng say khướt, không mấy khi bước ra khỏi phòng. Mọi công việc ông ta phó thác cho đoàn thuỷ thủ năm người của ông ta. Đến ngày thứ sau, nghĩa là đáng lẽ đã đến cảng Auckland được ba mươi sáu giờ rồi, thế mà “Macquarie” vẫn lênh đênh trên mặt biển.
Đến hôm thứ sáu ấy trời bỗng nổi bão, mưa ập xuống. Tàu “Macquarie” bất ngờ bị mắc cạn, nghiêng hẳn về một bên. Chủ tàu Halley và cả đoàn thuỷ thủ năm người của hắn bí mật hạ thuỷ chiếc xuồng nhỏ và trốn mất tiêu.
Đoàn thám hiểm bị chơi vơi giữa biển khơi. Sau những phút đầy lo âu trong đêm tối, sớm hôm sau, vừng đông vừa hé sáng, họ kéo lên boong tàu, nhìn về tứ phía. Sương mù tan dần. Xa xa, một ngọn núi lộ ra dưới ánh nắng sớm. Đất liền chỉ còn cách họ chưa đầy chín hải lý nữa… Nhưng làm sao vào được đó bây giờ? John Mangles chỉ huy mọi người cưa, chặt cột buồm tàu, đóng một chiếc bè kiên cố, chất vũ khí và lương thực lên, rồi bơi vào bờ. Đây là một vùng đất New – Zealand hoang vắng.
Wilson nhanh chóng tìm được một cái hang trong núi đá vôi. Rong biển khô xếp lớp trong hang từ bao đời nay trở thành những chiếc giường êm cho các nhà thám hiểm. Một đống lửa được nhóm ngoài cửa hang cho mọi người ngồi quanh hong quần áo.
Sớm hôm sau, Paganel xác định toạ độ cẩn thận rồi đề nghị đoàn đi về phía bắc dọc theo bờ biển Aotea đến Auckland.
Chiều tối hôm ấy, đến một cửa rừng, họ quyết định nghỉ lại. Gần nửa đêm, tai hoạ bất ngờ đã ập đến. Tất cả các nhà thám hiểm đều bị bắt, trói chân và đưa lên thuyền.
Hoá ra hồi chiều tối, vì bị sương mù dăng dầy đặc, nên họ đã dừng chân đúng ngay tại nơi trại lính của bộ lạc người Maori mà không biết. Qua câu chuyện của họ bằng tiếng Anh, những người bị bắt được biết quân của thổ dân Maori bị quân đội Anh đánh tan tành phải chạy về thượng nguồn sông Waikato. Thủ lĩnh của họ, sau khi chống cự quyết liệt với trung đoàn 42 và bị thiệt hại khá nhiều quân lính tinh nhuệ, bây giờ quay trở về chiêu mộ quân lính mới ở các đơn vị khác vẫn đang chiến đấu chống bọn xâm lược Anh. Viên thủ lĩnh có cái tên rất hung tợn là Kai Koumou, tiếng thổ dân có nghĩa là ” Người ăn thịt địch thù của mình”. Binh lính Anh biết rõ cái tên ấy và viên toàn quyền Anh ở New – Zealand mới đây đã treo giải bằng tiền cho ai lấy được đầu ông ta.
“Đòn” khủng khiếp ấy đã giáng xuống Glenarvan đúng ngay lúc ông chỉ còn cách Auekland không bao xa nữa, từ đấy có thể trở về châu Âu một cách dễ dàng.
Nhưng nhìn vẻ mặt bình tĩnh, lạnh lùng của ông, không ai đoán nỗi ông đang bị bao nỗi đau khổ giày vò. Glenarvan cố giữ vững tinh thần để làm gương cho vợ và những người cùng đi, và sẵn sàng, nếu cần thì hy sinh trước tiên để cứu mọi người.
Những người bạn đồng hành của Glenarvan tỏ ra rất xứng đáng. Họ nhất trí với nhau phải cư xử đường hoàng để buộc quân lính Maori không thể đối xử thô bạo với họ được.
