Người Ở Đâu Về
IX.
FANHAN ngạc nhiên khi thấy cơ nghiệp họ Fincơ quá đồ sộ. Đứng ngoài đường phố người ta chỉ thấy mặt tiền cũ kĩ nhỏ hẹp treo bảng hiệu có hàng chữ “Quán ăn và khách sạn Fincơ, cha truyền con nối từ 1710.” Hàng ăn bên ngoài đổ nát ăn thông ngay với phòng ăn có trổ cửa sổ: bên tay trái một chiếc, bên tay phải hai chiếc. Kế bên cánh cửa sổ thứ hai, tay mặt có cánh cửa rộng lớn thường thấy trong các trang trại dân trồng nho, cánh cửa này sơn màu ve, mỏng manh đủ lọt một chiếc xe bò.
Vừa đẩy cánh cửa, Fanhan ngạc nhiên vì cảnh tượng bên trong với một chiếc sân, lát gạch phẳng lì bốn chung quanh với những dãy nhà đắt tiền. Trên lầu nhất dãy lan can bằng gỗ chạy bốn chung quanh một hàng hyên, một cánh cửa lớn khác ăn thông sang chiếc sân thứ hai, hai phía có nhà kho, phía bên phải có một căn nhà trệt rộng lớn, có lẽ dùng làm phòng hội. Fanhan đưa mắt quan sát kĩ khắp nơi, tai lắng nghe mọi động tĩnh anh đứng khựng khi trông thấy hai người Hoa kì, họ đang phiên gác trước cánh cửa thứ hai, họ luôn luôn đi tới đi lui, đụng nhau chả khác loài thú bị nhốt trong chiếc chuồng quá chật hẹp mỗi khi xê dịch thường va chạm nhau. Một trong hai người mang kính, môi động đậy không ngừng, người thứ hai hút thuốc lá. Chiếc nón kết trên đầu họ kéo ngược về phía sau gáy. Trông họ có vẻ mệt mỏi.
Quay về bên trái Fanhan lắc núm cánh cửa bên ngoài có đề chữ “phòng riêng”. Anh liền vội quay sang cánh cửa bên phải có đề chữ “phòng ăn”. Cả hai cánh cửa đều được khóa kĩ. Anh đành đứng khựng để nhìn hai người lính gác di chuyển qua lại không ngừng. Bầu yên tĩnh thỉnh thoảng bị phá tan bằng vài phát súng, binh đội hai bên chỉ đứng từ xa để trao đổi tạc đạn như kiểu chơi banh; nghiệm ra cả đôi bên đối thủ đều coi nhẹ vấn đề; họ chỉ cần tỏ cho mọi người biết chiến tranh vẫn còn đó, những trái đạn xé gió bay trên không trung, nổ tung bất kì chỗ nào gây náo động để báo cho mọi người. “Chúng ta đang thời kì chiến tranh, hãy coi chừng, chiến tranh là thế đó!” tiếng vang của đạn trái phá thật yếu ớt, Fanhan phải lắng tai mới nhận rõ làn đạn chỉ tự phần đất quân Hoa kì bay sang phía địch: quân Đức không hề bắn trả lại. Cuộc pháo kích đó không song phương; thật là một trò chơi không đối thủ: một bên dành ưu tiên đưa từng loạt đạn đều đặn sang phần đất còn lại bên kia sông, một vùng rừng núi.
Fanhan dè dặt từng bước; trước mặt anh, hơi tối ăn thông sang hai lối bên trái vào hầm rượu, bên mặt có một cánh cửa nhỏ ngoài có ghi hàng chữ “Nhà bếp.” anh gõ nhẹ lên cánh cửa có tiếng đáp từ bên trong “Xin mời vào!” Fanhan đặt tay lên núm cửa. Bốn khuôn mặt quay lại nhìn anh, anh ngạc nhiên nhận ra trong đó có hai người có khuôn mặt giống một người mà anh đã được dịp tiếp xúc ở một nơi thật xa, hắn mệt mỏi đến gần ngất xỉu, giữa một cánh đồng Hung gia lợi dưới ánh sáng hoe đỏ, yếu ớt. hai khuôn mặt đó, một của ông già ngồi kế bên cửa sổ hút ống vố, dáng người gầy gầy mắt sáng lên vẻ nhẫn nhục khuôn mặt ông lão thì giống với con người anh đã gặp; khuôn mặt thứ hai của một đứa trẻ, lối sáu tuổi đang lê la dưới đất đùa nghịch với chiếc xe kéo bằng gỗ; đứa trẻ ngửng đầu lên, nó cũng gầy guộc mệt mỏi, già dặn và ngoan ngoãn; nó giương đôi mắt buồn nhìn Fanhan rồi thản nhiên đẩy chiếc xe với vẻ nặng nhọc.
Hai khuôn mặt khác, hai người đàn bà dang ngồi gọt khoai trước bàn bao gồm một bà lão còn khỏe mạnh nước da ngăm ngăm, vành mặt to với nhiều nét thanh tú của thời thanh xuân; người đàn bà ngồi kế bên, tuy còn thật trẻ, nhưng có vẻ héo hon, hốc hác, mệt mỏi; cô ả cử động các ngón tay như người mất hồn. Vài món tóc hung rũ xuống trán, xuống mặt cô ả; vành trán và da mặt xanh xao, tóc của bà cụ trái lại được vén gọn và kẹp chặt phía sau ót.
– Chào quí vị! Fanhan cất tiếng chào
– Chào ông! Mọi người cùng đáp lại.
Fanhan đóng cửa lại khi lọt qua khung cửa. Anh cảm thấy ngượng ngùng, cất tiếng ho khan; mồ hôi xâm xấp lưng áo và hai bên nách. Người đàn bà trẻ tuổi nhìn anh, cô ả có đôi bàn tay thon nhỏ và trắng muốt. Còn thằng nhỏ loay hoay không làm sao đưa bánh xe ra khỏi chỗ nứt của sàn lót gạch nên đành đẩy chiếc xe dọc theo đường thẳng. Không khí trong căn phòng không mát mẻ chút lại lại còn bốc lên mùi thum thủm của thức ăn thừa. Bốn chung quanh tường la liệt nào xoong, nào chảo.
Hai người đàn bà liếc nhìn ông lão kế bên khung cửa, mắt đang hướng về phía sân. Ông lão chỉ chiếc ghế, nói với Fanhan:
– Xin mời ông ngồi…
Fanhan ngồi gần bà lão già, anh nói.
– Thưa bác, tên cháu là Fanhan, từ Uây dét xem tới cháu muốn về nhà. Hai người đàn bà nhướng mắt lên khi ông cũ bật nói như tỉnh cơn ngủ
– Fanhan, ở Uây dét xem? Có phải con trai lão Dắc Fanhan đó không?
– Dạ phải! Chắc Uây Dét Xem vẫn bình yên?
