Lá Thư Buộc Tội

CHƯƠNG 3



Chiếc máy bay DC-3 bập bềnh trên không khi vượt khỏi thị trấn Marysville, lướt thật thấp qua các khu dân cư được đánh dấu bằng những cụm đèn điện, qua những cánh đồng lúa phì nhiêu chìm trong bóng đêm rồi đến vùng đèn sáng rực của thị trấn Oroville. Sau đấy, máy bay xuống thật thấp bay qua thị trấn Chico và lướt vào bãi đáp.
Một chiếc xe tắc xi đưa luật sư Perry Mason và Della Street vào trung tâm thành phố, tại đây Mason thuê được một xe du lịch chạy đường dài. Họ tìm ra đường đi Paradise và bắt đầu vượt con dốc dài hun hút.
Mảnh trăng hạ tuần tỏa ánh sáng thật dịu, chiếu lờ mờ cảnh vùng quê. Della Street bất giác khẽ kêu lên một tiếng ngạc nhiên trước quang cảnh kỳ ảo, lúc con đường lượn vòng quanh bờ vực của một ngọn núi lửa đã nguội, khi hai người nhìn xuống lòng vực thẳm sâu. Dưới xa, các khối phún thạch hắt những cái bóng tối đen như mực.
Mason cho xe chạy qua dãy cửa hàng dọc trung tâm thị trấn. Ông tìm ra con đường, bẻ lái sang trái và dễ dàng nhận ra còn rẽ trái một lần nữa.
Hai bên đường xuất hiện những khu nhà ở xây theo lối kiến trúc hiện đại rất bề thế, nằm dưới bóng thông cao vút có thảm cỏ bao quanh. Trên tầm cao này, bao lớp khói sương từ dưới thung lũng thấp dâng lên đều tan biến, và tuy có ánh trăng, những ngôi sao vẫn tỏa sáng rực rỡ.
Della Street hít vào một hơi thật sâu. Nàng nói, “Ông chủ xem kìa, không khí ở đây thật trong lành và thơm ngát mùi nhựa thông, trông tựa pha lê. Khu gia cư kia trông xinh xắn đấy chứ?”
Mason khẽ gật đầu. Della Street lại hỏi, “Ông có nghĩ là nơi làm việc của Ed Davenport cũng xinh xắn như thế này không?”
“Một phút nữa sẽ biết.” Mason trả lời vừa bẻ tay lái sang trái.
Họ đến khúc cuối của đoạn đường trải nhựa, xe lăn bánh nghe lạo xạo qua một quãng đường sạn, chạy qua trước một ngôi nhà trông thanh lịch có hàng dậu xanh, tiếp đó, ở cuối đường, họ rẽ sang phải, tiến vào đoạn đường trải sỏi băng qua một cánh rừng thông, một bụi trường xuân rậm rạp, lơ thơ vài ngọn táo cành lê. Liền đấy, xe đột ngột tiến vào hàng hiên phía mặt tiền của một ngôi nhà trông thân mật và ấm cúng, tuy bên trong tối om.
Mason tắt máy xe, bước vòng qua phía trước xe và theo Della Street bước lên hàng hiên.
Della Street hỏi, “Có lẽ nên bấm chuông?”
Mason gật đầu. Ngón tay mang găng của cô thư ký ấn nút chuông. Từ bên trong reo lên một hồi chuông lanh lảnh, chờ một lúc, Mason nói, “Bấm chuông một lần nữa, sau đó sẽ dùng chìa khóa.”
Cô thư ký bấm chuông lần thứ hai. Khoảng mười giây sau, Mason tra chìa khóa vào ổ khóa. Chốt ở khóa vang lên một tiếng cách khẽ, bật lùi thật êm. Mason xoay tay nắm, cánh cửa mở ra. Della Street hỏi, “Bây giờ sao đây? Dùng đèn bấm hay là…?”
Mason bảo nàng, “Bật đèn lên. Dùng đèn bấm có nghĩa là vào nhà một cách trộm lén. Vào nhà trộm lén tức là có ý định phạm tội. Della à, kể ra thì chúng ta đang chơi rút bài trong một sòng bạc gồm những tay chơi mà mình ít quen biết, ngay cả tới lúc nào mới hết ván cũng chưa được rõ.”
Della Street nói, “Nhưng chúng ta đã lỡ đặt tiền cọc quá lớn rồi?”
“Cái ấy thì quá rõ.” Mason vừa nói vừa mò mẫm tìm nút bật đèn trong nhà.
Căn phòng khách bên ngoài liền sáng rực lên, bày ra một cái giá treo mũ nón bằng gạc nai và gỗ trường xuân. Một tấm thảm của bộ lạc da đỏ Navajo và hai chiếc ghế thô sơ khiến cảnh bày biện trông đơn sơ, chắc chắn. Một tấm gương soi khổ lớn loại cổ hình bầu dục treo trên tường. Thoáng có mùi thuốc lá nặng hạng sang phảng phất, cho thấy như có người ở đây hút bằng ống điếu đã bỏ đi lâu ngày.
Mason bước vào cửa tay trái, bật đèn trong phòng ở rộng thênh thang. Della Street nối gót theo ông đi khắp ngôi nhà, lần lượt vào từng phòng, ở phòng nào nàng cũng bật đèn, tới một lúc toàn ngôi nhà một tầng dài hun hút đều sáng trưng. Nàng hỏi Mason, “Bây giờ thì sao?”
Mason nói, “Bề ngoài, rõ ràng là chúng ta đang lãnh trách nhiệm thay cho bà Davenport. Còn bên trong thì thật ra là chúng ta đang tìm lá thư hình như được giấu kín ở đâu đó trong ngôi nhà này. Vấn đề là tìm ở chỗ nào?”
Della Street nói, “Tôi thấy công việc này sao mà kỳ quá.”
“Sao?”
“Viết một cái thư tính gửi cho nhà chức trách phòng khi rủi mình có chết, rồi lại bỏ lá thư nằm phất phơ ở đâu đấy mà chẳng quan tâm thu xếp sao cho lá thư được chuyển đi.”
Mason gật đầu. Della Street nói tiếp, “Có thể ông ấy đã lo việc chuyển giao thư cũ rồi cũng nên.”
“Đúng như vậy, và vì lý do đó mà bây giờ đây chúng ta sẽ ra công lùng kiếm, bắt đầu tại bàn làm việc của cô thư ký trong căn phòng này.”
Della Street nói, “Tôi vẫn chưa vỡ lẽ.”
“Chúng ta đang làm theo nguyện vọng, đúng ra là theo sự dặn dò của thân chủ. Ít nhất cũng phải tìm cho ra nội dung của thư ấy nói những gì.”
Mason kéo nhẹ ngăn kéo của chiếc bàn sắt, thấy đủ loại giấy tờ văn phòng, giấy than, và ở ngăn cuối cùng ông thấy một đống hồ sơ dày gồm thư từ giao dịch đựng trong một cặp bia da có đánh dấu lưu trữ. Ông nhìn qua các ngày tháng ghi trên một số thư, nói, “Cô thư ký của Ed Davenport hình như chẳng thấy cần sắp xếp hồ sơ vội.”
