Chiều hôm ấy khi Adam quay lại khách sạn nước Pháp có lẽ không mấy ai nhận ra người đàn ông rón rén bước vào khách sạn một giờtrước đó.
Anh mặcáo sơ mi mới, quần mới, càvạt vàáo gióđúng mốt nhất nước Anh ít nhất làtrong một năm nữa. Thậm chíchiếcáo khoácđi mưa cũng bị thải vìbức tranh Thánh đã nằm gọn trong túi trong của chiếcáo gió. Hình nhưtiệm quầnáo đổi tiền cho tấm séc du lịch của anh với giákhá rẻmạt nhưng điềuđó không làm anh bận tâm mấy.
Adam đặt một phòng đơn cho mình theo tên của Dudley Hulme, mấy phút sau anh đã ởtrong thang máyđểđi lên tầng ba.
Thậm chíđiện thoại réo chưađến tiếng chuông thứhai Lawrence đã nhấc máy.
Adam nói:
-Tớ đây.
Lawrence hỏi ngay:
-Cậuđang ở đâu?
Adam nói:
-Tớphải hỏi cậu trước.
Lawrence nói:
-Tớhiểu cậu nghĩ gì, nhưng…
-Không nhưng gìcả. Bây giờcậu phải hiểu rằng cókẻnào đó trong sốnhững người cậu gọi lànhóm công tácấy cóliên hệtrực tiếp với Romanov, bởi vìchính Romanov vàđồng bọn của hắn là người đứng đón tớởkhách sạnđó chứ không phải làngười của cậu.
-Hiện nay chúng tớ đã biếtđiềuđó.
Adam:
-Chúng tớư? “Chúng tớ”đó lànhững ai? Bởi vìlúc này tớđang khómàhiểu nổi ai đang đứng vềphía mình.
-Cậuđừng tin rằng…
-Bao giờcậu nhìn thấy bạn gái mình bịgiết, bao giờcậu bị một kẻgiết người chuyên nghiệp sănđuổi khắp châuÂu, bịbắn vàbị…
-Bịbắn?
-Phải, hôm nay anh bạn Romanov của cậuđã nãđạn vào tớ. Lần sau tớ sẽquay người kiểu khácđểđạn không trúng vào vai.
Lawrence nói:
-Không thểcó lần sau nữa. Bởi vìchỉcần cậu cho tớ biết cậuđang ởđâu tớsẽđưa cậu vềan toàn.
Trong óc anh bỗng vang lên những lời của Robin “Anh cần phải cân nhắc xem nên cho anh ta biếtđến đâu”, khiến Adam khựng lại không nói cho Lawrence biếtđích xác mình đang ởđâu.
-Adam, vìChúa, tùy cậu thôi. Nếu không tin tớthìcậu sẽtin ai? Tớthừa nhận làmọi việc cóvẻ nhưbọn tớbỏrơi cậu. Nhưng chuyện đó sẽkhông lặp lại nữa.
Một hồi lâu im lặng, sau đó Adam nói:
-Tớđang ởDijon.
-Sao lạiởDijon?
-Bởi vìngười duy nhất cho tớđi nhờlạiđang đi dựmột hội nghịvềmùtạtởDijon.
Lawrence không khỏi mỉm cười:
-Hãy cho tớđiện thoại, tớsẽgọi lại cậu trong vòng một giờ.
Adam nói:
-Không, tớsẽ gọi lại cho cậu sau một giờ.
-Adam, cậu cần phải tỏ ra tin tớmột týchứ.
-Không phải bây giờ tớmới biết cậuđang cần cái gì. Tớkhông thểtin bất cứai cả.
Adam đặt ống nghe xuống vànhìn vào bức tranh Thánh mở dưới sàn. Điều anh lo lắng không phải chữ ký của Stoeckle hay Seward. Điều sinh tử chính là ngày tháng ghi trên đó – 20 Tháng Sáu năm 1966.
Khi viên công chức cao cấp rời Century House, người gác cổng hỏi:
-Tam biệt, thưa người. Lại mộtđêm nữa làm việc tậnđến khuya ư?
Lão nhận câu chào của người gác cổng bằng cách giơchiếc dùlên cao hơn một tý.Đúng làlại mộtđêm nữa làm việcđến tận khuya, nhưng ít nhất lão cũng đã lần lạiđược dấu vết Scott. Lão bắtđầu thật sựkính phục anh ta. Nhưng tại sao người ta lại không tóm được Scott ở Geneva vẫn là điều phải lý giải nhiều hơn so với những thông tin được Lawrence cung cấp chiều nay.
Lãođứng trên thềm gạch vềphíađường Old Kent, nổi bật trong chiếc áo khoácđen vàchiếc quần kẻsọc, sốt ruột gõcán dùcho đến khi vẫyđược một chiếc taxi.
-Hiệu sách Dillon, phố Mallet.
Lão nói với người lái xe trước khi chui vào ghếsau. Đã bảy rưỡi nhưng vẫn chưa muộn quávàmấy phút nữa cũng chẳng khiến mọi chuyện khácđi nhiều lắm. Pemberton đã đồng ýngồi trựcởbàn cho đến khi nào chắp nốiđược những đầu mối bịlỏng lẻo vàchắc chắn lần này sẽkhông còn gìsai sót nữa. Lão tựcho phép mình nhăn nhúm mỉm cười khi nghĩlại chuyện tất cảđã chấp nhận phương án lãođưa ra… Thật làlợi cảđôi đường vìđảm bảo sẽđủ giờđể bố trínhững người giỏi nhất vào vịtrívà trong khi đó vẫn giấu kínđược Scott khỏi mọi con mắt. Hy vọng đây làlần cuối cùng họsẽ chờđợi lão tiến hành đúng nhưphương án nguyên thủyđãđề xuất.
