Trước lúc mặt trời đứng bóng một ít, Della Street vào nói với Mason:
– Bà George L. Dangerfield đang ở phòng chờ. Bà ta khẩn thiết xin gặp ông về một vấn đề không muốn trao đổi với ai khác ngoài ông.
– Tôi nghĩ Allgood phải có nhiệm vụ báo trước cho tôi biết chuyện bà ta đến gặp tôi – Mason cau mày nói.
– Ông có cần tôi gọi điện cho ông ta không?
Mason đồng ý và một lát sau, ông cầm lấy ống nói từ tay cô thư ký. Giọng nói của Allgood có vẻ lo âu.
– Thưa ông Mason, cô thư ký của ông cho tôi biết ông muốn nói chuyện với tôi.
– Đúng, vẫn về vụ đó thôi. Ông đã biết chuyện về Milter chưa?
– Rồi, cảnh sát gọi điện hỏi tôi… Vì họ tìm hiểu về cái chết của Milter, tôi chỉ cho họ biết những chi tiết thật cần thiết thôi.
– Biết rồi, tôi có mặt tại đó khi họ hỏi ông. Ông đã xử sự đúng. Thế chắc ông cũng biết chuyện cô thư ký của ông nghe được câu chuyện giữa tôi và ông rồi ngay đêm qua đến gặp Milter chứ?
– Vâng, tôi đã được biết có chuyện gì dằn vặt cô ta sáng nay. Cuối cùng sau nửa giờ, cô ta đã kể hết cho tôi. Tôi dự định gọi điện để xin gặp ông nhưng tôi không muốn nói chuyện với ông ở văn phòng.
– Tôi đã thỏa thuận ông sẽ báo cho tôi biết khi nào bà Dangerfield đến tìm tôi.
– Vâng, tôi vẫn nhớ đến chuyện đó.
– Phiền một nỗi bà ta đương ngồi chờ tôi ở phòng đợi đấy.
– Thật sao? Tôi không biết ai đã nói với bà ta về ông. Không phải tôi.
– Có thể là cô thư ký của ông?
– Không, chắc chắn là không phải. Cô gái đó vừa qua thú nhận với tôi. Tôi không thể nói rõ chi tiết qua điện thoại, tôi muốn gặp ông.
– Đồng ý. Ông có thể đến ngay được không?
– Vâng. Sau nửa giờ tôi sẽ có mặt ở văn phòng của ông.
– Thế thì tốt lắm. Tôi chờ đấy.
Mason cúp máy và nói với Della Street:
– Allgood cho biết không phải ông ta nói với bà Dangerfield về tôi. Cô cho bà ta thử vào xem bà ta nói gì. Della, trông bà ta thế nào?
– Bà ta có vẻ giữ gìn nhan sắc tợn, nom chưa đến năm mươi. Người mảnh khảnh, nước da nâu, chải chuốt, đôi mắt đen.
– Mấy chuyện này hay đấy. Dẫn bà ta vào.
Người phụ nữ đi vào đúng với lời mô tả của Della Street. Bà ta nồng nhiệt bắt tay luật sư.
– Tôi không biết phải cám ơn ông như thế nào khi ông có nhã ý tiếp tôi. Tôi biết ông rất bận, muốn gặp ông phải có hẹn trước. Nhưng việc tôi đến đây về một việc đặc biệt quan trọng và – bà ta nói thêm sau khi liếc nhanh về phía Della Street – có tính chất riêng tư.
– Thưa bà Dangerfield, mời bà ngồi xuống – Mason bình thản đáp lại – Tôi không có gì phải giấu cô Street vì cô là thư ký của tôi. Della, nhờ cô ghi lại những lời của bà Dangerfield. Càng ngày trí nhớ của tôi càng kém.
Bà Dangerfield vui vẻ chấp nhận lời giải thích đó:
– Vâng, đúng như vậy. Tôi cũng hiểu một luật sư luôn luôn bận rộn công việc, không thể làm khác được. Sở dĩ tôi nói chuyện này vô cùng tế nhị vì nó có liên quan đến hạnh phúc của nhiều người.
– Bà Dangerfield, có phải bà có ý định nhờ tôi giúp bà… Bởi vì trong trường hợp như vậy, tôi cần phải báo trước để bà biết rằng…
– Không, không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nói với ông về một chuyện ông đang làm cho người khác.