Glenarvan đánh bạo hỏi viên thủ lĩnh New- Zealand bằng tiếng Anh:
– Ông đưa chúng tôi đi đâu, thưa thủ lĩnh?
Kai koumou lạnh nhạt nhìn Glenarvan không nói gì.
– Ngài định làm gì chúng tôi? – Glenarvan hỏi lại.
Thủ lĩnh Kai Koumou trợn mắt lên, đáp với vẻ quan trọng.
– Đánh đổi, nếu người của bọn mi ưng nhận mi. Giết, nếu bọn chúng không chịu.
Glenarvan không hỏi thêm nữa, nhưng trong lòng thấy ấm lại một niềm hy vọng. Chắc là một số tên thủ lĩnh Maori nào đó bị sa vào tay quân Anh, nên chúng mang họ đi đổi lại. Nghĩa là còn có cơ thoát được và tình thế không đến nỗi tồi.
Con thuyền vẫn lướt nhanh về phía thượng nguồn.
Huân tước phu nhân và Mary khẽ nói chuyện với Glenarvan cho đỡ khiếp sợ. Giá có một nhà nghiên cứu về nhân diện lão luyện nào đó ở đây thì chắc là ông ta đã đọc thấy trên nét mặt của hai người phụ nữ ấy bao nỗi băn khoăn trong lòng.
Waikata là con sông lớn nhất New-Zealand. Những người thổ dân tự hào về nó cũng giống như người Đức tự hào về con sông Rhin, còn người Slave tự hào về sông Danube vậy. Con sông này tưới nước cho những vùng đẹp đẽ nhất kéo dài suốt hai trăm dặm của đảo Bắc từ tỉnh Wellington đến tỉnh Auckland. Tên sông được đặt cho tất cả các bộ lạc ven sông – đó là những bộ lạc không chịu khúât phục, đã đứng lên chống lại bọn thực dân Anh xâm lược.
Chiếc thuyền bơi đến khi mặt trời lặn mới dừng lại bên bờ dốc đứng, có cây cối mọc um tùm thuận tiện cho việc đóng trại của quân Maori.
Kai Koumou ra lệnh cho những người bị bắt lên bờ. Mấy người đàn ông bị trói tay, còn phụ nữ được tự do. Tất cả họ bị nhốt ở giữa trại, chung quanh đốt lửa làm thành một hàng rào không sao chạy thoát đựơc.
Trước khi Kai Koumou nói cho những người bị bắt biết ý định trao đổi tù binh của hắn. Glenarvan và John Mangles đã bàn cách chạy trốn. Trong lúc thuyền đang bơi trên sông, việc đó không thể làm được, nhưng họ hy vọng khi lên bờ nghỉ lại, trời tối sẽ dễ trốn hơn.
Nhưng, sau khi Glenarvan nói chuyện với viên thủ lĩnh New – Zealand, họ đã quyết định tốt hơn cả là từ bỏ mọi ý đồ ấy. Cần phải chuẩn bị tinh thần chịu đựng. Như thế sẽ tốt hơn. Dù sao việc trao đổi cũng là cơ hội thuận tiện để cứu thoát, còn hơn chiến đấu tay không hoặc chạy trốn ở một vùng không hề quen biết. Tất nhiên có nhiều tình huống có thể làm trì hoãn việc trao đổi, thậm chí cản trở nữa, nhưng dẫu sao, chờ đợi kết quả của những cuộc thương lượng vẫn hơn. Thực ra mà nói, liệu chục người không tấc sắt trong tay có đủ sức chống nỗi ba chục thổ dân hung dữ có vũ khí không? Hơn nữa, Glenarvan dự đoán rằng – và chắc là không sai?- có một thủ lĩnh tai to mặt lớn nào đó của bộ lạc Kai Koumou đã bị bắt và những người cùng bộ lạc muốn tìm mọi cách để giải thoát ông ta.