Người lái xe cho xe đỗ trước cửa nhàDillon vànói:
-Tám shilling, thưa sếp.
Lãođưa tiền cho anh ta vàcho thêm mộtđồng sáu penny rồiđứng nhìn lên cửa sổcủa hiệu sách trường đại học, chờcho chiếc taxi chạyđi. Lúc chiếc taxi đã rẽsang đường Cower lão mới bắtđầu bước đi. Mấy giây sau đến mộtđường phốnhánh lão mới rẽsang đó. Ridgmount Gardens làmột phố nhỏmàngay đến các tay lái xe taxi ởLondon cũng phải nghĩmột lúc mới ra. Lãođi tiếp mấy mét nữa rồi biến mất vào cầu thang dẫn xuống một tầng hầm. Lão tra chìa khóa vào một chiếcổkhóa hiệu Yale quay một vòng rồi bước vàođóng cửa lại.
Trong hai mươi phút sau đó lão gọi hai cúđiện thoại, một quốc tế vàmột nộiđịa. Sau đó tắm một cái. Không đầy hai giờsau lãođã bước ra khỏi phố Ridgmount Gardens trong bộ comple màu nâu, tóc rẽ ngôi ngược lại lúc nãy. Lão đi bộ quay lại nhà Dillon và vẫy một chiếc taxi khác.
Vừa trèo vào taxi lão vừa bảo người lái xe:
-Bảo tàng Bristish.
Lão nhìnđồng hồ. Gần tám giờmười. Lúc nàyắt Scott đã chuẩn bịsẵn sàng mặc dầu người của lão cũng đã trên đường trởlại Dijon bởi vìkếhoạch là cho phép chậm lại hai giờ.
Chiếc taxi đỗ lại trước bảo tàng Bristish. Lão trảtiền rồi bước mười hai bậc lên thềm nhàBảo tàng, chiêm ngưỡng kiến trúc Byzantine nhưtuần nào lão cũng làm trước khi bước xuống vàgọi một chiếc taxi khác.
-Bệnh viện.
Chiếc taxi quay một vòng cua chữU rồi chạy vềhướng tây.
Thằng con hoang khốn kiếp. Nếu nhưScott đừng cómởcái phong bì ấy ra thìbức tranh Thánh đã trởvềvới bàn tay người chủchính đáng của nó.
Người lái xe hỏi”
-Tôi cho xe lên cửa chính chứạ?
-Phải.
Mấy giây sau lãođã sải bước đi thẳng vào bệnh viện rồiđứng nhìn tấm bảng trên tường làm nhưđang tìm vào khoa nào đó. Bao giờlão cũng chỉmất ba phútđể đi từBệnh viện Middlesex đến phốCharlotte. Tới nói lãođứng ngoài cửa vàbấm nút máyđàm thoại nội bộ.
Một giọng vang lên nghi ngờ:
-Ông cóphải thành viên không?
-Phải.
Trong lúcđó Adam gọi điện vàcẩn thận lắng nghe từng lời của Lawrence.
Adam nói:
-Tớsẽliều một lần nữa. Nhưng nếu lần này lại làRomanov thì tớsẽđưa bức tranh Thánh cho hắn với danh nghĩa cánhân, cùng với nósẽlàmột mẩu giấy vềđất đai màngười Mỹcótrả bao nhiêu tiền cũng không mua lạiđược.
Khi Adam đặt ống nghe xuống Lawrence cùng với Sir Morris tua đi tua lạiđoạn băng để nghe.
Sir Morris nói:
-Tôi cho rằng chìa khóa làởchữ”giấy tờ về đất đai”.
Lawrence nói:
-Tôi tán thành điều đó. Nhưng đất đai nào cóthểcógiá trịđến thếđối với cảMỹlẫn Nga?
Sir Morris bắtđầu chậm rãi quay quảđịa cầu bên cạnh bàn làm việc.
Romanov hỏi:
-Tiếng vo vo ấy có nghĩa là gì? Không lại hết nhiên liệu lần nữa?
Người lái xe nói:
-Không, đó làthiết bịgọi kiểu mới. Điềuđó cónghĩa là họchờtôi vềcất xe.
Romanov khẽnói:
-Quay lại chỗtrạm xăng vừađi qua cách đây vài dặm.
Romanov lại bắtđầu sốt ruột nhìn bảng đồng hồmong nhìn thấy cái trạm xăng hiện ra phía chân trời. Mặt trờiđang lặn rất nhanh, hắn sợrằng chỉmột tiếng nữa thôi trời sẽtối sập xuống. Họđãđi qua Dijon khoảng chín mươi kilomet, suốt dọcđường cảhắn lẫn Valcheck đều không thấy bóng dáng chiếc Citroen màu vàng đâu.
Vừa thấy trạm xăng, Romanov nói với người lái xe:
-Đổ xăng cho đầy, trong khi tôi gọi cho Geneva.
