Húng nhại
6.
Nỗi choáng váng vì nghe thấy giọng Haymitch hôm qua, biết rằng ông không chỉ phục hồi chức năng một lần nữa mà còn kiểm soát phần nào cuộc sống của tôi, khiến tôi giận sôi lên. Tôi rời phắt khỏi trường quay và không chịu công nhận những lời ông bình luận từ ca bin hôm nay. Dẫu vậy, tôi biết ngay là ông nói đúng về màn trình diễn của tôi.
Ông mất cả buổi sáng để thuyết phục những người khác về nhược điểm của tôi. Rằng tôi không làm được. Tôi không thể đứng giữa làn khói giả trong trường quay với phục trang và lớp trang điểm đó, kêu gọi các quận đoàn kết giành chiến thắng. Nói đúng ra, thật đáng ngạc nhiên là tôi lại có thể chịu được ống kính máy quay lâu đến vậy. Tất nhiên là nhờ Peeta cả. Chỉ có một mình, tôi không thể là Húng nhại.
Chúng tôi quây quanh chiếc bàn lớn ở Bộ Tư lệnh. Coin và thuộc hạ của bà ta. Plutarch, Fulvia và đội chuẩn bị của tôi. Một nhóm từ Quận 12 gồm Haymitch và Gale cùng mấy người mà tôi không hiểu sao lại có mặt ở đây, như Leevy và Greasy Sae. Vào phút cuối, Finnick đẩy Peetee vào trên xe lăn, đi cùng là Dalton, chuyên gia gia súc đến từ Quận 10. Tôi đoán có lẽ Coin triệu tập nhóm người đủ mọi thành phần nom rất bất thường này để họ chứng kiến thất bại của tôi.
Tuy nhiên, chính Haymitch lại là kẻ chào đón mọi người, vì nghe ông nói thì tôi hiểu rằng họ đến đây theo lời mời cá nhân của ông. Đây là lần đầu tiên chúng tôi ở trong cùng một phòng kể từ hồi tôi cào cấu ông. Tôi tránh nhìn thẳng vào ông, nhưng thoáng thấy hình phản chiếu của ông trên tấm bảng điều khiển bóng loáng gắn dọc đường. Nhìn ông hơi vàng vọt và sụt cân đáng kể, thành ra trông khá teo tóp. Trong thoáng chốc tôi sợ rằng ông đang chết dần chết mòn. Rồi tôi lại tự nhắc nhủ mình hơi đâu mà quan tâm.
Việc đầu tiên Haymitch làm là phát lại đoạn ghi hình về tôi.
Xem ra dưới sự hướng dẫn của Plutarch và Fulvia, tôi lại thụt lùi thêm một bước nữa. Cả giọng nói lẫn cơ thể tôi đều run rẩy, rời rạc, như một con rối bị điều khiển bởi những thế lực vô hình.
“Được rồi.” Haymitch nói khi đoạn ghi hình kết thúc. “Có ai muốn tranh luận rằng cái này có thể giúp chúng ta giành chiến thắng không?” Không ai mở miệng. “Thế là đỡ tốn thời gian đấy. Vậy xin tất cả hãy im lặng một lát. Tôi muốn mọi người nghĩ đến một sự việc nào đó liên quan đến Katniss Everdeen đã thực sự làm mọi người cảm động. Không phải theo kiểu ta ghen tị với kiểu tóc của cô bé, hay bộ váy rực lửa hay cú bắn tên thần sầu. Không phải theo kiểu Peeta khiến chúng ta yêu mến cô bé. Tôi muốn nghe nhắc đến một khoảnh khắc mà cô bé khiến ta trỗi dậy cảm xúc chân thực.”
Im lặng căng như dây đàn, và tôi mới trộm nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ kết thúc thì Leevy lên tiếng. “Khi cậu ấy tình nguyện thế chỗ Prim trong buổi chiêu quân. Vì tôi chắc chắn cậu ấy cho rằng mình sẽ chết.”