Ông già nhún vai, nhả một làn khói rồi nói tiếp:
– Không chộn nhộn gì lắm đâu, họ mong muốn quân Mĩ chiếm đóng thị trấn đó, nhưng quân Mĩ không tiến chiếm. quân Mĩ ở đây đã ba tuần rồi mà chẳng tiến xa hơn hai cây số; bên kia quân Đức cũng án binh bất động; vùng này chưa thuộc về bên nào, hình như đôi bên đều chê có thể vì vị trí địa dư không thuận tiện…
– Thỉnh thoảng quân Đức có bắn qua mà? Người đàn bà cắt ngang lời nói của ông cụ.
– Phải, mọi người đều nghe thấy hết đó!” Ông cụ đáp lại rồi ngoảnh nhìn Fanhan từ đầu tới chân; ông tiếp “Ông từ đâu tới?
– Thưa bác, phía đối diện. cháu chờ bên đó đã ba tuần nay mà chưa thấy quân Mĩ qua.
– Phía bên kia hả?
– Dạ không! Tuy ở bên đó thật nhưng chếch về hướng Nam gần Grinsơhem.
– Chà! ở Grinsơhem? Thế ra ông đã qua khu vực đối diện?
– Thưa bác vâng; nhờ đêm tối, mới hồi hôm!
– Thế ra ông đã thay đồ rồi!
Fanhan lắc đầu.
– Thưa bác không, anh đáp. Cháu đã trở về đời sống dân sự từ bên kia; họ đã cho cháu giải ngũ, cùng với nhiều người khác.
Ông lão mỉm cười nhìn người đàn bà trẻ tuổi
– Géctrúcđơ, nghe thấy không con? Họ cho xuất ngũ rất nhiều người. Ồ! Rồi tha hồ mà vui cười.
Hai người đàn bà ngưng gọt vỏ khoai; người đàn bà nhỏ tuổi cầm chiếc xoong tiến về phía vòi nước trong góc, đổ những củ khoai vào vỉ lược, rồi mở vòi nước để rửa; cô ả vẫn chậm chạp. Người đàn bà lớn tuổi nắm cánh tay Fanhan. Anh quay lại.
– Có phải họ cho nhiều người xuất ngũ? Bà hỏi lại anh.
– Nhiều lắm, Bác ơi, Fanhan đáp, có nhiều đơn vị đã cho toàn thể quân nhân xuất ngũ. Những người này đã đồng thanh tập hợp lại tại miền Rua. Riêng cháu, cháu chả muốn đi nữa.
Người đàn bà đứng kế vòi nước đang khóc thút thít, cố giữ không gây tiếng động, chỉ thấy hai vai nàng rung động.
– … hoặc khóc, ông già bỗng nhiên nói, cười hoặc khóc. Ông lão nhìn Fanhan:
– Chồng con nhỏ chết rồi; chồng nó là con trai của lão.
Ông lão cầm ống vố chỉ người đàn bà đang đứng rửa khoai thật chậm chạp và kĩ càng kế bên vòi nước; nàng vẫn chưa ngưng khóc.
– Tại Hung gia lợi, ông lão nói tiếp, vào mùa thu năm ngoái.
– Phải cho nó còn sống thì hè này nó đã được xuất ngũ rồi, bà cụ ngòi kế bên Fanhan lên tiếng, nhiều lần người ta tưởng nó được giải ngũ vì bệnh hoạn; nó bệnh quá trời. Nhưng rốt cuộc cũng chẳng ai lo cho nó cả! Nó còn một chiếc rương.
Bà cụ lắc đầu liếc nhìn nàng dâu, lúc đó vẫn còn đang loay hoay bên vòi nước. Nàng gượng nhẹ đổ khoai vào chiếc nồi sạch bóng, rồi chế thêm chút nước. Vừa làm nàng vừa khóc thút thít, thật nhỏ, khó ai có thể nghe rõ. Sau khi đặt nồi khoai lên trên lò, nàng lại góc phòng rút mảnh khăn tay bỏ trong túi chiếc “tạp dề”.
Fanhan nhận thấy nét mặt người góa phụ sa xuống. Anh không mấy khi nghĩ tới Fincơ; thỉnh thoảng cũng có đấy nhưng cũng chỉ thoảng qua rồi lại thôi. Lúc đó Fanhan lại nghĩ đến hắn quá nhiều, khiến những gì xảy ra với hắn trước đây, hiện rõ trong kí ức của anh: Chiếc va li nặng quá sức tưởng tượng bị trúng một trái tạc đạn; chiếc nắp xé gió bay đi đâu mất, trong đêm tối tiếng chai lọ va vào nhau vỡ loảng xoảng, rượu bên trong nhiễu xuống đầu cổ hắn… Fanhan sống lại giờ khắc đó với tất cả sự kinh ngạc trước cái hình hài nhỏ thó, gầy guộc của Fincơ, anh lần nắm khắp châu thân hắn cho tới khi tay anh va chạm vào giữa vết thương toang hoác, máu me bê bết…
Anh ngắm nhìn đứa nhỏ đang lê la dưới đất. Những ngón tay thon dài và trắng của đứa trẻ thơ đang lôi kéo chiếc xe gập ghềnh giữa những tấm đan hư vỡ, đứa nhỏ chất que củi lên xe rồi lại gỡ xuống, gỡ xuống rồi lại bỏ lên… Đứa nhỏ yếu ớt quá, cũng có những cử chỉ chậm chạp chả kém gì mẹ nó, lúc đó ngồi ở bàn, chiếc khăn tay úp trên mặt. Fanhan cảm thấy phiền muộn, chỉ biết ngó quanh và không biết có nên kể lại cho mọi người nghe những gì đã xảy ra. Fanhan cuối gục đầu xuống; chuyện đó chẳng nên nói trong lúc này; thôi đành để dịp khác. Anh sẽ chỉ nói riêng với ông cụ. Hôm ấy, anh đành im lặng; mà chắc họ cũng chẳng quan tâm tới điều tại sao Fincơ đã xuất viện để mắc cạn tại Hung gia lợi. Bà cụ lại nắm lấy cánh tay Fanhan.
– Có gì không ông? Bà cụ nhẹ nhàng hỏi anh, ông có đói không? Ông có đau ở đâu không?
– Thưa bác không, anh đáp, cám ơn lòng tốt của bác.
Khi nhận thấy tia mắt soi mói của bà cụ, anh phải nói rõ thêm.
– Thật tình cháu không đói, mà cũng không sao cả. cám ơn Bác!
– Vậy ông làm một li rượu nhé, ông cụ nói vọng từ phía cửa sổ, loại rượu mạnh?
– Dạ, cháu xin bác một li rượu mạnh, Fanhan đáp.
– Géctrúcđơ con ,ông cụ gọi nàng dâu, rót cho ông bạn đây một li rượu mạnh.
Người quá phụ đứng dậy, bước sang phòng kế bên.
– Chúng tôi ở đây chật chội quá, bà cụ nói với Fanhan, chỉ còn căn bếp này và phòng ăn mà thôi. Tôi nghe nói binh lính sắp sửa tiến quân; họ có nhiều thiết giáp xa quá; ngoài ra còn phải di tản tù binh nữa.
– Trong nhà này có tù binh hả bác?
