Người Ở Đâu Về
III.
BỘ đội Đức, thuở đó có vô vàn trung sĩ. Chỉ nguyên phù hiệu của họ cũng đủ kết thành sao cho sáng vằng vặc cả vòm trời của một vương quốc phi lí nào nơi âm phủ. Và trong số vô vàn trung sĩ ấy, một phần quan trọng mang họ Snaiđơ. Rồi trong số Snaiđơ ấy co khá nhiều người mang tên là Êlôi. Nhưng lúc chuyện này đang xảy ra chỉ có độc một trung sĩ mang tên họ Snaiđơ Êlôi trú đóng tại vùng Sdôcáchêli, một vùng quê hẻo lánh của nước Hung Gia Lợi. Đất Sdôcáchêli này là một thị trấn nhỏ bé, bán thừa lương địa, bán lâm tuyền. Lúc đó trời đang mùa hè.
Văn phòng của Snaiđơ là một gian chật chội, tường dán giấy vàng. Ngoài cửa phòng có treo một biển nhỏ bằng bìa màu hông trên có ghi hàng chữ mực Tàu: Giấy xuất Viện Trung sĩ Snaiđơ. Bàn giấy được kê cố cho Snaiđơ ngồi làm việc, lưng quay ra cửa sổ. Khi chẳng có chuyện gì làm, chàng đứng lên, ngoảnh đầu lại là tha hồ ngắm nghía con đường nhỏ bụi bậm, bên phía trái thì dẫn đến ngôi làng và bên phía phải thì đưa đi ra vùng rừng, qua các cánh ruộng ngô và vườn mơ. Công việc của chàng không có gì là bận bịu. Bệnh viện chỉ còn lưu lại những người thương tích trầm trọng. Các thương binh khác, những người ai cũng thấy còn chịu đựng nổi sự di chuyển, thì đều đã được di tản rồi, những người còn lết nổi thì được trang bị lại, dẫn đến một trung tâm lựa bệnh. Nên Snaiđơ có quyền bỏ hàng giờ ra ngó qua khung cửa sổ. Trời bên ngoài thì nặng nề, không khí thì ẩm ướt. Phương thuốc công hiệu nhất giúp chịu đựng khí hậu này là rượu mơ vàng nhạt pha vào nước Sen Rượu mơ hơi cay cay, không đắt đỏ là bao, lại thực hạt nên ngon. Và ngồi lì cạnh cửa sổ, hết nhìn đất lại nhìn trời, để nghe mình dần ngấm hơi men, cũng không phải không thú vị. Mà muốn ngà ngà say chẳng phải là chuyện chốc lát đâu. Snaiđơ thường phải chiến đấu cam go mới đạt tới được tình trạng ấy. Ngay vào buổi sáng, lúc còn thanh tâm, cũng cần tới một số lượng rượu mơ nào đó mới đủ đạt tới trạng thái khiến người ta chịu đựng nổi sự trì độn. Snaiđơ có một phương sách riêng; trong ly thứ nhất, chàng chỉ đổ một đốt rượu mơ thôi. Sang ly thứ hai, mức rượu đã được gia tăng. Đến ly thứ ba thì mức rượu lên đúng nửa ly. Ly thứ tư gồm rượu nguyên chất.Về ly thứ năm thì lại rượu một nửa, nước Sen một nửa. Ly thứ sáu giống hệt ly thứ nhì về độ rượu, mức nước. Và đến ly thứ bảy, rượu lại chỉ còn ít, y như ở ly đầu. Không bao giờ, Snaiđơ uống quá bảy ly. Cứ lối mười rưỡi là chàng đã hoàn tất cuộc độc ẩm theo nghi thức ấy rồi. Và, khi đó tinh thần chàng lâm vào một trạng thái được chàng mệnh danh là sáng suốt khủng khiếp. Một niềm hăng say lạnh lùng xâm chiếm toàn thân và chàng cảm thấy thừa sức chịu đựng áp lực làm trì độn của cả một ngày dài. Lối mười một giờ, đúng ra thì là vào mười một giờ mười lăm, thường có vài ba chuyến xuất viện phải ghi chép. Nhưng ngay khi ấy, chàng cũng vẫn còn dư cả gần một giờ để ngắm nghía con đường, con đường mà rất họa hoằn, rất đặc biệt mới có lấy một chiếc xe do những con ngựa gầy giơ xương kéo, phóng như bay về ngôi làng trong bụi bốc thành mây. Hay chàng có thừa thời giờ để bắt ruồi, để theo đuổi những cuộc đàm thoại hóm hỉnh với những thượng cấp vô hình, trong những cuộc đàm thoại này, chàng luôn luôn có những câu đối đáp đã chua cay lại hàm xúc, để sắp xếp lại những hộp mực dấu vứt lê la trên mặt bàn và sửa vị trí của một tài liệu nào đó cho ngay ngắn lại.
Cũng hôm ấy, lối mười rưỡi, bác sĩ Smítsơ đang ở trong phóng hai bệnh nhân ông mới vừa giải phẫu xong ngay buổi sáng. Bên trái là trung úy Môn, hai mười thuộc lòng chữ ấy. Smítsơ liền ghé tai vào miệng bệnh nhân “Bieliôgóocsê”. Bệnh nhân đọc thế. Và tinh thần căng thẳng, Smítsơ lắng tai nghe. Mặc dầu tuyệt không hiểu ý nghĩa chữ này, ông lặng nghe mà lòng vui vui vì thấy rằng chữ đó đẹp, bằng một vẻ đẹp huyền bí. Bốn bề đều vắng lặng. Vị bác sĩ nghe rõ hơi thở của viên đại úy chăm chú nhìn vào tròng mắt trắng của ông và gần như nín hơi chờ đợi chữ “Biêliôgóocsê”. Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, ông thấy chiếc kim giây nhỏ xíu trên mặt đồng hồ đang di chuyển với một tốc độ, theo ông, quá chậm chạp. Năm mươi giây rồi. Tiếng “Biêliôgóocsê” lại vang lên. Với ông thời gian đã trở thành vô cùng tận trước khi năm mươi giây nữa qua hết đi. Có tiếng nhiều xe vào sân. Ngoài hành lang, có tiếng gọi ai ơi ới. Smítsơ sực nhớ rằng viên y sĩ trưởng đã có cho người tới yêu cầu mình thay thế ông ta đi khám các bệnh nhân. Lại một chiếc xe nào nữa vào sân. “Biêliôgóocsê” viên đại úy lên tiếng. Smítsơ tự nhủ: “một lần nữa, mình gắng chờ nghe lần nữa”. Nhưng cánh cửa buồng bị một viên thượng sĩ nóng nảy xô toang. Smítsơ vẫy tay làm hiệu cho hắn im tiếng, mắt vẫn không rời chiếc kim giây. Ông thở phào một hơi dài khi chiếc kim chỉ đúng số ba mươi. Viên đại úy thốt lên: “Biêliôgóocsê”.
– Chuyện gì đó? Smítsơ hỏi.
– Thưa đã tới giờ đi khám bệnh. Viên thượng sĩ đáp.
– Tôi đi liền, Smítsơ bảo.
Ông buông tay áo xuống cho phủ kín mặt đồng hồ đúng lúc kim nhỏ chỉ số hai mươi. Viên đại úy lại nằm bất động. Smítsơ thì vẫn đứng yên, mắt chăm chăm nhìn miệng viên đại úy. Vừa lúc cặp môi bệnh nhân mấp máy, vị bác sĩ cầm cổ ống tay áo nâng lên rồi, thật nhanh, lật cổ ống tay áo giơ đồng hồ lên xem khi thanh âm “Biêliôgóocsê” vang lên. Chiếc kim giây chỉ vừa ngay đúng số mười.
Hôm đó, chẳng có một vụ xuất viện nào để phải vào sổ cả, Snaiđơ chờ tới mức mười một giờ mười lăm rồi bỏ đi kiếm thuốc lá. Chàng dừng bước trước một cửa sổ của hành lang: trong sân có người đang rửa xe của vị y sĩ trưởng. Snaiđơ nghĩ thầm: “Thế là thứ năm rồi”. Bao giờ xe của xếp lớn cũng đem rửa vào thứ năm.
Các trại của bệnh viện xây theo một hình vuông trống ở một phía là phía quay ra sau, về hướng đường xe lửa. Cánh Bắc dành cho khu giải phẫu. Trại giữa là khu quản lí và quang tuyến. Cánh Nam gần nhà bếp, cư xá nhân viên và, ở tít đầu mỏm, là gia cư viên hiệu trưởng cũ của trường học gồm sáu gian nối nhau thông thống. Trước đây, toàn cơ sở này là một trường nông học. Ở phía sau. Trong khu vườn khoảng khoát chạy nối dài ra ngoài bằng phía không xây cất, có dăm phòng tắm, vài chuồng ngựa và vài khoảnh vườn kiểu mẫu góc cạnh được kẻ vạch trên đất thật ngang bằng sổ ngay. Khu có giống cây ăn quả chạy dài ra mãi đến sát đường xe lửa. Thỉnh thoảng, người ta thấy bà hiệu trưởng có thằng bé con trai đeo sát tập cưỡi ngựa ở đó. Thằng con trai, nhóc tì lối sáu tuổi, luôn mồm kêu the thé từ trên lưng chiếc ngựa con của nó. Bà hiệu trưởng còn trẻ và đẹp. Và mới khi thôi giỡn với con ở cuối vườn, bà lại đến phòng quản lí, kêu ca về chuyện có một viên đạn đại bác thối nằm ì cạnh hố phân. Theo bà, viên đạn đại bác ấy là một hiểm họa chết người. Lần nào thì người ta cũng đoan quyết sẽ tìm phương sách nhưng rồi đâu cũng vẫn hoàn đó.