Hắn chạyđến trạm điện thoại trong khi Valcheck vẫn kiểm tra mọi chiếc xe đi ngang qua.
Điện thoại được nối:
-Chúng tôi vừa nhận được một cúđiện thoại nữa của Mentor. Thiếu tácách Dijon bao xa?
Các thành viên câu lạc bộngồi túm tụm trong căn phòng tối mờmờ, lão bước qua căn phòng tới chiếc bàn không cóai ngồi kêsát cột nhàtrong góc. Lão ngồi xuống chiếc ghếda bên cạnh bàn rồi hốt hoảng nhìn quanh, bao giờlão làm cũng nhưvậy trong khi người ta bưng đến cho lão ly whisky malt như thường lệ. Khi ly rượu đã được bưng đến đặt trước mặt, lão nhấm nháp và nhìn quanh xem có khuôn mặt lạ nào trong căn phòng tối om này không. Không dễ chút nào vì lão không muốn lấy kính ra đeo lên. Cuối cùng mắt lão đã quen với thứ ánh sáng mờ mờ hắt ra từ ngọn đèn fluo đỏ treo trên quầy bar. Và lão chỉ nhận ra toàn khuôn mặt quen thuộc đang nhìn mình đầy hy vọng. Nhưng lão chờ đợi một cái gì đó mới mẻ hơn kia.
Ông chủ quán tiến đến gần và thì thào:
-Cómột tay khá ngon lành cho ông.
-Ai vậy?
Lão ngẩng lên nhìn những khuôn mặt trong quán rượu một lần nữa.
Ông chủ quán nói:
-Đang cúi xuống chiếc máy hát tựđộng trong gócđàng kia kìa.
Lão nhìn vềphía cái máy hát. Một khuôn mặt tươi cười đang mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười đáp lại.
Người chủquán hỏi:
-Tôi làm nhưvậy cóđúng không?
Lão chỉhỏi gọn lỏn:
-Cóan toàn không đấy?
-Không vấnđề gì đâu. Một anh chàng trung lưu, vừa mới tốt nghiệp đại học. Hắn chỉmuốn kiếmít tiền bỏ túi thôi.
Lão nhấp một ngụm whisky.
Ông chủ quán đi về phía cái máy hát. Lão nhìn ông ta nói chuyện với chàng thanh niên. Anh ta uống cạn cốc của mình, lưỡng lự một tí rồi đi thẳng qua căn phòng đông đúc để đến chỗ lão.
Chàng thanh niên nói:
-Tôi tên làPiers.
Lãođáp:
-Còn tôi làJeremy.
Piers nói:
-Một cái tên hay.Bao giờ tôi cũng rất thích cái tên Jeremy.
-Uống chút gìchứ?
Piers nói:
-Vâng, cho tôi xin một Martini nguyên chất.
Lão gọi một ly Martini nguyên chất vàmột Whisky malt nữa. Người bồi bàn vội vãquay đi. Lão nói:
-Tôi chưa nhìn thấy anh ởđây bao giờ.
-Không, đây mới là lần thứhai tôiđến đây. Tôiđã từng làm việcởSoho nhưng sau đó mọi sựthô thiển quá. Không bao giờbiếtđược làmình sẽgặp ai.
Bồi bànđem rượu đến vàviên công chức cao cấp nhấp một ngụm lớn.
Piers hỏi:
-Ngài cómuốn nhảy một chút không?
Giọng nóiở đàng kia đầu dây:
-Việc này rất khẩn cấp. Anh cóghi âm không đấy?
-Tôi vẫnđang nghe đây.
-Nam cực hiệnđang ởDijon vàhắnđã phát hiện ra trong bức trang Thánh cócái gì.
-Hắn cócho bọn họ manh mối nào không?
-Không. Hắn chỉnói với Pemberton làhắnđang giữmột mẩu giấy tờvềđất đai vôcùng quan trọng mà dùcho chúng ta cótrảđến bao nhiêu tiền cũng không thểmua lạiđược.
Giọng kia nói:
-Quảthật là vậy.
Người gọi nói:
-Người Anh nghĩrằng chìa khóa làởchữ”giấy tờvề đất đai”.
Giọng nóiở đầu kia đáp:
-Họnhầm rồi. Quan trọng làchữ”mua lại”kia.
-Sao anh lại chắc chắn nhưvậy?
-Bởi vìĐại Sứ Nga ởWashington đã yêu cầuđược gặp tổng thống vào ngày hai mươi tháng Bảy vàông ta sẽđem đến mộtđống vàng trịgiábảy trăm triệu đô la vàng.
-Vậy chúng ta đang đứng ởchỗnào?
-Đang trênđường đến Dijon, nhưvậy chúng ta sẽcóthể đặt tay lên bức tranh Thánh đó trước cả người Nga lẫn người Anh. Rõ ràng là người Nga cảm thấy tự tin là chẳng mấy lúc sẽ chiếm được bức tranh, vì thế tôi cuộc là lúc này họ cũng đang trên đường đến Dijon.
-Nhưng tôiđã đồng ýlàm theo kếhoạch của người Anh.
-Trung tá, chớquên làông đang làm việc cho bên nào.
-Vâng, thưa ngài. Nhưng chúng ta sẽxửlýnhưthếnào với Nam Cực một khi đã chiếmđược bức tranh Thánh.