“Chắc cô ta đang chờ nhận đủ hết thư từ rồi mới sắp xếp sau cho khỏi mất công.”
Mason thử mở các ngăn tủ bên phải, thấy ngăn nào cũng đều được khóa.
“Della, có cái giũa móng tay đấy không?”
“Ông chủ định tìm cách mở khóa đấy chắc?”
Mason gật đầu. Della hỏi, “Ông chủ, chúng ta có được phép nhìn vào những nơi ấy không?”
“Sao lại không? Chúng ta đang tìm giấy tờ cho bà quả phụ hiện còn sống chứ đã chết đâu mà lo.”
“Tôi cảm thấy thế nào ấy… cứ như là đang đụng chạm tới cuộc sống riêng tư của ai đó vậy.”
Mason cầm cái giũa móng tay của Della Street và bắt đầu mở. Vài phút sau, một cái chốt khẽ bật lùi và các ngăn bên phải mở ra. Della Street nói, giọng cả quyết, “Ở đây toàn là đồ cá nhân thôi.”
Mason nói, “Tôi biết, nhưng chúng ta đặc biệt có chủ ý lùng… cái gì đây nhỉ?”
Della Street đáp, “Chắc chắn là một cái hộp có khóa.”
Mason lắc cái hộp và nói, “Hình như trong này chỉ có một tài liệu độc nhất. Đúng là cái chúng ta đang cần đây rồi. Này Della, tuy thấy nét mặt của cô có vẻ không bằng lòng, tôi vẫn bị tính tò mò thúc giục quá rồi, hết còn dè dặt nữa. Cô có sẵn cái kẹp tóc đó không?”
Della Street lắc đầu. Mason thử tra đầu giũa móng tay vào ổ khóa, nói, “Tôi cần cái bé hơn cái giũa này. Một sợi dây thép con con có lẽ có ích đấy.”
Della Street hỏi, “Ông học được cái thuật ấy ở đâu vậy?”
Mason cười, “Một thân chủ dạy tôi học đấy. Đó là lệ phí duy nhất tôi đòi để biện hộ cho anh ta vì bị kết tội ăn cắp.”
“Chắc ông đã cứu anh ta được chứ ạ?”
“Anh ta vô tội.”
“Vâng, tôi cũng nghĩ như thế. Tôi cứ đoán mò là ông học cách mở khóa theo lối hàm thụ.”
Mason nói, “Cũng kỳ, anh chàng vô tội thật. Mở ổ khóa là một nghề vốn có từ cái quá khứ ghê gớm của anh ta đấy. A, ở đây có một cái kẹp bằng dây kẽm loại tốt. Bây giờ chỉ cần bẻ cong dây, vậy là… cứ việc nhét vào đằng đuôi, quay thật nhẹ, rồi… a được rồi, Della.”
Mason mở nắp hộp, lấy ra một phong bì có ghi dòng chữ tháu “Chỉ được mở trong trường hợp tôi chết, chuyển giao các giấy tờ bên trong đến nhà chức trách địa phương”. Bên dưới ký “Ed Davenport”.
Della Street nói, “Ngài luật sư ơi, có lẽ ông sẽ cho tôi được biết qua các điều lệ có tính chất kỹ thuật. Cái này là thuộc vào tài sản của người quả phụ hay là của nhà chức trách hoặc là thuộc quyền sở hữu của người thư ký vì đã được thấy nằm trong bàn giấy của cô ta?”
Mason nói, “Chúng ta cần phải biết bên trong phong bì này có những gì đã, rồi sau đó mới giải đáp được câu hỏi của cô.”
“Giải đáp trước thì có lẽ hay hơn dấy.”
Mason cười, lắc đầu, “Phải biết trong phong bì có những gì mới xác định được trách nhiệm của mình, Della ạ.”
Ông đi xuống phòng bếp, đổ thật đầy nước vào một ấm trà và bật lò điện lên. Della Street nói, “Ông làm như đang ở nhà riêng không bằng.”
Mason cười, “Thì chẳng qua cũng là cảnh “Chờ nước sôi thì lâu chín”, thế thôi. Có lẽ ta nên lục tìm quanh thêm đôi chút xem sao.”
Mason quay trở lại phòng ngoài, lục khắp bàn giấy của Ed Davenport, xem kỹ hồ sơ, đọc thư từ, mở hết các ngăn kéo ra. Della Street hỏi, “Ông đang tìm một cái gì đó phải không?”
“Tôi đang cố hình dung cho được những con người ở đây. Davenport tất nhiên là rất tin tưởng ở cô thư ký của mình. Rõ ràng cô ta là kẻ đã thảo lá thư và ký vào các ngân phiếu là một ngàn hai trăm chín mươi mốt đô-la tại ngân hàng ở Paradise. Có một số thư từ liên quan tới vấn đề kinh doanh mỏ tại đây. Đáng chú ý là trong khi có một số thư đề gửi cho bà Davenport thì lại có những lá thư của ông ấy quy định rõ là vợ ông ta phải làm hay không được quyền làm những điều này việc nọ.”
“Vậy là…”
Mason tiếp, “Rõ ràng là ông ta không thèm hỏi ý vợ. Các tờ giấy than dùng đánh máy thư trả lời cho thấy rất nhiều lần các thư gửi đi cùng ngày với các nhận.”
“Có lẽ ông ta liên lạc với bà bằng điện thoại đường dài?”
“Giấy đòi thanh toán điện thoại cả tháng vừa rồi chỉ có hai mươi ba đô-la chín mươi lăm xu, kể cả tiền thuế liên bang.”
Della Street nói, “Mà suốt thời gian này ông ta cứ nơm nớp sợ bà vợ tìm cách hại mình, nên phải bỏ đi, để rồi chết một cách rất ư là tự nhiên.”
Mason nhướng mày. Della Street hỏi, “Sao ông làm thế? Ông chủ không… không cho rằng… đó chẳng phải là một cái chết tự nhiên hay sao?”
Mason hỏi lại, “Sao lại không?”
“Nhưng mà, trời! Tại sao… thế thì chúng ta đang làm gì ở chỗ này?”
Mason đáp, “Chúng ta đang bảo vệ các quyền lợi tối ưu của bà Davenport. Nhưng hiện tại còn có vài việc chúng ta không làm được. Chúng ta không thể phủ lấp tang chứng hoặc làm hỏng các tang chứng, nhưng chúng ta cũng không thể nào biết thật đó có phải là tang chứng hay không cho tới lúc chúng ta được trông thấy nó, đúng không, Della? Thôi, hãy tiến hành. Tôi chắc là ấm nước đang sôi ở dưới rồi.”
Mason quay trở lại phòng bếp. Rất cẩn thận, ông hơ trên hơi nước nóng để mở phong bì đã được niêm, cho tay vào trong, lấy ra những tờ giấy và mở chúng ra. Della Street bỗng nấc lên một tiếng kinh ngạc vừa lúc ấm nước đang sôi réo. Mason nói bằng giọng mừng rỡ, “A, đây rồi. Sáu tờ giấy trắng, hoàn toàn không có một chữ nào.”