Đứng ở cửa sổ, Snaiđơ nhìn người tài xế của xếp lớn cẩn trọng làm công việc của mình. Dù đã lái và bảo trì chiếc xe từ cả hai năm trường, anh ta vẫn tuân theo từng li từng tí quy tắc bảo trì, theo đó đồ bản chỉ dẫn cách tuần tự tra dầu mỡ phải được trải ra, đặt trên một thùng gỗ trong khi anh tài, mặc quần choàng chéo go, lách tới lách lui giữa các thùng nước và bình dầu mỡ. Xe xếp lớn được bao bên trong bằng da thuộc màu đỏ và thấp lè tè. Snaiđơ bụng dạ bảo: Thứ Năm, thế mà đã thứ Năm rồi. Chẳng là trong thời gian biểu những thói quan của chàng, thứ Năm là ngày rửa xe xếp lớn. Snaiđơ chào một nữ y tá tóc vàng hối hả xẹt qua gần chàng rồi đủng đỉnh đi qua dăm thước ngăn cách chàng với câu lại bộ. Nhưng cửa câu lạc bộ khóa chặt cứng. Có hai cam nhông tiến vào sân, đến đậu cạnh xe xếp lớn. Snaiđơ đứng im tại chỗ. Vừa khi ấy, cô bé bán quả tới. Vắt vẻo ngồi lên một chiếc thùng úp sấp, cô nàng đích thân dong chiếc xe độc mã nhỏ thận trọng lách giữa các xe đậu, tìm đường vào bếp. Tên cô ta là Sdácca. Thứ tư nào cô cũng từ một làng lân cận đem hoa quả và rau đậu tới. Vẫn hay ngày nào cũng có nhiều người mang hoa quả rau đậu tới đây (viên quản lý có nhiều nhà cung cấp lắm) nhưng hôm thứ tư thì luôn luôn chỉ có độc Sdácca tới thôi và Snaiđơ nhớ rõ điều này như chôn vào ruột. Đã nhiều bận, cứ thứ tư là chàng ngưng công việc vào lúc mười một giờ rưỡi ra ngồi khư khư ở cửa sổ; chờ cho kì đến lúc đám bụi mù mà chiếc xe độc mã khơi lên, hiện ra trên đường dẫn tới nhà ga. Chàng chờ thấy cô ta tới gần, ban đầu mờ mờ dáng con ngựa nhỏ với một vầng bụi bao quanh rồi cuối cùng nhìn rõ tường cô thiếu nữ, nét mặt xinh xắn mà sắc sảo với một nụ cười nở ở góc môi. Snaiđơ châm điếu thuốc lá còn sót, ngồi lên khung cửa sổ. Chàng tự nhủ: Hôm nay thì phải ngỏ lời với em bằng được trong khi chàng vẫn nhớ rằng thứ tư trước nào chang cũng đều luôn luôn tự nhủ có một điều ấy. Nhưng hôm nay chàng quyết ý ngỏ lời. Sdácca có một vẻ đặc thù, chỉ tại nơi đây chàng mới nhận ra, so với các thiếu nữ khác của cùng rừng, theo các phim ảnh diễn tả, đều chỉ biết nhảy như choi choi với một vẻ hăm hở thực ngu xuẩn. Sdácca có vẻ lạnh lùng, vẻ lạnh lùng khiến khó mà đoán ra được niềm trìu mến của nàng đối với con ngựa và đối với hoa quả mơ và cà chua, mận và táo, dưa chuột với hồ tiêu chất đầy trong các thúng. Sau khi dong chiếc xe diêm dúa lách qua đám thùng cáu ghét và các bi đông dầu mỡ, thiếu nữ ngừng lại trước nhà bếp, dùng roi ngựa gõ vào kính cửa.
Thời thường thì đó là lúc yên tĩnh trong bệnh viện. Cuộc đi khám bệnh tiếp tục kèm theo một không khí kinh sợ thiêng liêng: mọi sự được sắp đặt ngăn nắp và một niềm căng thẳng bàn bạc bao trùm các hành lang. Nhưng riêng hôm đó, chỗ nào cũng ồn ồn, nào tiếng cửa sập, nào tiếng gọi, tiếng kêu của những người sốt tiết. Snaiđơ nhận thấy điều đó một cách thật lờ mờ, như ở bên lề ý thức của chàng. Và chàng vẫn tiếp tục hút điếu thuốc cuối cùng, mắt không rời Sdácca đang tranh biện với viên thượng sĩ hoả thực. Theo thông lệ đúng ra nàng phải tranh biện với phát ngân viên và anh này tìm đủ cách véo mông nàng. Nhưng thượng sĩ hoả thực Prátki, dáng mảnh khảnh, hơi bẳn gắt lại là người rất trầm mặc, nổi danh là đầu bếp cừ khôi và là người tuyệt nhiên không thèm lưu tâm đến nữ sắc. Sdácca tranh luận thực hăng say, đồng thời làm thật nhiều điệu bộ, nhất là điệu bộ đếm tiền. Nhưng tay đầu bếp chỉ nhún vai, đưa ngón tay chỉ về khu trại chính, đúng về hướng Snaiđơ. Thiếu nữ ngoảnh đầu lại, nhìn gần như thẳng vào mặt Snaiđơ. Chàng liền từ trên bờ cửa sổ mình phóng xuống thì lại nghe có tiếng ai gọi tại hành lang “Snaiđơ ơi! Snaiđơ!” Rồi sau một giây im lặng, tiếng gọi lại vang lên:
“Trung sĩ Snaiđơ ơi!”
Một lần nữa, Snaiđơ đảo mắt nhìn khắp sân: tay cầm cương dong con ngựa nhỏ. Sdácca đánh xe lên phía trại chính trong khi người tài xế của xếp lớn đứng giữa vũng nước rộng, đang gấp đồ bản tra dầu mỡ lại. Snaiđơ chầm chậm đi về phía phòng thư ký, đầu ngổn ngang: hôm nay thế nào chàng cũng phải ngỏ lời với thiếu nữ, thứ tư không phải là ngày rửa xe xếp lớn thế nhưng, nghĩ cho kỹ, thứ năm lại chẳng thể là ngày Sdácca mang rau, trái tới…
Chàng đụng đầu với toán đi khám bệnh. Rời bỏ căn phòng lớn gần hoàn toàn trống rỗng, vài nữ y tá, những nam y tá, viên thượng sĩ quản lý họp thành một đám áo choàng trắng lặng câm, dẫn đầu không phải bởi xếp lớn mà bởi Smítsơ, bác sĩ phụ tá giám đốc Smítsơ, một người ít ai có dịp nghe nói tới xưa nay. Dáng người thấp lùn phục phịch, vẻ người tầm thường, Smítsơ có đôi mắt xám với cái nhìn thật sâu sắc. Có khi ông hạ rèm mi, trong giây lát, như để định nói điều gì nhưng rồi lại chẳng bao giờ nói gì hết. Snaiđơ đến phòng thư ký thì đám khám bệnh rã ra. Lúc ấy, vì Smítsơ vừa tới gần, Snaiđơ bèn mở cửa cho ông bước vào trước.
Viên chánh quản cầm điện thoại áp vào tai. Khuôn mặt to của hắn biểu lộ vẻ bực bội. Hắn nói: “Không, thưa bác sĩ y sĩ trưởng”. Trong ống điện thoại có tiếng xếp lớn ọ ẹ. Viên thượng sĩ chánh nhìn Snaiđơ và viên bác sĩ phụ tá, quơ tay ra hiệu mời Smítsơ ngồi trong khi chỉ mỉm cười với Snaiđơ. Rồi anh ta lại nói: “Vâng, thưa bác sĩ y sĩ trưởng” và gác điện thoại lên máy.
– Chuyện gì thế? Smítsơ hỏi, chúng mình cuốn gói phải không?
Có một tờ nhật báo vứt trên bàn. Snaiđơ giở báo rồi gấp mạnh lại bằng một điệu bộ hơi sẵng. Rồi sau khi nhìn chồm qua vai hoạ viên Fanhan ngồi gần đấy, chàng lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt viên thượng sĩ chánh. Chàng vừa nhận ra rằng Fanhan đang vẽ một bản đồ vị trí hiện tại. Trên đầu tờ giấy vẽ có ghi: Điểm tựa Sdôcácchêli.
– Vâng, viên quản chánh đáp. Chúng ta vừa được lệnh di tản vị trí.
