Hồng Ngọc
Chương 12
Khi cửa khép lại sau lưng Gideon và bá tước, tôi bất giác lùi lại một bước.
“Quý cô cứ ngồi tự nhiên,” huân tước chỉ tay lên một trong mấy chiếc ghế xinh xắn. Rakoczy nhếch mép. Có phải đó là một nụ cười? Nếu vậy chắc hắn còn phải đứng trước gương luyện nhiều.
“Xin cảm ơn. Cháu đứng cũng được.” Lại lùi thêm bước nữa, tới khi tôi gần như chạm tới bức tượng thiên thần trên bệ cạnh cửa. Càng đứng cách xa đôi mắt đen kia bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu.
“Vậy ra cô thực sự muốn nói là cô từ thế kỷ hai mốt tới?”
Hừm, sao lại gọi là muốn được? Nhưng tôi vẫn gật đầu.
Huân tước Brompton xoa tay. “Nếu vậy: Vị vua nào trị vì nước Anh ở thế kỷ hai mốt?”
“Chúng ta có một thủ tướng lãnh đạo đất nước.” tôi lưỡng lự. “Còn nữ hoàng chỉ lo những việc đại diện.”
“Nữ hoàng?”
“Elizabeth đệ nhị. Bà ấy rất đáng mến. Thậm chí bà ấy còn tới dự lễ hội đa quốc gia của trường cháu năm ngoái. Bọn cháu đã hát quốc ca bằng bảy ngôn ngữ khác nhau và Gordon Gelderman còn xin được chữ ký của nữ hoàng vào cuốn sách giáo khoa tiếng Anh rồi sau đó rao bán tới 80 bảng trên eBay. À, ừm, đương nhiên các ngài sẽ không hiểu những gì cháu kể. Tóm lại là chúng ta có thủ tướng và nội các với nhiều nghị sĩ do dân bầu.”
Huân tước Brompton bật cười tán thành. “Đây quả là một hình dung vui nhộn, đúng không Rakoczy? Bá tước nghĩ ra những chuyện thú vị quá đi mất. Vậy nước Pháp ở thế kỷ hai mốt trông ra sao?”
“Cháu nghĩ là ở đó họ cũng có một thủ tướng. Không có vua, theo như cháu biết, ngay cả chỉ để đảm nhận những việc mang tính đại diện. Sau cách mạng, giới quý tộc hoàn toàn bị xóa bỏ, cả vua chúa cũng vậy. Bà Marie Antoinette tội nghiệp bị họ chặt đầu. Thật kinh khủng, phải không?”
“Ồ, đúng thế!” Huân tước cười. “Người Pháp là một giống người rất đáng sợ. Vì thế nên người Anh chúng ta không sao hợp với họ được. Hãy cho ta biết: Chúng ta đánh nhau với ai ở thế kỷ hai mốt?”
“Không với ai cả?” Tôi hơi lúng túng. “Ít nhất là không có chiến tranh thật sự. Thỉnh thoảng chúng ta có can thiệp đây đó, chẳng hạn ở Trung Đông. Nhưng thú thật là cháu không biết gì về chính trị đâu. Tốt nhất ngài hãy nói về… tủ lạnh chẳng hạn. Đương nhiên đừng hỏi cháu nó hoạt động ra sao, vì cái này cháu cũng không biết. Chái chỉ biết là nó hoạt động. Ở London, nhà nào cũng có tủ lạnh, ngài có thể cất giữ pho mát, sữa và thịt nhiều ngày trong đó.”
Huân tước Brompton có vẻ không thực sự quan tâm đến tủ lạnh. Rakoczy vươn người trên ghế như một con mèo. Tôi hy vọng hắn không định đứng dậy.
“Ngài cũng có thể hỏi cháu về điện thoại,” tôi nói vội. “Mặc dù cháu không giải thích được nó hoạt động ra sao.” Theo đánh giá của tôi thì giải thích cho huân tước Brompton cũng vô ích. Thật lòng mà nói, thậm chí còn không bõ công giải thích cho ông về nguyên lý của bóng đèn. Tôi cố tìm thứ gì khiến ông ta quan tâm.
“Và về, à, ừ… giữa Dover và Calais có đường ngầm chạy xuyên phía dưới.”
Huân tước Brompton thấy điều này cực kỳ buồn cười. Ông ta cười như nắc nẻ và vỗ bồm bộp lên cặp đùi béo ú. “Hay quá! Hay quá!”