– Có chứ, ông cụ đáp, họ bị nhốt ở các phòng kế bên đó; toàn là sĩ quan cao cấp, đang bị lấy cung. Sau đó họ sẽ được chuyển đi chỗ khác. Lão thấy có cả một tướng lãnh nữa kìa! Cháu nhìn xem!
Fanhan tiến gần về phía ông cụ, ông giơ tay chỉ những khung cửa sổ của những căn phòng trông xuống cánh sân thứ hai; tất cả các khung cửa sổ đều có song sắt đan thêm nhiều dây kẽm gai.
– Kìa! Ông cụ làm anh chú í. Người ta lại dẫn một người khác đi lấy cung.
Lần này đúng là viên tướng mà Fanhan nhận ra ngay: ông ta có nét mặt căng thẳng, trên cổ vẫn còn đeo chiếc huy chương hình chữ thập; ông mỉm cười, thản nhiên bước giữa hai tên lính trong tay lăm lăm khẩu tiểu liên. Trông ông ta không có vẻ gì là mệt mỏi tuy nước da hơi vàng, với vẻ bình tĩnh, quả quyết và hiền từ chả khác gì một nhà mô phạm, viên tướng không ngớt mỉm cười. Từ cửa lớn đi vào, bọn người chậm rãi bước ra sân rồi bước lên bực cửa; hai tên lính áp tải vẫn theo sát.
– Đó ông tướng đó, ông cụ thân sinh ra Fincơ xác nhận. Lại còn nhiều vị đại tá, thiếu tá nữa, tất cả đều thuộc bộ tham mưu; tất cả gần ba chục người.
Người quá phụ trở lại căn bếp mang theo vài chiếc li và một chai rượu mạnh. Nàng đặt chiếc li trên bậu cửa trước mặt bố chồng, một chiếc khác trên bàn, trước mặt chiếc ghế Fanhan vừa ngồi; Fanhan vẫn còn đứng gần cửa sổ, từ đó anh có thể nhìn tới cánh sân thứ hai có con đường phố chạy ngang phía sau. Ở đó cũng có hai tên lính gác trang bị tiểu liên. Fanhan nhận ra tiệm bán hòm trước mặt; anh nhớ trên con đường này có trường Trung học. Một chiếc hòm sơn đen kịt có nẹp bạc trên tấm nỉ đen viền tua bạc, được trưng bày làm mẫu trước cửa tiệm. Có lẽ chiếc hòm đã có từ hồi anh còn cắp sách tới trường hồi ba mươi năm trước đây.
– Mời ông dùng rượu! Ông cụ vừa nói vừa nâng li.
Fanhan vội vã nâng li và không quên cám ơn người quá phụ.
– Không dám! Xin mời bác, anh ta nói với ông cụ rồi nhấp môi và li rượu.
Rượu mạnh ngon tuyệt.
– Theo ý ông, lúc nào thuận tiện để ông lẩn về nhà?
– Dù gì ông cũng phải tìm qua những nơi không có lính Mĩ canh phòng; tốt hơn nên theo ngã Kơpel. Ông biết Kơpel chứ?
– Thưa bác vâng, Fanhan đáp. Ở đó không có lính Mĩ hả bác?
– Không. Đêm đêm tôi thường thấy nhiều người tới đây kiếm bánh mì, họ đều mượn đường Kơpel.
– Ban ngày bọn Mĩ cũng thường xạ kích vào nơi đó, người quá phụ xen vào giữa câu chuyện.
– Đúng vậy, ông cụ xác nhận, nhưng thỉnh thoảng thôi.
– Cám ơn bác, Fanhan đáp. Cám ơn bác nhiều lắm.
Sau câu nói đó, anh nốc cạn li rượu. Ông lão đứng dậy và nói.
– Tôi đi lên vườn nho bây giờ đây; tốt hơn ông nên theo tôi cùng đi. Ở đó ông sẽ nhìn thấy rõ hết, ngay nhà của cụ thân sinh của ông nữa…
– Vâng, Fanhan đáp. Cháu xin theo bác.
Anh nhìn hai người đàn bà bắt đầu lột lá cải; họ làm công việc đó thật nhẹ nhàng; mỗi lần lột được một chiếc lá; họ đều xem xét thật kĩ rồi mới xắt thành những nhánh nhỏ và bỏ vào vỉ lưới. Thằng nhỏ chán chiếc xe, ngửng đầu hỏi:
– Cho cháu đi với!
– Ừ! Đi theo ông! Ông cụ đồng ý với nó.
Ông cụ thân sinh ra Fincơ để chiếc ống vố trên bậu cửa, ông nói lớn:
– Trông kìa ông, lại có một người nữa sắp đi qua.
Fanhan vội chạy ra cửa sổ; anh nhìn thấy một vị Đại tá có dáng đi yếu đuối, có chiếc mặt lưỡi cày; trông ông ta quá bệnh hoạn đến đỗi chiếc cổ gầy guộc trở thành quá nhỏ so với chiếc cổ áo huy chương vẫn còn lủng liểng trên cổ áo; ông nhấc cao đầu gối mỗi khi cất bước với hai cánh tay lòng thòng.
– Thật xấu hổ, ông cụ lẩm bẩm, thật là xấu hổ! Fanhan với tay lên mắc hạ chiếc nón và đội lên đầu
– Xin kiếu cụ và bà, Fanhan chào hai người đàn bà.
– Chào ông, họ đồng thanh đáp lời chào của anh. Ông cụ ngoái cổ lại:
– Chúng tôi sẽ trở lại ăn cơm trưa đấy nhé.
*
Binh Béckem không ưa chiến tranh chút nào. Nghề cũ của anh là bồi bàn trong một hộp đêm. Anh đã nhiều lần thoát khỏi lệnh nhập ngũ cho tới năm 1944. Trong nghề bồi bàn tại hộp đêm đó, anh đã học được rất nhiều điều mà anh không thấy mới mẻ bằng một ngàn năm trăm ngày trong quân ngũ giữa thời chinh chiến. Kinh nghiệm trong nghề cho anh thấy đa số đàn ông không chịu được rượu; nhưng họ lại không tin điều đó, trái lại họ còn tự hào là tửu lượng rất cao và còn can đảm cho mình uống rượu rất giỏi, họ thường khoe với đám người đi cùng với họ như vậy. Nhưng thực ra, người biết uống rượu lại chẳng có bao nhiêu, còn người ngồi nhìn kẻ khác uống lại càng hiếm hơn. Chiến tranh cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu.
