Truy Tìm Bức Tranh Thánh

CHƯƠNG 23



Adam ngồi trong quán cà phê nhỏ cạnh bến tàu chờ chiếc xe du lịch. Anh đã để chiếc xe của đội đua lại ở trạm kiểm soát và bây giờ sẵn sàng để lên tàu. Nhưng anh vẫn còn cần phải chắc chắn là Robin cũng có mặt trên chuyến tàu ấy. Tận đến lúc chỉ còn mười phút nữa là tàu rời bến chiếc xe du lịch mới xịch đến, Adam đón Robin bước từ xe xuống.
Robin nói:
– Chỉ có điều anh đừng có ngồi cách xa em thôi, được không?
Adam cười phá lên và vòng tay ôm choàng qua gần hết người cô. Anh nói:
– Gặp em thật là tuyệt quá.
– Anh biết không, em nghĩ là anh đang trên đường về Anh bằng một con đường bí hiểm nào đó, bằng tên lửa do thám hoặc thậm chí bằng cái gì đó độc đáo hơn nữa kia.
Adam nói:
– Anh cũng muốn được như vậy, nhưng bọn Mỹ đã đón đầu được đúng lúc anh quyết định lên tàu.
Cô nói:
– Bọn Mỹ ư?
– Lên tàu rồi anh sẽ giải thích mọi chuyện cho em.
Không một ai trong hai người chú ý đến tên điệp viên trẻ tuổi đã bám theo Robin từ lúc cô còn ở Berlin. Hắn ngồi ở một buồng điện thoại phía đầu kia bến tàu và đang quay số gọi một cú điện thoại quốc tế.
– Nếu là một tuần trước đây thì em sẽ chẳng bao giờ tin một lời nào của anh cả. Nhưng có hai việc.
– Việc gì?
– Thứ nhất là một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao đã trả lại hộ chiếu cho Dudley Hulme ở Amsterđam. Vì thế em nhớ ra là phải đưa giấy tờ cho anh ngay.
Cô lục lọi trong túi xách một lát rồi đưa ra một cuốn hộ chiếu xanh đậm. Adam hân hoan cầm lại giấy tờ hỏi:
– Thế còn việc thứ hai.
– Em rất không vui khi đối mặt với ngài Romanov và em không có nguyện vọng lặp lại chuyện đó nữa.
Adam nói:
– Còn anh thì định sẽ phải gặp lại hắn.
Robin hỏi:
– Tại sao?
– Vì anh sẽ giết hắn.
Romanov và Pollard đến Dover năm phút trước khi phà cập bến. Chúng sốt ruột chờ đợi. Romanov bố trí chỗ ngồi sao cho có thể quan sát được qua cửa sổ phòng làm thủ tục hải quan và theo dõi được chuyến phà khi cập bến Dover. Hắn tìm được một chỗ ngồi lý tưởng phía sau chiếc máy bán cà phê tự động, từ đó có thể quan sát được mọi người đến và rời khỏi phòng hải quan mà không bị ai nhìn thấy. Romanov nói:
– Trong trường hợp hắn có hành động khác thường và không đi ra đường chính anh phải chắn cửa xe ra và báo ngay cho tôi biết nếu thấy có gì đó khác thường.
Viên đại tá để Romanov nấp sau chiếc máy bán cà phê tự động còn hắn chọn cho mình một chỗ trên bến cảng, nơi có thể theo dõi được tất cả xe cộ đi vào khu làm thủ tục hải quan cách cổng ra chừng năm mươi mét. Nếu Scott rời phà bằng xe con của Pollard, vẫn đủ thời gian chạy lại báo cho Romanov biết trước khi Scott có thể làm xong thủ tục và lái xe đến cổng chính. Ít ra thì đây cũng là một địa điểm khiến Scott có thể liều nấp sau các gốc cây được. Cả hai ngồi chờ.
Viên thuyền trưởng bật radio liên lạc giữa phà và bờ, tìm băng số chín và nói rành mạch vào chiếc micrô nhỏ:
– MV Chantilly gọi giám đốc cảng Dover. Nghe rõ không?