Tôi vừa bớt căng thẳng được một chút thì Rakoczy mở miệng – lần đầu tiên. Hắn nói tiếng Anh bằng giọng lóng khá nặng. “Thế Transylvania thì sao?”
“Transylvania?” Quê hương của bá tước Dracula? Hắn không đùa đấy chứ? Tôi tránh ánh mắt đen ngòm. Hay đây chính là bá tước Dracula nhỉ? Riêng màu da đã rất hợp.
“Quê hương ta nằm trên dãy Carpathians xinh đẹp. Lãnh địa quý tộc ở Transylvania. Điều gì xảy ra với Transylvania ở thế kỷ hai mốt?” Giọng hắn nghe có vẻ cộc cằn. Và ẩn chút khát khao. “Còn dân tộc Kuruc thì sao?”
Dân tộc gì? Kuruc? Đã nghe bao giờ đâu.
“À, chuyện này thì, ở thời của cháu, Transylvania tương đối yên tĩnh,” tôi dè dặt. Thật lòng mà nói, thậm chí tôi còn không rõ nó nằm ở chỗ nào. Tôi có nghe qua dãy Carpathians. Mỗi khi nói về người bác Leo ở Yorkshire, Leslie thường bảo: Bác ấy sống ở đâu đó trên dãy Carpathians, còn đối với quý bà Arista thì tất cả những gì xa hơn Chelsea đều là “Carpathians”. Hừm, nhưng có lẽ người Kurux sống ở đó thật.
“Ai trị vì Transylvania ở thế kỷ hai mốt?” Rakoczy muốn biết. Hắn đang ở tư thế như thể sẽ nhảy dựng lên khỏi ghế bất cứ lúc nào, nếu câu trả lời của tôi không vừa ý hắn.
Hừm, hừm. Câu hỏi này hay đây. Vùng này thuộc Bungaria hay Romania? Hay Hungary?
“Chuyện này thì cháu không biết,” tôi đành nói thật. “Vùng này ở xa quá. Cháu sẽ hỏi lại cô Counter, cô giáo dạy địa.”
Trông Rakoczy rất thất vọng. Có lẽ tôi nên nói dối. Bá tước Dracula trị vì Transylvania từ hai trăm năm nay. Đó là vùng bảo tồn thiên nhiên dành cho các loài dơi trước tai họa tuyệt chủng. Dân Kuruc là những người sống hạnh phúc nhất châu Âu. Có lẽ như thế hắn sẽ thích hơn.
“Tình hình ở các thuộc địa trong thế kỷ hai mốt ra sao?”
Tôi thở phào khi Rakoczy ngả lưng tựa vào ghế. Và hắn cũng không hóa bụi khi mặt trời giờ xuyên qua màn mây tỏa ánh sáng rực rỡ vào phòng.
Chúng tôi còn nói chuyện khá thoải mái một hồi về châu Mỹ và Jamaika, về một số hòn đảo mà, ngượng thay, tôi chưa từng nghe tên. Huân tước Brompton có vẻ rất phẫn nộ vì những hòn đảo đó giờ đã giành được độc lập (như tôi đoán mò chứ không biết chắc). Tất nhiên ông không hề tin tôi và luôn cười phá lên. Rakoczy không tiếp tục tham gia vào câu chuyện, hắn chỉ hết quan sát những chiếc móng tay dài tựa móng vuốt lại ngắm giấy dán tường. Thỉnh thoảng hắn cũng nhìn về phía tôi.
“Ôi, thật buồn vì cô chỉ là một diễn viên,” huân tước Brompton thở dài. “Tiếc quá, ước gì ta tin được lời cô.”
“Vâng,” tôi nói đầy thông cảm. “Nếu là ngài thì cháu cũng không thể tin nổi những chuyện ấy. Tiếc là cháu không có gì làm bằng chứng… ồ, ngài đợi một chút!” Tôi thò tay lôi chiếc điên thoại di động từ trong ngực áo.
“Cái gì thế? Hộp đựng xì gà?”
“Không!” Tôi bật máy. Nó kêu tút tút vì không có sóng. Tất nhiên rồi. “Đây là cái… à, không sao. Cháu có thể dùng nó để chụp ảnh.”
“Vẽ tranh?”
Tôi lắc đầu, giơ cao điện thoại để có thể thu được huân tước và Rakoczy vào màn hình. “Các ngài cười lên nào. Được rồi, xong!” Tiếc là ánh mặt trời sáng nên nó không bật chớp, nếu không họ hẳn phải vô cùng ấn tượng.