-Chúng ta chỉđeo đuổi bức tranh Thánh thôi. Một khi nóđã làcủa chúng ta thìNam cực cóthểcho qua cũng được.
Adam nhìnđồng hồ: Bảy giờhơn mấy phút.
Đãđến lúc phải đi, bởi vì anh đã quyết định không làm theo những lời chỉ dẫn của Lawrence định sẽ chờ chúng đến, không như kế hoạch của Lawrence. Anh khóa cửa buồng ngủ và quay lại bàn lễ tân trả tiền phòng và tiền điện thoại.
-Cámơn.
Anh nói với côlễ tân vàđịnh quay đi.
-Chào anh.
Adam lạnh toát cả người.
Tiếng nói lại cất lên oang oang:
-Dudley. Gần nhưkhông thểnào nhận ra anh được nữa. Đã thay đổi ý định rồiư?
Một bạn tay đập mạnh lên vai Adam -ít nhất thìcũng không phải là vai trái. Adam tròn mắt nhận ra Jim Hardcastle.
Adam nói, lòng thầm ước mình cótài biến báo nhưcha của Robin.
-Không. Tôi nghĩlà ởthành phốnày người ta đã nhận ra tôi cho nên tôi chỉthay đổi quầnáo vànáu kín trong mấy giờthôi.
Jim nói:
-Vậy thìtại sao lại không đến dựtiệc với những nhàlàm mù tạt chúng tôi? Ởđó sẽkhông ai tìm thấy anh.
Adam nói:
-Ước gìtôi có thểlàm nhưvậy. Nhưng tôi không dám chậm trễ thêm chút nào nữa.
Jim tỏvẻthông cảm:
-Tôi cóthểlàm gìcho anh không?
-Không, tôi phảiđến… Tôi cómột cái hẹn ngay ởngoạiôthành phốnày vàtôi phảiđến đó trong vòng một giờnữa.
Jim nói:
-Giánhưtôi có thểtựmình đưa anh tớiđóđược. Tôi muốn làm tất cảnhững gìcóthể đượcđể giúp một người lính, nhưng hôm nay thì kẹt thật sự- cólẽsuốtđêm mất.
-Jim, đừng bận tâm làm gì. Sẽổn cảthôi.
Linda đã từlâu đến đứng cạnh bốvàlắng nghe chăm chú:
-Bố, con cóthể đưa anh ấyđiđược.
Cảhai quay phắt lại nhìn Linda. Cômặc một chiếcáo dài bằng lụa màuđen bóchặt lấy người, cổtrễ hết mức vàngắn hết mức, mái tóc vừa gội đổ xuống vai. Côbéngước mắt lênđầy hy vọng.
-Con vừa mới lấy được bằng lái xe xong, đừng cókhùng thế.
Côbéđáp ngay:
-Cóbao giờcó một việc gìđấy đáng làm làbốlại coi con nhưtrẻcon.
Jim lưỡng lự:
-Chỗhẹn của anh cóxa không?
Adam nói:
-Chỉnăm phút đi xe. Cólẽnăm sáu dặm gìđấy. Nhưng không sao đâu, tôi cóthểđi taxi rất dễmà.
-Con gái nóiđúng đấy -Jim nói vàlấy chìa khóa xe trong túi áo ra, quay lại Linda dặn thêm: -Nhưng nếu con mànói với mẹthìbốsẽgiếtđấy.
Jim bắt tay Adam và lắc thật mạnh.
-Nhưng không sao đâu mà…
-Anh bạn, tôi không muốn nghe nhưthếđâu.Chớbao giờquên rằng chúng ta cùng chiến tuyến. Chúc may mắn nhé.
Adam miễn cưỡng đáp:
-Cámơnông rất nhiều.
Jim giục:
-Con gái, tốt nhất là con hãyđi trước khi mẹcon quay lại.
Linda sung sướng nắm tay Adam vàkéo anh ra bãiđỗ xe.
Khi hai người đã ngồi trong xe côhỏi:
-Đi hướng nàoạ?
Adam nhìn xuống mẩu giấy ghi những lời chỉdẫn cảu Lawrence:
-Đường Auxerre.
Linda cho xe chạy chậm chậm, hình nhưthoạt tiên không tin chắc vào chiếc xe lắm, nhưng khi ra đến ngoạiôAdam bảo cô nênđi nhanh lên một chút. Côgáiđặt tay lênđầu gối Adam vànói:
-Em hồi hộp quá.
Adam vội vắt chéo hai chân:
-Quảvậy, tôi nhận thấy côđang hồi hộp. Nhớrẽsang trái -anh nhắc khi nhìn thấy tấm biển chỉrẽ sang trái.
Linda cho xe rời khỏi đường cáiđể rẽvào mộtđường làng nhỏhơn khi Adam chăm chútìm ngôi nhà nhưLawrence đã tả. Họphải chạy tiếp hai dặm nữa mới thấy ngôi nhàhiện ra.
Adam nói:
-Cho xe tránh sang bên đường. Vàtắtđèn đi.
Linda phanh xe lại và khấp khởi nói:
-Cuối cùng thìcũng…
Adam nói vànắm tay nắm cửa:
-Cảmơn côrất nhiều.
Linda hỏi:
-Em liều mình chỉ để thếthôi sao?
-Tôi không muốn cô đi dựtiệc quátrễ.