Anh ta chờ một lát rồi bật chiếc công tắc trước mặt, sau đó nghe thấy tiếng trả lời:
– Giám đốc cảng gọi MV Chantilly. Nghe rõ.
– Thuyền trưởng báo cáo. Chúng tôi có trường hợp khẩn cấp. Một hành khách bị ngã từ xuồng cấp cứu xuống boong tàu và bị nhiều vết thương ở tay chân – Adam rên lên trong khi viên thuyền trưởng nói tiếp – Adam rên lên trong khi viên thuyền trưởng nói tiếp – Tôi cần một xe cứu thương đợi sẵn ở cầu tàu để đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất khi phà cập bến. Hết và thôi liên lạc.
Robin nói với giọng dịu dàng mà trước đó Adam chưa bao giờ được nghe:
– Anh yêu, mọi việc sẽ ổn thỏa. Khi chúng ta đến bờ mọi người sẽ lo để đưa anh đến bệnh viện ngay.
Viên thuyền trưởng nói ngắn gọn:
– Tôi phải trở lại cầu chỉ huy đây. Tôi sẽ bố trí hai nhân viên đem cáng đến cho cô.
Robin nói:
– Cảm ơn thuyền trưởng. Anh giúp đỡ chúng tôi chu đáo quá.
– Thưa cô, mọi việc sẽ hoàn toàn ổn thỏa. Cô đã dặn anh cô chưa?
Robin nói:
– Thưa thuyền trưởng rồi ạ.
– Tốt, vậy thì cô có thể khuyên anh ấy rằng sau này nếu có lúc nào định lên tàu thì tốt nhất là nhớ chú ý uống in ít thôi nhé.
Robin thở dài nói:
– Tôi đã dặn rồi. Thuyền trưởng không tin được tôi đã cố nói bao nhiêu lần đấy, nhưng tôi e anh ấy lại giống tính cha tôi thôi.
Adam ôm lấy chân tiếp tục rên rỉ.
Viên thuyền trưởng vừa nhìn xuống vết thương trên vai Adam vừa nói:
– Chúng ta hãy hy vọng, cuối cùng vết thương không đến nỗi nghiêm trọng lắm. Chúc may mắn.
– Một lần nữa, xin cám ơn thuyền trưởng.
Sau khi cánh cửa ca bin đã khép lại Robin nói:
– Cho đến giờ thì mọi việc vẫn tiến triển tốt đẹp. Chúng ta hy vọng phần hai của kế hoạch cũng sẽ tốt đẹp như vậy. Mà này, anh thở ra nặng mùi lắm.
– Em còn mong gì nữa sau khi bắt anh nốc hàng đống whisky vào mồm trong vòng hai mươi phút và sau đó lại bắt anh nôn hết ra quần áo?
Hai thủy thủ thận trọng nâng Adam lên băng ca, sau đó khiêng anh lên boong. Họ chờ ở đầu cầu tàu và nhẹ nhàng đặt anh xuống sàn boong trong khi một sĩ quan hải quan cùng đi với một nhân viên nhập cảnh chạy về phía họ. Robin xuất trình hộ chiếu của Adam. Nhân viên nhập cảnh giở từng trang và đối chiếu với ảnh.
Robin nói:
– Ẳnh chụp đẹp đấy chứ, nhưng tôi e là người ta sẽ phải thêm ở phía dưới “những vết sẹo khác thường” vào lần cấp giấy sau.
Cô đột ngột giật chăn ra để lộ vết cắt sâu trên vai Adam. Trông anh thật yếu ớt. Nhân viên hải quan hỏi:
– Ông ta có đem gì theo để kê khai luôn?
Adam không thể ngăn mình không sờ vào bức tranh Thánh.
– Không. Tôi không cho anh ấy mua bất cứ chai rượu nào trong chuyến đi này. Và tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc kiểm tra tư trang của anh ấy cùng với tư trang của tôi khi rời khỏi phà.
Viên sĩ quan bỗng nhận ra đám đông người đang đứng im chờ đợi trước cầu tàu để xuống bến, anh ta nói:
– Được thôi. Cảm ơn cô. Vậy thì tốt nhất cô hãy lo để ông ta được đưa đến bệnh viện.