“Cái gì thế?” huân tước Brompton nhảy phắt lên, nhanh nhẹn khó ngờ với lượng mỡ thừa. Tôi cho ông ta xem bức ảnh trên màn hình điện thoại. Ông và Rakoczy được chụp lại rất chuẩn.
“Nhưng – cái gì thế này? Sao lại có thể?”
“Chúng cháu gọi đó là chụp ảnh,” tôi bảo.
Ngón tay béo ú của huân tước Brompton thích thú di màn hình điện thoại. “Tuyệt quá! Rakoczy, anh lại đây mà xem.”
“Thôi, cảm ơn,” Rakoczy uể oải nói.
“Ta không biết cô làm cách nào, nhưng đây là trò ảo thuật hay nhất mà ta từng chứng kiến. Ô, gì thế này?”
Trên màn hình hiện ra ảnh của Leslie. Lão huân tước vừa nhấn một phím khác.
“Đây là Leslie, bạn cháu,” tôi nói đầy thương nhớ. “Ảnh chụp tuần trước. Sau lưng bạn ấy là phố Marylebone – phố trung tâm, bánh kẹp là của hãng Prêt à Manger, còn đây là cửa hàng Aveda, ngài thấy không? Mẹ cháu thường mua keo xịt tóc ở đấy.” Đột nhiên tôi nhớ nhà kinh khủng.
“Còn đây là một phần cái taxi. Một dạng xe ngựa, nhưng chạy mà không cần ngựa…”
“Cô muốn bao nhiêu cho chiếc hộp thần này? Ta trả cô mọi giá, bất cứ giá nào!”
“À, ừm, không được, thật đấy, cháu không bán đâu. Cháu còn cần tới nó.” Tôi nhún vai tiếc nuối và đóng nắp hộp thần – à, điện thoại di động, rồi lại thả nó vào trong áo chẽn.
Vừa vặn đúng lúc cánh cửa mở ra. Bá tước và Gideon quay trở lại, bá tước cười hân hoan, Gideon thì có vẻ nghiêm nghị hơn. Giờ thì cả Rakoczy cũng đứng dậy khỏi ghế.
Gideon nhìn tôi thăm dò, tôi lườm lại. Hắn tưởng trong thời gian qua tôi trốn mất chăng? Có lẽ tôi nên làm thế mới đúng. Nói cho cùng thì hắn mới chính là người căn dặn tôi trong bất cứ trường hợp nào cũng phải theo sát hắn, thế mà sểnh ra một tí là hắn bỏ mặc tôi một mình.
“Thế nào? Ngài thích sống ở thế kỷ hai mốt chứ, huân tước Brompton?” Bá tước hỏi.
“Đương nhiên! Ngài quả là có những ý tưởng thật kỳ thú,” huân tước Brompton vỗ tay đồm độp. “Quả thực là vô cùng thú vị.”
“Ta biết trước là ngài sẽ thích. Nhưng lẽ ra ngài nên để cô bé tội nghiệp ngồi mới phải.”
“Ồ, tôi cũng muốn vậy. Nhưng cô nương thích đứng hơn.” Huân tước rướn người về phía trước và nói giọng cầu khẩn: “Ta thực sự rất muốn mua chiếc hộp bằng bạc kia, bá tước thân mến.”
“Hộp bạc nào cơ?”
“Tiếc là đã đến lúc chúng cháu phải chia tay,” Gideon sải bước tới giữa phòng và đứng cạnh tôi.
“Ta hiểu, ta hiểu! Tất nhiên thế kỷ hai mốt đang đợi,” huân tước Brompton nói. “Chân thành cảm ơn vì cuộc viếng thăm. Quả thực thú vị vô cùng.”
“Ta hoàn toàn đồng tình,” bá tước nói.
“Hy vọng sẽ có lúc gặp lại,” huân tước Brompton nói. Rakoczy không nói gì. Hắn chỉ chăm chú nhìn tôi. Rồi bất thình lình, tôi có cảm giác bị hai bàn tay lạnh giá siết cổ. Tôi kinh hãi cố hớp không khí và nhìn xuống. Không thấy gì. Nhưng tôi quả thật cảm nhận rất rõ những ngón tay đang siết chặt quanh cổ.
“Ta có thể siết lại bất cứ lúc nào.”