Cô thư ký bèn trổ chút tài nội trợ bếp núc: trong khi mắt vẫn nhìn tờ giấy trắng, nàng đưa tay tắt bếp lò dưới ấm và hỏi, “Có gì lạ không?”
Một lúc, nàng hỏi tiếp, “Ông có nghĩ là có chữ bí mật ở trên đấy không?”
Mason nhấc ấm khỏi bếp đặt sang một bên, cầm một tờ giấy đưa trên mặt lò còn đỏ lửa hồng, hơ đều khắp. Sau đó, ông nghiêng tờ giấy mặt này sang mặt kia để ánh sáng soi đủ các góc. Ỏng nói, “Tất nhiên là có thể có chữ bí mật, phải dùng hơi iôđin mới đọc ra. Nhưng có điều… không dám nói là có, mà cũng nguy nếu bảo là không.”
Della Street nói, “Trên đời này sao lại có một người phí công đến độ để lại một phong thư, dặn dò chỉ được mở nếu mình chết, trong khi thực tế chẳng có gì ráo, ngoài ba tờ giấy trắng?”
Giọng của Mason khô khan, “Đó là điều chúng ta phải tìm hiểu cho ra lẽ.”
“Ông chủ bảo sao?”
“Trong văn phòng này có ống keo nào không, Della?”
Nàng gật đầu. Mason nói tiếp, “Vậy hãy dán phong bì lại. Trong tình huống này, tốt nhất là đừng để lại dấu tay.”
Mason hơ cho thật khô nắp phong bì ở trên bếp lò còn nóng, quay trở lại văn phòng, thận trọng dán phong bì và bỏ vào hộp có khóa, đặt cái hộp vào trong ngăn kéo tay phải. Della Street nói, giọng lưỡng lự, “Ông chủ ạ, hình như ông nghĩ… là…?”
Mason hỏi, “Là các sự việc diễn ra sao mà khớp với nhau quá, phải thế không?”
“Ồ, quả như vậy, theo một chiều hướng nào đấy.”
Mason nói, “Chúng rõ ràng là khớp với nhau. Ed Davenport chết, rồi…”
Bỗng trong phòng có tiếng phụ nữ, “Các người đang làm gì vậy? Các người là ai?”
Mason quay lại.
Một thiếu nữ khá xinh, dáng hơi cao, đang đứng ở cửa vào. Bỗng cô ta quay lưng bỏ đi, không chờ nghe trả lời. Mason nghe tiếng chân chạy, liền đấy ở phòng chính có tiếng mặt số điện thoại quay.
Mason nhìn Della cười, ông bước thẳng tới bàn giấy, nhấc cần điện thoại lên. Ông nghe giọng cô gái vừa bỏ chạy vang lên ở đâu dây tiếp nối, “Tổng đài, cho tôi liên lạc với Đồn cảnh sát nhanh lên. Có chuyện khẩn đấy. Tôi là Mabel Norge, tại nhà của ông Davenport ở hẻm Crestvien Drive. Trong nhà đang có kẻ đến lục phá đồ đạc. Mời cảnh sát đến ngay.”
Mason thả cần điện thoại vào máy. Ông nghe cánh cửa ngoài đóng lại thật mạnh.
Della Street nhướng mày, hỏi, “Cảnh sát?”
Mason gật đầu, “Chừng nào họ đến đây?”
“Tùy. Có lẽ không lâu.”
“Chúng ta liệu mà ra khỏi đây chứ?”
“Ồ, tất nhiên là không. Chúng ta phải ở lại để nói chuyện với họ.”
Mason chễm chệ ngồi xuống ghế sau bàn làm việc của Ed Davenport, ông đốt một điếu thuốc.
Della Street hỏi, giọng lo âu, “Ông chủ ơi, sao không đi ra bằng ngõ sau?”
Mason đáp, “Chiếc xe chúng ta thuê hiện nay đang nằm ngay đằng trước. Chắc chắn là cái cô ban nãy đã ghi số xe rồi.
“Vì chiếc xe đang đỗ ở đó và đèn vẫn để sáng nên cô ta mới vào một cách âm thầm như vậy, có lẽ cô ta đi nhón gót theo ngả hành lang trong. Tình cờ tôi nghe cô ta xưng tên qua máy điện thoại: Mabel Norge. Thư ký riêng của Ed Davenport. Della à, dứt khoát là chúng ta phải ở lại đây chờ. Trong tình huống hiện giờ không còn cách nào khác. Bỏ chạy đúng vào lúc này thì rõ là có ý thức phạm tội.”
Della Street nói, “Nói vậy chứ sao tôi thấy sự thể thế này có cái gì đó như không ổn.”
Mason nói, “Chúng ta đã làm mọi việc theo ý nguyện của thân chủ. Bây giờ thì hãy tỏ ra độc lập tự do hơn đi.”
“Ý ông bảo sao? Có phải ông…”
Hai người nghe có tiếng còi hú vang ở ngoài. Mason nói, “Cảnh sát đến nơi rồi. Phục vụ như thế là tốt lắm. Della à, cô hãy tỏ ra im lặng nhé, vì xem ra cảnh sát có vẻ cuống cuồng lên rồi đấy.”
Một lát, tiếng cánh cửa ngoài mỏ ra, tiếng người nói chuyện, sau đấy là tiếng bước chân nặng chịch. Một gã đàn ông mang huy hiệu hình cái khiên trên cổ áo bẻ, tay cầm lăm lăm khẩu súng, thận trọng thò đầu vào và hô lên, “Bắt họ lại.”
Mason ngả người trong chiếc ghế xoay ở sau bàn giấy, lấy điếu thuốc trên miệng ra, nhả một hơi khói lên không và nói, “Xin chào các ngài chức trách. Xin mời vào đây nghỉ cái đã.”
Viên sĩ quan cảnh sát vẫn đứng ỳ tại cửa. Súng thủ sẵn trên tay, lên tiếng, “Các ngươi là ai? Làm gì ở đây?”
Mason đáp, “Tôi là Perry Mason, luật sư. Xin giới thiệu, đây là Della Street thư ký của tôi. Hiện giờ tôi là đại diện pháp lý cho quả phụ Ed Davenport.”
Cô gái đi theo rú lên, “Ông ta chết? Ông ấy chết rồi sao?”
Mason gật đầu. Mabel Norge nói, “Vậy là ông ấy đã bị giết rồi!”
Mason cảnh giác, “Suỵt! Cô rõ là vừa bị xúc động, nhưng đừng có la lối như thế.”
Viên sĩ quan cảnh sát hỏi, “Ông là đại diện của bà Davenport?”
“Vâng.”
“Có giấy ủy quyền không?”
“Bà ấy đưa cho tôi giấy ủy quyền và chìa khóa ở đây.”
Một cách thản nhiên, Mason lấy thư ra trao cho người cảnh sát. Ông này nhìn cô gái, “Biết hai người này không, cô Norge?”
Cô gái lắc đầu. Mason hỏi, “Chắc cô là thư ký riêng của ông Davenport.”