Mason giơ tay mời bà ta ngồi, mời thuốc và bật lửa.
– Thưa ông Mason – bà ta nói sau khi thở ra một làn khói thuốc – ông đang nhận việc của ông Witherspoon phải không?
– Ai đã nói với bà như vậy?
– Thực sự có đúng không?
– Bà chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Bà Dangerfield lại thở ra một làn khói nữa, chăm chú nhìn Mason rồi bật cười.
– Tôi biết mình không đủ tầm cỡ địch nổi một luật sư. Tôi xin nói thẳng ra trước vậy. Như tôi đã cho cô thư ký biết, tôi là vợ ông George L. Dangerfield. Nhưng không phải tôi luôn luôn mang cái tên đó.
Thái độ im lặng của Mason là sự mời mọc tiếp tục nên người phụ nữ nói thêm.
– Trước kia tôi là bà Đavid Latwell.
– Xin mời bà tiếp tục – Mason nói không đổi giọng.
– Chuyện đó không làm ông ngạc nhiên lắm sao? – bà ta hơi có vẻ mếch lòng.
– Một người luật sư rất ít khi ngạc nhiên… ngay cả khi cần phải ngạc nhiên.
– Vâng. Như vậy tôi đã cho ông biết trước kia tôi là vợ của David Latwell. Chồng tôi bị ám hại bởi Horace Adams là người cùng cộng tác với chồng tôi trong công việc làm ăn ở Winterburg.
– Vụ mưu sát xảy ra từ hồi nào?
– Vào tháng giêng năm 1936.
– Thế số phận Adams ra sao?
– Ông không biết thật sao?
– Thế bà đến đây nhằm mục đích cho tôi tin tức hay dò hỏi tin tức ở tôi?
Bà ta ngần ngừ một lát rồi thú nhận:
– Nhằm cả hai.
– Bà nghĩ thế nào nếu bà chịu đổi ý định một chút, chỉ nên cho tôi biết tin thôi?
Bà mỉm cười:
– Vụ giết người xảy ra vào tháng giêng năm 1936 và đến tháng năm năm sau thì Horace Adams bị treo cổ.
Horace có người vợ là Sarah và cậu con trai là Marvin khoảng ba tuổi khi bố bị xử giảo. Tôi tin bà Sarah không bao giờ có thiện cảm với tôi. Bà ta chỉ nghĩ tới chồng và con trai. Còn tôi, tôi không có quan điểm như vậy vì tôi không có con và lại… cũng có thể gọi là đẹp. Buổi tối tôi ưa đi chơi và vui đùa thỏa thích. Bà Sarah thường chỉ trích tôi. Chuyện này đã xảy ra cách đây hai mươi năm và từ đó đến nay phong tục tập quán đã có nhiều thay đổi. Tôi phải trình bày với ông như vậy để ông thấy giữa Sarah và tôi có nhiều quan điểm bất đồng mặc dù hai ông chồng cùng cộng tác với nhau và bề ngoài người ta tưởng mối quan hệ của chúng tôi đều tốt đẹp.
– Các ông chồng có biết chuyện hai bà không hợp nhau không?
– Không, trời à! Chuyện tế nhị quá, đàn ông làm sao biết được. Không biết phải nói với ông làm sao đây? Chỉ là Sarah hơi nhướng mày khi nhìn cái váy ngắn của tôi, hay tỏ ra không vui khi chồng bà ta nói trước mặt bà là tôi càng lúc càng trông như càng trẻ ra. Mấy cái chuyện đó, đàn ông không thấy được, nhưng đàn bà thì hiểu ngay.
– Hiểu rồi – Mason nói – Cả hai bà đều không ưa nhau. Rồi sau nữa?
– Không, chính Sarah mới không ưa tôi. Còn tôi, tôi không hài lòng về bà ta, thế thôi. Nói gọn lại, cuối cùng vụ giết người xảy ra và tôi không bao giờ tha thứ cho Adams về những chuyện ông ta khai để đánh lạc hướng cảnh sát.
– Những chuyện gì vậy?
– Ông ta đã giết David, vùi xác dưới tầng hầm của xí nghiệp và trát xi măng lên trên. Còn tôi, tôi chỉ được biết tự nhiên David mất tích. Horace gọi điện cho tôi biết chồng tôi phải đi Reno để xin bằng phát minh vì cả hai đều phải lo ngại về vấn đề này. Chồng tôi khi đến nơi, biết là phải ở lại bao lâu, thì sẽ viết thư cho tôi biết.