“Tốt. Ví dụ tuyệt vời,” Haymitch nói. Ông cầm cây bút dạ màu tím viết lên giấy nhớ.
“Tình nguyện thế chỗ em gái ở buổi chiêu quân.” Haymitch nhìn quanh bàn. “Người khác nữa đi.”
Tôi ngạc nhiên khi thấy người tiếp theo lên tiếng là Boggs, kẻ vẫn bị tôi coi là tay người máy to xác chuyên phục tùng Coin. “Khi Katniss hát bài ca đó. Khi cô bé con chết ấy.”
Trong tâm trí tôi thấp thoáng hình ảnh Boggs với một chú nhóc vắt vẻo bên hông. Trong phòng ăn, tôi đoán vậy. Có lẽ xét cho cùng ông ta cũng không hẳn là người máy.
“Ai mà không nghẹn ngào trước cảnh ấy chứ, phải không?” Haymitch vừa nói vừa viết.
“Tôi đã khóc lúc cô bé đánh thuốc mê Peeta để đi kiếm thuốc về cho cậu ấy và cả khi cô bé hôn tạm biệt cậu ấy nữa!” Octavia thốt ra. Rồi chị vội che miệng, như thể chắc chắn rằng mình vừa phạm sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng Haymitch chỉ gật đầu. “Ồ, phải. Đánh thuốc mê Peeta để cứu mạng cậu bé. Rất hay.”
Những khoảnh khắc bắt đầu ào đến dồn dập không theo thứ tự nào cả. Khi tôi nhận Rue làm đồng minh. Chìa tay ra với Chaff trong đêm phỏng vấn. Cố cõng Mags. Giây phút tôi giơ nắm dâu độc đó ra được tái nhắc hồi, với mỗi người lại có những cảm nhận khác nhau. Nào là tình yêu dành cho Peeta. Nào là bất khuất trước nghịch cảnh. Nào là thách thức sự vô nhân đạo của Capitol.
Haymitch giơ tập giấy nhớ lên. “Vậy câu hỏi là, điểm chung của tất cả những cái này là gì?”
“Những lúc ấy Katniss là chính mình,” Gale khẽ nói “Không ai bảo em ấy phải nói thế này hay làm thế kia.”
“Không có kịch bản sẵn, phải rồi!” Beetee nói. Ông vươn người vỗ tay tôi. “Vậy chúng ta nên để cháu một mình nhỉ?”
Mọi người cười vang. Đến tôi cũng he hé môi cười.
“Ừm, hay thì có hay nhưng chả hữu ích mấy,” Fulvia dằn dỗi nói. “Không may là, cơ hội để cô ấy tỏ ra đáng mến là khá hạn chế ở Quận 13 này. Vì thế trừ phi các vị đề xuất ném cô ấy vào giữa trận chiến…”
“Đó chính là đề xuất của tôi đấy,” Haymitch nói. “Đưa cô bé ra chiến trường và cứ thế quay thôi.”
“Nhưng mọi người nghĩ em ấy mang thai mà,” Gale chỉ ra.
“Chúng ta sẽ truyền tin cô bé sẩy thai do bị điện giật ở trường đấu,” Plutarch đáp. “Thật đáng buồn. Thật bất hạnh.”
Ý tưởng đưa tôi ra chiến trường vấp phải nhiều tranh cãi. Nhưng lý lẽ của Haymitch khá vững vàng. Nếu tôi chỉ thể hiện tốt trong những tình huống thực thì cứ thế mà làm đi. “Mỗi lần chúng ta huấn luyện hay đưa cho cô bé lời thoại thì cũng chỉ dám hy vọng cô bé làm tạm ổn. Tất cả phải xuất phát từ chính cô bé. Mọi người hưởng ứng cũng là vì thế.”