Cô gái trả lời, “Tôi là Mabel Norge, thư ký của ông Ed Davenport. Trường hợp ông ấy chết, tôi… tôi có vật cần giao cho ông sĩ quan cảnh sát đây.”
“Đúng thế.”
Cô gái nói, “Ông Davenport đã lường trước vụ này.”
“Vụ gì?”
“Ông ấy bị mưu sát?”
“Bị mưu sát?”
Giọng cô gái trở nên bực tức, “Đúng như thế. Tôi sẽ trao cho ông sĩ quan đầy đủ bằng chứng để chứng minh điều ấy.”
Mason giục, “Vậy cô hãy cứ giao cho ông ta đi.”
Cô gái bước tới bàn giấy của người thư ký. Mason chận lại, “Khoan, chờ một chút. Cô định làm gì nào?”
“Lấy vật tôi định giao cho ông sĩ quan cảnh sát.”
Mason mỉm cười, lắc đầu, nói giọng quở trách, “Không được, không được đâu.”
“Ông bảo sao?”
“Cô không được chạm tới bất cứ vật gì ở trong căn nhà này.”
“Còn ông thì đã tới đây và đã chạm tới các thứ.”
Mason hỏi lại, “Sao lại không? Tôi là đại diện cho bà vợ người chết kia mà. Bà ấy là chủ của một nửa tài sản một cách tuyệt đối. Còn phần nửa kia bà ấy sẽ được hưởng theo quyền thừa kế.”
“Sao ông… ông…”
“Bình tĩnh nào.”
Viên sĩ quan cảnh sát cho súng vào bao, nói, “Bây giờ xin hãy làm rõ vụ này. Chuyện ra sao?”
Mabel Norge nói, “Bà ấy đã giết chồng. Ông chồng đã biết là bà vợ tìm cách giết mình nên đã để sẵn một phong thư làm bằng chứng tố cáo.”
Mason hỏi, “Cô bảo sao, ông ấy có để lại một phong thư?”
“Ông ấy đã giao cho tôi.”
“Và bảo cô giữ?”
“Bảo tôi rằng nếu ông ấy chết, thì tôi sẽ mở lá thư và tìm cách báo cho cục cảnh sát rõ.”
“Thế cô có mở lá thư trước ngày ông ấy chết?”
“Đương nhiên là không rồi.”
“Cô không biết trong ấy có gì?”
“Ấy… cái đó thì… ông ấy chỉ nói với tôi thôi.”
“Ông ấy có nói cho cô biết trong phong bì có gì không?”
“Ông ấy báo với tôi rằng… Ấy, ông ấy nói cho tôi biết là ông đã lường trước việc mình sẽ chết bất kỳ.”
Mason nói, “Dĩ nhiên thôi. Ông ấy bị huyết áp cao, chứng nghẽn động mạch. Tôi nghĩ là ông ta còn đau thận nữa. Các bác sĩ đã cho biết là ông ta sẽ chết bất kỳ. Vì thế nên việc có người lo toan chuẩn bị như vậy thì tôi thấy cũng là tự nhiên thôi.”
“Nhưng ai lại chuẩn bị cái thư như thế. Ý tôi muốn nói là ông ấy không để tâm đến chuyện kia đâu.”
“Sao cô biết?”
“Chính ông ấy nói thế.”
“Ông ta nói sao?”
“Ông ta nói với tôi rằng nếu ông chết, thì tôi có nhiệm vụ mở phong bì và chứng kiến tận mắt cảnh sát lấy ra giấy tờ bên trong, nếu ai tìm cách đoạt phong thư khi ông ta còn sống thì tôi phải hủy ngay.”
“Nói cách khác, thì ông ấy hoàn toàn kiểm soát cái thư?”
“Khi còn sống, vâng.”
“Còn như ông ấy muốn cô trao thư lại cho ông ta bất cứ lúc nào, thì cô cũng làm như vậy ngay tức thì?”
“Tất nhiên thôi. Thư của ông ta cơ mà.”
Mason hỏi, “Thư ở đâu?”
Toan cho Mason biết chỗ lá thư, nhưng nghĩ sao đấy, cô thư ký của Ed Davenport nói, “Lúc nào cần, tôi sẽ lấy.”
Mason ngáp, nói, “Tôi chắc là cô sẽ lấy thôi. Được rồi, ông sĩ quan, đề nghị chúng ta hãy chấm dứt ở đây, và theo hiện tình, do thực tế là cô Norge bảo ở đây có một lá thư với nội dung tố cáo, nên tôi thấy tốt hơn cả là không cho phép ai được đem bất cứ đồ vật gì ra khỏi nơi này.”
Mabel Norge nói một cách cương quyết, “Chúng tôi sẽ chuyển giao phong thư ấy. Tôi sẽ mở phong thư ngay bây giờ và giao các giấy tờ bên trong cho ông sĩ quan đây.”
Mason mỉm cười, “Ồ, không, cô không được phép làm như thế.”
“Ông bảo sao?”
“Thời gian làm việc của cô ở tại đây vậy là đã chấm dứt kể từ lúc ông Davenport chết. Cô là nhân viên làm việc cho ông ấy, đại diện cho ông ấy. Ông ấy chết tức là thời gian làm việc của cô ở đây cũng hết. Dĩ nhiên là cô sẽ hưởng tiền cấp bù, nhưng không được đụng chạm vào bất cứ vật gì ở đây cả.”
Viên sĩ quan nói, “Khoan đã. Tôi không rành luật, nhưng tôi không muốn thấy tang vật bị mất.”
Mason nói, “Dĩ nhiên là như vậy rồi. Đề nghị ông hãy khóa hết các cánh cửa lại, và vì cô Norge hiển nhiên là có một cái chìa khóa riêng…”
Cô gái nói, “Ông vào đây bằng cách gì?”
Mason đáp, “Tôi đã nói với cô là tôi có chìa khóa cơ mà. Chìa khóa ấy là của bà Davenport giao.”
“Không làm gì có chuyện bà ấy giao chìa khóa cho ông. Tôi tin chắc như vậy.”
Mason cười, “Thưa ông sĩ quan cảnh sát, như thế thì rõ là bà Davenport không chịu giao chìa khóa cho tôi là vì cô này nói bà ấy không bao giờ chịu làm như vậy. Thế hóa ra tôi không thể dùng chìa khóa để vào đây. Vậy là tôi không có mặt ở đây. Vậy xin hãy coi như tôi không có mặt.”
Viên sĩ quan cảnh sát, “Nếu như ông ấy có để lại một bức thư dặn mở ra trong trường hợp ông ấy chết, thì lá thư có thể giúp chúng ta tìm ra nguyên do vì sao ông ấy chết. Vậy nên lấy thư đó để giao sang cho biện lý cục.”
Mason nói, “Cái chính yếu là chẳng một ai rõ cái thư có tố cáo ai không, hoặc cho thấy một dấu hiệu gì đấy. Phong bì ấy có thể có đựng một bản di chúc gửi cho ai đấy.”
Viên sĩ quan nói, “Vậy hãy lấy nó ra xem. Ông là đại diện cho bà vợ. Cô thư ký có mặt ở đây. Tôi đại diện cho pháp luật. Chúng ta hãy xem phong bì như thế nào.”