-Bữa tiệcấy sẽ chỉvui đến nhưmột cuộc khiêu vũcủa những thanh niênĐảng Bảo Thủlàcùng thôi mà.
-Nhưng mẹcô sẽlo lắng đấy.
-Dudley, anh thật quá nghiêm chỉnh đấy.
-Hiện nay tôiđang ởvào một hoàn cảnh không bình thường, nhưng nếu côởlạiđây lâu hơn nữa thìsẽ nguy hiểm cho côđấy.
Mặt Linda xám ngoét:
-Anh không nóiđùa đấy chứ?
Adam nói:
-Ước gìtôi không nóiđùa. Côcần phải quay lại, vềkhách sạn ngay vàkhông bao giờđượcđể lộ câu chuyện này với bất cứai, đặc biệt là mẹcô.
Linda nói, lầnđầu tiên tỏra hoảng hốt thật sự:
-Vâng. Em sẽlàm như vậy.
Adam nói:
-Côlàmột cô gái kỳdiệu.
Anh quành tay ôm và tặng co một cái hôn dài nhất, nồng nàn nhất màcô chưa từng biết. Sau đó Adam ròi khỏi xe nhìn côlóng ngóng mãi mới quay được xe rồi chạy vềphía Dijon.
Adam nhìnđồng hồ: vẫn còn một tiếng rưỡi nữa mớiđến giờ hẹn vàlúcđó chắc chắn trờiđã tối mịt. Anh loạng choạng đi vềphía sân bay vànhìn những ngôi nhàcháy xém dọc hai bênđường. Dường như đây là một thành phố ma và Adam tin chắc chưa có một ai ở đấy bởi vì họ chưa thể đủ thì giờ triển khai kế hoạch của Lawrence.
Nhìn sang bên kia đường băng Adam phát hiện ra một chỗlýtưởng để trốn trong khi chờđợi để xem cai nào trong hai kế hoạch anh đã chuẩn bịsẽtrởthành cần thiết.
Trung úy phi công Alan Banks tạơn Chúa vìđêm hômđó trăng sáng vằng vặc. Anh đã từng hạcánh chiếc Beaver nhỏtrở đầy lính chiến trong những điều kiện xấu hơn thế này, nhiều khi màđường băng chỉđược soi sáng mờmờnhưmặt biển Hắc hải.
Banks lượn vòng theo chu vi sân bay vànghiên cứu cẩn thận hai đường băng. Đã lâu lắm sân bay này không hoạtđộng, do đó không hềcómột dịch vụdẫnđường nào kểcảbảnđồ chi tiết mặtđất.
Viên trung úy phi công phá vỡmọiđiều luật học trong sách giáo khoa, kể cảviệc tìm cách hạxuống một sân bay vô danh trong khi đã báo với người Pháp làsẽđỗ xuống Paris. Chẳng dễgìmàgiải thích được việc bay chệch khỏi một sân bay đến hàng trăm dặm.
Banks quay lại nói với viênđại úyđang ngồi xổmđằng sau cùng với năm người nữa:
-Nếu hạxuống đường băng phíađông nam thìdễdàng hơn. Ông muốn đến gần hangar ởđâu -anh chỉtay ra ngoài cửa sổ.
Viênđại úy đáp:
-Đỗ chỗnào thật dễnhìn, ít nhất làcách hai trăm mét. Chưa biết được cái gìsẽchờđón chúng ta.
Cảsáu lính cơ động (SAS) tiếp tục nhìn kỹphía ngoài cửa sổ. Họchỉnhậnđược mệnh lệnh ngắn gọn làđón một người Anh đơn độc cótên là Scott hiệnđang chờởđây sau đó cất cánh thật nhanh. Điềuđó nghe cóvẻthật dễ dàng, nhưng chắc chắn làchẳng hềdễdàng nhưvậy, nếu không họđã chẳng đượcđiều đến.
Viên phi công cho chiếc Bearver vòng sang hướng nam vàbắtđầu chúc mũi xuống đất. Anh mỉm cười nhận ra một chiếc Spitfire cháy xém bịbỏlại bênđường băng. Giống hệt nhưchiếc máy bay của cha anh vẫn dùng hồi chiến tranh thếgiới thứhai, nhưng rõràng làcái này chẳng bao giờvềđược tới nhà. Anh hạ độ cao một cách vững vàng vàkhi cái máy bay nhỏ chạmđất nónảy bật lên, không phải vì phi công thiếu kinh nghiệm màlàvìmặt đất lòi lõm một cách khủng khiếp.
Trung úy phi công Banks cho máy bay dừng lại cách hangar khoảng hai trăm mét sau đó quay hẳn một vòng để viênđại úy cóthể quan sátđược thật nhanh bốn phía. Anh nhấn nút tắt động cơ cánh quạt và tắt đèn. Tiếng cánh quạt vù vù nhỏ dần thành chỉ còn tiếng vo ve nho nhỏ. Họ đến sớm bốn mươi phút.