Đa số đàn ông đã mắc lỗi lầm công nhận chút kim khí bóng loáng ghim nơi ngực hoặc tòng teng trên cổ có mãnh lực thay đổi giá trị của con người mang nó. Có nó thì kẻ đần độn cũng trở thành tinh khôn, kẻ yếu như sên cũng trở thành mạnh như hổ. Trái lại Béckem nhận thấy sai, sai ở chỗ nếu có sự gì thay đổi, thì chỉ toàn ở chiều hướng đi xuống mà thôi. Riêng anh, anh không hề biết trước những ai sẽ tới quán rượu, còn những người đã tới anh không hi vọng thấy họ vào những đêm khác. Điều anh biết chắc, mặc dù họ muốn tưởng tượng hoặc tán dóc họ nốc bao nhiêu rượu, ực từng hơi ngày này hay ngày khác, nơi này hay nơi khác, tất cả những người đó không ai là không bị rượu đánh ngã. Nhìn kẻ say chẳng có gì là đẹp mắt; ấy vậy mà trong một ngàn năm trăm đêm sống trong quán rượu đó, anh chưa thấy ai chịu bỏ thời gian để kiểm soát việc buôn bán chợ đen; có lẽ người ta cho rằng phải có một nơi nào đó để cho các người hùng nơi chiến tuyến có dịp uống, hút và ăn. Tên chủ quán mới hai mươi tám tuổi đầu, khỏe như vâm mà phải tới tháng chạp năm 1944 chả ai thèm lôi hắn vào quân ngũ. Hắn chả cần lưu tâm đến những trái bom đang tàn phá lần lần thành phố; hắn có một chiếc vi la xây cất trong rừng với một hầm trú ẩn kiên cố. Hắn còn chơi chua bằng cách mời những người hùng chiến tuyến mà hắn ưa thích về tận nhà riêng để nhậu. Hắn có xe riêng để đưa rước họ, khi tới cũng như lúc về.
Từ đầu hôm sớm mai Béckem quan sát kĩ lưỡng đám thực khách, lắng tai nghe những điều họ nói, vì lương tâm chức nghiệp mặc dù anh nhận thấy những mẩu chuyện giữa họ với họ chán phè. Họ đã kể cho nhau nghe toàn chuyện chiến tranh nào bao vây, nào tấn công; anh có ý định ghi tất cả vào trong sổ tay nhưng khốn nỗi nó lại quá nhiều; mấy người hùng nhắc đến chuyện binh biến, thật ra chỉ để giải thích tại sao họ không được ban thưởng huy chương mặc dù họ cảm thấy rất xứng đáng, ít ra cũng được một chiếc, nhưng xét vì… xét vì… đầu óc Béckem quay cuồng vì vấn đề “xét vì… xét vì…” đến đỗi anh chán ngấy chiến tranh. À, mà còn nữa chứ; đến lúc các quan say sưa, các quan chả cần giữ lời lẽ, có gì đều tuôn ra hết, với nhau là lẽ đương nhiên và còn ngay cả với mấy cô nàng, có thể là địch vận đã lặn lội tới đó từ Pháp, Ba lan, Hung gia lợi và Lỗ ma ni. Mấy ả này, phần đông lại chịu được rượu. Béckem chịu mấy cô ả đó lắm, nhất là khi họ có thể thù tạc với anh.
Vào giờ khắc đó Béckem đang nằm chúi trong một vựa thóc tại một nơi mang tên Aobuốc, trong mình hắn có ống nhòm, có tập học trò có viết chì và chiếc đồng hồ đeo tay. Hắn được lệnh theo dõi tình hình quân sự tại Haiđơhem cách hắn khoảng hai trăm năm chục thước, bên kia bờ một con sông nhỏ. Ở đó chả có gì đáng quan sát; tầm mắt của anh một nửa bị hạn chế bởi bức tường gạch của lò bánh kẹo, đã đóng cửa nghỉ việc, phần còn lại là một khoảng đường phố thưa thớt vài khách bộ hành tiến về phía tây Vaiđơhem, rồi vội vã biến dạng trong những ngõ hẻm. Những người đó, thuần là nông dân làm trong vườn nho hoặc vườn cây; Béckem nhìn thấy họ trên đồi cao phía sau Haiđơhem không thuộc phạm vi trách nhiệm của anh. Khẩu đại bác anh làm tiền sát viên chỉ được quyền nã bảy trái đạn trong một ngày và phải tiêu thụ hết trong ngày mới được lãnh thêm. Bảy trái đạn trong một ngày có thấm tháp gì với binh đội Hoa kì đang chiếm đóng Haiđơhem, một trái bắn sang bên đó, sẽ được đại pháo Hoa kì đáp lễ hàng loạt cả trăm trái liên tiếp; như vậy có bắn đi cũng bằng vô ích; ngoài ra cũng cần thiết cấm chỉ vì đạn bay đi không gây tổn thất cho địch mà khi đạn bay về nhột nhạt quá. Anh còn cảm thấy ghi chép vào sổ cũng bằng thừa, dù vậy anh vẫn làm công việc đó đều đều: “10g30 chiến xa Hoa kì từ Haiđơhem tiến tới căn nhà kế cận lò bánh kẹo; đâu trước lò bánh kẹo; rút lui hồi 11g15”. Chiếc chiến xa đó hằng ngày vẫn tới đậu ở đó một tiếng đồng hồ và chỉ cách nơi anh khoảng một trăm năm chục thước, ngày nào anh cũng ghi mà bên anh chẳng bao giờ có phản ứng. Anh lính Thiết giáp binh Hoa kì còn xuống đất vào trong ngôi nhà đó cả tiếng đồng hồ rồi mới ra đi.
Trưởng khẩu đại bác của Béckem là một viên Thiếu úy mang tên Grách, trước đó là một mục sư. Béckem chưa hề có dịp quen các mục sư; anh nhận thấy viên thiếu úy đó rất dễ thương; ông ta cho lệnh tống bảy viên đạn trái phá vào phần đất lầy lội, lau sậy mọc đầy gần ngã ba sông, bên trái Haiđơhem. Dân chúng trong vùng mệnh danh Kơpel, lưu vực con sông đó; đạn trái phá rớt xuống đây chẳng gây thiệt hại gì cho ai, Béckem vì lương tâm chức nghiệp, ghi vào trong tập: “Có sự khuấy động bất thường trong vùng ngã ba sông”. Viên thiếu úy không tỏ ý phản đối những điều anh ghi, vì hàng ngày anh cứ thấy ông cho tống đạn vào vũng lầy.
Nhưng, cách đó hai ngày, trưởng khẩu đại bác được thay thế: người mới tới trung sĩ nhất Sinivin, anh chàng này có vẻ muốn làm một điều ngoạn mục bằng cách gióng hướng súng vào những chỗ nào đã kéo cờ trắng; ờ! Nếu muốn mời quân Hoa kì chiếm đóng thì biết tay anh; khổ nỗi quân Hoa kì không nhúc nhích. Phần đất của xã ở vào một vị trí không thuận tiện, chung quanh bao bọc ba phần nước, để trở thành mục tiêu cho các cuộc pháo kích, trái lại Haiđơhem có một vị trí thuận lợi cho hành quân hơn; có lẽ vì vậy mà quân đội Hoa kì không dự tính chiếm thêm các vị trí khác. Ngoài ra quân đội Hoa kì đã tiến thêm nhiều mũi dùi vào Đức quốc và chiếm gần trọn miền trung bộ; nhưng ở đây Haiđơhem, họ lại không nhúc nhích, chần chừ cả ba tuần lễ. Cứ mỗi lần Haiđơhem lãnh một trái đạn, quân Hoa kì đáp lễ cả trăm trái. Trung sĩ nhất Sinivin dành bảy trái đạn cho Vaiđơhem và các vị trí chung quanh anh ta nhất thiết phải phạt đám dân chúng, thiếu tinh thần ái quốc; anh rất khó chịu khi nhìn thấy những ngọn cờ trắng bay phất phới trước mặt.