Nét mặt anh ta cố làm ra bình tĩnh nhưng đôi mắt lại bộc lộ một niềm bối rối rõ rệt mỗi khi anh nhìn Snaiđơ và đôi bàn tay anh run run. Anh ta nhìn suốt lượt các thùng xanh xám kê dọc theo bốn bức tường. Những thùng này được biến chế thành tủ treo quần áo hay bàn giấy tuỳ theo nắp đóng hay mở. Anh ta vẫn không mời Snaiđơ ngồi.
– Cho xin một điếu thuốc lá, Fanhan. Snaiđơ bảo.
Fanhan nhổm dậy, mở một bao xanh chuyền cho chàng. Smítsơ cũng lấy một điếu. Snaiđơ, lưng dựa vào tường, bắt đầu châm thuốc.
Tiếng chàng vang lên trong im lặng:
– Chắc chắn tôi sẽ ở đội hậu tập. Lúc tới đây tôi đã ở tiểu đội tiên phong rồi mà.
Anh quản chánh đỏ mặt. Ở phòng bên có tiếng máy chữ lách cách.
Chuông điện thoại lại reo. Anh quản nhắc ông lên, xưng danh và nói:
– Vâng thưa bác sĩ y sĩ trưởng, tôi xin đệ ký liền. Anh ta gác máy.
– Fanhan, anh ta bảo, chạy đi xem nhật lệnh đã xong chưa?
Smítsơ và Snaiđơ nhìn nhau. Rồi Smítsơ cúi mình xuống mặt bàn, giở tờ báo. Vừa đọc thấy: Phiên xử các công dân phản quốc đã khai mạc, ông liền gấp tờ báo lại.
Fanhan từ văn phòng chật hẹp trở về, có viên thư ký đi kèm.
Vừa thấy viên hạ sĩ quan, Snaiđơ gióng tiếng hỏi ngay:
– Ốpten ơi, mở cửa câu lạc bộ lấy một lần nữa được không?
– Thôi nhờ ông tí, viên thượng sĩ chánh giận dữ nói, tôi còn nhiều chuyện quan trọng hơn phải giải quyết.
Viên thượng sĩ chánh liên miên gõ đầu ngón tay lên mặt bàn trong khi người thư ký sắp xếp tài liệu, lật sấp các tờ đánh máy để gỡ những tờ các-bon ra. Có tất cả hai trang đánh máy đánh thành ba và bốn tờ các-bon. Thoạt trông, đó có vẻ một danh sách. Snaiđơ nhớ đến thiếu nữ. Lúc này, chắc nàng đang ở chỗ phát ngân viên, tìm cách lấy tiền nợ. Chàng liền bước lại gần cửa sổ để kiểm điểm xe ra.
– Nhớ để lại cho bọn tôi ít thuốc lá nhé. Chàng bảo Ốpten thế.
– Im. Viên thượng sĩ quát lên.
Rồi chìa mớ giấy cho Fanhan, anh ta bảo:
– Đệ lên cho xếp lớn kí.
Fanhan ghim mớ giấy lại với nhau rồi bước ra.
Anh quản quay lại nhìn Smítsơ và Snaiđơ nhưng Snaiđơ vẫn không rời cửa sổ. Mặt trời gần đứng bóng. Con đường vắng tanh. Bên kia đường là một bãi cỏ lớn chỗ người ta họp chợ mỗi thứ tư. Các quán gỗ dơ dáy vẫn còn đó, chìm trong ánh mặt trời. “Hoá ra hôm nay là thứ tư thật”. Chàng nghĩ thầm rồi ngoảnh lại với viên thượng sĩ chánh đang cầm một bản sao nhật lệnh nơi tay. Fanhan đã trở về rồi và đang đứng ở cửa ra vào:
– Các anh sẽ đóng ở đây, anh quản nói: Fanhan có họa đồ vị trí. Lần này, chiến thuật tác chiến sẽ được áp dụng. Các anh cũng thừa hiểu, làm cho đủ lệ ấy mà. Snaiđơ ạ, tốt nhất là nên lập tức điểm danh và phái vài người đi lấy vũ khí để sẵn tại khu bệnh này. Các đồn khác đều đã được thông báo rồi.
Snaiđơ hỏi:
– Vũ khí cũng là làm cho đủ lệ phải không?
Viên thượng sĩ lại đỏ mặt. Smítsơ lấy thêm một điếu thuốc lá trong bao của Fanhan.
– Cho xem danh sách các thương binh nào, ông bảo. Phải xếp lớn chỉ huy đoàn khởi hành đầu tiên không?
– Thưa phải, viên thượng sĩ đáp. Vả chăng chính ông thiết lập bản danh sách ấy đó.
– Tôi muốn đọc danh sách ấy một chút, Smítsơ nói
Viên thượng sĩ lại đỏ mặt nữa.
Hắn rút trong ngăn kéo ra một bản danh sách, trao cho Smítsơ. Vị bác sĩ môi mấp máy, cẩn thận đọc từng tên một trong một vùng im lặng hoàn toàn. Ai nấy ngậm miệng, chăm chăm nhìn ông. Chỉ có hành lang mới ồn ào. Và mọi người giật mình khi Smítsơ đột nhiên lớn tiếng: “Trung úy Môn và đại úy Baoơ, chà chà!” Ông dằn mạnh bản danh sách xuống mặt bàn đánh bộp một cái, rồi nhìn anh quản.
– Bất cứ sinh viên y khoa nào cũng phải bảo anh rằng không được di chuyển một bệnh nhân một giờ rưỡi sau khi mổ óc hắn.
Ông ta lại nhặt bản danh sách lên, đập đập ngón tay lên giấy.
– Cho họ một viên đạn vào sọ hoặc nhét họ vào xe cứu thương thì cũng chẳng khác gì. Ông ta lần lượt nhìn Snaiđơ, Fanhan, viên chánh quản và Ốptơn.
– Rõ ràng người ta biết ngay từ hôm qua rằng hôm nay thì chúng mình phải bán xới. Vậy thì tại sao không hoãn cuộc giải phẫu lại?
– Mãi đến sáng nay mới co thượng lệnh cho rút, vừa cách đây nữa giờ thôi ạ. Viên thượng sĩ đáp.
– Thượng lệnh! Thượng lệnh! Smítsơ mai mỉa ném trả bản danh sách xuống bàn.
Rồi ông bảo Snaiđơ.
– Lại đây, chúng mình đi thôi. Sau khi ra khỏi phòng, ông nói tiếp:
– Anh có nghe lời hắn vừa nói không? Chính tôi chỉ huy tiểu đội hậu tập… để rồi mình bàn thêm sau.
Ông hối hả đi lên văn phòng y sĩ trưởng trong khi Snaiđơ lừng khừng về văn phòng mình.
Đến mỗi cửa sổ, chàng lại liếc nhìn ra ngoài để biết chắc xe của Sdácca vẫn còn đậu trước lối ra vào. Bây giờ thì sân đầy cam nhông và xe tải thương. Xe của xếp lớn ngự chính giữa sân. Mọi người đang bắt đầu chất đồ lên các xe. Snaiđơ để ý thấy rằng, gần nhà bếp, người ta khuân cả những căn xế trái cây và rằng người tài xế của xếp lớn đang kéo qua sân một thùng thực phẩm lớn có đai sắt. Ở các hành lang là tình trạng chen vai thích cánh. Về đến văn phòng, Snaiđơ liền đi lại tủ, rót hết chỗ rượu còn lại vào một chiếc ly, pha vào một chút nước hơi sắp đưa ly lên môi thì nghe chiếc xe đầu tiên nổ máy. Tay vẫn cầm ly, chàng bước ra hành lang, đến đứng tại một cửa sổ.
Vừa nghe, chàng đã đoán ra ngay đó là tiếng xe xếp lớn. Máy xe còn tốt lắm và mặc dầu mù tịt về máy móc, chỉ nghe thôi chàng cũng biết máy xe còn tốt. Rồi vị y sĩ trưởng bước tới, tay không hành lý, chiếc mũ cát két trên đầu hơi lệch lạc một chút. Thái độ ông không có gì khác lệ thường. Chỉ có khuôn mặt ông mọi khi có vẻ cao sang trắng xanh với một vài khoảng phơn phớt hồng thì lúc này đỏ ửng. Trông ông đúng là một người đường bệ, cao lớn , thon dáng, kị sĩ có tài, mỗi sáng cứ mới sáu giờ đã lên yên tay cầm hèo giục ngựa phóng về phía rừng, đều đặn tiến mỗi lúc một xa hơn mãi, vào phía xa xăm đến nhòa vào chân trời. Nhưng lúc này xếp lớn mặt mày đỏ ửng. Và Snaiđơ nhớ chỉ thấy màu đỏ ấy có một lần, vào hôm Smítsơ thành công trong một cuộc giải phẫu mà chính xếp lớn cho là liều lĩnh quá. Bây giờ thì Smítsơ đi bên cạnh xếp lớn với một dáng bộ vô cùng bình thản trong khi xếp lớn khuỳnh hai tay bước đi mà như bơi. Nhưng kìa Snaiđơ nhác thấy Sdácca đang đi ngược hành lang. Rõ ràng là thấy sự xáo trộn nơi đây, nàng đang quýnh lên như muốn kiếm lấy một người còn bình tĩnh. Nàng nói với chàng bằng tiếng Hung Gia Lợi. Chàng chẳng hiểu mô tê gì mà vẫn ra hiệu cho nàng bước vào văn phòng mình. Cùng lúc ấy, bên ngoài, xe xếp lớn chuyển bánh, các xe khác chầm chậm theo sau…
Cứ bề ngoài mà xét, chắc thiếu nữ yên trí chàng thay thế phát ngân viên thường lệ. Nàng không ngồi xuống ghế chàng chỉ. Và khi chàng đặt đít xuống mép bàn giấy, nàng đến đứng trước mặt chàng vừa nói vừa khoa chân múa tay, cố gắng thuyết phục chàng. Đối với chàng, quả thực là một niềm hoan lạc được ngắm nàng kì no mắt mà không cần bận tâm nghe nàng nói.