Hai thuyền viên khiêng Adam xuống cầu tàu. Một nhân viên đặt tay liên tục kiểm tra vết thương. Adam vẫy Robin khi họ đặt anh vào xe cứu thương.
Romanov phát hiện ra Robin khi cô đi qua phòng hải quan. Hắn reo lên với viên đại tá:
– Bây giờ tôi biết chính xác đại úy Scott hy vọng rời tàu như thế nào rồi, và chúng ta phải đợi khi hắn không ngờ nhất. Anh hãy đi thuê một chiếc xe đi London ngay.
Chiếc xe cứu thương vọt qua cổng hải quan, trên xe bật đủ các loại đèn và kéo còi hú. Khi họ đến được bệnh viện Vitoria Hoàng gia người nhân viên y tế nhận thấy dọc đường bệnh nhân của anh ta phục hồi nhanh chóng đến mức không thể tin được. Anh ta bắt đầu cảm thấy có lẽ viên thuyền trưởng đã quá quan trọng hóa ca cấp cứu này.
Romanov đứng cạnh cổng mỉm cười trong khi theo dõi chiếc xe du lịch chở các nhạc công nhô ra từ miệng phà tối đen và xếp hàng chờ làm thủ tục hải quan.
Romanov đưa mắt sục sạo khắp chiếc xe du lịch, hắn nhanh chóng nhận ra Robin Beresford. Đúng như hắn dự đoán, chiếc đàn công trơ bass dựng đứng bên cạnh cô chắn cho hắn không thấy được người ngồi bên cạnh. Romanov lẩm bẩm.
– Mày không giở được cái trò đó ra với tao lần thứ hai đâu.
Vừa lúc đó viên đại tá quay lại, mặt đỏ nhừ.
– Xe đâu?
Romanov hỏi, mắt vẫn không rời chiếc xe du lịch. Viên đại tá nói:
– Tôi mới chỉ đặt tạm một xe. Nhưng họ cần bằng lái xe quốc tế của ngài. Tôi quên mất là Scott đã lấy mất bằng của tôi và tất cả các giấy tờ khác.
Romanov nói:
– Anh đứng đây để ý xem Scott có tìm cách ra khỏi chiếc xe du lịch không.
Hắn chạy đến bàn của hãng Avis.
Trong lúc đó Adam nằm trên xe lăn đang được đưa vào một phòng nhỏ, nơi có bác sĩ trực xem xét.
Người bác sĩ trẻ cúi xuống bệnh nhân mấy phút. Anh xem xét cẩn thận trước khi có kết luận. Cuối cùng anh vừa rửa sạch vết thương trên vai Adam vừa nói:
– Vết cắt khá nghiêm trọng. Ông có thể quay cánh tay được không?
Adam quay tay một vòng tròn rồi lại duỗi ra.
– Tốt lắm. Ít ra cũng không bị gãy xương.
Bác sĩ tiếp tục rửa vết thương và nói:
– Tôi sẽ bôi một ít Iốt lên vết cắt, có thể hơi xót đấy.
Anh ta rửa sạch cả hai khuỷu tay trước khi dán băng dính lên. Anh hỏi, mắt vẫn nhìn chăm chú lên vết thương trên vai đang lành dần.
– Vết thương không phải là bị hôm nay phải không?
– Vâng.
Adam đáp, không giải thích gì cả.
– Dù sao thì ông cũng đã từng trải qua những cuộc chiến tranh. Tôi sẽ tiêm cho ông một mũi chống nhiễm trùng uốn ván.
Mặt Adam tái đi. Viên bác sĩ nói:
– Thật là buồn cười, rất nhiều người lớn không muốn nhìn thấy cái kim tiêm mới lạ.
Adam rên lên.
– Nào, bây giờ thì cũng không đến nỗi đau lắm chứ?
Bác sĩ vừa dỗ dành vừa cuốn một cuốn băng lớn trên vai Adam. Cuối cùng anh ta hỏi:
– Có ai đón anh không?
Adam nói:
– Có cảm ơn anh. Vợ tôi đang chờ.