Mason nói, “Không ai được quyền mỏ phong thư ấy cho đến khi nào có sự đồng ý của người vợ.”
Viên sĩ quan nói với Mason;
“Hãy chờ xem đã. Ông có thái độ thật khó hợp ý nhau.”
“Cãi đó là tùy ở cách ông xử lý theo pháp luật. Xin được biết quý danh?”
“Tôi là Sidney Boom, ở phòng Quận trưởng. Địa hạt này không thuộc liên bang. Đây là địa hạt của quận.”
Mason nói, “Tốt thôi. Nào, ông muốn xử lý công việc theo pháp luật hay không?”
“Tất nhiên là tôi muốn xử lý theo pháp luật.”
“Được. Xét về tài sản cá nhân thì đây là tài sản chung của hai vợ chồng, người quả phụ còn sống có một nửa quyền lợi đương nhiên trong đó. Bây giờ hay trước đây cũng vậy thôi. Giờ thì tài sản là của người vợ. Phần nửa kia là của bà ấy theo luật thừa kế. Về mặt kỹ thuật bà ấy được quyền thừa kế ngay từ bây giờ, nhưng chưa có hiệu lực mà phải chờ cho đến khi được tòa án xác nhận và các món nợ được thanh toán”
Sidney Boom nói, “Ấy, luật lệ thì tôi không nắm vững cho lắm nhưng ý tôi muốn giải quyết cho xong thôi. Nếu ở đây mà có bằng chứng hiển nhiên thì tôi đâu muốn có chuyện phiền phức này.”
Mason nói, “Điểm chủ yếu là như thế. Mặt khác, nếu phong bì kia không phải là một bằng chứng cụ thể mà là một món tài sản lớn, thì tôi yêu cầu được đảm bảo rằng không ai đem nó ra khỏi nơi này.”
Sidney Boom nói, “Làm sao tôi biết được phong bì kia, cái phong bì chỉ được mở ra nếu ông Davenport chết đi, lại chẳng phải là chúc thư? Hay đó có thể là giấy chứng từ chuyển nhượng mà ông ấy muốn giao cho cô thư ký.”
“Biết đâu đó là tiền mặt cũng nên.”
“Thôi, cách tốt nhất để rõ bên trong có gì là cứ việc mở phong bì ra xem.”
Mason nói, “Mặt khác, biết đâu có một cái gì đó rất ư hệ trọng đối với toàn bộ di sản, cần phải được giữ kín.”
“Nhưng ông ấy trao cho cô thư ký cái thư kia mà?”
“Thì đó là chỗ tế nhị đấy. Ông ấy đâu có cho. Ông ấy chỉ giao cô thư ký giữ thôi. Ông ta không cho lá thư ấy. Cô ta cũng đã xác nhận rằng bất cứ lúc nào ông ấy cần lấy nó thì cô ta phải trao lại ngay cơ mà.”
Mabel Norge nói, “Tôi không có ý nói như vậy. Tôi muốn nói rằng ông ấy đã giao cho tôi lá thư để đưa cho nhà chức trách nếu ông ấy chết.”
Mason hỏi, “Ông ấy có nói là đem cho nhà chức trách cái thư đó không?”
“Nó chỉ được mở trong trường hợp ông ấy chết.”
“Ông ấy không nói là cho nhà chức trách cái thư đó chứ?”
“Ấy… tôi cũng chẳng nhớ một cách chính xác những lời ông ấy nói.”
“Đấy đấy.”
Mabel Norge vừa trỏ tay về phía Della Street và nói, “Cô ấy đang ghi kìa. Cô ấy đang ghi hết những điều chúng ta nói.”
Mason nói, “Có gì phản đối không?”
“Tôi không cho rằng làm như vậy là tốt.”
“Tại sao? Cô muốn sửa đổi một số điều chúng ta đang nói, khi cô đã có dịp suy nghĩ rồi sao?”
“Tôi thấy ông đáng sợ thật.”
“Đâu phải chỉ mình cô nghĩ như vậy.”
Viên sĩ quan cảnh sát vẫn khăng khăng.
“Làm thế cũng đâu có gạt đi vấn đề bằng chứng. Tôi không rõ chuyện gì đang xảy ra ở đây, nhưng cô nhân viên này nói rằng có một cái phong bì phải mở ra trong trường hợp ông ấy chết, và trong phong bì ấy có những tin tức có thể dẫn tới…”
“Tới chỗ tóm được kẻ đã phạm tội vào tội mưu sát ông ấy.” Mabel Norge nói bằng giọng cương quyết.
Mason hỏi, “Cô khẳng định rằng ông ấy bị mưu sát.”
“Có thể là như vậy.”
“Nhưng cô không nắm chắc?”
“Tôi cầm chắc một điều là ông ấy đã lường rằng mình có thể bị như vậy.”
“Cô cũng biết rằng vào lúc bấy giờ ông ấy đang được một bác sĩ lo điều trị bệnh, đúng vậy không?”
“Vâng, đúng như vậy.”
“Và cô cũng biết ông ấy được bác sĩ cho biết là tình trạng huyết áp cao và các mạch như thế, thì ông ấy có thể chết bất kỳ lúc nào?”
“Ông ấy không hề tâm sự với tôi về những chuyện riêng tư.”
“Thế ông ấy có tâm sự gì với cô về bà vợ của ông không?”
“Ấy… cũng không hẳn như vậy.”
“Thế cô đâu biết có gì trong lá thư ngoài cách suy diễn thôi?”
“Thì tôi biết điều mà tôi nghĩ là thế nào cũng có trong lá thư ấy. Chúng ta sẽ thấy ngay bây giờ.”
Sidney Boom hỏi, “Lá thư đâu?”
Mabel Norge đáp, “Trong bàn làm việc của tôi. Trong hộp sắt có khóa.”
“Lấy cái hộp ra đây.”
Mason nói, “Khoan. Cách làm việc như thế thật khác thường, và không hợp với luật pháp chút nào cả.”
Viên sĩ quan cảnh sát nói, “Tôi làm thế là để cầu may thôi. Tôi có ý định canh chừng không cho cô này lấy bất cứ đồ vật gì ở bàn làm việc ngoài cái thư đó ra. Nhưng quả nếu trong hộp ấy có một cái thư thì tôi muốn bảo đảm là không có chuyện gì xảy ra làm hư hỏng cái thư đó. Tôi không biết ông là ai, nhưng rõ ràng ông là đại diện cho bà quả phụ. Ông ra tay quá nhanh đấy.”
Môi nở nụ cười dễ có cảm tình, Mason nói, “Và có lẽ tôi đã làm được một việc tốt. Tôi đang gìn giữ cả một gia sản mà.”
“Ông muốn nói gì?”
Mason gật đầu hướng về phía Mabel Norge; lúc này cô ta đang loay hoay mở ngăn hộc bên phải. Ông hỏi, “Hồi nãy cô định làm gì ở đây?”
Sidney Boom nói, “Cô ta làm việc ở đây cơ mà.”
“Làm việc ban đêm à?”
Viên sĩ quan cau mày, “Này, cô cho biết là lúc nãy cô làm gì ở đây vậy?”