“Kể cả có cẩn trọng đi nữa thì chúng ta cũng đâu dám chắc cô bé được an toàn,” Boggs nói. “Cô ấy sẽ là mục tiêu của mọi…”
“Tôi muốn đi,” tôi xen vào. “Ở đây tôi chẳng giúp gì được cho phiến quân cả.”
“Nhỡ cô bị giết thì sao?” Coin hỏi.
“Thì cứ đảm bảo bà quay được vài cảnh. Đằng nào bà cũng xài được mà,” tôi đáp.
“Được,” Coin nói. “Nhưng làm từng bước một thôi. Lựa tình huống nào ít nguy hiểm nhất có thể khơi dậy vẻ tự nhiên trong cô ấy.” Bà ta bước quanh Bộ Tư lệnh, săm soi bản đồ các quận được chiếu sáng cho thấy vị trí đóng quân hiện tại trong cuộc chiến. “Chiều nay hãy đưa cô ấy đến Quận 8. Sáng nay có một vụ đánh bom lớn nhưng xem chừng cuộc không kích vẫn tiếp diễn. Tôi muốn một đội vệ sĩ hộ tống cô ấy. Đoàn quay phim lên mặt đất. Haymitch, ông sẽ ở trên máy bay liên lạc với cô ấy. Để xem chuyện gì xảy ra ở đó. Ai có ý kiến gì nữa không?”
“Rửa mặt cho cô bé đi.” Dalton nói. Ai nấy đều quay lại phía anh. “Cô bé còn trẻ thế mà bị các người biến thành bà cô ba lăm. Không ổn tí nào. Cứ như kiểu của Capitol vậy.”
Khi Coin tạm ngưng cuộc họp, Haymitch xin phép bà ta được nói chuyện riêng với tôi. Những người khác đi hết, còn lại Gale vẫn ngần ngừ nán lại bên tôi. “Cháu lo gì vậy?” Haymitch hỏi anh. “Ta mới là người cần vệ sĩ đây này.”
“Không sao đâu,” tôi bảo Gale, anh bèn rời đi. Chỉ còn tiếng thiết bị kêu rì rì, tiếng ù ù của hệ thống thông gió. Haymitch ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi. “Chúng ta lại sắp phải làm việc chung với nhau nữa rồi. Vậy có gì thì nói ra đi.”
Tôi nghĩ đến những lời qua tiếng lại gay gắt kịch liệt trên tàu bay. Kéo theo là nỗi chua xót. Nhưng tôi chỉ thốt lên rằng, “Cháu không tin nổi là bác lại không cứu Peeta.”
“Ta biết,” ông đáp.
Có cảm giác về sự thiếu trọn vẹn. Không phải vì ông chưa xin lỗi. Mà bởi chúng tôi đã từng là một đội. Chúng tôi đã thỏa thuận là sẽ giữ an toàn cho Peeta. Một thỏa thuận phi thực, đẫm hơi men được đưa ra trong đêm tối, nhưng vẫn cứ là thỏa thuận. Và tự đáy lòng mình, tôi biết cả hai chúng tôi đều đã thất bại.
“Giờ bác nói đi,” tôi bảo ông.
“Ta không tin nổi đêm ấy cháu lại để lạc mất Peeta khỏi tầm mắt,” Haymitch nói.
Tôi gật đầu. Vậy đấy. “Cháu cứ lấn cấn mãi về việc đó. Xem lẽ ra cháu đã có thể làm gì để giữ cậu ấy bên mình mà không phá vỡ liên minh. Nhưng cháu chẳng nghĩ ra gì cả.”
“Cháu đâu có được lựa chọn. Mà kể cả đêm ấy ta có bắt Plutarch ở lại giải cứu thằng bé thì cả cái tàu bay cũng sẽ bị bắn hạ mất. Chúng ta chỉ vừa kịp rời khỏi đó thôi.”
Cuối cùng tôi cũng nhìn vào mắt Haymitch. Đôi mắt màu vỉa than. Xám thăm thẳm, hằn những quầng thâm sau bao đêm mất ngủ. “Dù sao thì thằng bé vẫn chưa chết, Katniss à.”