Cách đó bốn trăm mét, nấp trong buồng lái của chiếc Spitfire, Adam nghi ngờ nhìn những kẻmớiđến. Anh không thểchạy tới chiếc máy bay trên mặtđất trơtrụi dưới ánh trăng quásáng thếnày. Mắt anh dán chặt vào chiếc máy bay không dấu hiệu vàchờxem trên đó cónhững ai. Phảiít nhất mười lăm phút nữa mặt trăng mới cóthểbịđám mây che khuất. Mấy phút nữa trôi qua, Adam nhìn thấy sáu người nhảy ra khỏi cửa thân máy bay vànằm bẹp trên mặt đường bêtông. Họmặcđúng những bộ quầnáo lính cơđộng nhưng Adam chưa thể tin được vìanh vẫn còn nhớrành rành hình ảnh Romanov trong bộquầnáo lái xe. Cảsáu người lính nằm im không nhúc nhích. Adam cũng nằm yên như vậy trong khi chưa xácđịnh đó làngười của bên nào.
Cảsáu người lính nằm trên mặtđất đều ghétánh sáng trăng cũng nhưmặtđất trống trải. Viênđại úy nhìn đồng hồ: còn ba mươi sáu phút nữa. Anh ta giơhiệu vàhọbắtđầu bòvềphía hangar, nơi Pemberton nói làScot sẽchờởđó. Họsẽphải bòkhoảng hai mươi phút mới qua được quãng cách này, mỗi lúc càng tin chắc rằng lời cảnh cáo của Pemberton về một kẻ thù rình rập đâu đó là không đúng.
Cuối cùng mộtđám mây lớn che khuất mặt trăng khiến cảvùng sân bay tối sầm. Viênđại úy lính cơđộng nhìn đồng hồ: năm phút nữa thìđến giờhẹn. Anh ta làngười đầu tiên chạm tay vào cửa hangar đẩy ra vàoằnngười há hốc miệng. Viên đạn ghim đúng giữa trán trước cả khi anh ta kịp sờ vào khẩu súng.
Người thứhai hét lên ra lệnh:
-Chạyđi.
Bốn người kia bật dậy trong chớp mắt, lia súng quét thành một vòng cung phía trước vàchạyđến ẩn vào ngôi nhà.
Vừa nghe thấy tiếng hét Adam bèn nhảy ra khỏi buồng lái của chiếc Spitfire và lao qua quãng đường bêtông vềphía chiếc máy bay nhỏđã khởiđộng sẵn cánh quạt chờ cất cánh. Anh nhảy lên cánh vàleo vào bên cạnh viên phi công đang kinh ngạc, anh hét lên:
-Tôi làAdam Scott, người các anh cầnđón.
Người phi công chìa tay ra bắt:
-Tôi làtrung úy phi công Alan Banks, anh bạn.
Adam nhận ra mọi sự thật kinh hãi vàthầm nghĩ: chỉmột sĩquan Anh mới bắt tay nổi trong một tình huống nhưthế này.
Cảhai quay lại nhìn trận chiến.
Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi ngay thôi. Tôiđược lệnh đem anh vềAnh nguyên vẹn.
-Không thểvề được, một khi chưa chắc chắn làsẽkhông ai trởvềnữa.
-Xin lỗi, anh bạn. Tôi được lệnh làcứu anh. Còn những người kia được lệnh tựlo lấy cho mình.
Adam nói:
-Chờhọmột phút nữa thôi.
Họtiếp tục chờ cho đến khi cánh quạt quay títđạt tốcđộ cực đại. Đột nhiên tiếng súng ngừng bặt. Adam nghe rõ cảtiếng tim mình đập thùm thụp trong lồng ngực. Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi thôi.
Adam đáp:
-Tôi biết. Nhưng tôi cần phải biết thêm mộtđiều nữađã.
Nhưng cơn ác mộng kinh hoàng khiến cho Adam phát hiện ra hắn trước khi viên phi công nhìn thấy. Anh nói:
-Đi thôi.
Viên phi công hỏi:
-Gìcơ?
-Đi thôi.
Anh ta đẩy cần lái về phía trước, chiếc máy bay bắtđầu chậm chạp chạy dọcđường băng mấp mô.
Đột nhiên một bóng đen chạy theo xả súng bắn vào họ.Viên phi công quay lại nhìn và chỉ thấy bóng một người rất cao với mái tóc bạch kim sáng lên trong ánh trăng.
Adam nói:
-Nhanh lên, ông bạn. Nhanh lên.
Viên phi công nói:
-Hết cỡrồi.
Đạn nhả xối xả, lần này những viên đạn ghim vào bụng máy bay. Một tiếng nổ thứ ba phát ra, nhưng lúc này máy bay đã chạy nhanh hơn người kia. Adam thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng chiếc máy bay rời khỏi mặt đất.
Anh quay nhìn lại và thấy Romanov đang xảsúng bắn vào một người nào đó không mặc quầnáo lính SAS.
Trung úy phi công Banks nói:
-Bây giờhọa chúng cóbazoka mới bắn trúng được chúng ta.
Adam quay lại:
-Cừlắm. Cừ lắm.
Viên phi công cười vang:
-Vàcứnghĩ đến vợtôiđang chờtôi vềnhà tối nay đểđi xem phim.
Adam hỏi:
-Vậy anh sẽxem phim gì?
-Người đàn bà kiều diễm của tôi.
Trung úy phi công Alan Banks nhìn ra ngoài khuôn cửa sổnhỏhẹp trong khi chiếc máy bay bay lên một cách vững vàng.
Adam hỏi, cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập khắp người:
-Bây giờchúng ta điđâu?
-Tôiđã hy vọng là chúng ta cóthểvềđến Anh, nhưng lúc này e rằng chỉcóthểcốbay càng xa càng tốt màthôi.