Ngày đó Béckem lại chịu khó ghi thêm vào tập: “9g00 khuấy động bất thường trong vùng ngã ba sông”. Hồi 10g15 anh vẫn ghi như vậy, đến 11g45 anh ghi thêm: “chiến xa Hoa kì di chuyển từ Haiđơhem đến Vaiđơhem; lò bánh kẹo”. Đúng ngọ anh rời đài quan sát để đi ăn cơm. Anh sắp sửa xuống thang, trung sĩ Sinivin từ dưới đất nói vọng lên:
– Đừng xuống vội! Chờ một lát!
Béckem trở vào đứng bên khung cửa sổ trên mái vựa thóc, bắc ống nhòm về phía trước mặt. Sinivin giật chiếc ống nhòm trên tay Béckem rồi nằm sấp xuống sàn nghểnh đầu qua bậu cửa sổ, làm như hắn đang ở chiến trường. Béckem liếc nhìn hắn; hắn thuộc dạng người thực tế thiếu chịu đựng, nhưng lại có ảo tưởng rằng họ giỏi chịu đựng và còn thuyết phục người khác phải tin như vậy. Sự nhiệt thành của hắn mất vẻ tự nhiên khi hắn nằm bẹp trên ván sàn để nhìn khu vực Vaiđơhem bất động. Béckem nhìn thấy ngôi sao đính trên cầu vai hắn còn mới, mới tinh như cuốn dây thao uốn theo hình móng ngựa chung quanh cầu vai. Sinivin trả lại chiếc ống nhòm cho Béckem lầu bầu trong miệng:
– Đồ khốn nạn! Thật khốn nạn chưa chi đã vội kéo cờ trắng; đưa tôi cuốn tập!
Béckem đưa tập cho hắn, hắn đọc những dòng chữ ghi trong đó:
– Toàn chuyện phịa không à! Hắn nói, tôi không hiểu tại sao anh lại ghi bậy bạ như vậy: lưu vực ngã ba sông bùn sình đó chỉ lúc nhúc cóc nhái mà thôi; có gì khác đâu. Nào, để coi lại xem!
Hắn lại giật chiếc ống nhòm từ tay Béckem để quan sát lại khoảng ngã ba sông; anh nhận thấy trên môi hắn còn ràng ràng vệt nước miếng, nhễu xuống thành dây lòng thòng.
– Nào có gì đâu!, hắn lầu bầu, chả có ma dại nào ở đó cả; anh toàn báo cáo láo không à!
Hắn xé một tờ giấy trong cuốn tập, móc trong cùng túi áo lôi ra một mẩu bút chì, mắt không ngớt nhìn ra ngoài khung cửa, tay hí hoáy viết
– Quân khốn nạn! Thật khốn nạn, hắn vẫn tiếp tục nguyền rủa.
Hắn xuống thang không thèm chào lại Béckem. Một phút sau Béckem cũng xuống thang kiếm cơm ăn.
*
Từ trên đồi nho chế ngự toàn vùng, Fanhan mới hiểu tại sao Vaiđơhem không thể là mục tiêu quí giá cho cả hai phe đối nghịch quân Hoa kì cũng như quân Đức; có chiếm đóng vùng này cũng chỉ uổng công vô ích: lèo tèo mười lăm căn nhà cùng một xưởng làm kẹo mứt đã ngưng hoạt động. Ở Haiđơhem có một nhà ga xe lửa xép; còn một chiếc nữa thì ở bên kia sông trong vùng Aobuốc thuộc phạm vi kiểm soát của quân Đức. Vaiđơhem lúc đó được xem như cánh tay đã bị liệt. Haiđơhem trái lại, với địa thế ẩn tàng trong hốc đá tuy nhỏ hẹp nhưng lại đủ khả năng chứa đầy chiến xa và quân xe nằm chình ình chẳng ai thèm ngụy trang. Ngoài thung lũng, đồng cỏ và đồi núi đầy tạo thành những đốm trắng, hồng hoặc xanh. Lúc đó đang giữa mùa xuân nên trời mát dịu. Từ trên cao nhìn xuống, cơ ngơi của gia đình Fincơ hiện ra rõ rệt như một mô hình, hai cánh sân vuông vức tiếp giáp những con phố nhỏ hẹp. Anh nhìn rõ bốn người lính gác; trong cánh sân dành cho xưởng mộc một người đàn ông bận rộn bên cạnh một chiếc thùng lớn, hình thù hơi khác biệt, màu vàng lợt; có lẽ đó là chiếc quan tài, nhiều chỗ vừa mới bào nhẵn còn để lộ vân gỗ màu đào. Bà vợ chủ nhân ngồi kế bên chồng và đang nhặt rau.
Ngoài đường phố khá náo nhiệt mấy bà nội trợ đi tới đi lui, mua bán; vài ba chú lính thả rong; cuối xã, vào giờ tan học, học trò tuôn ra đông nghẹt. Ngược lại phía Vaiđơhem hoàn toàn buồn vắng. Mấy căn nhà gần như ẩn kín dưới tàn cây, nhưng Fanhan đã thuộc sẵn từ lâu, nhà nào của Béc, nhà nào của Hóppơnrát; chúng bị hư hại ra sao, và nhà của cha mẹ anh vẫn được nguyên vẹn. Nhà của cha mẹ anh ở ngay mặt tiền sơn màu vàng cũ kĩ; trên lầu nhất căn nhà, ngay trước cửa sổ phòng ngủ của cha mẹ anh, phất phới ngọn cờ trắng cỡ đại lớn hơn cả nhiều ngọn cờ khác tại các nhà kế cận. Cây ti ơn đã trở lại tốt tươi.
Vậy mà chả có bóng dáng người nào ngoài đường cái; những lá cờ trắng dũ xuống, bất động vì thiếu gió. Cánh sân rộng trong lò bánh kẹo cũng vắng tanh, vắng ngắt; cửa kho đóng kín nhưng ngoài sân chất đống hoặc ngổn ngang, chỗ này chỗ kia thật nhiều thùng.
Fanhan bỗng thấy xuất hiện một chiếc xe hơi Hoa kì từ nhà ga xe lửa Haiđơhem xả hết tốc lực qua đồng nội, vườn cây trái hướng về phía Vaiđơhem. Chiếc xe thỉnh thoảng khuất dưới màu hoa trắng ở khắp chùm cây rồi lại ló dạng để tiến vàođuường phố chính ở Vaiđơhem. Chiếc xe ngừng trước lò đường.
– Trời! “Fanhan nói nhỏ với ông thân sinh ra Fincơ, tay chỉ chiếc xe hơi”, thế nghĩa là gì?
Ông cụ ngồi bên cạnh anh trên chiếc ghế băng đặt trước căn lều chứa dụng cụ,thản nhiên lắc đầu.