– Thế việc chồng bà đi Reno (Reno là thủ đô của những cặp vợ chồng ly dị nhau – ND) không gợi cho bà sự lo ngại nào à?
– Xin nói thực với ông là tôi cũng có lo ngại.
– Tại sao? Vì ông mê người khác ư?
– Không… không đúng như vậy. Nhưng chắc ông hiểu chúng tôi không có con và tôi yêu chồng tôi. Thưa ông Mason, tôi yêu chồng tôi vô cùng. Bây giờ đã có tuổi, tôi mới hiểu tình yêu không phải là tất cả của cuộc đời, nhưng vào hồi đó tôi lại nghĩ khác, tôi thật trẻ, thật hấp dẫn để buộc chân chồng tôi. Nhưng Sarah có con và đó là điều khác nhau giữa hai chúng tôi.
– Xin bà tiếp tục – Mason nói.
– Thưa ông Mason, tôi thú nhận việc đó làm tôi hơi ghen với Sarah. Bà ta không cần thiết phải canh phòng ông chồng như tôi.
– Tuy nhiên ông ta cũng đã có lúc khen bà mỗi ngày lại trẻ thêm ra cơ mà.
– Ồ, vâng – bà hăng hái nói – Horace biết thưởng thức vẻ đẹp của phụ nữ cũng như thưởng thức một phong cảnh đẹp, nhưng rồi đôi mắt ông ta lại nhanh chóng quay về bà vợ với lòng hân hoan và hạnh phúc vô bờ.
– Thế chồng bà có nhìn bà như vậy không?
– Không. Tôi không hề có ảo tưởng chút nào. Nếu David gặp một phụ nữ khác hấp dẫn hơn tôi, ông ta không ngần ngại gì mà không theo đuổi. Do vậy tôi luôn phải đấu tranh với những kẻ tình địch bất ngờ. Nhưng ông không thể hiểu được một cuộc giành giật như vậy cuối cùng cũng sẽ đem lại những sự phiền muộn.
– Bà đau khổ đến nỗi khi biết được ông nhà đi Reno…
– Vâng, tôi thật là sợ hãi. Khi không được tin tức gì của chồng tôi, tôi gọi điện cho một người bạn ở Reno để nhờ tìm kiếm David trong các khách sạn và xem ông ta có… ở một mình không.
– Thật sao!
– Khi được biết chồng tôi không ở nơi nào trong thành phố Reno, tôi tìm Horace để hỏi cho ra nhẽ. Ông ta tỏ ra cực kỳ bối rối, thoái thác không muốn gặp tôi nên tôi nghi ngờ ông ta che giấu tôi một điều gì. Cuối cùng ông ta cho biết chồng tôi đi theo một phụ nữ khác.
– Người đó thế nào?
– Tên người phụ nữ đó không có ý nghĩa gì ở đây.
– Tại sao?
– Vì thực tế David không đi với người đó, ông thấy chưa! Đó chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của Horace để che giấu tội ác của ông ta.
– Thế bây giờ người phụ nữ đó ở đâu?
– Trời đất! Người ấy đối với tôi chỉ là một cái tên mà thôi. Tất nhiên tôi định thuê người tìm kiếm người phụ nữ đó nếu như thái độ của Horace không làm cho tôi nghi ngờ và cuối cùng tôi đã báo cho cảnh sát biết. Tôi nghĩ ông ta có thể thoát khỏi án tử hình nếu ông ta khai đúng sự thực.
– Sự thực như thế nào?
– Chắc là hai người có một cuộc đấu khẩu ác liệt về một vấn đề gì đó của xí nghiệp, và Horace đã đánh chết David. Ông ta quá sợ hãi nên đã làm phi tang xác chết và dựng đứng ra chuyện đi Reno.
– Sau bao ngày thì bà nảy ra mối nghi ngờ?