Mấy ngày sau đó, các nhà thám hiểm bị bắt được chở thuyền ngược dòng đưa đến đại bản doanh của quân Maori, bên bờ hồ Taupo. Viên thủ lĩnh ra lệnh cởi trói cho từng người một và đưa họ vào giam trong một căn nhà rộng, bốn bề kín mít.
Ở đây họ tạm thời được an toàn, không bị những thổ dân phẫn nộ, nguyền rủa, đòi giết vì tưởng lầm họ là những người Anh xâm lược đã sát hại chồng con của họ ngoài mặt trận.
Những tên lính vừa khoá cửa trại giam đi khỏi, Robert liền trèo lên vai Wilson, thò đầu vào khe hở giữa mái và tường nhà, nhìn ra ngoài, quan sát chung quanh.
– Họ đang tụ tập quanh thủ lĩnh,- chú bé thì thào -Kai Koumou định nói gì đó.
Robert im lặng mấy phút rồi nói tiếp:
– Kai Koumou đang nói gì đó…các thổ dân im lặng nghe ông ta.
– Có lẽ, viên thủ lĩnh không phải vô có mà tha chết cho chúng ta đâu,- thiếu tá nhận xét, – Hắn muốn đổi chúng ta lấy những thủ lĩnh của bộ lạc đã bị bắt, nhưng liệu quân lính có đồng ý trao đổi không?
– Đúng rồi! Chú bé lại nói xuống. – Họ tuân lệnh và giải tán. Người thì đi vào các lán, người thì đi vào chòi canh.
– Đúng không? – Thiếu tá hỏi.
– Đúng mà, ông Mac Nabbs,- Robert đáp,- Chỉ còn mấy người lính cùng đi trên thuyền ở lại với ông ta thôi….A, có một người đi đến chỗ ta…
– Xuống mau, Robert!, – Glenarvan nói.
Đúng lúc ấy huân tước phu nhân Helana ngồi nhổm dậy nắm lấy tay chồng.
– Edward, – Helena nói bằng một giọng cứng rắn,- chừng nào còn sống thì cả em lẫn Mary đều không thể để sa vào tay bọn người ấy!
Vừa nói, Helena vừa chìa cho Glenarvan khẩu súng lục đã lên đạn, Glenarvan mắt sáng ngời.
– Súng! – Ông ta kêu lên.
– Vâng! – Bọn Maori không khám xét phụ nữ. Nhưng, anh Edward, khẩu súng này không phải để cho họ mà là để cho chúng ta.
– Hãy giấu súng đi, chú Glenarvan, – Mac Nabbs vội vàng nói – Chưa đến lúc cần đến.
Khẩu súng được lận vào quần áo của Glenarvan.
Chíêc chiếu treo chắn cửa ra vào nhà được vén lên. Một người thổ dân bước vào. Anh ta làm hiệu cho những người bị bắt đi theo anh ta.
Glenarvan cùng những người bạn của mình đi sát bên nhau, qua một cái sân đến cạnh Kai Koumou.
Mấy người lính bộ lạc đứng quanh thủ lĩnh của họ. Kai Koumou bắt đầu hỏi cung Glenarvan:
– Mày là người Anh?
– Phải. – Glenarvan trả lời không chút do dự, biết rằng câu trả lời ấy có thể làm cho việc trao đổi dễ dàng hơn.
– Còn các bạn của mày?
– Các bạn tôi cũng là người Anh như tôi. Chúng tôi là những người đi du lịch, tàu bị tai nạn. Ông nên bíêt chúng tôi không ai tham chiến cả…
– Điều đó chẳng quan trọng. – Một tên khác ngồi kế bên Kai Koumou tên là Kara Tété nói cắt ngang – Bất kỳ người Anh nào cũng là kẻ thù của chúng tao! Bọn chúng bay đã xâm lược đảo của chúng tao! Chúng bay đã cướp ruộng của chúng tao! Chúng bay đã đốt phá làng mạc của chúng tao!
– Họ đã làm sai! – Glenarvan nói một cách nghiêm chỉnh.- Tôi nói điều ấy bởi tôi nghĩ như vậy, chứ không phải vì tôi đang trong tay ông.