Mabel Norge đáp, “Tôi… tôi đang lái xe tạt qua thì trông thấy nhà có ánh đèn.”
Mason hỏi, “Cô lái xe đi đâu thế?”
“Chỉ đi tạt qua thôi.”
Mason nhắc nhở, “Đây là con đường cụt nhé.”
“Ấy, tôi… phải rồi, tôi chỉ lái xe tạt qua thôi. Tôi…”
“Cô có vào trong này không?”
Cô gái sừng sộ, “Mắc mớ gì tới ông?”
Mason nói, “Thấy chưa. Cô này đã có mặt ở đây. Cô ta việc gì mà phải có mặt ở đây? Cô đâu có công việc gì để làm vào cái giờ đó. Lúc ấy cô làm gì nào?”
Viên sĩ quan nói, “Kìa kìa, chuyện lại rối tùm lum rồi. Tôi không muốn chen vào ba cái chuyện lôi thôi này đâu nhé.”
Mason nói, “Chính ông sắp gặp chuyện lôi thôi đấy. Nếu ông cậy quyền mà đụng chạm vào bất cứ đồ vật gì ở trong ngôi nhà này, ông ắt bị chuyện lôi thôi ngay.”
Sidney Boom đến đứng cạnh Mabel Norge, nói, “Tôi không muốn cô đụng chạm vào các đồ vật gì cả, trừ cái thư đó thôi.”
“Nào, thư đâu?”
Mabel Norge nói, “Trong cái hộp có khóa nơi ngăn kéo này.”
“Được rồi, bây giờ thì tôi sẽ đích thân lấy cái thư ấy ra.”
Mabel Norge vừa mở ngăn kéo vừa nói, “Hộp bị khóa rồi!”
Sidney Boom nâng hộp lên, nói, “Đâu có bị khóa.”
“Tôi tưởng thế chứ. Đáng lý ra thì phải khóa cơ.”
Boom mở cái hộp, nhìn phong bì. Mason nói, “Tôi khuyên ông chớ đụng vào phong bì.”
Boom nhìn cái phong bì trong hộp, sau đó thong thả đóng nắp lại.
“Theo ý ông thì nên xử lý cái của nợ này như thế nào?”
Mason đáp, “Thì cứ đem nộp cho tòa, coi như đó là một phần trong toàn bộ di sản.”
“Sau này có chuyện gì rắc rối không?”
“Sao mà tránh khỏi.”
“Theo ông thì tôi cần phải…?”
Mason đáp, “Đúng như vậy rồi. Khóa hộp lại, đem lên tòa. Yêu cầu ngài thẩm phán ở tòa chứng thực di chúc, rồi mở nó ra trước sự chứng kiến của các nhân viên định thuế thừa kế.”
Mabel Norge giậm chân, nước mắt chảy, tỏ vẻ thất vọng, “Cứ mở đi, rõ khổ.”
Mắt của Mason không rời mắt của viên sĩ quan cảnh sát. Ông nói, “Giả như trong hộp này đầy ắp tiền, có thể toàn là giấy bạc một ngàn đô-la ông Davenport muốn dành biếu cô thư ký riêng trong trường hợp ông ta chết, thì tính sao? Ông có muốn chịu trách nhiệm về việc mở phong bì, yêu cầu tòa xác thực di chúc và một nhân viên định thuế thừa kế nào đấy sẽ tin lời ông khai báo về số tiền ở trong đó không? Giả như họ tuyên bố là ông đã lấy mất hai tờ một ngàn đô-la thì sao? Ông cũng thừa biết luật pháp quy định như thế nào đối với tủ sắt an toàn rồi. Ông không dám mở cái tủ sắt đó đâu. Ngay cả ngân hàng cũng chả dám làm chuyện ấy nữa kia. Cái hộp này cần phải được niêm phong cho đến khi mở ra có sự chứng kiến của nhân viên định thuế thừa kế.”
Sidney Boom quay sang Mabel Norge, “Đúng như thế đấy.”
Cô gái sừng sộ, “Ông quẫn trí rồi!”
Khuôn mặt của nhân viên cảnh sát đỏ ửng. Mabel Norge tấn công tiếp, “Tôi báo cho ông ta biết là vợ của ông ấy có âm mưu giết chồng. Ông ta đã biết chuyện này. Trong phong bì có bằng chứng cho thấy là bà còn liên quan tới một vụ khác nữa.”
Mason nhún vai, “Thưa ông sĩ quan. Đây là trách nhiệm của ông. Tôi nghĩ rằng ông phải giữ lời cam kết.”
Viên cảnh sát do dự. Mabel Norge tiếp, “Cứ việc mở nó ra. Ông không thấy là ông này chỉ là có việc nói không thôi, ông ta cố tìm cách để cản không cho ông nắm lấy bằng chứng mà ông Davenport rất muốn ông nắm lấy sao?”
Viên sĩ quan cảnh sát nhặt phong bì lên.
Mason nói, “Khoan đã. Ông đừng nghe tôi góp ý kiến về vấn đề luật pháp. Ông cũng đừng nghe cô này. Ông có sẵn biện lý tại địa phương đây. Hãy điện thoại cho ông ấy. Hỏi ý kiến xem cần xử lý vụ này như thế nào?”
Boom nói, “Ý kiến hay đấy.”
Ông ta bước tới máy điện thoại. Mason nói, “Tôi đề nghị là phong bì này chỉ được mở ra trước sự chứng kiến của nhân viên định thuế thừa kế. Tôi cũng đề nghị như vậy nếu ông có ý ngờ e sẽ có chuyện lôi thôi rắc rối xảy ra, và các giấy tờ trong phong bì dùng làm bằng chứng này phải được bảo quản theo luật pháp quy định.”
“Ông bảo sao, bảo quản theo luật pháp?”
Mason nói, “Phong bì ấy ở trong một cái hộp có khóa. Hãy lấy nó ra, đem bỏ vào tủ sắt an toàn. Nhưng ông phải rất thận trọng, đừng để bất cứ ai đụng tới làm hỏng phong bì đấy.”
Mabel Norge nói, “Đừng để ông này dụ ông quên cả việc thi hành trách nhiệm. Tôi không thích đôi co vô ích. Theo ý tôi, tôi rất tán thành việc ông lấy phong bì đem giao nộp cho biện lý quận, miễn sao thận trọng không để cho kẻ vô thẩm quyền mở ra là được.”
Boom nói, “Được rồi, để tôi nói chuyện với biện lý.”
Viên sĩ quan cảnh sát nhấc máy điện thoại, quay số và sau đó nói chuyện với viên biện lý.
“Tôi là Sidney Boom, sĩ quan cảnh sát quận. Tôi hiện đang làm việc tại Paradise. Xin lỗi đã làm phiền ông vào giờ đêm hôm như thế này, nhưng hiện tôi đang gặp một vấn đề gay go. Tôi đang bàn chuyện với một luật sư có mặt ở đây là đại diện cho một di sản – ông Ed Davenport đã chết. Tại văn phòng của ông Ed Davenport hiện có một cái thư, thư này chỉ được phép mở trong trường hợp ông ấy chết. Ông luật sư đại diện cho bà quả phụ nói rằng không ai được quyền mở thư ấy trừ phi có sự chứng kiến của một nhân viên định thuế thừa kế… Không ạ, cái thư đó không ghi nơi gửi đến là Cục cảnh sát. Ngoài bì chỉ vỏn vẹn một câu: ‘Chỉ được mở trong trường hợp tôi chết, và các giấy tờ bên trong phải được giao cho nhà chức trách’.”