– Ba hay bốn… không, sau năm ngày. Tôi chỉ bắt đầu nghĩ tới khả năng xấu nhất khi được biết chồng tôi không có mặt ở Reno. A! Thưa ông Mason, thật là tàn khốc khi một người yêu chồng như tôi lại được biết rằng chồng mình bị giết! Điều đó làm cho tôi choáng váng đến nỗi không những căm thù Adams mà còn căm thù cả Sarah kể cả đứa con của họ nữa. Trong lòng tôi không hề có một chút thương hại hay khoan hồng họ. Khi mà ông chánh án đọc bản cáo trạng khép tội Horace và tôi được biết Horace sẽ bị treo cổ, trong người tôi bừng lên một niềm vui sướng man rợ. Giá mà tôi được tự tay treo cổ ông ta. Tôi đã tìm cách để nhìn thấy tận mắt buổi xử nhưng không được phép. Tôi muốn kêu lên vào mặt ông ta: “Kẻ giết người!” ngay khi cửa sập mở ra dưới chân ông ta. Tôi không thể tự kiềm chế được nữa…
Mason lắc đầu. Ông ngả mình vào thành ghế, nhắm mắt lại như muốn tập trung ý nghĩ.
– Tôi nói với ông hết mọi chuyện là như vậy – bà Dangerfield tiếp tục – để ông hiểu rõ trạng thái tinh thần của tôi lúc đó. Bây giờ tôi thấy hối hận đã cư xử không đúng với Sarah. Tôi đã ngăn cấm không cho bà ta rút tiền của ông chồng đã đóng góp vào xí nghiệp và tỏ ra tàn tệ với bà ta. Cuối cùng bà phải bỏ trốn cùng với con trai mang theo một ít tiền góp nhặt được. Đã bao nhiêu năm, người ta không được biết sau này bà ta ra sao, vì bà ấy cẩn thận che giấu mọi quá khứ của bà. Sau cùng tôi biết được bà ta đã chết vì làm quá sức để nuôi nấng người con và bà ta luôn nhồi nhét vào đầu người con tin rằng ông bố bị chết trong một tai nạn xe hơi. Bà ta đã chết cách đây vài tháng.
– Làm thế nào bà biết được những điều đó?
– Bởi vì khi được biết một người nào đó đã thuê một thám tử điều tra lại chuyện đó nên tôi đi tìm kiếm Sarah.
– Người đó là ai?
– Tôi không biết. Khi chưa biết Sarah chết, tôi cho rằng đó là bà ta. Người đó ở ngay thành phố El Templo này nhưng tôi chưa biết là ai?
– Thế tại sao bà đến tìm tôi?
– Tôi nghĩ rằng ông biết và biết tại sao người đó làm như vậy.
– Vì lẽ gì bà nghĩ như thế?
– Bởi vì tôi được biết Marvin Adams gần là chồng chưa cưới của Lois Horace Adams và hiện nay ông thường hay lui tới nhà Witherspoon.
– Làm sao bà biết được chuyện đó?
– Một cách thật tình cờ. Thưa ông Mason, xin thú thực với ông như thế này. Tôi đến El Templo bởi vì tôi cho rằng có thể tìm ở nơi đây hãng trinh thám tư mà tay thám tử tư đó làm việc ở đây. Cái tay thám tử này thường báo cáo bằng điện thoại về El Templo. Tôi biết chuyện này nhờ cô trực tổng đài của khách sạn Winterburg nhưng cô ta lại không biết số điện thoại mà tay đó gọi.
– Thế ai đã nói với bà về tôi?
– Bà Burr.
– Bà Burr ư?
– Này ông đừng có giả đò không biết. Ông gặp bà ta ở nhà Witherspoon mà.
– Thế bà quen bà ta à?
– Vâng, tôi quen bà ấy đã nhiều năm nay.
– Quen ở đâu?
– Ở Winterburg, trước bà ấy ở đấy.
Mason mở mắt ra và kéo chiếc bút chì trượt qua các ngón tay.
– Chà, điều đó mới thật là thú vị! Hồi xảy ra vụ giết người, chắc bà ta lúc đó còn bé xíu phải không?
– Đâu có, lúc đó bà ấy cũng phải mười bảy, mười tám tuổi rồi… có thể mười chín ấy chứ. Thế bây giờ, ông đoán bà ta bao nhiêu tuổi?
– Khoảng ba mươi là cùng… và còn bà thì chưa đến bốn mươi đâu.
– Ông thật khéo nịnh đầm. Tôi không cho ông biết tuổi của tôi đâu nhưng còn bà Diana Burr thì hiện nay xem nào… ừ đúng vậy, bà ta ở khoảng ba mươi tám, ba mươi chín gì đấy.