– Hãy nghe đây! – Kai Koumou nói tiếp,- Tohonga, tu tế tối cao của thần Noui Atoua của ta, đã bị quân bay bắt làm tù binh. Thần ban lệnh cho ta phải chuộc Tohonga. Ta muốn móc tim mày ra, muốn lấy đầu mày và lũ bạn mày cắm lên cọc rào…Nhưng thần Noui Atoua đã rủ lòng thương!
Kai Koumou run lên vì giận dữ, mặt ông ta bừng bừng phẫn nộ. Rồi ông ta lại nói tiếp:
– Mày nghĩ sao, liệu người Anh có đồng ý đổi mày, trả Tohonga cho chúng tao không?
Glenarvan chăm chú nhìn viên thủ lĩnh, không trả lời ngay
– Tôi không biết, – Cuối cùng ông nói.
– Mày phải trả lời. – Kai Koumou khăng khăng đòi, – liệu mạng mày có xứng đáng với mạng Tohonga của chúng tao không?
– Không. – Glenarvan đáp, – Ở nước tôi, tôi không phải là thủ lĩnh, cũng không phải là tư tế.
Paganel ngạc nhiên trước câu trả lời ấy, sửng sốt nhìn Glenarvan. Kai Koumou dường như cũng ngạc nhiên:
– Nghĩa là, mày còn hoài nghi?
– Tôi không biết.
– Vậy các bạn của mày cũng không đồng ý đổi mày lấy Tohonga của chúng tao?
– Đổi mình tôi thì không, nhưng đổi tất cả thì đồng ý.
– Người Maori chúng tao có lệ chỉ đổi một lấy một thôi.
– Thế thì tốt hơn cả, ông hãy đề nghị trao đổi tư tế của ông ấy lấy hai người phụ nữ này,- Glenarvan chỉ Helena và Mary.
Helena vùng chạy đến chỗ chồng, nhưng thiếu tá đã kịp giữ lại.
– Hai người phụ nữ này, -Glenarvan nói tiếp kính cẩn cúi đầu trước Helena và Mary, – đều giữ những địa vị cao ở trong nước tôi.
Viên thủ lĩnh lạnh lùng nhìn Glenarvan, một nụ cười độc ác thoáng hiện trên khoé mép. Ông ta lập tức kìm lại ngay và cố nén giận dữ trả lời:
– Mày hy vọng đánh lừa Kai Koumou bằng những lời giả dối của mày sao, hả thằng người Âu đáng nguyền rủa kia? Mày tưởng Kai Koumou không hiểu lòng người sao? – Viên thủ lĩnh chỉ vào Helena nói: – Đây là vợ của mày?
– Không, đây là vợ của ta! – Kara Tété kêu lên và gạt những người bị bắt khác ra, đặt tay lên vai Helena.
Sự đụng chạm ấy làm cho Helena tái mét người đi và khiếp sợ kêu lên:
– Anh Edward!…
Glenarvan lặng lẽ duỗi thẳng tay ra. Một phát súng vang lên. Kara Tété bổ nhào xuống đất, chết.
Nghe tiếng nổ, thổ dân trong các lều ào ra. Đám đông đứng chật ních cả bãi đất. Hàng trăm cánh tay giơ lên đe doạ những tù binh khốn khổ. Glenarvan bị tước mất khẩu súng lục. Kai Koumou ném về phía ông một cái nhìn lạ lùng, rồi một tay che xác chết, tay kia ông ta giơ lên ngăn đám đông đang định xông vào “bọn người Âu đáng nguyền rủa”.
Sau khi đã dẹp được đám đông, ông ta nói to lên:
– Tabou! Tabou!
Nghe tiếng ấy, đám đông thổ dân đứng lặng đi trước mặt Glenarvan và những người cùng đi với ông, dường như có một sức mạnh siêu nhân nào đó đã ngăn họ lại.
Mấy phút sau, các tù binh được dẫn vào thánh đường dùng làm nơi giam họ. Nhưng, cả Robert và Paganel đều không thấy đâu cả.