Không phải Rakoczy mà chính là bá tước đang nói. Nhưng môi ông không hề mấp máy.
Tôi ngơ ngác hết nhìn từ miệng xuống tay ông. Bàn tay ấy cách tôi hơn bốn mét. Sao nó có thể siết cổ tôi được? Và sao đột nhiên tôi lại nghe thấy tiếng nói trong đầu dù ông ta không hề mở miệng?
“Ta không biết chính xác vai trò của cô, hay liệu cô có quan trọng gì không, cô bé. Nhưng ta không cho phép ai vi phạm các quy định của ta. Hãy coi đây là lời cảnh báo. Cô rõ chưa?” Những ngón tay siết chặt hơn.
Tôi đờ ra vì sợ. Tôi chỉ có thể trân trối nhìn và rướn cổ hớp không khí. Không ai nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra với tôi sao?
“Cô đã rõ chưa?
“Dạ,” tôi thì thào.
Ngay lập tức cú siết nới lỏng, bàn tay buông ra. Không khí lại có thể tự do tràn vào phổi.
Bá tước nhếch môi và vẩy tay.
“Chúng ta sẽ còn gặp lại,” ông nói.
Gideon cúi chào. Ba người kia đáp lễ. Chỉ mình tôi là đứng trơ ra, mất hoàn toàn khả năng cử động, cho tới khi Gideon túm tay tôi kéo ra khỏi phòng.
Ngay cả khi đã ngồi trên xe ngựa, sự căng thẳng vẫn không hề giảm đi tí nào. Tôi thấy người mệt lử, yếu nhược và xét về mặt nào đó còn như bị vấy bẩn.
Làm sao lão bá tước đó lại có thể nói chuyện với tôi mà những người khác đều không nghe thấy? Và làm sao ông ta có thể động tới tôi dù đứng cách đến 4m? Mẹ nói đúng, những gì người ta nói về ông ta đều đúng: Ông ta có khả năng xâm nhập vào trí não người khác và kiểm soát cảm giác của họ. Tôi đã nhầm to khi chứng kiến kiểu nói chuyện kiêu ngạo, bốc đồng và vẻ ngoài lụ khụ của ông ta. Tôi đánh giá sai ông ta đến thê thảm.
Ngu xuẩn làm sao.
Tôi đã hoàn toàn đánh giá sai câu chuyện mà mình vướng vào.
Xe bắt đầu chuyển bánh, lắc lư xóc mạnh hệt như lúc tới. Gideon giục gã áo vàng đi nhanh hơn. Có cần không? Trên đường tới đây, gã đã đi như người chán sống.
“Em ổn không? Trông em cứ như vừa gặp ma.” Gideon cởi áo choàng để sang bên. “Tháng Chín gì mà nóng thế.”
“Em không gặp ma,” tôi không đủ sức nhìn vào mắt hắn. Giọng hơi run. “Mà chỉ gặp bá tước Saint Germain và chứng kiến một trong những tài nghệ của ông ấy.”
“Ông ấy không lịch sự với em cho lắm,” Gideon thừa nhận. “Nhưng đó là điều có thể lường trước, vì rõ ràng ông ấy mong đợi em khác hẳn.”
Thấy tôi không đáp, hắn nói tiếp: “Trong những lời tiên tri, người vượt thời gian thứ mười hai luôn được miêu tả rất đặc biệt. Có phép thuật của loài quạ. Bất kể điều đó có ý nghĩa gì. Dường như bá tước không muốn tin lời tôi, rằng em chỉ là một nữ sinh bình thường.”
Kỳ lạ thay, chính lời nhận xét lại làm ta biến ngay cảm giác thê thảm, yếu đuối do sự động chạm giả tưởng của bá tước gây ra cho tôi. Thay vì kiệt quệ và sợ hãi, tôi bỗng thấy bị xúc phạm vô cùng. Và phẫn nộ. Tôi cắn môi.
“Gwendolyn?”
“Gì?”
“Tôi không có ý xúc phạm em. Tôi nói bình thường không theo nghĩa tầm thường, mà là trung bình, em hiểu chứ?”
Tuyệt! Càng tốt hơn.
“Không sao,” tôi trừng mắt lên lườm hắn. “Anh nghĩ thế nào về tôi cũng được.”
Hắn thản nhiên nhìn lại. “Thì em đâu có thể làm gì hơn.”
“Anh đâu biết gì về tôi!” Tôi vặc lại.