– Có gì đâu! ông nói chẳng có gì là quan trọng! Người ngồi trong xe là tình nhân của cô Mécbách. Hàng ngày hắn thường lui tới đó.
– Một người Hoa kì mà?
– Dĩ nhiên rồi, ông cụ đáp, cô ả không dám đến với người Hoa kì đó vì quân Đức thỉnh thoảng lại pháo kích vào vị trí quân Hoa kì. Vì vậy anh chàng đành phải dấn thân đến tìm nàng.
Fanhan mỉm cười. Chính anh cũng biết rõ cô nàng Mécbách cô nàng nhỏ tuổi hơn anh; anh nhớ lại khi anh rời nhà ra đi, thì cô ả chỉ mới mười bốn tuổi, gầy đét, chân tay lòng khòng; cô ả luôn luôn tỏ vẻ bồn chồn. Cô ả chơi dương cầm, siêng năng lắm nhưng vẫn quá dở. Anh nhớ lại một chiều chủ nhật trước đây, cô ả đàn ở tầng dưới nhà, trong phòng khách của xưởng bánh; lúc đó anh đang ở ngoài vườn và đang đọc sách. sau khi thôi không dạo đàn nữa, cô ả bước tới gần khung cửa sổ, nhìn xuống vườn, mặt mày xanh lét; anh mắt buồn và không tỏ vẻ hài lòng. Nghỉ cùừng vài phút cô ả lại tiếp tục đàn. Vào hồi này, cô ả phải hai mươi bảy tuổi rồi. Anh thấy vui hộ cô ta khi tìm được người yêu.
Fanhan tự nhủ chả còn bao lâu nữa anh sẽ qua bên kia để về nhà, ngay sát nách gia đình họ Mécbách. Rồi ngày hôm sau cũng vào giờ đó, anh sẽ được rõ mặt anh chàng Hoa kì đó. Có thể anh sẽ có dịp trao đổi với hắn dăm ba câu chuyện rồi nhờ hắn về việc giấy tờ. Chắc chắn hắn phải là một sĩ quan; Cô Mécbách chẳng bao giờ lại yêu một anh chàng binh nhì.
Fanhan nghĩ tới căn nhà nho nhỏ của anh tại thành phố mà anh biết lúc này không còn nữa. Đông lân hàng xóm trước đây đã biên thư báo cho anh biết căn nhà ấy nay chẳng còn, anh cố gắng hình dung căn nhà của anh ra sao mà không được. Mặc dù chính mắt anh đã chứng kiến biết bao nhiêu căn nhà khác đã sụp đổ. Căn nhà của anh ở trong tình trạng bi đát đó, thế làm anh không sao mường tượng được. Khi được tin căn nhà anh bị sập, anh lại không về mặc dù thượng cấp của anh cho phép; anh không hiểu tại sao anh lại không chịu về để xác nhận căn nhà của anh chỉ còn là đống gạch vụn. Lần cuối cùng, năm 1943, anh về thăm nhà thì căn phố vẫn còn nguyên vẹn; anh đã lấy giấy bìa cứng để thay thế những khung kính cửa sổ bị bể rồi ra quán rượu gần đó ngồi chờ xe lửa tới. Anh đã ngồi trong quán tới ba tiếng đồng hồ, nói chuyện với gã bồi bàn dễ mến, chững chạc và nhất là biết lẽ phải; hắn còn trẻ, hắn thường bán thuốc lá với giá bốn chục “fenních” và rượu cô nhắc Pháp với giá sáu mươi lăm đồng “Mác” giá đó chẳng đắt chút nào. Hắn cũng nói cho anh biết tên hắn nhưng anh lại không nhớ hắn giới thiệu cho anh một người đàn bà thật đẹp chất phác, sự thật thà chất phác cố hữu của người Đức. Người đàn bà đó mang tên Crét và mọi người đều kêu bằng “mẹ Crét”. Anh tin lời anh bồi bàn nên đã nói chuyện với người đàn bà khá lâu và uống vài li rượu ngon. Suốt ba tiếng đồng hồ Fanhan nhận thấy Crét quả tình rất giản dị, tự nhiên; cô ả đã đem chuyện nhà ở Slơvích Hôlsten kể lại cho anh nghe và còn an ủi anh về những tai họa của chiến tranh. Trong quán rượu đó, Fanhan đã tìm được niềm thơ thới mặc dù đêm đã tàn, số sĩ quan và binh sĩ đưa nhau ra ngoài tập cơ bản thao diễn.
Lúc ấy anh cảm thấy hài lòng trở về mái nhà xưa để sống ở đó. Anh sẽ sống ở đó thật lâu, chẳng muốn bôn ba nữa và quyết định chờ đợi mọi biến cố. sau chiến tranh, thiếu gì việc phải làm, nhưng chính anh, anh lại không muốn tự hủy hoại bằng công việc. Anh có thể giúp người này, người khác trong việc gặt hái; kể như thế chả hại chút nào vì anh không tình nguyện như những người khách về quê nghỉ hè phải nắm tay vào chĩa nhọn. Nếu ai nhờ, anh sẽ xây vài căn nhà trong vùng. Anh liếc mắt nhìn Haiđơhem: sao nhiều nhà sập đến thế, suốt một dọc kế cận nhà ga xe lửa và ngay cả nhà ga. Một chuyến tàu vét còn đó; chiếc đầu tàu lỗ chỗ nhiều vết đạn, đổ nghiêng bên cạnh đường rầy; một chiếc cam nhông Hoa kì đậu sát toa goòng chở đầy gỗ; người ta đang chuyển gỗ cây từ toa goòng sang xe cam nhông; nưững tấm ván vừa được xẻ ra từ các khúc cây làm mọi người chú ý như khi người ta chú ý tới chiếc quan tài trong vườn nhà bác thợ mộc, sáng chói hơn cả nụ bông trên cây.
Fanhan nghĩ tới con đường anh sẽ nương theo. Theo ông cụ thân sinh ra Fincơ, dọc theo con đường đó, có nhiều toán lính gác Hoa kì; họ còn đặt nhiều đồn bót, nhưng không hề gây khó dễ cho những người nghỉ việc lẻ tẻ ra đồng. Muốn được an toàn hơn anh có thể theo đường mương dẫn nước dài chừng vài trăm thước từ con sông đầy cát. Lúc men theo đường mương đầu nên cuối xuống thật thấp. Nhiều người đã theo lối đi đó bằng cách chui qua bụi rậm vùng Kơpel len lỏi dưới mương dẫn vào khu vườn ở Vaiđơhem. Khi đã lọt vào những khu vườn thì chả ai thấy nữa. Fanhan lại rất thuộc đường trong khu vực đó. Anh có thể ngụy trang bằng cách vác trên vai cuốc hoặc mai. Cụ thân sinh ra Fincơ đoan quyết hằng ngày nhiều người từ Vaiđơhem đã sang bên này để thăm vườn nho hoặc vườn cây trái của họ.