“Chúng cháu vẫn trong cuộc đấu.” Tôi cố nói vẻ lạc quan, nhưng giọng rời rạc.
“Vẫn. Và ta vẫn là người hướng dẫn của cháu.” Haymitch chỉ cây bút dạ vào tôi. “Khi cháu ở trên mặt đất, hãy nhớ rằng ta ở trên máy bay. Ta sẽ có tầm nhìn tốt hơn, vì thế cứ làm theo lời ta.”
“Để xem đã,” tôi đáp.
Tôi quay lại Phòng Tái tạo, nhìn những vệt trang điểm chảy mất hút xuống lỗ thoát nước khi tôi rửa sạch mặt. Người trong gương trông xơ xác, với làn da sần sùi và cặp mắt lờ đờ, nhưng trông giống tôi. Tôi giật dải băng tay ra, để lộ vết sẹo xấu xí từ vụ máy định vị. Đây. Thế này cũng giống tôi nữa.
Vì tôi sẽ dấn thân vào vùng chiến sự nên Beetee giúp tôi chế tạo bộ áo giáp mà Cinna thiết kế. Chiếc mũ giáp dệt từ kim loại vừa khít đầu tôi. Chất liệu khá mềm, tựa vải, có thể bẻ ngược ra sau như mũ thường phòng khi tôi không muốn đội suốt. Áo gi lê nhằm tăng cường bảo vệ những bộ phận quan trọng. Một tai nghe nhỏ màu trắng gắn bằng dây kim loại cổ áo. Beetee còn cẩn thận lắp mặt nạ vào thắt lưng của tôi, phòng trường hợp bị tấn công bằng khí độc. “Nếu cháu thấy ai đó vô cớ ngã xuống thì hãy lập tức đeo cái này vào,” ông nói. Cuối cùng ông đeo ống tên chia thành ba ngăn hình trụ sau lưng tôi. “Nhớ này: Phải, lửa. Trái, thuốc nổ. Giữa, thường. Đáng ra cháu không cần đến chúng, nhưng cẩn tắc vô ưu mà.”
Boggs đến hộ tống tôi xuống Sư đoàn Không vận. Thang máy vừa tới nơi, đã thấy Finnick ló ra, vẻ bừng bừng khích động. “Katniss à, họ không cho anh đi! Anh đã bảo họ là anh ổn cả, nhưng họ thậm chí còn không cho anh lên tàu bay!”
Tôi nhìn Finnick – cẳng chân trần lộ ra giữa áo choàng bệnh viện và đôi dép lê, mái tóc rối bù, sợi dây thừng thắt dở dang quấn quanh ngón tay, ánh mắt hoảng hốt – biết rằng mình có viện cớ gì cũng vô ích. Dẫu tôi không cho rằng đưa anh theo là khôn ngoan. Thế là tôi vỗ tay vào trán nói, “Ôi, em quên mất. Tại cái chấn thương não ngu ngốc này đấy. Lẽ ra em phải bảo anh đến gặp bác Beetee ở Kho Vũ khí Đặc biệt. Bác ấy thiết kế một cây đinh ba mới cho anh đấy.”
Nghe thấy từ đinh ba, Finnick như lại trở về với chính mình.
“Thật không? Nó thế nào?”
“Em không biết. Nhưng nếu nó cũng giống như cung tên của em thì anh sẽ thích mê thôi,” tôi nói. “Nhưng anh sẽ cần luyện tập với nó đấy.”
“Đúng vậy. Tất nhiên rồi. Có lẽ anh nên xuống đó thì hơn,” anh nói.
“Finnick à?” tôi gọi. “Quần thì sao?”
Anh nhìn xuống chân như thể lần đầu nhận ra mình đang mặc gì. Rồi anh tụt cái áo choàng bệnh viện xuống, còn độc đồ lót. “Sao? Em thấy thế nào?” – anh tạo dáng khêu gợi trông rất nhắng – “làm em mất tập trung à?”