“Cũng có thể,” Gideon nói. “Nhưng tôi biết cả trăm đứa con gái như em. Cũng giống nhau cả.”
“Cả trăm đứa con gái như tôi?”
“Đám con gái như em chỉ biết quan tâm đến đầu tóc, quần áo, phim ảnh và minh tinh. Rồi suốt ngày cười rinh rích, rủ nhau cả lũ vào nhà vệ sinh. Và nói xấu về Lisa chỉ vì cô ấy mua áo phông giá năm bảng ở cửa hàng Mark & Spencer.”
Dù đang sôi máu, tôi vẫn buộc phải phá lên cười. “Ý anh muốn nói, tất cả đám con gái anh biết đều nói xấu Lisa, người mua áo phông giá năm bảng ở cửa hàng Marks & Spencer?”
“Chắc em hiểu ý tôi rồi đấy.”
“Ừ, tôi hiểu chứ.” Thực ra tôi không muốn mở miệng nói tiếp nhưng tự nhiên lời cứ tuôn ra ào ào. “Anh nghĩ tất cả người không giống Charlotte đều hời hợt và ngu xuẩn? Chỉ bởi chúng tôi có một thời thơ ấu bình thường, không liên tục có những giờ học đấu kiếm thần bí? Thực tế thì anh đâu có thời gian để quen biết một cô gái bình thường, vì thế anh mới tự tạo ra những định kiến thảm hại như thế.”
“Này, em nghe đây! Tôi cũng từng đi học trung học hệt như em.”
“Ừ, rõ rồi!” Tôi lại không thể kìm lời được. “Nếu anh chỉ được chuẩn bị để sống một cuộc đời của người vượt thời gian như Charlotte, thì chắc chắn anh không thể có bạn trai lẫn bạn gái thân thiết. Còn quan niệm về những cô gái gọi là ở mức trung bình của anh chỉ dựa trên những quan sát có được khi anh cô đơn đứng vẩn vơ ngoài sân trường. Hay anh định kể cho tôi rằng đám bạn cùng trường đều thấy những sở thích của anh – tiếng Latin, nhảy Gavotte và đánh xe ngựa – là cực kỳ hay ho?”
Thay vì bị xúc phạm, Gideon tỏ vẻ thích thú. “Em còn quên mất chơi vĩ cầm.” Hắn tựa vào lưng ghế, khoanh tay lại trước ngực.
“Vĩ cầm? Thật thế?” Cơn phẫn nộ của tôi xụi lơ đột ngột như khi nó đến. Vĩ cầm – thế thì còn tệ nữa!
“Ít ra thì giờ mặt em cũng hồng hào hơn chút. Vừa rồi trông em tái mét như lão Miro Rakoczy.”
Đúng rồi, Rakoczy. “Thực ra tên hắn viết thế nào?”
“R-a-k-o-c-zy,” Gideon nói. “Sao?”
“Tôi định tra mạng về hắn.”
“Ồ, em thích hắn đến vậy?”
“Thích? Hắn là ma cà rồng hút máu,” tôi bảo. “Hắn tới từ Transylvania.”
“Hắn tới từ Transylvania thật, nhưng không phải là ma cà rồng.”
“Sao anh biết?”
“Bởi vì không có ma cà rồng, Gwendolyn.”
“À, thế à? Nếu đã có máy đồng hồ” – và cả những người có thể bóp cổ người khác mà không cần động tay động chân – “thì sao lại không thể có ma cà rồng? Anh nhìn mắt hắn bao giờ chưa? Chúng giống như hai lỗ đen ngòm.”
“Đấy chỉ vì thức uống Belladonna mà hắn đang thử nghiệm,” Gideon bảo. “Một loại độc dược từ cây cỏ, nghe nói là có khả năng mở rộng nhận thức.”
“Sao anh biết?”
“Trong Biên niên sử Đội cận vệ có viết. Trong đó Rakoczy được gọi là Báo đen. Hắn đã bảo vệ bá tước thoát được hai cuộc ám sát. Hắn rất khỏe và sử dụng vũ khí cực kỳ lanh lẹ.”
“Ai muốn giết bá tước?”
Gideon nhún vai. “Người như ông ấy có nhiều kẻ thù.”
“Tôi tin chắc,” tôi nói. “Nhưng tôi có cảm giác ông ấy có thể tự bảo vệ mình.”
“Nhất định,” Gideon đồng tình.