– Tốt lắm. Vậy thì bây giờ anh có thể đi được rồi nhưng về đến nhà anh phải thông báo cho bác sĩ riêng biết chuyện này.
Romanov ngồi vào ghế lái xe và nhìn theo chiếc xe du lịch đang rời khỏi khu hải quan. Hắn lái xe theo sau qua cổng chính tiến vào xa lộ A2 đi London.
Pollard lo lắng hỏi:
– Liệu dọc đường có bị vuột mất hắn không?
– Lần này thì không.
Romanov nói, không giải thích gì. Suốt dọc đường đến thủ đô không một lần hắn để chiếc xe du lịch mất hút tầm mắt.
Adam đi ra cổng bệnh viện và kiểm tra thấy không có ai theo dõi mình. Những người duy nhất anh nhìn thấy là một người đàn ông mặc áo khoác len xanh đang đi dạo bên kia đường và một cô y tá tất tưởi chạy qua, mắt lo lắng nhìn vào đồng hồ đeo tay. Khá yên tâm anh gọi tắc xi đưa đến nhà ga Priory Dover để mua vé đi London. Anh hỏi:
– Mấy giờ chuyến tàu tới khởi hành?
Người soát vé nhìn đồng hồ nói:
– Tàu thủy vừa cập bến cách đây quãng bốn mươi phút nhưng họ còn cần một số thời gian để hành khách làm thủ tục.
Adam đi ra sân ga, mắt cảnh giác xem có ai có vẻ khả nghi không. Anh không để ý tới một người đàn ông tóc đen mặc áo khoác len xanh đang dựa người vào cửa chớp nhà hàng W.H.Smith đọc tờ Evening Standard.
Adam nghĩ tới Robin lúc này đang an toàn trên đường về nhà. Tàu đi London chạy vào ga, chở đầy hành khách vừa trên tàu thủy xuống. Adam đi ra khỏi bóng tối để nhảy lên tàu, anh chọn một buồng có đầy những thanh niên choai choai chắc là vừa qua một ngày tắm biển trở về. Chắc chắn không có ai muốn ngồi chung với bọn này. Anh ngồi vào chiếc ghế trống duy nhất ở góc xa và ngồi yên lặng nhưng mắt vẫn luôn quan sát qua cửa sổ.
Khi tàu chạy đến Canterbury không có thêm người khách nào khác bước vào buồng trừ người soát vé, anh ta lặng lẽ bỏ qua việc một thanh niên chìa cho mình chiếc vé xe khi được đề nghị kiểm tra vé. Adam cảm thấy hoàn toàn an toàn trong góc buồng đặc biệt này, ngay cả khi nhận thấy người đàn ông mặc áo khoác len xanh đi qua cửa và nhìn vào rất kỹ lưỡng.
Adam chợt bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ miên man khi nghe tiếng kêu ca ầm mĩ của một gã thanh niên mà trong suốt hành trình từ đầu đến giờ có vẻ là đại ca của nhóm. Hắn khịt mũi rất to kêu:
– Trong buồng này có mùi hôi quá.
Một tên đồng bọn ngồi cạnh Adam nói và cũng bắt chước khịt mũi.
– Tớ cũng thấy thế, Terry.
– Và tớ nghĩ cái mùi ấy sát cạnh tớ.
Adam liếc nhìn gã thanh niên mặc áo jacket đen bằng da với những chiếc khuy nhỏ lóng lánh. Dòng chữ “Heil Hitler” chạy ngang qua lưng. Hắn đứng dậy mở cửa sổ.
– Có lẽ không khí trong lành ngoài trời sẽ cải thiện hơn chăng.
Hắn nói và ngồi xuống. Cùng lúc cả bốn tên đều khịt mũi. Tên đầu đảng kết luận:
– Khịt, khịt,… Tớ nghĩ mùi hôi ngày càng nặng hơn.
Adam nói:
– Chắc là tôi đấy.
Bọn chúng ngừng khịt mũi, bắt đầu nhìn vào góc buồng một cách nghi ngờ, thoáng im lặng trước đòn tấn công của Adam. Anh nói thêm không để cho bất cứ đứa nào kịp nói:
– Sau bài tập judo tôi không kịp tắm.