– Thế sau bao nhiêu năm mà hai bà vẫn nhận ra được nhau à?
– Cái gì mà ông gọi là sau bao nhiêu năm?
– Thế bà gặp bà ta lần cuối từ bao giờ?
– À, cách đây gần ba năm.
– Thế bà có quen chồng bà ta không?
Bà Dangerfield lắc đầu:
– Không. Diana Perkins – đó là tên bà ta hồi con gái đấy – có một đời tình ái rất sôi động, mở đầu bằng việc trốn nhà đi theo một tay đã có vợ. Ông Burr chỉ là người chồng cuối của bà ta thôi. Giữa thời gian lấy hai người, bà ta lại quay trở về Winterburg. Cuối cùng bà ta lấy ông Burr ở Californie. Chúng tôi gặp nhau ở ngoài phố và dừng lại nói chuyện một lát.
– Bà ta có nhắc lại với bà về vụ ám sát đó không?
– Không, bà ta thật tế nhị không muốn khơi lại chuyện cũ.
– Thế bà ta có biết Marvin Adams là con trai của người bị treo cổ vì phạm tội giết chồng bà không?
– Chắc là bà ta không biết đâu. Dầu sao bà ta cũng không nói hở một lời nào. Hơn nữa bà ấy mới chỉ đến ở El Templo được hai hay ba tuần và Sarah thì chết trước khi bà ta đến. Tôi có nhắc tên Adams cũng vô ích.
– Thế còn bà cũng không cho bà ta biết chuyện chứ?
– Vâng, tất nhiên là không rồi.
– Được rồi – Mason nói – điều đó giải thích vì sao bà được nghe nói về tôi. Bây giờ bà cho tôi biết tại sao bà lại muốn gặp tôi?
– Tôi… tôi chỉ muốn đỡ vướng víu trong đầu.
– Khoan đã… Bà có biết Milter, cái tay thám tử điều tra vụ này không?
– Tôi có nhìn thấy anh ta hai lần, nhưng anh ta không biết tôi. Nói thực ra tôi cũng không biết rõ về anh ta. Ngay cả nói chuyện với anh ta cũng chưa có lần nào.
– Bà Dangerfield, bà rời El Templo để đến đây lúc mấy giờ?
– Từ sáng nay, lúc tinh sương.
– Thế còn ông Dangerfield đâu?
– Ông ấy vẫn ở El Templo. Tôi có để lại mảnh giấy báo cho chồng tôi biết tôi lấy xe hơi đi suốt ngày. Lúc đó ông ấy còn ngủ. Chồng tôi thích thức khuya và dậy muộn. Điều đó trái hẳn với tôi. Tôi ưa đi dạo lúc trời mới rạng sáng trước khi dùng bữa điểm tâm.
Mason lại ngả người ra đằng sau lần nữa, dựa vào lưng ghế bành và nhắm mắt lại.
– Thế bà có cho người đi tìm chồng bà ở Reno không?
– Chồng tôi? Ồ! Chắc là ông muốn nói về David. Vâng có đấy…
– Người nào đi tìm?
– Một người bạn.
– Thật là câu trả lời mơ hồ. Tôi nhận thấy đây là lần thứ hai bà dùng cái từ này. Tại sao vậy? Khi phải nói rõ người đó là đàn ông hay đàn bà, chắc làm bà bối rối phải không?
– Tôi thực sự không hiểu rõ bạn tôi là đàn ông hay đàn bà thì có lợi ích gì cho câu chuyện.
– Ồ! Tôi chỉ tự hỏi ông Dangerfield, chồng bà hiện nay, có phải là người bạn đó không?
– Tại sao… tại sao…?
– Có phải ông ấy không?
– Ông thực có lối nói khó chịu quá.
– Có phải ông ấy không? – Mason nhắc lại.
Bất ngờ, sự bực tức của bà qua đi và bà cười lớn:
– Vâng. Thưa ông Mason, bây giờ tôi đã hiểu vì sao ông là một luật sư trứ danh rồi. Tôi không muốn nói đến cái chi tiết vì ngại rằng… người ta sẽ suy ra nhiều điều sai lầm.
– Sai? – Mason nhắc lại.