Bởi vì dù cho có cố gắng tìm hiểu ngôn ngữ của nàng thì đó cũng chỉ là công cốc. Chàng để mặc nàng ba hoa chích chòe để tận hưởng khoái lạc ngắm nghía nàng. Thân hình hơi mảnh dẻ, nàng có vẻ còn thật trẻ, quá trẻ, trẻ hơn là chàng tưởng tượng nữa. Ngực nàng chỉ mới hơi nhú nhưng chiếc đầu nhỏ của nàng thì thực hoàn toàn xinh đẹp và chỉ nguyên nghĩ chờ cho đến lúc cặp mày dài của nàng kê lên má nâu của mình, khoảnh khắc thật ngắn ngủi trong đó nàng cũng ngậm cái miệng tròn nhỏ hồng hồng và đôi môi mong mỏng, chàng cũng đủ thấy gần như tắc thở. Chăm chú nhìn, chàng đành tự thú hơi thật vọng về tuổi tác của nàng tuy vẫn nhận rằng nàng trông thật xinh xắn. Vừa bằng đầu, vừa bằng bàn tay, chàng cố ra hiệu là chàng không có thẩm quyền. Lập tức, nàng ngưng bặt ánh mắt thành xa vời, nghi ngại. Chàng hỏi thật nhỏ:
– Ta muốn hôn em, em hiểu không?
Nói cho thật, chàng không còn tin chắc mình vẫn còn niềm ham muốn trước. Và chàng ngượng nghịu khi thấy nàng đỏ mặt và một vẻ gì sôi nổi dần dần lan trên làn da nâu sẫm ấy. Chàng thấy nàng đã hiểu rồi. Hễ chàng tiến thì nàng lùi. Và thấy niềm kinh hoàng trong cặp mắt nàng và vẻ gầy guộc của cổ nàng ở đó một động mạch đang giật thình thịch chàng thấy lẽ ra phải tỏ tình từ ba tháng trước. Chàng liền dừng lại, lắc đầu và thầm thì:
– Xin lỗi em. Bỏ qua chuyện này đi. Em hiểu chứ? Nhưng niềm kinh hoàng trong ánh mắt nàng cứ gia tăng và chàng đâm lo không chừng nàng sẽ la lên. Nàng không còn theo dõi được ý nghĩ chàng nữa. Chàng thở một hơi dài, tiến lại cầm hai tay nàng. Và khi đưa đôi tay ấy lên môi, chàng ngửi thấy rõ ràng đôi tay là dơ bẩn, rằng chúng toát ra một mùi đất và da thuộc, kiệu và hành. Chàng hôn lướt qua và cố gắng mỉm cười. Nàng nhìn chàng với một vẻ còn bối rối hơn trước cho mãi đến khi chàng vỗ vai nàng:
– Nào thử xem có cách gì đòi tiền dùm em chăng.
Nhưng chỉ có điệu bộ đếm tiền mới bộc lộ được hết ý tứ khiến cho nàng theo ra hành lang, miệng hơi chúm chím.
Tại đây cả hai gặp Smítsơ và Ốptơn.
– Hai người tính đi đâu thế? Smítsơ hỏi.
– Lên chỗ phát ngân viên. Snaiđơ đáp. Em bé này đòi tiền.
– Phát ngân viên đi khỏi rồi. Đi từ chiều hôm qua tới Sdôlnốc kia. Smítsơ đáp. Từ nơi này, hắn sẽ tới với đạo tiên phong của mình.
Saniđơ khép hờ đôi mi rồi nhìn hai người đồng ngũ. Không ai thốt một lời nào. Thiếu nữ thì lần lượt nhìn cả ba người với một vẻ dò hỏi.
– Ốptơn. Bây giờ Smítsơ mới nói, hãy tập trung tiểu đội hậu tập. Tôi cần vài người để khuân đồ xuống. Bọn họ quên phứt không để thức ăn lại cho chúng mình rồi.
Ông nhìn ra sân. Chỉ còn độc một chiếc cam nhông.
– Thế còn thiếu nữ này? Snaiđơ hỏi. Smítsơ nhún vai:
– Tôi chẳng làm gì có tiền trả cô ta.
– Hay mình hẹn cô ta sáng mai trở lại? Smítsơ nhìn thiếu nữ; nàng mỉm cười với ông.
– Đừng ông bảo cứ hẹn cô ta chiều nay thì hơn.
Ốptơn chạy huỳnh huỵch từ đầu nọ tới đầu kia hành lang, miệng hô:
– Tiểu đội hậu tập, tập họp!
Smítsơ đi ra đứng cạnh chiếc cam nhông trong khi Snaiđơ tiễn nàng thiếu nữ ra đến xe độc mã. Chàng tìm đủ cách giảng giải rằng nàng nên trở lại chiều nay nhưng nàng cứ lắc đầu. Cuối cùng, chàng đâm ngờ rằng chưa lấy được tiền chưa chắc gì nàng chịu ra về. Chàng đứng gần nàng, nhìn nàng leo lên xe, lật nghiêng chiếc thùng và từ trong đó, moi ra một gói bọc mày nâu. Sau khi treo một túi dết lên cổ ngựa, nàng cởi gói đựng bữa ăn sáng ra: một mẩu bánh mì, một viên thịt ép dẹp và một củ kiệu. Rượu vang thì đựng trong một chai xanh đáy phình. Bây giờ nàng mới mỉm cười với chàng. Và bỗng nhiên, nàng ngưng nhai bảo: Nagivarát, đồng thời ra một dấu hiệu đấm mạnh nắm tay từ trên xuống dưới. Lúc đó, nét mặt nàng thật đăm chiêu. Snaiđơ đồ chừng rằng nàng đang mô tả lại một trận đấu quyền trong đó một đấu thủ lừng danh nào bị bại trận. Hoặc giả đó là phương cách để bày tỏ rằng nàng đã sạt nghiệp chàng. Chàng không rõ Nagilavarát nghĩa là gì. Tiếng Hung Gia Lợi là một thứ tiếng thật khó. Ngay chữ thuốc lá cũng còn khó mà đoán cho ra nữa là.
Nàng thiếu nữ lại lắc đầu Nagilavarát, Nagilavarát nàng hăng say nhắc lại vừa khoa tay nắm đấm từ trên ngực xuống dưới. Nàng lắc đầu, cười khanh khác, ngoạm những miếng lớn và hối hả uống. Nàng bảo: “Ô, Nagilavarát, nha! Nàng chỉ ngón tay về hướng Đông Nam rồi nhại tiếng ù ù của xe thiết giáp đang tiến đến gần Bờ ru, bờ ru , bờ ru…
Snaiđơ, cuối cùng, gật đầu. Thế là thiếu nữ phá lên cười, nhưng đột nhiên ngừng bặt, nét mặt thật nghiêm trọng. Snaiđơ đã hiểu rằng Nagilavarát là tên một thị trấn và điệu bộ đấm không còn cho phép hiểu lầm gì được nữa. Chàng quay về tiểu đội đang khuân đồ trên cam nhông xuống. Smítsơ đứng cạnh tài xế đang ký một văn thư, Snaiđơ đã kêu lớn:
– Bác sĩ có rỗi một chút, xin mời đến đây được chăng? Smítsơ gật đầu.
Ăn uống xong, thiếu nữ gói ghém cẩn thận bánh, mẩu kiệu thừa và đậy nút chai lại.
Snaiđơ hỏi nàng:
– Em có cần nước cho ngựa không? Nàng nhún vai nhìn chàng ngơ ngác.
– Nước, cho ngựa. Chàng vừa nói vừa khom mình bắt chước điệu bộ một con ngựa đang uống.
– Ô, nàng kêu lên, ô, nước!
Bây giờ tia mắt nàng thật dị kì, như hiếu kì lại đồng thời âu yếm.
Từ bên kia sân, chiếc cam nhông bắt đầu nổ máy. Bên ngoài cả đoàn đang chờ đường hết kẹt.
– Gì đó? Smítsơ hỏi.
– Thiếu nữ này bảo trận tuyến bị chọc thủng một chỗ gần một thành phố. Tên thành phố đó bắt đầu bằng Nagi.
Smítsơ gật đầu:
– Tôi biết. Ở Grôsơvácđen.
– Ông biết à?
– Đêm qua tôi nghe thấy ở radio.
– Nơi đó xa đây không?
Smítsơ đăm chiêu nhìn đoàn xe dài đang tuốn vào sân.