Đứa ngồi trước anh hỏi:
– Anh biết khá về judo đấy chứ?
Adam đáp:
– Cũng tàm tạm.
Terry hung hăng hỏi:
– Ông thắt đai nào? – Rồi hắn cười khẩy nói thêm – Nào, nói đi, đai đen chứ gì, tôi biết trước.
– Tôi chẳng thắt một cái đai nào gần tám năm nay rồi – Adam thản nhiên nói – Nhưng vừa qua tôi được phong Đệ nhị Huyền đai.
Vẻ e ngại lộ trên ba trong bốn khuôn mặt.
– Tôi cũng đang nghĩ phải bắt đầu tập judo đây – Tên trưởng nhóm nói tiếp, tay duỗi thẳng – Cần bao lâu để có thể chơi judo kha khá được?
– Tôi vẫn tập ba giờ một ngày trong suốt mười hai năm mà vẫn chưa đạt trình độ Olympic đâu.
Adam đáp trong khi nhìn người đàn ông tóc đen mặc áo khoác len xanh đi qua buồng lần nữa. Lần này hắn ta nhìn thẳng vào mặt Adam trước khi nhanh chóng đi khỏi. Adam tiếp tục nói:
– Tất nhiên phẩm chất duy nhất thực sự phải có một khi cậu nghiêm túc muốn bắt đầu tập judo là sự can đảm, và không ai dạy được cho cậu cái đó đâu. Hoặc là cậu can đảm, hoặc là không, có vậy thôi.
Terry hung hãng nói:
– Tôi can đảm. Tôi chẳng sợ gì và cũng chẳng sợ ai hết.
Hắn nói, nhìn Adam chằm chằm. Adam nói:
– Tốt lắm. Vậy thì cậu sẽ có dịp chứng minh lời tuyên bố vừa rồi trước khi chuyến đi này kết thúc.
Tên mặc áo “Heil Hitler” nói:
– Ông có ý nói gì? Ông định gây gổ hoặc làm trò gì đó đại loại ở đây hả?
Adam lạnh lùng đáp:
– Không. Đơn giản là lúc này tớ đang bị một tên thám tử tư theo dõi, hắn đang muốn bắt được tớ đang ngủ với vợ khách hàng của hắn.
Lần đầu tiên trong suốt chuyến đi cả bốn đứa bỗng ngồi im nhìn Adam với vẻ bắt đầu kính nể. Tên cầm đầu hỏi:
– Thế còn ông?
Adam gật đầu vẻ tiết lộ bí mật. Terry ranh mãnh hỏi:
– Chắc là một miếng ngoạm ngon lành chứ gì?
Adam đáp:
– Không tồi lắm. Hoàn toàn không tồi chút nào cả.
Tên cầm đầu vỗ bàn tay trái lên bắp tay phải trong khi giơ nắm đấm lên một cách hăng hái:
– Vậy thì ông hãy chỉ tên thám tử ấy để bọn này thanh toán hắn trong đêm nay cho.
Adam nói:
– Thế thì hơi mạnh quá. Nhưng nếu các cậu hoãn hắn lại được một lát để tôi xuống tàu tại Đông Waterloo thì ít ra tôi cũng đủ thời gian để báo trước cho cô ấy.
Tên trùm nói:
– Ông anh ơi, đừng nói nữa. Thằng cha nhìn lén của ông anh sẽ được đưa đến ga Charing Cross và được buộc chặt như một gói bưu phẩm của hãng Đường sắt Anh đấy.
Ba đứa kia cười phá lên và Adam bắt đầu nhận ra mới có một tuần mà Romanov đã biến được anh thành kẻ bịa chuyện chẳng kém bố Robin trước kia là mấy.
– Hắn kia kìa.
Adam thì thầm khi gã mặc áo len xanh đi qua lần thứ ba. Cả bọn nhìn ra hành lang nhưng chỉ thấy lưng hắn đang đi khuất. Adam xem đồng hồ nói.