Bà đã lấy lại được bình tĩnh và cười:
– Thưa ông Mason, tôi đã nói là tôi yêu chồng tôi và sợ mất ông ấy đến thế nào rồi. Không phải là mấy chuyện đó dẫn đến việc ngoại tình đâu. Tôi biết George trước khi lấy David và cũng xin thú nhận là anh ta rất si mê tôi. Nhưng lúc tôi gọi điện thoại đến Reno thì anh ta đã hai năm không bước chân đến Winterburg rồi. Tôi chỉ gặp George có hai lần sau khi lấy chồng và chỉ để nói là thôi từ đây chấm dứt mọi điều giữa chúng tôi.
– Chấm dứt mọi điều giữa hai người – Mason lặp lại chầm chậm.
Bà Dangerfield lại có dáng khó chịu nhưng lấy lại được bình tĩnh:
– Thưa ông Mason, tôi không bằng lòng với cách nói của ông, nhưng vì đây là điều ông quan tâm thì tôi xin trả lời: Đúng.
– Khi bà rời El Templo sáng nay thì báo chưa ra phải không? – Mason hỏi không nhíu lông mày.
– Chưa. Tại sao?
– Thật ra bà đến đây để làm gì?
– Tôi đã nói là để cho nhẹ bớt trong lòng. Lương tâm thúc giục tôi đến tìm ông. Tôi còn biết vài điều chưa nói với ai. Chỉ vì không phải là người làm chứng trước tòa nên không ai hỏi tôi về điều ấy cả.
– Chuyện gì thế?
– Chuyện Adams và Latwell gây nhau.
– Bà muốn nói là họ cãi nhau.
– Không, họ đánh nhau.
– Vì chuyện gì?
– Tôi không biết.
– Lúc nào?
– Hôm David bị giết.
– Xin bà tiếp tục.
– Tôi biết là vì ngày hôm đó David thua chạy về nhà, mặt tức giận bừng bừng với vài vết thâm tím. Anh loay hoay trong phòng một lúc rồi lại đi. Tôi chợt nhớ truước khi đi, anh có mở một hộc tủ trong đó vẫn để khẩu súng lục. Súng không còn ở đấy nữa.
– Bà có nói với ai về chuyện này không?
– Chỉ với ông thôi. Ông George cũng không biết.
Trong phòng lặng lẽ một lúc lâu. Mason bận suy nghĩ về những điều bà Dangerfield vừa nói rồi đưa mắt nhìn sang Della Street xem cô có ghi hết không. Người nữ thư ký gật đầu nhẹ.
Bà Dangerfield thì khó chịu vì im lặng quá lâu, lại lên tiếng:
– Thưa, chắc ông thấy rõ tầm quan trọng của việc đó chứ gì? Nếu luật sư biện hộ cho Adams hồi đó, nói thẳng là hai người có tranh chấp và David quay về nhà lấy súng thì Horace được hưởng quyền tự vệ hợp pháp, may ra sẽ được tha bổng, hay nếu không cũng chẳng bị treo cổ.
– Thế bà định làm sao?
– Xin ông hiểu cho. Tôi không có ý để cho mọi người chỉ trích bêu riếu. Nhưng tôi nghĩ là có thể làm một tờ khai, nhờ ông lo. Như thế thì nếu chuyện này được xét lại có thể làm hại đời Marvin thì ông đến gặp cha cô gái đọc tờ khai đó ra, tất nhiên chuyện phải giữ kín.
– Thật là hay. Chuyện này mà vào hai mươi tư giờ trước đây thì làm được nhưng bây giờ thì không được rồi.
– Sao thế?
– Vì bây giờ, dù chúng ta có làm thế nào đi nữa thì vụ án cũ lại có thêm những điều rắc rối mới.
– Chuyện gì đã xảy ra trong hai mươi tư giờ qua. Hay là ông Witherspoon…
– Có chuyện thực… Chuyện xảy ra cho người thám tử tư… Leslie L. Milter.
– Sao?
– Anh ta đã bị giết.
Trong khoảng vài giây hình như bà Dangerfield chưa hiểu ra.
– Tôi đã nói với ông là luật sư… (Bà bỗng giật mình ngừng giữa câu nói, đứng phắt dậy) Ai bị giết?
– Milter.
– Ai giết anh ta?
Mason cầm cây bút chì trên bàn lên:
– Đấy là một vấn đề chắc chắn càng lúc càng trở nên quan trọng. Một vấn đề có thể ảnh hưởng đến mạng sống của nhiều người đấy.