Tôi nghĩ xem có nên kể cho hắn nghe về những gì bá tước đã làm, nhưng rồi lại quyết định thôi. Gideon không chỉ rất lịch sự đối với ông ta mà có vẻ hai người còn như tri kỷ.
Đừng tin bất cứ ai.
“Anh thực đã về quá khứ với những người kia và lấy máu của họ?” Thay vào đó tôi hỏi.
Gideon gật đầu. “Tính cả em và tôi thì tới giờ cỗ máy thời gian đã nhận dạng được tám người. Tôi sẽ tìm ra bốn người còn lại.”
Tôi nhớ lời bá tước và hỏi: “Làm sao anh từ London lại có thể tới Paris và Bruxelles? Tôi cứ nghĩ rằng thời gian được phép ở trong quá khứ chỉ giới hạn trong vài tiếng?”
“Nói chính xác là bốn tiếng,” Gideon bảo.
“Chỉ trong bốn tiếng thì ngày xưa không thể đi từ London tới Paris, chứ đừng nói đến thì giờ để nhảy Gavotte và lấy máu của ai.”
“Đúng thế. Và chính vì thế nên chúng tôi đã đem máy đồng hồ tới Paris trước đó, ngốc ạ,” Gideon bảo. “Chúng tôi cũng làm tương tự ở Bruxelles, Milano và Bath. Còn những người khác thì tôi tìm gặp ở London.”
“Hiểu rồi.”
“Hiểu thật à?” Gideon lại mỉm cười đầy mỉa mai. Lần này tôi không chấp.
“Thật, đúng thế, dần dần tôi cũng rõ một số chuyện.” Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Lúc tới đây, ta đâu có đi qua đồng cỏ này?”
“Đây là công viên Hyde,” Gideon đột nhiên bừng tỉnh và có chút lo lắng. Hắn vươn người ra ngoài. “Này, anh Wilbour, hay tên anh là gì không rõ! Sao lại đi đường này? Chúng ta cần về Temple gấp!”
Tôi không nghe câu trả lời của gã xà ích.
“Dừng lại ngay lập tức,” Gideon ra lệnh. Mặt hắn tái mét khi quay sang phía tôi.
“Có chuyện gì thế?”
“Tôi không biết nữa,” hắn bảo. “Gã kia nói đã nhận được lệnh chở chúng ta tới một điểm hẹn ở đầu phía Nam công viên.”
Ngựa dừng chân, Gideon mở cửa xe. “Có gì đó không ổn. Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, giờ tôi sẽ đảm nhận việc đánh xe về Temple.” Hắn trèo ra khỏi xe rồi đóng cửa lại. “Còn em thì ngồi yên đấy, dù có bất cứ chuyện gì xảy ra.”
Đúng lúc đó, một tiếng nổ vang lên. Tôi cúi xuống theo phản xạ. Dù chỉ nghe âm thanh này qua phim ảnh, nhưng tôi biết ngay là tiếng súng. Liền đó là tiếng hét, tiếng ngựa hí vang, cỗ xe chồm lên phía trước nhưng rồi lại loạng choạng khựng lại.
“Cúi xuống!” Gideon thét, và tôi nằm bẹp xuống ghế.
Một phát súng nữa. Sự tĩnh lặng sau tiếng súng không sao chịu nổi.
“Gideon?” Tôi nhỏm dậy nhìn ra ngoài.
Trên bãi cỏ trước cửa xe, Gideon lăm lăm tay kiếm. “Tôi đã bảo cúi xuống!”
Tạ ơn Chúa, hắn vẫn sống. Nhưng có lẽ chẳng còn lâu nữa. Cứ như từ trên trời rơi xuống, hai người đàn ông xuất hiện, cả hai đều vận đồ đen, người thứ ba cưỡi ngựa từ trong bóng cây tiến lại, trong tay lấp lánh khẩu súng lục.
Gideon đấu kiếm cùng lúc với cả hai người, không ai thốt ra một lời, tôi chỉ nghe tiếng thở hổn hển và tiếng kiếm chạm nhau chan chát. Trong vài giây, tôi mê mải ngắm Gideon sành sỏi vung kiếm. Hệt như trong phim: mỗi bước lùi, mỗi cú đâm, mỗi nhịp nhảy đều hoàn hảo, như thể các diễn viên đóng thế đã luyện bài bản suốt mấy ngày trời. Nhưng khi một trong hai tên mặc đồ đen khuỵu gối rú lên, máu từ cổ xối ra như giếng phun thì tôi bừng tỉnh. Đây không phải là phim, mà là thật. Và ngay cả khi kiếm là vũ khí chết người (tên trúng thương nằm giãy đành đạch trên đất và gào rú khủng khiếp) thì nó cũng khó mà chống lại được súng lục. Sao Gideon lại không mang theo súng? Khó gì mà không cầm theo một loại vũ khí tiện dụng? Còn gã xà ích nữa, sao không hỗ trợ Gideon?