– Xa. Ông vừa nói vừa thở dài. Chữ này thật không còn ý nghĩa gì trong cuộc chiến tranh chúng ta đang theo đuổi… chắc cách đây lối một trăm cây số. Hay chúng ta trả thiếu nữ này bằng thuốc lá, ngay bây giờ?
Snaiđơ nhìn Smítsơ và cảm thấy mặt mình nóng bừng.
– Để lát nữa. Chàng bảo tôi còn muốn lưu nàng thêm một lát.
– Tùy ý anh. Smítsơ đáp rồi chậm chạm đi về cánh Nam.
Vừa lúc ông bước chân vào phòng hai bệnh nhân cong lại, viên đại úy đang thì thầm bằng một giọng nghẹn ngào: Biêliôgóocsê. Smítsơ biết ông không cân đem đồng hồ đo lại; nhịp phát âm của viên đại úy còn chính xác hơn bất cứ một chiếc đồng hồ nào. Ngồi trên mép giường với hồ sơ bệnh nhân trong tay, và gần như được ru bằng tiếng luôn luôn lập lại ấy, vị bác sĩ cố tìm hiểu lấy chút ít sự thể, lòng thì tự hỏi do cơ năng nào đã khiến phát sinh từ khối óc bị mổ xe rồi khâu lại một cách gấp chăng hay chớ ấy cái thứ lời nguyện cầu một điệu này. Chuyện gì xảy ra trong năm mười giây im lặng hoàn toàn chỉ dành để thở kia? Smítsơ gần như không hay biết gì về thân thế bệnh nhân cả: ra đời tháng ba năm 1895 ở Vúppơtal cấp bực đại úy, binh chủng: bộ binh; nghề nghiệp: thương gia; tôn giáo: tin lành; cư sở, đơn vị, thương tích, bệnh trạng, tính chất của vết thương. Không có lấy một chút vì đáng chú ý: học sinh rất trung bình, hơi thất thường, chỉ có một lần phải học lại và chứng chỉ mãn học còn ghi được Bình về địa lý, Anh văn, thế dục. Ông chẳng vui thích gì khi bị gọi tòng quân và đã được thăng Trung úy năm 1915 mà lòng chẳng mảy may ham muốn. Ông ta không từ khước rượu nhưng không bao giờ uống một cách vô độ. Sau này, khi đã lập gia đình, không bao giờ ông đành tâm lừa dối vợ dầu sự thể thật dễ sắp xếp và được chúng nhân ưa thích. Ấy chỉ vì ông không sao có can đảm lừa dối vợ, sự thể chỉ giản dị thế thôi.
Điều mà hồ sơ ghi lại gần như hoàn toàn vô bổ đối với Smítsơ chừng nào mà ông còn chưa hiểu rằng tại sao bệnh nhân luôn miệng nhắc đi nhắc lại Biêliôgóocsê, rằng tiếng đó có quan hệ gì với bệnh nhân và điều đó có lẽ chẳng bao giờ Smítsơ tìm được ra hết. Ấy thế nhưng ông có thể sẵn lòng qua mọi ngày còn lại của kiếp sống trên giường này chỉ để nghe người bệnh lặp năm vần đó.
Bên ngoài sự yên tĩnh thật hoàn toàn. Đầu óc bối rối và căng thẳng, vị bác sĩ lắng tai nghe sự im lặng ở đó từng lúc từng lúc, âm thanh nặng nề kia rớt xuống. Nhưng rồi im lặng vẫn chiếm phần ưu thắng. Nó trở thành ngột ngạt. Smítsơ, gần như miễn cưỡng, từ từ đứng dậy bước ra ngoài.
Lúc Smítsơ vừa rời đôi trai gái, thiếu nữ nhìn Snaiđơ và ra chiều bối rối. Nàng ra hiệu uống, bằng một điệu bộ thật nhanh. À phải nước nha! Snaiđơ nói rồi bước vào trong trại để đi lấy nước. Đến cửa ngăn, chàng bắt buộc nhảy lùi lại sau một bước. Một chiếc xe màu đỏ, khá hợp thời, lặng lẽ chạy vào, theo một tốc độ quá cao so với tốc độ được chỉ định. Chiếc xe chạy theo một đường quẹo khéo léo và hướng về gia cư của viên hiệu trưởng quá bên kia chỗ đậu của các xe tải thương.
Khi Snaiđơ trở lại với một thùng nước, chàng lại phải né sang bên lần nữa. Người ta bóp còi inh ỏi trong sân, đoàn công voa vừa chuyển bánh. Anh quản ngồi trên xe đầu, các xe khác theo sau. Anh quản chẳng buồn để ý đến Snaiđơ. Snaiđơ chờ cho kỳ đến lúc đoàn xe dài đi khỏi rồi mới trở vào sân lúc này trống rỗng và im lặng đến nghẹt thở. Chàng đặt thùng nước xuống trước con ngựa, ngửng nhìn thiếu nữ đang chỉ chỏ Smítsơ. Ông bác sĩ từ khu trại Nam ra, đi qua trước mặt họ ra khỏi cổng xe. Hai người chậm chạp theo chân ông và cả ba đứng sững trước bệnh viện nhìn đoàn công voa xa dần về phía nhà ga.
Smítsơ hạ thấp giọng:
– Hai người tôi phái tới phòng bệnh nay đã trở lại với vũ khí thật.
– À ừ, Snaiđơ đáp, tôi quên phứt chuyện ấy rồi,
Smítsơ lắc đầu:
– Chúng ta sẽ chẳng cần đến vũ khí: trái lại. Lại đây mình vào thôi. Ông dừng lại trước mặt thiếu nữ.
– Tốt nhất mình nên trả bằng thuốc lá cho cô ta ngay bây giờ, phải không? Làm sao biết được sự gì sẽ xảy ra…
Snaiđơ gật đầu.
– Họ không lưu lại cho mình cam nhông nào à? Họ tính mình sẽ rút lui bằng cách nào?
– Sẽ có một xe quay lại, Smítsơ đáp. Xếp lớn đã hứa với tôi thế rồi.
Hai người nhìn nhau.
– Nhìn đằng sau kia kìa, dân tị nạn đấy. Smítsơ vừa nói vừa chỏ ngôi làng ở đó một đoàn xe đang lắc lư đi tới. Dân tị nạn đang lũ lượt kéo qua trước mặt họ, chậm chạp, mắt không buồn ngửng lên. Mệt rã rời, vẻ mặt u sầu, họ chẳng buồn chú ý đến một ai, kể cả binh sĩ, đến người thiếu nữ.
– Họ từ xa đến, Smítsơ nhận xét. Ngựa mệt lả rồi. Trốn tránh như vậy phi lý quá. Với thế tốc độ hành trình này, họ sẽ không thoát được hỏi vùng chiến trận.
Một tiếng còi xe thúc bách vang lên sau họ, một tiếng còi the thé, nóng nảy, hỗn hào. Họ thủng thỉnh rẽ ra hai bên, Snaiđơ cùng một phía với Sdácca. Đó là xe viên hiệu trưởng xin đường. Xe hẳn phải thắng gấp mới không đụng thẳng vào hông một xe bò của dân tị nạn. Lúc ấy, cả ba mới nhìn được thật gần những người ngồi trong xe hơi, y như đi xem chiếu bóng ngồi hàng đầu và phải chịu đựng nỗi khổ cực vì màn ảnh quá cận. Nơi tay bánh, viên hiệu trưởng có khuôn mặt trông nghiêng thật thản nhiên, xương xẩu và hơi ốm yếu. Trên chỗ ghế cạnh ông có cả một chồng có ngọn những va li và chăn mền chằng bằng dây thừng. Sau lưng ông là bà vợ mà khuôn mặt với những nét thật đều đặn cũng bình thản không kém chồng. Cứ bề ngoài mà xét, cả hai đều đã định bụng không nhìn phải nhìn trái gì hết. Bà ta đặt một đứa bé còn ẵm ngửa trên lòng và cạnh bà là thằng bé sáu tuổi là kẻ độc nhất từ trong xe nhìn ra ngoài, khuôn mặt sáng sủa của nó dán lên kính xe cười với binh sĩ. Đường kẹt mất lối hai phút dài. Ngựa của đoàn xe mệt lử và đoàn người bị chôn chân tại chỗ. Bọn Snaiđơ thấy nơi tay bánh viên hiệu trưởng ra vẻ bồn chồn. Mồ hôi ông đầm đìa, mắt ông chớp dồn và, từ phía sau lưng, bà vợ ông rỉ tai bảo ông gì đó. Gần như không có lấy một tiếng động nào ngoại trừ tiếng gọi mỏi mệt của một người tị nạn hay tiếng khóc của một đứa trẻ nào. Rồi, đột nhiên một tiếng kêu vang lên từ trong sân, một tiếng gào trầm trầm làm cả ba người quay phắt lại. Đồng thời một viên đá giáng xuống xe hơi nhưng lại trúng vào chiếc lều vải cuốn thành bó. Viên đá thứ nhì đập bẹp một chiếc xoong được buộc ở phía cán bằng một dây da y hệt những hôm gia đình này đi nghỉ cuối tuần. Kẻ vừa chạy tới vừa gào là người gác cổng bệnh viện cư ngụ tại hai phòng sát buồng tắm công cộng. Bây giờ thì anh ta đã chạy đến sát cổng nhưng anh ta hết cái ném rồi. Nên mồm vẫn chửi rủa, anh ta phải cúi xuống, và đúng lúc ấy đường hết kẹt, chiếc xe phóng đi giữa những tiếng còi ương ngạnh. Lọ hoa bay rớt đúng chỗ xe vừa đậu một giây trước, trên một khoảng lát diêm dúa bằng đá xanh nho nhỏ. Lọ hoa vỡ tan. Những mảnh vỡ tung ra thành một vòng tròn thật đều đặn chung quanh cái vùng đất lúc đầu còn nguyên hình dáng rồi đột nhiên rời rã, phơi ra cả cụm rễ của một cây phong lữ thảo: những đoá hoa vẫn còn đứng, đỏ âu dựng thẳng một cách thật ngây thơ ở chính giữa.