Adam lo lắng hỏi:
-Anh nói thếnghĩa làthếnào?
Alan Banks trỏngón tay vào cây kim nhỏmàu trắng đang chỉgần điểm báo hết nhiên liệu.
-Chúng ta cònđủ xăng để vềđến Northolt nếu những viênđạn này không chọc thủng bình xăng.
Trong khi Adam nhìn thì chiếc kim nhỏmàu trắng tiếp tục xuống dần đến vạch đỏ nằm ngang vàchỉtrong nháy mắt cánh quạt bên tráiđã bắtđầu ngừng quay.
-Tôi sắp phải hạ cánh xuống một cánh đồng chứkhông dám mạo hiểm bay tiếpđểđỗ xuống một sân bay nàođó ởgầnđây. Còn may làđêm nay trăng thật sáng.
Không hềbáo trươc chiếc máy bay đầu nghiêng chúc mũi xuống. Viên trung úy phi công nói:
-Tôi sẽcốbay đến cánh đồng đằng kia.
Giọng anh vẻhờ hững lạlùng, anh chỉtay vềphía một đám đất phía tây. Anh hét to:
-Giữcho chặt.
Chiếc máy bay bắt đầu lượn vòng xoáyốc lao xuống. Mảnh đất đột nhiên trông nhỏlạlùng trong khi chiếc máy bay lao đến mỗi lúc một gần.
Adam nắm chặt tay ghế vànghiến răng.Viên phi công nói:
-Yên tâm. Chiếc Beavers nàyđã từng hạcánh ởnhững chỗtồi tệhơn thếnày nhiều.
Khi những bánh xe của máy bay chạm vào mặtđất màu nâu anh nói tiếp:
-Cáiđồ bùn chết tiệt. Tôiđãđoán mà.
Anh chửi thềtrong khi máy bay trượt trong đất nhão, chiếc máy bay đột nhiên chúi mũi vềphía trước. Mất mấy giây Adam mới nhận ra làmình còn sống nhưng đang chới với lộn ngược đầu trong ghế. Anh hỏi:
-Làm thếnào bây giờ?
Không cótiếng trả lời.
Adam cốgượng cựa quậy tới lui cho đến khi chạmđược vào thành máy bay, chânđạp lên cần lái.Vừa bámđược vào thành máy bay, anh liền cởi thắt lưng an toàn vàngã vật lên nóc máy bay.
Anh cóđứng lên và nhẹngười vìkhông thấy gãy xương chỗnào. Anh vội vãnhìn xung quanh nhưng vẫn không thấy bóng dáng người phi công đâu. Adam bòra khỏi máy bay, một khi đặt chân xuống đến đất anh mới thấy vui mừng vì mặt đất an toàn. Quờ quạng hồi lâu anh mới tìm thấy Alan Banks cách đấy khoảng ba mươi mét, nằm ngửa bất động.
Adam hỏi:
-Anh cósao không?
-Tôi không sao. Chắc là tôi bịbắn khỏi máy bay. Anh bạn, xin lỗi vì cúhạcánh này. Phải thừa nhận làcẩu thả. Cần phải tập nhiều lần nữa mớiđược.
Adam phálên cười trong khi người phi công chậm chạp ngồi dậy.
Banks hỏi:
-Sau đây làm gìbây giờ?
-Anh cóđiđược không?
Alan loạng choạng đứng dậy, nói:
-Tôi nghĩlàđược. Mẹkiếp. Chỉcóđiều mắt cábị trẹo nhấtđịnh sẽlàm tôiđi chậm hơn nhiều. Tốt hơn làanh đi trước điđừng chờ tôi.Cái bọnđầy súng ống đó chỉcách chúng ta khoảng ba mươi dặm làcùng
-Nhưng anh sẽlàm thếnào?
-Cha tôiđã hạ cánh xuống một trong những cánh đồng đẫm máu trong chiến tranh thếgiới thứhai màvẫn mòđược vềđến Anh màkhông bịbọnĐức tóm được. Adam, tôi nợanh một món nọlớnđấy, bởi vìnếu nhưcóthểquay lại thì tôi sẽcóthểbắt hắn câm miệng lại.
Adam bất giác sờ vào bức tranh Thánh vàyên tâm thấy nóvẫn nằm yên trong túiáo. Những lời của người phi công chỉ làm anh thêm quyết tâm trởvềAnh.
Adam hỏi:
-Điđường nào bây giờ?
Banks ngước nhìn chòm Đại Hùng tinh:
-Tôi sẽđi về phíađông, cóvẻtiện hơn. Vậy anh nên đi vềphía tây, anh bạnạ.Rất hay làđược làm quen với anh.
Nói xong anh ta trườn đi.
-Thưa thiếu tá, không biết tôi cóthểchịuđựng được bao lâu nữa.
Romanov nói:
-Phải cốgắng chịu đựng, Valcheck. Quan trọng làphải cốgắng. Lúc này không thểdừng lạiđược. Chắc chắn là chiếc máy bay rơi cách đây không xa. Tôi thấy nórơi ởđằng kia mà.
-Tôi tin anh. Nhưng ít nhất hãy nói cho tôi chết bình yên bên vệđường còn hơn làphải chịuđựng đau đớn trong cái xe này.