Fanhan chả mong muốn gì hơn là được về nhà, nằm dài trên giường nghỉ ngơi mà không bị ai phiền nhiễu. Anh tha hồ nghĩ tới Ilôna, và mơ đến nàng. Sau đó anh sẽ làm việc. Anh lại tha hồ được ngủ, để cho mẹ anh nuông chiều chăm sóc. Chắc mẹ anh sung sướng khi biết anh sẽ mãi mãi ở lại nhà. Anh sẽ tìm lại cái thú được đọc sách và hút thuốc. Cô ả Mécbách chắc vẫn còn chơi dương cầm có thể bây giờ khá hơn trước nhiều. Anh biết chắc trước đây anh không hề để ý tới tài nghệ của cô ả mà chỉ cảm thấy sung sướng khi được đọc sách ngoài đường và nghe cô ả nện xuống phím đàn. Tới lúc đó anh mới cảm thấy giá trị của cái diễm phúc xa xưa ấy. Anh mơ ước tự tay cất lên căn nhà mà chưa ai cất được và căn nhà đó cũng chẳng khác những căn nhà người khác cất lên bao nhiêu. Anh chỉ là một kiến trúc sư bậc trung; anh biết rõ điều đó lắm, nhưng anh tự mãn vì đã chọn được một cái nghề khả dĩ tạo được những công trình kiến trúc nho nhỏ, bền vững ưa nhìn qua phóng đồ và đôi lúc vẫn còn ưa nhìn ngay cả khi công trình đó được hoàn tất. Điều cần nhất là chả nên quan trọng hóa vấn đề; chỉ có vậy thôi.
Con đường anh sắp phải đi có vẻ quá dài, mặc dù chỉ mất khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ là cùng, bắt đầu từ khởi điểm. Anh cảm thấy mệt nên đâm lười; phải chi anh có xe đưa qua quãng trống đó, vừa nhanh lại vừa đỡ mệt cho anh; anh chỉ việc nằm duỗi dài rồi lăn ra ngủ. qua phòng tuyến Hoa kì đối với anh không phải là chuyện dễ, có khi còn nguy hiểm tới tính mạng. Anh sẽ phải vượt nhiều chướng ngại vật; lúc này anh ngại khó; tất cả đều làm anh chán ngán.
Khi chuông nguyện nhà thờ vừa vang lên, anh vội vã lột chiếc nón kết trên đầu xuống, rồi chắp hai tay vào với nhau. Ông cụ thân sinh ra Fincơ và thằng nhỏ cũng làm như anh, bác thợ mộc đang bận bào chiếc quan tài buông vội chiếc bào, mụ vợ lão đẩy xa rổ rau rồi đứng dậy. Cả hai vợ chồng lão cùng chắp tay trước ngực. Chẳng có người nào thấy ngượng ngùng phải cầu nguyện giữa nơi công chúng; nhưng riêng anh, anh thấy chương chướng mặt dù trước đây việc nguyện kinh đối với anh không có gì xa lạ. Từ ngày anh được mục kích Ilôna cầu nguyện, nàng tỏ ra quá sốt sắng, ít thấy ở một người đàn bà đẹp, đến đỗi giáo hội cũng phải tin tưởng, anh cũng phải tự động cầu xin; trong thâm tâm anh chả có gì ước muốn nữa: Ilôna nay đã chẳng còn thì cầu nguyện để làm gì. Nhưng anh vẫn cầu nguyện để nàng trở lại, vì chỉ có Chúa mới biết nàng đang ở nơi nào, sẽ giúp anh đến được với nàng. mục tiêu của anh gần kề rồi mà. Những người chung quanh anh, tất cả đều cầu xin để nhìn thấy điều ước muốn của họ được thể hiện. Trái lại, Ilôna đã khuyên anh: “chúng ta phải cầu nguyện để an ủi Chúa!” Câu đó Ilôna đọc cho anh nghe, nàng thấy nó hơi lạ và với anh, khi chắp tay anh, lòng nhủ lòng, không hề cầu xin gì hết; như vậy với anh đó cũng là một cách nguyện cầu. Anh nhủ lòng phải năng viếng nhà thờ; anh khổ tâm lắm vì phải nghe bài giảng, vì phải gặp nhiều người anh không ưa; anh quyết tâm luôn luôn viếng nhà thờ, xem lễ chỉ cốt an ủi Chúa, an ủi NGƯỜI, vì những tôi tớ của NGƯỜI. Ý nghĩ đó làm anh mỉm cười, buông thõng tay xuống lượm chiếc nón kết đội lên đầu.
– Trông kìa, ông thân sinh ra Fincơ gọi anh, người ta bắt đầu di tản tù binh.
Ông cụ giơ tay chỉ về phía Haiđơhem. Fanhan nhìn thấy chiếc xe cam nhông đậu trước cửa trại hòm; số sĩ quan từ trong căn phòng hẹp tại căn nhà cụ Fincơ bước lên xe, ngồi chật ních. Tất cả mọi người đều mang huy chương đầy ngực, sáng chói, từ xa ai cũng nhận thấy rõ. Chiếc xe cam nhông chạy thật mau trên con đường lớn rợp bóng cây; chiếc xe nhắm về hướng Tây trực chỉ; ở đó chưa có chiến tranh…
– Dường như, ông cụ nói, họ chưa tiến quân. Ông có nhìn thấy những chiếc chiến xa kia không?
– Cháu mong họ tiến chiếm Vaiđơhem càng sớm càng tốt, Fanhan đáp lại.
Ông cụ gật đầu đồng ý:
– Chắc cũng chả còn bao lâu nữa. Sau này ông nhớ sang thăm chúng tôi.
– Thế nào cháu cũng sang thăm hai bác.
– Chúng tôi mong gặp lại ông, cụ đáp, ông hút thuốc không?
– Cám ơn bác, anh đáp lời mời của ông cụ rồi nhồi thuốc vào ống vố.
Ông cụ đốt thuốc cho anh; cả hai người đứng ngắm cánh đồng đầy hoa một lúc lâu; cánh đồng chạy thoải ra mãi tận xa; ông cụ đặt bàn tay lên đầu thằng cháu nội.
– Bây giờ cháu phải đi, Fanhan bỗng nhiên nói lên ý định, xin kiếu bác; cháu nóng long về nhà quá…
– Ờ! ông về đi, đừng lo sợ gì hết; chả có gì là hiểm nguy đâu, ông cụ an ủi vỗ về Fanhan.
Anh chìa tay cho ông cụ.
– Cháu cám ơn bác thật nhiều, anh vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt ông cụ, cám ơn bác; cháu ước mong được gặp lại bác thật sớm.
Anh không quên bắt tay thằng nhỏ đang hướng đôi mắt đen và rộng về anh, nó nhìn anh có vẻ nghĩ ngợi nhưng không hề nghi ngại.
– Ông nên cầm lấy một cán cuốc, ông cụ khuyên anh, như thế tốt hơn.
– Cám ơn bác, Fanhan đưa tay đón cán cuốc từ tay ông cụ.