Người gác cổng đã tới chỗ mấy binh sĩ. Anh ta không chửi thề nữa, chỉ đang khóc. Nước mắt vẽ thành vệt thật rõ ràng trên khuôn mặt nhem nhuốc của anh ta. Anh khom mình về trước trong một điệu bộ vừa bi thảm vừa ngơ ngáo, hai bàn tay vặn vào nhau, chiếc áo choàng cũ kỹ cáu ghét phật phờ bao quanh nửa người trên gầy guộc của anh. Anh giật bắn mình khi có tiếng đàn bà léo nhéo gọi ở cuối vườn. Anh quay ngược trở lại trở về nhà vừa đi vừa khóc nức nở. Sdácca đi theo anh tránh né đôi cánh tay Snaiđơ chìa ra chực ôm nàng. Rồi nàng nắm dây hàm thiết ngựa, dắt nó chui qua cổng, trèo lên xe cầm lấy dây cương.
“Để tôi đi lấy thuốc lá” Smítsơ gọi lớn, “Giữ cô ta lại, chỉ một giây cũng đủ”
Snaiđơ vồ lấy dây hàm thiết. Cô gái quật một nhát roi vào tay chàng. Chàng đau mà vẫn không buông. Quay đầu nhìn, chàng ngạc nhiên thấy Smítsơ đang co cẳng chạy. Chàng chẳng bao giờ ngờ rằng Smitsơ lại có thể chạy được.
Thiếu nữ lại giơ roi nhưng không quật xuống. Rồi nàng xếp roi sát cạnh chỗ ngồi. Và Snaiđơ kinh ngạc thấy nàng mỉm cười, nụ cười chàng đã từng bắt gặp nhiều lần, âu yếm mà lại lạnh lùng. Bước đến gần chỗ ngồi trên xe, chàng dịu dàng kéo nàng lại, bế nàng xuống. Nàng nói gì với ngựa chẳng hiểu, khi chàng vòng tay ôm nàng. Snaiđơ thấy nàng vẫn còn hơi sợ sệt nhưng không biếu lộ một chút phản kháng nào, chỉ lo âu nhìn tứ phía xung quanh. Chỗ cổng có vẻ tối sậm, Snaiđơ nhẹ nhàng hôn lên má, lên mũi và rẽ mớ tóc đen và mịn màng của nàng, định hôn lên gáy. Chàng giật mình khi nghe tiếng Smítsơ trở lại lúc nào đang ném thuốc lá vào bên trong xe ngựa. Sdácca nhảy phắt lên xe, ngắm nghía các bao thuốc đỏ ấy. Vẫn làm lơ như không thấy Snaiđơ, Smítsơ lầm lũi bước trở vào sân. Sdácca, má bừng bừng đỏ, nhìn sững Snaiđơ nhưng vẫn tránh tia mắt chàng rồi đột nhiên, bằng một mệnh lệnh gọi và giật giọng cho con ngựa, nàng giật mạnh dây cương. Snaiđơ tránh sang bên, chờ nàng đi khỏi lối năm mười thước mới cất tiếng gọi lớn tên nàng trong yên lặng. Nàng dừng xe, không ngoảnh lại chỉ quơ chiếc roi da lên bên trên đầu, thành nhiều vòng tròn ra hiệu giã từ rồi tiếp tục lên đường. Snaiđơ khi đó mới chậm chạp trở vào sân.
Bảy binh sĩ sẽ đi hậu tập đang ngồi ngoài trời, gần nhà bếp cũ và đang ăn uống. Trên một chiếc bàn có súp, có những khúc bánh mì lớn và cả thịt nữa. Snaiđơ bước đến gần và, vì tai nghe có tiếng đập ầm ầm từ phía trong đưa ra, chàng hất hàm nhìn các bạn đồng hành của mình.
– Đó anh chàng gác cổng đang phá cửa buồng hiệu trưởng đấy, Fanhan giải thích như vậy. Và giây lát sau, hắn nói thêm. “Ít ra lẽ ra ông ta cũng nên để ngỏ cửa, không thế thì cửa cũng bị phá kia mà.”
Có bốn người đi theo Smítsơ trở vào trại để tập hợp bằng hết các thứ còn lại để mang theo. Snaiđơ đứng im tại chỗ với Fanhan và Ốptơn.
– Tôi có một công tác thật oai. Ốptơn nói.
Fanhan uống một hớp rượu mạnh màu hồng trong cái ca của mình rồi chuyền cho Snaiđơ mấy bao thuốc lá.
– Cám ơn, chàng bảo. Ốptơn tiếp tục:
– Tôi được giao công tác ném khẩu đại liên, các khẩu tiểu liên và cả mớ rẻ lau súng vào hố phân, chỗ viên đạn đại bác thối. Fanhan, anh sẽ giúp tôi một tay nhé.
– Ừ. Fanhan nói trong khi tay tinh nghịch dùng một chiếc muỗng nhỏ vét súp từ một vũng nâu lớn nằm chình ình giữa bàn ra một mép bàn, thành những hình ngoằn ngoèo.
– Nào chúng mình đi thôi. Ốptơn bảo.
Liền sau đó, Snaiđơ ngủ gục trên nắp chiếc gà mèn của anh. Điếu thuốc lá anh gác ở mép bàn cứ nghi ngút cháy. Tro xám hiện thành đường, lửa gặm bàn thành một vết đai, đen và hạp trên gỗ. Và bốn phút sau, điếu thuốc chỉ còn là một mẩu dồi xám dính vào bàn. Mẩu tro xám ở nguyên vị thật lâu, mãi gần một giờ sau khi Snaiđơ tỉnh giấc vô tình quơ tay gạt nó xuống đất. Một tiếng cam nhông chạy đã đánh thức chàng. Gần đồng thời với tiếng cam nhông vào sân, chàng nghe tiếng những xe thiết giáp đầu tiên. Snaiđơ chồm lên. Mấy người khác đang đứng bao quanh chàng hút thuốc suýt bật cười nhưng đều nín được: tiếng vo vo xa xôi kia đầy đủ ý nghĩa quá mà.
– Nào, Smítsơ bảo, chiếc cam nhông hứa hẹn tới kia. Fanhan, hãy trèo lên mái nhà rồi báo cho hay anh nhìn thấy những gì.
Fanhan tiến về khu phía Nam. Nằm phục vị trên một cửa sổ phòng hiệu trưởng, người gác cổng đang nhìn họ. Bên trong có tiếng vợ hắn ta đang sục sạo. Ly tách chạm nhau nghe lanh canh, chắc mụ đang đếm chúng.
– Chúng mình chuyển mớ đồ linh tinh kia lên xe thôi, Smítsơ bảo. Người tài xế quơ tay tỏ vẻ phản đối. Anh ta có vẻ mệt đừ.
– Cóc khô, anh nói lên xe đi và vứt mớ của nợ này lại đây cho rảnh. Anh quơ một gói thuốc trên bàn, xé bao lấy một điếu.
– Thôi, dù sao cũng cứ chuyển đồ lên đi. Smítsơ nói tiếp đằng nào mình cũng phải chờ Fanhan trở xuống kia mà.
Anh tài xế nhún vai ngồi vào bàn, múc vào gà mèn của Snaiđơ một môi canh đựng trong một chiếc thùng.
Những người khác hì hụi khiêng lên xe bất cứ thứ gì còn tìm được trong các trại: vài chiếc giường, một thùng thực phẩm của sĩ quan trên có kẻ tên người bằng sơn đen Trung uý Bác sĩ Grếch một mớ quân dụng: nào túi, nào túi dết, vài khẩu súng; rồi một chồng quần áo: sơ mi, quần đùi, bít tất, gi lê hoặc gói hoặc lẽn vào với nhau.
Từ trên nóc nhà, Fanhan gọi lớn:
– Chẳng thấy đếch gì cả. Có một rặng bạch dương trong làng che mất tầm mắt. Các anh có nghe thấy xe tăng không? Tôi thì nghe rõ mồn một à.
– Có. Smítsơ đáp lớn “Có nghe thấy”. Bây giờ thì cậu xuống đi thôi.
– Lẽ ra một người trong toán mình phải chạy ra chỗ gò đất. Smítsơ bảo:
Ở đó chắc chắn có thể thấy được xe tăng đấy.