Tên cưỡi ngựa giờ đã tới gần và nhảy xuống đất. Tôi kinh ngạc khi thấy hắn rút kiếm xông thẳng vào Gideon. Sao hắn không dùng súng? Hắn quăng nó xuống bãi cỏ, thật là ngu xuẩn.
“Ngươi là ai? Ngươi muốn gì?” Gideon hỏi.
“Không muốn gì hơn ngoài mạng của ngươi,” người đến sau đáp.
“Vậy sao, nhưng ngươi sẽ không có được nó!”
“Chúng ta sẽ lấy mạng ngươi! Cứ tin đi!”
Và trận đấu trước cửa xe lại diễn ra hệt như một vở ba lê được luyện tập kỹ càng, trừ việc gã bị trúng thương giờ đã nằm thẳng cẳng trên mặt đất, khiến hai tên kia phải tránh giẫm vào hắn.
Gideon gạt phăng từng cú tấn công, cứ như hắn đã biết trước chủ ý của những tên kia. Nhưng rõ ràng họ cũng được học đấu kiếm từ bé. Rồi tôi trông thấy thanh kiếm đối thủ bổ thẳng xuống vai Gideon khi hắn đang đỡ cú tấn công của tên kia.
Chỉ nhờ cú né lanh lẹ hắn mới tránh được nhát chém có thể chặt đứt nửa tay hắn. Thay vào đó, tôi nghe thấy tiếng gỗ vỡ toác khi bị kiếm phang phải.
Chuyện không thể tin nổi! Bọn chúng là ai, và muốn gì?
Tôi vội ngồi rụt lại trên ghế, nhìn qua cửa sổ bên kia. Lẽ nào không ai nhìn thấy sự việc đang diễn ra? Sao lại có chuyện bị tấn công giữa thanh thiên bạch nhật trong công viên Hyde? Cuộc đấu kia dường như kéo dài vô tận.
Mặc dù Gideon đấu rất khá trong tình cảnh chênh lệch lực lượng, nhưng có vẻ hắn không thể chiếm nổi thế thượng phong. Hai người kia có lẽ sẽ dồn hắn vào thế bí và chiến thắng.
Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi súng nổ hoặc còn bao nhiêu thời gian cho tới lúc bọn tôi trở về hiện tại. Có lẽ không có hy vọng tan biến vào không khí ngay trước mắt kẻ tấn công. Tôi không còn sức để chịu đựng cảnh ngồi lì trong xe và giương mắt nhìn hai tên kia hạ sát Gideon.
Hay cứ trèo qua cửa sổ xe đi gọi cứu trợ?
Thoạt tiên tôi sợ cái váy phồng khổng lồ không lọt qua ô cửa sổ, nhưng chỉ sau một tích tắc tôi đã đứng trên con đường rải cát và tìm cách định hướng.
Bên kia xe chỉ còn tiếng thở dốc, tiếng chửi rủa và tiếng kim loại lạnh lùng va nhau loảng xoảng.
“Đầu hàng đi,” một trong hai tên phì phò hét lên.
“Không đời nào!” Gideon đáp.
Tôi thận trọng tiến về phía mấy con ngựa phía trước. Suýt nữa tôi vấp phải thứ gì đó vàng vàng, và phải cố gắng lắm mới không rú lên. Đó chính là gã mặc áo vàng. Gã đã tụt xuống từ ghế xà ích và nằm ngửa trên cát. Tôi kinh hãi nhận thấy nửa mặt gã đã nát bấy, quần áo đẫm máu. Con mắt ở nửa mặt kia trợn tròn nhìn vào khoảng không.
Phát súng khi nãy nhằm vào hắn. Cảnh tượng quá kinh khủng, tôi chỉ muốn ói. Tôi chưa bao giờ trông thấy xác chết. Ước gì lúc này tôi chỉ đang ngồi trong rạp phim và có thể ngoảnh mặt đi!