Romanov nhìn người đồng đội bịthương ởbụng.Tay Valcheck đầy máu. Áo sơmi vàquần của anh đãướt đẫm, tay anh luônôm lấy bụng giống nhưmộtđứa trẻlàm vẻốm. Người lái xe cũng trúng đạn, nhưng phátđạn găm vào lưng trong khi anh ta định bỏ chạy. Nếu nhưanh ta không chết ngay thìhẳn Romanov đã phải tựmình bắn thêm một phát nữa vào giữa hai vai anh ta. Nhưng Valcheck làchuyện khác. Không ai có thểnghi ngờvềlòng dũng cảm của anh. Valcheck chính làngười đầu tiên nãđạn vào giữa bụng bọn người Anh, thếrồi bọn người Mỹnhảy vào. NhờcóMentor màRomanov biết chắc rằng hắn vàđồng đội sẽcómặt trước tiên. Nhưng bây giờnhấtđịnh phải cảnh cáo cho Mentor biết rằng còn cómột kẻnữađã báo cho bọn Mỹbiết. Dùsao thìRomanov cũng phần nào thỏa mãn vìđã lừađược bọn Mỹbắn vào bọn Anh trong khi hắn vàValcheck chờđể bắt lấy kẻsống sót. Kẻsống sót cuối cùng là một người Mỹđã liên tục bắn vào Valcheck trong khi hai người đang tìmđường chạy thoát.
Romanov tính toán thấy hắn cókhoảng một giờtrước khi người Pháp, người Anh vàngười Mỹcóthểđến để thu dọn các xác chết trên một sân bay bỏhoang. Ýnghĩcủa Romanov quay vềthực tại khi tiếng rên của Valcheck đập vào tai. Anh ta van xin:
-Hãy ra khỏi cách rừng nàyđi. Bây giờtôi không còn hy vọng sống được bao nhiêu nữađâu.
Romanov nhắc lại:
-Cốchịuđựng, cốchịuđựng. Chúng ta không Scott lắm nữa đâu.
Valcheck nói:
-Hãy mặc cho tôi chết yên lành.
Romanov nhìn sang và nhận ra rằng chỉmấy phút nữa làcóthể hắnđã phải kẹtởđây với một cái xác chết. Mặc mọi cốgắng của Valcheck, lúc này máu bắtđầu chảy nhưsuối xuống sàn xe.
Romanov nhận thấy quãng trống giữa những bụi cây phía trước. Hắn bậtđèn pha vàcho xe rời khỏiđường rẽvào một con đường gồghềlầy lội. Hắn lái xe thật sâu vào rừng cho đến khi cây cối trởnên dày đặc rồi mới dừng lại, tắtđèn vàchạy vòng qua đằng trước để mởcửa xe.
Valcheck chỉđi được cóhai ba bước đã ngãkhuỵu xuống đất, tay vẫnôm chặt bụng. Romanov cúi xuống giúp anh dựa vào một thân cây to.
-Hãyđể mặc tôi chết, thiếu tá.Đừng vìtôi màđể phí chút thìgiờnào nữa.
Romanov nhăn mặt hỏi:
-Cậu muốn chết như thếnào? Từtừvàđau đớn, hay nhanh chóng vàyênả?
-Cứmặc tôi. Cứ để tôi chết từtừ. Nhưng anh nênđi ngay trong khi còn cóthểtheo hútđược Scott.
-Nhưng nếu bọn Mỹ tìmđược cậu, cóthểchúng sẽbuộc cậu phải nói.
-Thiếu tábiết rõ tôi mà.
Romanov nhận lời trách cứ, hắnđứng dậy vàsau một thoáng suy nghĩ bèn chạy ra xe.
Valcheck bắtđầu cầu nguyện may ra cóai đó sẽtìmđược anh. Anh chưa bao giờmuốn nhận nhiệm vụnày, nhưng Yuri cầnđặt thêm mộtđôi mắt bên cạnh Romanov vàYuri làmột người không thểqua mặtđược, Valcheck sẽkhông khai, nhưng anh vẫn còn muốn sống.
Viênđạn từ khẩu Makarow chín ly xuyên thẳng từthái dương qua đầu Valcheck. Anh ngãgục trên mặtđất vàtrong nhiều giây sau đó, xác anh vẫn run lên bần bật và quằn quại trên nềnđất nâu thẫm.
Sáng hôm sau khi thức dậy lão lại cảm thấy cảm giác tội lỗi quen thuộc. Một lần nữa lão thề rằng đây là lần cuối cùng. Điều đó chẳng bao giờ thích thú như lão nghĩ và nỗi hối hận dai dẳng đeo theo lão trong nhiều giờ sau đó.
Chi phícắt cổ cho việc giữmột căn hộsang trọng, tiền taxi vàhóađơn cho câu lạc bộgần nhưcó thểngăn cản lão. Nhưng lão luôn luôn trởlại nhưmột con cáhồi trởvềtổcủa nódưới đấy biển.
Lão ngâm mình trong bọt xàphòng vànghĩđến Scott. Lão biết lẽ ra lão phải cảm thấy tội lỗi vìcái chết của anh ta. Cái chếtđó, cũng giống nhưbao nhiêu cái chết trước đó.
Nhưng Mentor không bao giờ quên tên gãsĩquan trẻtuổiđã bỗng nhiên ngồiởphía cuối giường khi lão tỉnh dậy sáng hôm sau vàcái nhìnđầy khinh miệt mà gãđã chiếu vào lão.