– Vô ích, người tài xế bảo: chưa làm sao mắt thấy nổi xe tăng đâu.
– Tại sao lại thế nhỉ?
– Tôi nghe thấy tiếng xe. Mà tai tôi cho hay chưa thể thấy chúng được. Vả chăng chúng từ hai phía khác nhau tiến tới đây.
Anh ta chỏ một ngón tay về phía Tây Nam. Và khác nào điệu bộ ấy đủ khiến phát sinh tiếng động, quả nhiên họ nghe thấy một tiếng vo vo khác, từ phía ấy tới thật.
– Rắc rối to, Smítsơ nói, vậy phải làm sao bây giờ?
– Mở máy chuồn lẹ, người tài xế đáp.
Anh ta bước sang bên, mắt hoài nghi nhìn đồng bạn đang chất lên cam nhông cả đến cái bàn và cả đến cái ghế từn dùng làm chõ ngồi cho anh.
Fanhan từ trong trại bước ra:
– Một trong hai bệnh nhân đang kêu la, anh bảo thế.
– Để đó cho tôi. Smítsơ đáp, các anh đừng chờ tôi hãy đi đi.
Ban đầu, bọn họ ngập ngừng rồi sau đó cả bọn theo chân bác sĩ, trừ anh tài xế. Smítsơ quay đầu lại bảo:
– Thôi đi đi. Tôi thì phải ở lại với các bệnh nhân
Họ dừng bước lại ngập ngừng giây lát rồi lại bước theo ông.
– Trời đất ơi! Ông năn nỉ. Tôi đã bảo mấy người đi đi mà. Phải làm sao đi trước được khá xa trên cánh đồng thổ tả chứ.
Họ lại dừng bước lần nữa. Chỉ riêng Snaiđơ vẫn tiếp tục bằng bước đi chậm chạp trong khi Smítsơ đã khuất dạng vào bên trong khu trại. Những người khác cũng chậm chạp không kém, kéo nhau lại chiếc cam nhông. Nhưng Fanhan đổi ý, đứng bất động một khoảng thật ngắn, rồi cũng trở vào găp Snaiđơ.
– Cậu cần gì không? Hắn hỏi. Chẳng là mọi thứ đều đã chất hết lên xe rồi…
– Để lại cho ít bánh mì, bơ… và thuốc lá.
Cửa phòng bệnh mở ra. Fanhan liếc qua một chút, kêu:
– Trời ơi, ông đại úy đây mà.
– Cậu biết ông ta ư?
– Phải, Fanhan đáp, tôi đã ở tiểu đoàn ông nửa ngày.
– Ở đâu?
– Tôi không biết tên vùng ấy.
– Thế hả, nhưng bây giờ thì cuốn gói đi thôi. Smítsơ cao giọng bảo. Đừng làm chuyện xuẩn ngốc.
– Hẹn tái ngộ vậy. Fanhan vừa nói vừa quay ra.
– Tại sao cậu lại ở đây? Smítsơ hỏi. Snaiđơ không trả lời mà Smítsơ cũng như không đợi chờ một câu trả lời nào hết.
Cả hai lắng tai nghe chiếc xe cam nhông nổ máy. Tiếng máy càng ồn hơn, khi xe chạy qua dưới chiếc cổng ngăn. Bây giờ thì xe đang chạy trên đường ra ga rồi. Rồi họ nghe tiếng máy xe ở quá khỏi nhà ga nhưng lúc này tiếng máy xe gần như nghe không còn rõ nữa.
Tiếng vo vo của các xe thiết giáp đã ngưng bặt. Có tiếng súng nổ.
– Phòng không nặng. Smítsơ nói: Có lẽ chúng mình phải trèo lên gò đất cao của đường sắt.
– Để tôi tới đó cho. Snaiđơ bảo.
Trong phòng, viên đại úy vẫn lập lại chữ “Biêliôgóocsê” bằng một giọng gần như đều đều nhưng không phải không pha ít nhiều thích thú. Ông ta đen sì, râu rậm, đầu quấn băng thật chặt. Saniđơ nhìn Smítsơ. Ông này nói:
– Tuyệt vô hy vọng. Cứ giả thiết rằng ông ta qua khỏi, còn sống được… thì khi ấy…
Ông nhún vai.
“Biêliôgócosê” viên đại úy nói, rồi bật khóc. Ông khóc thật im lặng, nét mặt không vì thế mà biến đổi nhưng những dòng nước mắt cũng không ngăn được ông lặp lại “Biêliôgóocsê”.
– Trường hợp ông ta được đưa sang Toà Mặt Trận. Smítsơ nói tiếp: Ông ta ngã từ mô tô xuống mà đầu không đội mũ sắt. Trước đây ông ta là đại úy.
– Tôi ra trèo lên gồ đất đây. Snaiđơ bảo. Nếu thấy còn có quân ta rút lui, tôi sẽ nhập với họ, nhé?
Smítsơ đồng ý.
Ra đến sân, Snaiđơ thấy người gác cổng đã thượng một lá cờ trước nhà ông hiệu trưởng, một mảnh giả đỏ bẩn thỉu trên có đính một lưỡi liềm vàng và một chiếc búa trắng đều cắt một cách vụng về từ khổ vải lớn để khâu lên mặt cờ. Chàng để ý thấy tiếng vo vo từ Đông Nam lại trở thành rõ ràng. Không có tiếng súng bắn nữa. Chậm chạp bước, chàng vượt qua các khu giống cây, dừng lại ngay hố phân. Viên đạn đại bác vẫn nằm chỗ này từ mấy tháng trước đó rồi. Cách đây mấy tháng, những đơn vị S.S. đóng trên đường sắt đã tấn công quân phiến loạn Hung Gia Lợi chiếm đóng trường này. Nhưng trận đánh thật ngắn ngủi. Gần như không còn dấu tích các tràng đạn đại liên trên mặt tiền trường. Riêng chỉ còn lại viên đạn trọng pháo, một khúc sắt rỉ, dài bằng cánh tay, đầu vê tròn mà chẳng ai thèm lưu tâm đến nữa. Ai không biết có thể ngỡ đó là một gốc củi mục. Có cỏ mọc cao bao quanh, nó không còn làm bận tâm ai nhưng bà hiệu trưởng chẳng để lỡ dịp để phản kháng bao nhiêu lần vì sự hiện diện của nó. Cũng đã có phúc trình được lập. Chắc hiện vụ đang được chuyển theo đường lối thông thường nhưng vẫn chưa có lời phúc đáp nào gửi xuống.
Snaiđơ chậm bước chân lại khi phải đi vòng quanh viên đạn. Dưới cỏ chàng còn thấy vết chân của Ốptơn và Fanhan lúc đi ném khẩu đại liên xuống hố phân. Nhưng bây giờ thì mặt phân lại phẳng phiu như cũ, một nét phẳng phiu xanh và bóng như tráng dầu. Snaiđơ men theo các luống rau, đi qua khu ươm cây, rồi một đồng cỏ và trèo lên dốc gò. Gò cao lối một thước rưỡi mà chàng tưởng mình đứng trên một đỉnh cao vô tận. Chàng đưa tầm con mắt khỏi quá làng, nhìn bình nguyên tăm tắp trải bên con đường sắt mà chẳng thấy có gì. Nhưng tiếng động thì chàng nghe còn rõ ràng hơn trước nữa. Chàng tự hỏi không rõ súng còn bắn không. Không, súng không bắn nữa. Tiếng vo vo đến từ thẳng hướng đường xe lửa. Snaiđơ ngồi xuống đợi chờ. Ngôi làng đang chìm đắm trong một vùng im lặng hoàn toàn. Mọi thứ ở đây, nào cây , nào cửa nhà thấp lè tè, nào gác chuông nhà thờ hình chữ nhật thây thẩy đều như đã trở thành bất động. Làng có vẻ nhỏ nhoi vì dừng ngay ở dưới chân đường sắt và vì ở phía trái, chẳng có gì hết. Snaiđơ ngồi xuống, lấy thuốc lá ra hút.
Smítsơ ngồi lại cạnh người bệnh nhân cứ đều đặn nhắc lại Biêliôgóocsê. Nước mắt người bệnh đã cạn. Ông ta nhìn thẳng trước mắt bằng đôi mắt âm u và chữ ông ta đọc lên tạo thành như một bản ca đơn điệu không dứt nó làm Smítsơ thích thú. Ít nữa thì vị bác sĩ cũng có thể nghe nó hoài hoài mà không chán. Bệnh nhân kia thì vẫn đang ngủ.
Con người cứ luôn miệng nhắc mãi một chữ Biêliôgóocsê này tên là Baoơ. Đó đại úy Baoơ, xưa từng là người đi bỏ mối áo dệt, xưa nữa là sinh viên. Trước khi là sinh viên, ông đã từng là thiếu úy trong gần bốn năm trời. Nhưng sau đó, một khi ông trở thành người bỏ mối áo dệt rồi, cuộc sống của ông mới thật là cực nhọc. Mọi công chuyện làm ăn dĩ nhiên tuỳ thuộc tình hình túi tiền của mọi người nhưng mọi người lúc ấy đều không tiền cả. Hay đúng ra lớp người mà áo dệt của ông định nhằm vào. Áo dệt ấy không quá đắt cũng chẳng quá rẻ. Áo dệt đắt vẫn có người mua, áo rẻ cũng vậy. Nhưng loại áo người ta giao cho ông bỏ mối, tốt trung bình, thì chẳng ma nào chịu mua cả.