Mabel Norge nói, “Hãy nói với ngài biện lý rằng ông ấy đã trao cái thư đó cho tôi và tôi hiện đang làm chủ nó.”
Mason nói, “Cô đâu có làm chủ cái thư đó. Nó chỉ ở trong bàn làm việc của cô thôi. Mà thời gian làm việc của cô đã chấm dứt rồi.”
Mabel quắc mắt, giận dữ, “Xin ông im đi cho! Tôi căm ông lắm rồi!”
Mason nói với cô gái, “Có lẽ đúng đấy.”
Mabel Norge nói với Boom, “Ông hãy nói với ngài biện lý rằng cái cô có mặt ở đây đang ghi chép tất cả những lời phát biểu.”
Boom bảo cô gái, “Suỵt! Để tôi nghe nào.”
Boom nghe điện thoại một lúc, sau đấy nói, “Luật sư đây là Perry Mason… Ồ, ông có nghe tiếng ông này?… Ấy, kể ra nghe cũng khá quen thuộc… Đúng như vậy. Ông này nói là không phản đối việc cất giữ phong bì trong hộp có khóa kia và xin giao cho ngài bảo quản trước sự chứng kiến của tòa án và nhân viên ấn định thuế, ông ta tin rằng trong đó có tiền… Vâng.”
Boom gác máy. Mason nói, “Ông Boom à, tất nhiên là chúng tôi muốn yêu cầu cá nhân ông lẫn cả về mặt chính quyền chịu trách nhiệm về chuyện này.”
“Được. Tôi xin chịu trách nhiệm.”
“Ông mang cái hộp về và giao nộp cho ngài biện lý.”
“Tôi xin lãnh trách nhiệm giao cái hộp đến tận tay ngài biện lý.”
“Ông có ý định giao nộp ngay?”
“Không phải ngay tức khắc. Tôi còn có việc cần giải quyết ở ngoài này. Mai tôi sẽ giao nộp cái hộp cho ông ấy. Ông ấy bảo là ngày mai thì đồng ý. Nhưng giờ tôi phải lo bảo quản để tránh xảy ra chuyện gì rầy rà lúc này.”
Mason nói, “Vậy thì tốt. Tôi không tán thành việc ông giữ cái hộp, nhưng nếu ông vẫn cứ đòi giữ cho được thì tôi mong ông hãy quan tâm không để cho một ai mở.”
Boom nói, “Vậy thì để tôi mang nó theo. Bây giờ để cho rõ ràng ngay chính, tôi xin ông một tấm danh thiếp, nhỡ ông không phải là người đại diện chính thức của bà quả phụ thì sao… Ủa, mà ông là luật sư, khỏi phải nhắc đến lĩnh vực chuyên môn giùm ông làm gì.”
Mason cất giọng vui vẻ, “Đúng thôi, khỏi cần phải làm thế. Tấm danh thiếp? Có đây!”
Viên sĩ quan cảnh sát kẹp nách cái hộp, quay trở ra xe.
Mabel Norge nói, “Tôi xin đi với ông.”
Chờ cho tới lúc cánh cửa đóng mạnh lại rồi, Della Street mới ngẩng lên nhìn Mason. Ông nói, “Nhấc ấm trà xuống. Nhân đây cô có thể lấy một mảnh vải lau nhẹ để bảo đảm là sẽ không còn lưu lại một dấu vân tay nào ở đấy, cũng cần làm bóng các nút lò luôn nhé. Những cái đó họ lại nghĩ tới trước khi tiến hành điều tra kỹ đấy.”
Della Street bước lẹ vào bếp. Một lát sau, nàng quay trở ra và nói, “Xong xuôi cả rồi.”
“Tốt nhé, chúng ta hãy tắt hết đèn và để y như thế.”
“Ông chủ à, cô thư ký lúc nãy có ý định dụ ông Sidney Boom mở phong thư đấy.”
Mason đáp, “Chưa đâu. Della này, vấn đề chủ yếu của chúng ta là giữ y nguyên phong bì như thế chờ tới lúc keo khô hẳn. Nếu họ sờ đến hơi sớm thì sẽ kịp nhận ra là phong bì đã bị hơ nóng để mở rồi dán lại liền ngay.”
“Ấy, cô ta sẽ dụ gã cảnh sát này mở phong bì đấy.”
“Chưa được. Phải chờ gã gặp ông biện lý quận cái đã.”
“Ông tin chắc đấy chứ?”
Bỗng chuông điện thoại reo lên phá bầu không khí yên lặng. Mason đảo mắt nhìn Della Street.
Điện thoại reo lên lần thứ hai.
Della Street hỏi, “Nghe chứ?”
Mason khẽ gật đầu, “Cô nghe đi. Cứ tỏ ra bình thường thản nhiên thôi. Xem ai gọi rồi mới trả lời nhé.”
Della Street nhấc máy, gọi “A lô”.
Im lặng một lúc, nàng khẽ đáp: “Vâng”. Che tay trên đầu ông nói, nàng nói với Mason, “Ở Bakersfield gọi, chỗ trạm điện thoại ngoài. Họ đang bỏ xu vào máy đấy.”
Mason hỏi, “Nghe xưng tên họ gì không?”
“Chỉ nghe Bakersfield gọi theo hệ thống tiếp liên.”
Bỗng Della Street bỏ tay khỏi đầu ống nói và gọi, “A lô.”
Thoáng giây lát, khuôn mặt nàng hiện vẻ sửng sốt. Nàng chụp lẹ cây bút chì, ghi thật vội trên giấy. Đưa mắt nhìn về phía Mason, đôi mắt đầy vẻ ngạc nhiên, nàng nói, “A lô. A lô… A lô!… Tổng đài, đầu dây hình như bị mất liên lạc rồi.”
Tôi đang nói chuyện với Bakersfield đây mà… Cô chắc chắn như vậy chứ?
Nàng đặt nhẹ ông tay vào máy. Mason hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
“Tôi vừa lên tiếng “A lô” thì nghe giọng đàn ông ở đầu dây. Điện thoại gọi theo hệ thống tiếp liên tại trạm điện thoại ở Bakersfield. Người này nói: “Bãi mô-tô Thái Bình Dương. Sau Bernardino, phòng 13” rồi dứt hẳn. Tôi chắc là mình bị họ bỏ lửng thôi. Tổng đài cho biết là đầu gọi tự ý gác máy.”
“Đồ quỷ! Gã không xưng tên họ gì cả sao?”
“Không ạ. Chỉ nghe giọng đàn ông.”
“Gọi bằng hệ thông tiếp liên?”
“Vâng.”
Mason đứng bật dậy khỏi ghế, rảo bước trên sàn nhà.