Tôi không nhịn được cười vì trông buồn cười không thể tả, còn buồn cười hơn bởi cảnh tượng đó làm Boggs ngượng chín người, và tôi vui vì nghe có vẻ như Finnick lại trở về đúng chàng trai mà tôi đã gặp ở Huyết trường.
“Em chỉ là người bình thường thôi mà, Odair.” Tôi bước vào thang máy cho kịp. “Xin lỗi,” tôi nói với Boggs.
“Thôi mà. Tôi nghĩ cháu… xử lý khá tốt,” ông nói. “Dù gì cũng tốt hơn là tôi phải giam cậu ta lại.”
“Vâng,” tôi đáp. Tôi liếc trộm ông. Ông chừng bốn lăm tuổi, với mái tóc húi cua điểm bạc và cặp mắt xanh lơ. Tư thế hết sức đĩnh đạc. Hôm nay ông đã mở miệng hai lần với giọng điệu khiến tôi nghĩ rằng ông giống bạn hơn là thù. Có lẽ tôi nên cho ông cơ hội. Nhưng hình như ông quá trung thành với Coin…
Một loạt tiếng lách cách vang rộn lên. Thang máy khẽ ngưng lại rồi bắt đầu di chuyển sang trái.
“Nó đi sang bên ạ?” tôi hỏi.
“Phải. Có cả một mạng lưới đường thang máy dưới Quận 13,” ông đáp. “Cái này nằm ngay trên phương tiện nối với cầu không vận thứ năm. Nó sẽ đưa chúng ta tới Kho Tàu bay.”
Kho Tàu bay. Hầm ngục. Ban Phòng thủ Đặc biệt. Nơi nào đó nuôi trồng thực phẩm. Sản xuất năng lượng. Thanh lọc không khí và nước. “Quận 13 còn lớn hơn cháu nghĩ.”
“Không dám nhận vơ hết đâu,” Boggs nói. “Chúng tôi cơ bản chỉ kế thừa nơi này thôi. Tất cả những gì chúng tôi có thể là giữ nó vận hành.”
Tiếng lách cách lại nổi lên. Chúng tôi lại được hạ xuống trong thoáng chốc – chỉ vài tầng – rồi cửa thang máy mở ra dẫn vào Kho Tàu bay.
“Ồ,” tôi ngỡ ngàng thốt lên khi nhìn thấy cả một phi đội. Những chiếc tàu bay đủ loại hàng nối hàng. “Mọi người cũng được thừa hưởng cả những thứ này ư?”
“Một số là do chúng tôi chế tạo. Một số lấy từ không lực của Capitol. Tất nhiên chúng đã được cải tiến rồi,” Boggs nói.
Lòng tôi lại nhói lên niềm căm ghét Quận 13. “Mọi người có tất cả mọi thứ thế này mà lại để các quận còn lại vô phương tự vệ trước Capitol.”
“Không đơn giản vậy đâu,” ông đáp trả. “Mãi đến gần đây tình thế mới cho phép chúng tôi phát động phản công. Còn khi ấy chúng tôi chỉ kịp sống sót trong đường tơ kẽ tóc. Sau khi lật đổ và hành quyết đám người Capitol, chúng tôi chỉ có dăm người còn biết lái máy bay. Chúng tôi lẽ ra đã có thể cho họ tan xác bằng tên lửa hạt nhân, phải. Nhưng câu hỏi lớn hơn vẫn luôn tồn tại: Nếu chúng ta lao vào cuộc chiến tranh kiểu đó với Capitol thì liệu còn người nào sống sót không?”
“Nghe chẳng khác gì Peeta nói. Thế mà các bác lại gọi cậu ấy là kẻ phản bội,” tôi bật lại.