Smítsơ nhìn ông ta. Giá mình biết được ý nghĩ của con bệnh. Ông cảm thấy một niềm hiếu kỳ khó cưỡng được biết hết thẩy về con người bộ mặt vừa phị vừa quắt lại mà râu ria chơm chởm từng chỗ để lộ một mẩu da nhợt nhạt như da người chết trôi này, mà đôi mắt bất động cũng như sắp đến lượt nhắc lại chữ Biêliôgóocsê vì đôi môi gần như không còn mấp máy nữa. Rồi con người đó lại khóc. Những dòng lệ im lìm chảy dọc trên má ông ta. Ông ta chưa từng bao giờ là bậc anh hùng. Ông đã khổ tâm vì nghe viên trung tá quát trong điện thoại rằng ông nên săn sóc đến đại đội của ông một chút, rằng sự việc không trôi chảy hoàn hảo ở cú điểm Cứt Chó, khổ tâm vì, sau đó, ông phải lên tuyến đầu, đầu đội chiếc mũ sắt nó khiến ông trông lố bịch. Không ông chưa từng bao giờ là một bậc anh hùng, chưa bao giờ lăm le đóng vai anh hùng và biết thân biết phận lắm. Khi lên gần sát tuyến đầu, ông nhấc mũ sắt ra vì sợ dáng dấp mình trông lố bịch vào lúc ông phải nạo binh sĩ thuộc quyền. Cho nên ông tháo mũ sắt ra cầm tay, lòng tự nhủ lòng rằng: “Thôi thì liều một chút, cứ xông đại lên xem sao” Và niềm kinh hãi càng lúc càng tan dần khi ông càng tới gần nơi xảy ra chuyện lộn xộn ngu ngốc đằng kia. Gớm! Dễ thường tất cả binh sĩ còn có ai không biết rằng ông, đại úy Baoơ, ông tài thánh cũng chẳng sao đối phó nổi, rằng không một ai trên đời này đối phó nổi với tình trạng ấy vì thiếu đại pháo và thiết giáp! Tất cả các sĩ quan đều thừa biết rằng quá nhiều đại pháo, quá nhiều thiết giáp được dùng để bảo vệ các bộ tham mưu mà. “Bọn chúng làm khổ mình”, ông tự nhủ thế, bụng chẳng thèm nghĩ rằng mình can đảm. Và, ông xông lên, bị đạn bẹp sọ. Thế là điều độc nhất còn lại ở đây là chữ Biêliôgóocsê. Thế thôi.
Hình như vậy là đủ cho ông giữ được cơ năng nói nguyên vẹn cho đến ngày chết. Đó là vũ trụ của ông mà không một ai biết được hay có thể biết được bao giờ cả.
Dĩ nhiên ông không hay rằng một cuộc thẩm cứu được mở ra chống ông tại Toà án Quán sự Mặt trận, về tội cố ý làm thành phế tật vì ông đã tháo mũ sắt ra trong lúc đang có tác chiến nhất là lại ngồi xe máy dầu. Ông chẳng hay chuyện đó mà có lẽ sẽ mãi mãi chẳng hay điều đó. Có một hồ sơ thiết lập với tên ông, với một số hiệu, với vô số giấy chứng nhận mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ, ông biết đến, mà có lẽ cũng sẽ chẳng bao giờ làm ông bận tâm. Cứ mỗi năm mươi giây, ông lại nói Biêliôgóocsê và thế là hết.
Smítsơ bình tĩnh ngắm nghía ông. Giá ông loạn trí đi để biết được những gì đang xảy ra trong đầu óc bệnh nhân mình thì ông cũng thích dấy. Ông đâm ra thèm tâm trạng bệnh nhân.
Smítsơ giật mình khi Snaiđơ mở cửa.
– Gì thế? Ông hỏi.
– Chúng đang tới. Snaiđơ đáp. Chúng ở ngoài kia kìa. Cứt quá! Không một bộ đội nào của mình lọt thoát cả.
Trước đó, Smítsơ không nghe thấy gì hết. Nhưng bây giờ thì ông nghe thấy chúng rồi, chúng đã đang ở đó, ở phía trái trong làng. Nay thì ông hiểu thấy triệt được ý nghĩa câu nói của người tài xế cam nhông lúc nãy “Tai tôi cho biết mình chưa thấy được chúng đâu”. Bây giờ tai ông cho biết có thể thấy chúng được rồi. Và thật ra có thế thấy được chúng thật tỏ tường nữa.
– Lẽ ra trước đây mình nên treo cờ Hồng thập tự. Snaiđơ nói. Ít ra cũng nên thử xem sao.
– Thì bây giờ cũng chưa muộn đâu.
Smítsơ kéo một lá cờ từ bên dưới chiếc va li đặt trên bàn ra. “Cờ đây” ông nói thế. Snaiđơ đón lấy lá cờ.
– Đi, chàng bảo.
Lúc đi ra, Snaiđơ thò đầu qua cửa sổ nhưng lại thụt vào ngay. Chàng tái mặt.
– Chúng kia kìa, chàng bảo, trên gò đất của đường xe lửa.
– Để tôi tới đó cho, Smítsơ nói.
Snaiđơ lắc đầu. Chàng cầm dựng đứng lá cờ bước ra, đi xuyên sang phải và với một vẻ hung tợn bước về đường xe lửa. Không có lấy một tiếng động. Ngay các xe thiết giáp đậu ở ngay lối ra làng cũng im bặt. Trường học này là công trình kiến trúc cuối cùng ở trước nhà ga. Cho nên họng súng các xe thiết giáp đều chĩa vào trường, nhưng Snaiđơ không trông thấy những họng súng ấy. Chàng cũng chẳng thấy cả đến các xe thiết giáp. Chàng chỉ cảm thấy mình lố bịch với cán cờ trên bụng như một cuộc diễu binh và tràn ngập sợ hãi. Máu của chàng chỉ toàn là sợ hãi. Chàng đi thành đường thẳng, mắt chẳng trông thấy gì, một cách chậm chạp, gần như một người máy, với cán cờ trên bụng. Chàng tiến tới chậm chạp, trượt chân và tỉnh cơn mê hoảng. Một sợi dây thép buộc dính cái gốc nho lại với nhau đã làm chàng trượt chân. Bây giờ thì chàng trông thấy hết thẩy. Có hai chiếc xe thiết giáp đậu đằng sau gò đất của đường xe lửa và xe thứ nhất đang quay dần pháo đài vào chàng. Rồi khi vượt khỏi các hàng cây cao, chàng thấy có nhiều xe thiết giáp hơn nữa. Các xe thiết giáp này xếp thành nhiều hàng trước sau trên cánh bình nguyên và những ngôi sao đỏ vẽ trên xe dồn chàng vào một tình trạng ngượng nghịu kỳ lạ. Xưa nay chàng chưa thấy chúng bao giờ, đã tới hố phân rồi. Chàng chỉ còn phải đi men theo các khuôn đất vuông, bước qua khu ươm cây và cánh đồng cỏ là trèo lên gò đất được rồi. Nhưng chàng dừng lại cạnh hố phân. Niềm kinh hoàng xâm chiếm chàng, tệ hơn trước nữa. Lúc trước chàng không ý thức được niềm kinh hoàng ấy. Chàng chỉ có cảm giác như máu chàng đông đặc lại chứ chưa nhận được ra rằng đó là niềm kinh hoàng.
Bây giờ thì máy chàng như lửa đốt. Chàng nhìn thấy toàn màu đỏ, không còn phân biệt gì khác, chỉ nhận thấy những ngôi sao đỏ khổng lồ chúng làm chàng hết hồn. Và thế là chàng vấp phải quả đạn đại bác làm nó nổ tung.
Ngay lúc đó thì chưa có gì xảy ra cả. Tiếng nổ vang rên trong im lặng hoàn toàn. Bọn Nga chỉ biết được rằng tiếng nổ không do bên phía chúng gây ra và kẻ đang vác cờ thì đột nhiên biến mất trong một vùng bụi lớn như đám mây. Một chút sau, một loạt tiếng lắc cắc điên cuồng khởi sự. Chúng chĩa tất cả các nòng súng, cải đổi lại hàng lối để bắn. Trước hết chúng bắn vào cánh Bắc là nơi, ở một cửa sổ, có lá cờ nhỏ của người gác cổng đang rũ xuống như một miếng giẻ. Lá cờ rụng theo vôi vữa đang từ mặt tiền trường học rơi xuống từng mảnh nhỏ. Cuối cùng, chúng bắn vào cánh Nam một cách hăng say. Đã lâu rồi chúng không bắn. Chúng bắn cho kì bức tường mỏng bị xẻ ra và chỉ ngưng vào lúc cả cơ sở đổ sụp về đằng trước. Mãi đến lúc ấy, chúng mới nhận ra rằng không có lấy một phát súng nào từ phía trước mặt bắn sang chúng cả.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.