Anh có cảm nghĩ anh đang tiến thẳng tới chiếc quan tài bác thợ mộc đang đóng trong sân; chiếc hòm thật lớn, thật bóng vẫn nằm đó, mỗi lúc một lớn hơn khi anh tiến thẳng lại gần; cảm tưởng đó giống như lúc anh đang ngắm nhìn qua ống nhòm. Anh rẽ về tay mặt dọc theo hương lộ; anh nhập đám đông học trò vừa tan trường, cùng đi với chúng tới đầu tỉnh; anh vẫn tiếp tục đi nhưng lúc đó chỉ còn mỗi mình anh trên con đường dẫn tới đường mương thoát nước. anh thấy khó chịu nếu cứ phải khom lưng mà đi dưới mương vì vậy anh bất cần, thẳng người đi đại. Anh không khoái lội nước bìm bõm trong vùng Kơpel ngoài ra anh thấy kì kì: tiến về làng bằng hướng bên phải đề tới nơi bằng hướng bên trái. Anh men theo con đường tắt, băng qua đồng, băng qua vườn cây trái cho tới lúc anh đụng đầu với một người khác đi ngược chiều, cách anh vài trăm thước, trên vai cũng có một cán cuốc.
Quân Hoa kì đặt hai người gác ở đường mương. Họ để đầu trần, đứng hút thuốc, nhìn vườn cây trổ bông với ánh mắt chán chường; vườn cây ngăn cách hai vùng Haiđơhem và Vaiđơhem. Họ không để ý tới Fanhan; họ đã gác ở đó được ba tuần lễ và trong hai tuần đầu Haiđơhem chưa bị pháo kích lần nào; Fanhan bước qua mặt họ, rất bình tĩnh; anh còn chào họ nữa chứ; họ cũng chào lại anh và không nghi ngờ gì.
Chỉ còn mười phút nữa thì anh tới đích; anh băng thẳng qua vườn cây rồi quẹo về bên trái giữa trang trại của gia đình Hôidơ và Hóppơnrát; chỉ còn qua quãng đường lớn là anh tới nhà. May ra anh gặp được người quen.
Nhưng anh chả gặp được ai, không nghe thấy gì ngoài tiếng động cơ xe vang lại từ xa, Vào giờ đó, chẳng bên nào khai hỏa; mặc dù việc khai hỏa vào giờ khắc nhất định giữa đôi bên vẫn có nhưng lại nhưng vào lúc đó; anh có cảm tưởng cả đôi bên biết sự hiện diện của anh vào giờ khắc đó nên đã ra lệnh tạm ngưng tiếng súng.
Anh chua chát nghĩ tới Ilôna: anh có linh cảm nàng muốn trốn tránh anh, có thể nàng đã chết, có thể nàng không muốn bận vào thân; nếu không lúc đó nàng đã phải ở kế bên anh; nàng phải ở kế bên anh, anh có cảm tưởng như vậy. Chính Ilôna đâu có muốn sống kiếp gái già nhưng gắn cuộc sống nàng vào một mối tình mới chớm nở, phù du trong khi trên đời còn có một mối tình khác, một mối tình trường cửu, là một việc chẳng nên làm. Ilôna có thể biết rất nhiều, thật nhiều, nhiều hơn cả anh nữa. Anh có cảm tưởng đã bị chiếm đoạt mất một cái gì vì giờ đây anh sắp trở về mái nhà xưa; anh sẽ tiếp tục cuộc sống riêng biệt, đọc thật nhiều và làm chả bao nhiêu; anh sẽ nguyện cầu để an ủi Chúa. Và chẳng hề xin Chúa ban ơn; tình thương của Chúa có bao giờ thể hiện được bằng sự sang giàu, sự thành công hoặc một phương tiện sống bằng cách làm ăn dối trá; trên đời đã nhiều người sống thực mà làm dối; chính anh cũng vậy, anh ăn thực mà làm dối, một kiến trúc sư không thể tạo ra được những căn nhà cho người khác; kiến trúc sư, loại hạng bét còn làm được hơn anh nhiều.
Anh mỉm cười khi bước qua nhà Hóppơnrát cây cối vẫn chưa hề được phun chất lỏng trăng trắng mà cha anh bảo là cần thiết. Cha anh đã thảo luận thật sôi nổi với Hóppơnrát về vấn đề này nhưng hắn đâu có thèm nghe ông…
Chỉ còn vài bước nữa là anh về tới nhà. Bên tay trái anh là trang trại của Hôidơ, bên tay mặt của Hóppơnrát; con đường ngăn đôi hai cơ sở đó quá nhỏ hẹp. Anh theo con đường lớn bên trái một thôi ngắn. Cây cối trong vườn Hôidơ đều được phun nước vôi trắng xóa. Anh mỉm cười.
Trái đạn bay trước mặt anh; anh vừa kịp nhận ra đã vội nằm xấp xuống đất, nụ cười chưa tắt; quả đạn rớt ngay trong vườn cây Hóppơnrát rồi nổ tung, cành, lá bay mù đất; hoa trắng rụng đầy vườn, trắng xóa một màn trên nền cỏ. Viên đạn thứ hai trúng gần nhà Bômơ, gần kề cửa nhà cha mẹ anh; trái thứ ba và thứ tư không trúng mục tiêu vì hơi chếch về bên trái; hai trái đạn sau nhỏ hơn. Anh sắp sửa từ từ đứng dậy thì trái thứ năm rớt xuống nữa trúng ngay chỗ các trái trước đã nổ. Cuộc pháo kích ngừng ở trái thứ năm. Anh nằm yên nghe ngóng thêm một lúc; không còn tiếng đạn bay nữa. Anh vọt đứng dậy chạy thật mau. Trong làng chó đua nhau sủa vang; gà vịt trong nhà Hôidơ bay tứ, bò trong chuồng rống lên từng hồi. Anh lẩm bẩm: “Để làm gì nhỉ! Để làm gì nhỉ!” Có lẽ họ ngắm bắn chiếc chiến xa Hoa kì, vì nó vẫn còn đậu ở đó. Khi anh tới khúc quanh con đường, mới nhận ra chiếc chiến xa đã đi rồi. Đường phố vắng ngắt, chỉ có tiếng chó sủa và bò rống. Chỉ còn vài thước là anh tới nhà cha mẹ. Trong làng chỉ còn mỗi nhà anh treo cờ trắng, lá cờ sao mà to thế; có thể người trong nhà đã dùng chiếc khăn trải bàn để làm cờ, chiếc khăn đó mẹ anh chỉ dùng khi trong nhà có đãi đằng lớn. Anh vừa mỉm cười thì lại phải nằm xuống mặc dù anh biết đã quá chậm. Anh nghĩ “Bắn như vậy thật vô ích chả ăn thua đâu vào đâu!” Trái đạn thứ sáu trúng ngưỡng cửa nhà anh; cột đá sập, vôi cát bay tứ tung; mẹ anh kêu cứu dưới hầm rượu. Anh trườn bò thật mau vào trong nhà. Trái đạn thứ bảy bay tới anh vừa kịp thốt lên tiếng kêu thì nó đã nổ rồi: Cái chết với anh lúc đó thật không đơn giản chút nào. Người anh bị hất vào trong nhà, cán cờ gẫy đôi; tấm khăn trải bàn rớt xuống phủ kín người anh.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.