“Vì cậu ta kêu gọi đình chiến,” Boggs nói. “Cháu sẽ thấy không bên nào dùng vũ khí hạt nhân đâu. Chúng ta sẽ làm theo cách cổ điển. Đằng kia kìa, Chiến binh Everdeen. Ông chỉ một chiếc tàu bay nhỏ hơn.
Tôi leo lên bậc thang thì thấy trong đó chật cứng đoàn quay phim và các thiết bị. Những người khác đều vận quân trang áo liền quần màu xám sẫm của Quận 13, kể cả Haymitch, dù trông ông khá khó chịu với cái cổ áo ôm khít.
Fulvia Cardew chen vào rồi kêu lên thất vọng khi thấy tôi đã rửa sạch mặt. “Bao công sức thế là chui xuống lỗ cống hết cả. Tôi không trách cô đâu, Katniss. Chỉ là chẳng mấy ai được trời phú cho khuôn mặt ăn hình như anh ta đâu.” Cô ta thúc vào Gale lúc này đang nói chuyện với Plutarch, xoay anh về phía chúng tôi. “Chẳng phải anh ta rất đẹp trai sao?”
Đúng là Gale nổi bần bật trong bộ đồng phục. Nhưng với những gì chúng tôi từng trải qua cùng nhau thì câu này chỉ làm cả hai lúng túng. Tôi đang vắt óc tìm lời đối đáp dí dỏm thì Boggs nói sóng sượng, “Ừm, đừng mong chúng tôi lóa mắt quá làm gì. Vừa nãy chúng tôi còn thấy Finnick Odair mặc quần lót cơ.” Tôi quyết định từ rày sẽ quý mến Boggs.
Lời cảnh báo chuẩn bị cất cánh vang lên, tôi liền ngồi xuống thắt dây an toàn bên cạnh Gale, đối diện Haymitch và Plutarch. Chúng tôi lướt qua một mê cung đường hầm dẫn ra cầu không vận. Một thiết bị tựa thang máy chầm chậm nâng máy bay lên qua các tầng. Bất thình lình chúng tôi đã ở bên ngoài cánh đồng bát ngát bao quanh là rừng cây, rồi chúng tôi phóng khỏi cầu, chìm lẫn vào mây.
Giờ cơn bột phát dẫn đến sứ mệnh này đã lắng xuống, tôi nhận ra mình chẳng mảy may biết sẽ phải đối mặt với những gì trong hành trình đến Quận 8. Thật ra, tôi chỉ biết láng máng về tình hình chiến tranh cụ thể. Hay làm thế nào để giành chiến thắng. Hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi thắng lợi.
Plutarch cố giải thích bằng những thuật ngữ đơn giản cho tôi hiểu. Trước hết, hiện tại quận nào cũng đều chiến đấu với Capitol, trừ Quận 2, vốn từ trước đến nay vẫn được kẻ thù của chúng tôi chiếu cố dù cũng phải tham gia vào Đấu trường Sinh tử như ai. Họ có nhiều lương thực hơn và điều kiện sống tốt hơn. Sau Kỳ Đen tối và sau khi Quận 13 bị cho là đã diệt vong, Quận 2 được trở thành trung tâm phòng thủ mới của Capitol, mặc dù nó được công khai xem là nơi tập trung nhiều mỏ đá nhất nước, tương tự như Quận 13 nổi tiếng vì than chì. Quận 2 không chỉ chế tạo vũ khí mà còn đào tạo và thậm chí cung cấp các Trị an viên.
“Ý ông là… một số Trị an viên sinh ra ở Quận 2?” tôi hỏi “Tôi tưởng tất cả bọn họ đều là dân Capitol.”