Nhưng đây là đời thực. Người này đã chết, còn Gideon thì đang kẹt trong tình huống nguy hiểm đến tính mạng phía bên kia xe.
Tiếng kiếm va nhau chát chúa kéo tôi về thực tại, Gideon khẽ kêu lên khiến tôi tỉnh hẳn.
Trước khi biết bản thân đang làm gì, tôi đã tìm thấy thanh kiếm bên hông người chết và tháo nó ra khỏi thắt lưng gã.
Thanh kiếm trong tay nặng hơn tôi tưởng, nhưng ngay lập tức tâm trạng tôi khá lên hẳn. Tuy không biết phải dùng thứ vũ khí này ra sao, nhưng ít nhất tôi biết là nó sắc và nhọn.
Âm thanh của cuộc đấu không hề giảm bớt. Tôi ló đầu nhìn và trông thấy hai tên kia đã dồn được Gideon áp lưng vào thành xe. Một vành nhánh tóc tuột ra, bay rối tinh trước trán hắn. Bên tay áo hằn rõ vết chém sâu, nhưng tôi nhẹ người khi không thấy vết máu nào. Hắn vẫn chưa bị thương.
Tôi ngó quanh lần cuối, nhưng vẫn không thấy nguồn hỗ trợ nào. Tôi nhấc kiếm lên, cương quyết bước ra. Ít nhất thì sự xuất hiện của tôi sẽ thu hút sự chú ý của hai tên kia và biết đâu sẽ tạo lợi thế cho Gideon.
Nhưng thực tế thì ngược lại. Bởi lúc này hai tên kia đều đang quay lưng về phía tôi nên không thấy tôi, nhưng Gideon thì trợn mắt sửng sốt.
Hắn lưỡng lự nửa giây, chừng ấy thời gian cũng đủ cho một trong hai kẻ lạ mặc đồ đen đâm trúng vào vết chém đã làm đứt áo. Lần này máu tuôn ra. Gideon vẫn tiếp tục đấu như không hề có chuyện gì.
“Ngươi chẳng cầm cự được bao lâu nữa đâu,” tên kia rú lên đắc thắng và càng tấn công Gideon dồn dập hơn. “Cầu nguyện đi, nếu ngươi còn đủ sức. Vì ngươi sắp được đối mặt với Thượng đế.”
Tôi dùng cả hai tay nắm cán kiếm lao tới, không thèm để ý tới ánh mắt kinh hãi của Gideon. Hai tên kia không hề nghe thấy tôi, chúng chỉ nhận ra sự có mặt của tôi khi kiếm đã xuyên thấu lưng áo đen của một tên, ngọt như ống nước và gần như không gây ra tiếng động. Trong một khoảnh khắc kinh hãi, tôi tưởng đã đâm trật mục tiêu, có lẽ vào khoảng trống giữa thân và tay tên đó. Nhưng hắn hực lên, buông rơi vũ khí và lăn ra đất như thân cây bị đốn. Mãi tới khi hắn ngã xuống, tôi mới buông kiếm.
Ôi Chúa ơi.
Gideon tận dụng giây phút kinh hoàng của tên kia, đâm một nhát khiến hắn cũng gục xuống.
“Em điên à?” Gideon gào lên trong khi lấy chân đá cây kiếm của đối phương sang bên rồi gí lưỡi kiếm nhọn vào cổ hắn.
Ngay lập tức, hắn nhũn ra như tàu lá úa. “Xin ngài… làm ơn tha mạng.”
Răng tôi bắt đầu va lập cập.
Không thể thế được. Không phải tôi vừa đâm kiếm vào một người.
Người này hự lên một tiếng. Còn tên kia như sắp khóc.
“Ngươi là ai và ngươi muốn gì?” Gideon lạnh lùng hỏi.
“Tôi chỉ làm theo lệnh người khác. Xin ngài ban ơn!”
“Ai đã ra lệnh cho ngươi?” Một giọt máu ứa ra trên cổ hắn, dưới mũi kiếm. Gideon mím môi như phải cố hết sức mới giữ yên được lưỡi kiếm.
“Tôi không biết tên người đó, tôi xin thề.” Gương mặt méo mó vì sợ hãi của hắn chợt nhòe đi trước mắt tôi, màu xanh đồng cỏ xoáy tít xung quanh, tôi thở phào nhẹ nhõm, nhắm mắt thả người vào vòng xoáy.
***
Trích Mật ký bá tước Saint Germain.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.