– Mười một phút nữa tàu sẽ đến Đông Waterloo. Tôi đề nghị lúc đó chúng ta sẽ hành động… nếu các cậu vẫn nghĩ đến điều đó.
Cả bốn tên trong đội vệ binh mới thành lập của anh cúi người hăm hở chuẩn bị tư thế.
Mấy phút sau Adam rời khỏi buồng, vẫn để cửa mở rộng. Anh bắt đầu bước về phía ngược lại với lối gã áo len xanh đi qua. Khi đến cuối toa anh quay lại thấy lúc này gã đàn ông đang đi nhanh theo sau anh. Khi đi qua căn buồng có cửa mở gã mỉm cười giơ tay lên để Adam chú ý nhưng một đôi cánh tay mặc áo da đã thò ra và gã mất hút vào buồng kèm theo mấy tiếng kêu ú ớ. Cánh cửa buồng đóng sập lại và rèm cũng buông nhanh xuống.
Con tàu từ từ tiến vào ga Đông Waterloo.
Khi chiếc xe du lịch tiến đến phố Wigmore và dừng lại phía ngoài trụ sở Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia, Robin vẫn vô cùng căng thẳng. Có một chiếc xe Ford màu xanh vẫn bám theo họ ít nhất là ba mươi dặm và khi nhận ra điều đó cô ngồi im không dám động đậy.
Khi mang chiếc công trơ bass ra khỏi xe, cô ngoái lại và nhìn thấy chiếc Ford đã tắt hết đèn pha đỗ dưới lòng đường cách đó quãng năm mươi mét. Romanov đứng trên vỉa hè trông như con thú bị nhốt trong chuồng đang muốn lao ra ngoài. Một người đàn ông khác mà Robin không biết mặt vẫn trên xe sau tay lái. Adam đã dặn cô không được nhìn quanh bất kỳ hoặc dừng lại lúc nào mà cứ đi thẳng vào trụ sở Dàn nhạc. Mặc dù vậy cô cũng không cưỡng lại được nhìn thẳng vào mắt Romanov và lắc đầu. Romanov vẫn tỉnh bơ đứng nhìn ra phía trước.
Khi nhạc công cuối cùng rời khỏi xe, Romanov và viên “đại tá” đưa mắt nhìn sục sạo khắp bên trong xe và cuối cùng là khoang hành lý, bất chấp sự phản đối của người lái xe. Robin lo lắng đứng trong một cửa sổ trên gác nhìn chúng nhảy vào chiếc Ford xanh lái đi. Cô tiếp tục nhìn theo chiếc xe cho đến khi đèn sau mờ dần và mất hút trong đêm tối.
Viên đại tá ngoặt khỏi phố Wigmore chạy để phóng về phía phố Backer và dừng lại đối diện trước cửa ga Barker. Romanov nhảy khỏi xe đi vào một buồng điện thoại và bắt đầu giở danh bạ điện thoại từ vần A đến vần D. Chỉ có một Robin Beresford có đăng ký cùng với địa chỉ đúng như tên điệp viên trẻ đã đọc cho hắn. Hắn quay số và sau mười lần gọi không có ai trả lời, hắn mỉm cười vì biết chắc cô sống một mình. Hắn không ngạc nhiên.
Khi Romanov trở lại xe, viên đại tá hỏi:
– Bây giờ ta làm gì?
– Phố Argyle, NW3 ở đâu?
Viên đại tá nói:
– Chắc là đâu đó gần phố Hampstead. Nhưng trước hết tôi phải kiểm tra lại bản đồ giao thông London từ A đến Z đã. Kế hoạch thế nào đây?
Romanov nói:
– Thay vì cho việc chờ cô Beresford ra khỏi nhà, chúng ta sẽ chờ cô ta đi vào nhà.
Quãng ba mươi phút sau Robin rời khỏi cửa sau trụ sở Dàn nhạc. Cô đi vòng vèo quanh quảng trường Portman rồi bước thật nhanh đến góc phố. Mặc dù luôn tự nhủ là Romanov sẽ không quay lại nhưng trong suốt thời gian đó Robin vẫn không kìm nổi cơn run. Cô vẫy một xe taxi và thở phào nhẹ nhõm khi thấy chiếc xe xịch đến chỉ trong nháy mắt. Robin kiểm tra người lái và ghế ngồi sau như Adam hướng dẫn rồi lên xe.