Plutarch gật đầu. “Người ta để cô tưởng vậy thôi. Một số đúng là dân Capitol thật. Nhưng dân số thủ đô không đủ để duy trì một lực lượng quy mô cỡ đó. Thế rồi lại nảy sinh vấn đề tuyển dụng công dân Capitol gốc đến sống cuộc đời buồn tẻ thiếu thốn ở các quận. Cam kết làm Trị an viên hai mươi năm, không kết hôn, không sinh con đẻ cái. Có người làm vì danh dự, có người nhận việc này thay cho án phạt. Ví dụ, tham gia đội Trị an là được xóa nợ. Nhiều người Capitol ngập ngụa trong nợ nần nhưng không phải ai cũng thích hợp làm nhiệm vụ quân sự. Vì thế chúng tôi quay sang Quận 2 tìm lực lượng bổ sung. Đó là cách để họ thoát khỏi cảnh nghèo đói và cuộc sống nơi mỏ đá. Họ được nuôi dạy với tinh thần chiến binh. Cô đã thấy con cái của họ háo hức tình nguyện làm vật tế thế nào rồi đấy.”
Cato và Clove. Brutus và Enobaria. Tôi cũng đã thấy chúng háo hức và khát máu đến mức nào. “Nhưng tất cả các quận khác đều cùng phe với chúng ta phải không?” tôi hỏi.
“Phải. Mục tiêu của chúng ta là kiểm soát từng quận một, Quận 2 để cuối cùng, hòng cắt đứt chuỗi cung ứng của Capitol. Một khi Capitol suy yếu, chúng ta sẽ tấn công nó trực diện,” Plutarch nói. “Còn có cả núi thách thức khác. Nhưng cứ làm đến đâu hay đến đó.”
“Nếu chúng ta chiến thắng, ai sẽ lãnh đạo chính phủ?” Gale hỏi.
“Tất cả,” Plutarch bảo anh. “Chúng ta sẽ xây dựng một nền cộng hòa cho phép người dân mỗi quận và Capitol có thể bầu đại biểu riêng thay họ cất cao tiếng nói trong một chính phủ tập trung hóa. Đừng tỏ vẻ nghi ngờ thế chứ, trước đây đã thành công rồi đấy.”
“Trong sách,” Haymitch lẩm bẩm.
“Trong sách sử,” Plutarch chỉnh lại. “Và nếu tổ tiên của chúng ta làm được thì chúng ta cũng làm được.”
Nói thật là nghe chừng tổ tiên của chúng tôi cũng không có gì đáng để khoe khoang tự hào cho lắm. Ý tôi là, cứ nhìn tình trạng mà họ để lại cho chúng tôi mà xem, với các cuộc chiến và một hành tinh rạn nứt. Rõ ràng là họ chẳng quan tâm chuyện gì sẽ xảy ra với thế hệ sau. Nhưng ý tưởng về nền dân chủ này xem ra là một bước cải thiện với chính phủ đương thời.
“Thế nhỡ thua thì sao?” tôi vặn.
“Nhỡ chúng ta thua á?” Plutarch ngó ra ngoài nhìn mây, nhăn nhúm nở nụ cười mỉa mai. “Thế thì tôi đoán Đấu trường Sinh tử năm tới sẽ cực kỳ khó quên. À, mà nhắc mới nhớ.” Ông ta móc từ áo gi lê ra một lọ nhỏ, lắc lắc để vài viên thuốc màu tím sẫm rơi vào lòng bàn tay rồi chìa ra cho tôi. “Chúng tôi gọi cái này là dâu độc để vinh danh cô, Katniss. Giờ không phải ai bị bắt phiến quân cũng lo liệu được. Nhưng tôi đảm bảo là không đau đớn chút nào đâu.”
Tôi cầm lấy viên thuốc, không chắc nên cất vào đâu. Plutarch vỗ vào một chỗ trên vai tôi phía trước ống tay áo trái. Tôi xem xét thì phát hiện thấy một cái túi nhỏ xíu, viên thuốc nằm đây vừa được cất giữ lại được giấu an toàn. Dẫu bị trói tay, tôi vẫn có thể chúi đầu ra trước mà cắn không vướng víu.
Dường như Cinna đã tính toán hết mọi thứ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.