Della Street đưa mắt nhìn ông tỏ vẻ lo. Nàng hỏi, “Nếu Mabel Norge xúi được gã Sidney Boom ấy mở phong thư thì có gì rắc rối không ạ?”
Mason nói, “Lúc ấy đành chịu vậy. Phong bì đã bị mở thì người ta sẽ cho rằng tôi đã lấy mất những tờ khai bằng chứng, kể ra những chuyện nghi ngờ, kệt luận và quy kết tội vì tin rằng tôi đã hủy chúng và thay vào đó bằng những tờ giấy trắng.”
Della Street hỏi, “Có ai có khả năng biết được phong thư đã bị mở bằng hơi nóng?”
“Tất nhiên là có. Chỉ cần phân tích chất keo trên nắp bì sẽ thấy đó là keo lọ, không phải là chất keo đặc biệt dùng trên nắp phong bì để tẩm ướt khi cần dán lại.”
“Lúc đó thì sao?”
“Tức khắc họ sẽ tố cáo. Chúng ta sẽ phải trình diện tại một địa phương chẳng ai quen biết mà còn bị tình nghi, chính quyền địa phương có thể áp dụng biện pháp đối với hành vi bị tình nghi.”
Della Street mỉm cười, “Chúng ta bị bắt là chuyện nghe phiền quá.”
Mason nói, “Vậy mà chính tôi có thể bị đấy.”
“Vậy có nên…?”
Điện thoại lại reo. Mason gật đầu ra hiệu cho Della Street. Nàng nhấc ống nghe, “Nghe đây… Vâng…”
Đưa bàn tay che ông nói, nàng nói với Mason, “Thưa ông, xin mời ông nghe điện thoại ở Fresno gọi.”
“Xem ai gọi đấy.”
“Ai đấy ạ?” Della Street hỏi. Nàng nhìn lên “Bà Davenport.”
Mason gật đầu. Della Street trao máy cho ông. Mason nói, “Tôi nghe đây.”
“Luật sư Perry Mason phải không ạ?”
“Vâng, tôi đây.”
“Xin chờ. Có bà Davenport gọi.”
Một lúc sau, Mason nghe đúng giọng đều đều không có âm sắc của Myrna Davenport, “Thưa ông Mason, thật là bị nhầm kinh khủng. Ông ấy mất rồi.”
“Ai mất?”
“Nhà tôi.”
“Bà Sara Ansel đã cho tôi hay chuyện này. Ông ấy mất vào lúc chiều nay và… Khoan, có phải bà định nói như vậy không?”
“Không, ông ấy đã mất. Ông ấy đã biến đi đâu mất thật sự.”
“Bà muốn nói là ông ấy không chết?”
“Đúng vậy, thưa ông, ý tôi là như vậy. Ông ấy không chết. Chẳng bị ai giết cả. Chỉ biến đi đâu mất thôi.”
“Đi đâu?”
“Tôi không biết ạ.”
“Đi bao giờ vậy?”
“Không rõ lúc nào. Leo lên xe rồi biến mất luôn.”
Cố kìm hãm cơn bực. Mason nói, “Chuyện vớ vẩn gì thế này? Bà cố tình trì hoãn chuyện gì đây? Bà Sara Ansel rõ ràng đã nói với tôi rằng Ed Davenport đã chết. Chuyện này xảy ra vào khoảng ba giờ chiều. Bà cho biết ông ấy đã chết trước đó khoảng mười lăm phút.”
“Chúng tôi cũng có nghĩ như vậy thật. Chính bác sĩ đã cho biết như thế. Chúng tôi ai cũng nghĩ là ông ấy đã chết rồi, nhưng thì ra là ông ấy chỉ hôn mê. Chúng tôi không biết gặp ông ở đâu, mãi sau mới tìm ra số điện thoại này, từ đó đến giờ chúng tôi cuống cả lên.”
“Bà đang ở đâu vậy?”
“Chúng tôi đang ở tại một cửa hàng giải khát, nhưng sắp đi ngay thôi. Chúng tôi sẽ quay trở về Los Angeles.”
Mason nói, “Đừng trở lại Los Angeles. Hãy đón chuyến máy bay thuận tiện sớm nhất, hoặc xe lửa xe buýt gì đó, đi San Francisco ngay bằng bất cứ phương tiện gì miễn kiếm được sớm nhất thôi. Hãy tới phi cảng San Francisco. Đi thẳng lên tầng trên và ngồi chờ ở đó nhé. Bà đã nắm rõ lời dặn chưa?”
“Vâng.”
“Bà làm đúng như thế chứ?”
“Tôi cần hỏi ý kiến của bà cô Ansel đã.”
“Bà ấy đang ở đâu?”
“Có đây.”
“Thế thì hỏi bà ấy đi.” Mason bực mình nói.
Ông cầm máy một lúc, biết Della Street đang nhìn mình bằng ánh mắt lo lắng. Liền đó, ông nghe tiếng của Myrna, “Được rồi. Chúng tôi sẽ làm theo lời ông dặn.”
“Đừng nói với ai về chuyện này cả. Bà rõ chưa? Bất cứ là người nào.”
“Tôi rõ, nhưng tôi không hiểu tại sao lại phải như vậy.”
“Đừng để ý tới điều đó. Hãy cứ làm theo lời tôi dặn thôi.”
Mason gác máy. Ông giận dữ bước tới ổ bật đèn.
“Chuyện gì vậy?” Della Street lo lắng hỏi.
Mason đáp, “Rõ là chúng ta bỗng trở thành nạn nhân của một trò bịp tuyệt xảo.”
Della Street hỏi, “Vậy là Ed Davenport không chết?”
“Theo báo cáo mới nhất thì ông ấy còn tươi rói và biến đi đâu mất… Có lẽ đang quay về đây, hay có lẽ chính ông ta là người ở Bakersfield gọi về đây để dặn dò chuyện mật gì đấy.”
“Vậy tư cách pháp nhân của ông bây giờ là thế nào?”
“Là vai trò của người coi như có tội đối với một tài sản chưa phải là di sản, đã lục soát tài sản của một kẻ “chết” trong khi người đó vẫn còn “sống”.”
Della Street ngẫm nghĩ một lúc rồi nàng bước vào phòng bếp để kiểm tra xem các đồ vật đã được để lại chỗ cũ chưa và xóa sạch các dấu tay cùng tắt đèn. Mason đón cô ở cửa trước, “Chúng ta đi thôi, Della.”
“Đi đâu?”
“Quay trở lại Chico, trả xe ở đấy và đón phương tiện nào sớm nhất có thể được để đi khỏi nơi này. Chúng ta sẽ ghé tại đâu đó một lát để điện thoại gọi văn phòng thám tử Drake và bảo Paul Drake phái hai nhân viên đặc trách bãi xe Thái Bình Dương tại San Bernardino, theo dõi phòng trọ số 13, những người này phải báo cáo cho anh ta khi phòng trọ ấy có người thuê, cho biết ai thuê, và canh chừng toàn thể khu ấy. Chúng ta cũng yêu cầu Paul Drake theo dõi Ed Davenport. Đi thôi, Della.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.