Chỉ ít phút sau khi Robin vẫy taxi, Romanov cũng đến trước cửa một nhà. Tấm biển gắn trên tường cho thấy cô Beresford sống ở tầng bốn.
Tự chiếc cánh cửa cũng chứng minh cho việc bất cứ tên trộm cao thủ nào ở Moscow cũng như Romanov đều không mấy khó khăn gì để lọt vào trong chốc lát. Viên đại tá nhanh chóng chạy tới bên Romanov rồi cả hai tên tiếp tục im lặng đi lên cầu thang đến tầng bốn.
Romanov bật ổ khóa Yale còn nhanh hơn Robin mở bằng chìa của cô. Sau khi đã vào trong nhà hắn nhanh chóng xem xét bố trí nội thất căn phòng và tin chắc là không có ai nữa trong đó.
Viên đại tá đứng bồn chồn không yên bên cạnh.
– Bình tĩnh lại đi ngài đại tá. Tôi không cho là cô ấy bắt chúng ta phải đợi quá lâu đâu.
Viên đại tá cười với vẻ lo lắng.
Chiếc tắc xi xịch đến cạnh ngôi nhà Robin chỉ. Cô nhảy khỏi xe và trả cho người tài xế khá hậu vì đã quá nửa đêm khá lâu và vì cuối cùng cô cảm thấy đã an toàn. Dường như cả năm trời bây giờ cô mới về nhà. Cô chỉ mong được tắm nước ấm và ngủ một giấc đẫy mắt.
Adam bước ra khỏi ga Đông Waterloo vào lúc quá nửa đêm một chút, anh vui mừng khi thấy xe điện ngầm vẫn còn hoạt động. Anh không đi đến Charing Cross vì không biết chắc người của bên nào đang chờ đón mình ở đó. Anh xuất trình vé tháng đi West Indian cho người soát vé và đợi loanh quanh ở sân ga cho đến khi cuối cùng đoàn tàu cũng chạy tới.
Giữa Đông Waterloo và nơi anh định tới còn có mấy ga nữa, ngay cả vào lúc đêm khuya này đoàn tàu cũng dừng bánh ở các ga đó quá lâu. Đến Embankment có mấy tay chơi đêm bước lên, đến quảng trường Leicester còn thêm nhiều người nữa. Mỗi ga Adam lại lo lắng chờ đợi, giờ đây anh mới nhận ra đây là chuyến tàu cuối cùng. Anh chỉ hy vọng Robin ngoan ngoãn làm đúng những điều đã được chỉ dẫn. Anh nhìn xung quanh toa mình đang ngồi. Trên toa đầy những người làm việc ca đêm, bồi bàn, y tá, người đi ăn tiệc trở về, bọn say rượu, có cả cảnh sát giao thông nữa. Cuối cùng tàu chạy tới ga của anh vào lúc mười hai giờ bốn mươi.
Người soát vé chỉ cho Adam đường đi. Anh thấy nhẹ người vì có thể đi ra cửa rất nhanh chóng bởi vì không còn ai xung quanh trong đêm khuya như thế này để hỏi đường nữa. Anh chậm rãi tiến đến số nhà hai mươi ba. Căn hộ tối om. Anh đẩy cánh cổng quay, bước thẳng vào lối đi, tay rút chùm chìa khóa trong túi ra và tra chiếc chìa tròn trĩnh vào ổ khóa. Adam thận trọng đẩy cửa và sau đó đóng lại nhẹ nhàng sau lưng mình.
Quá mười hai giờ mười một chút, chuyến tàu cuối cùng từ Dover vào ga Charing Cross. Không thấy Adam đâu, Lawrence bảo lái xe đưa mình trở lại Cheyne Walk. Anh không hiểu được tại sao người điệp viên do tự tay anh lựa chọn không báo cáo gì cả. Khi Lawrence trở lại căn hộ, anh tra chìa khóa vào ổ khóa, hy vọng Adam đã đợi sẵn ở trong.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.