Hy Vọng Táo Bạo
Chương 4: Chính trị
Một trong những công việc làm tôi thích thú nhất khi làm thượng nghĩ sĩ là tổ chức những họp mặt cử tri. Tôi đã tổ chức chừng ba mươi chín buổi họp như vậy trong năm đầu tiên làm thượng nghị sỹ trên khắp bang Illinois, từ những thị trấn nhỏ ở nông thôn như Anna đến những vùng ngoại ô giàu có như Naperville, trong những nhà thờ của cộng đồng người da đen vùng phía Nam và tại một trường đại học ở Rock Island. Không có gì rình rang lắm. Các cộng sự của tôi liên lạc với các trường trung học, các thư viện, các trường cao đẳng tại địa phương để biết liệu họ có đồng ý tổ chức các buổi họp mặt không. Trước buổi họp khoảng một tuần, chúng tôi cho đăng quảng cáo trên các báo địa phương, các bản tin của nhà thờ và trên đài phát thanh địa phương. Đến ngày, tôi đến trước nửa giờ để nói chuyện với những người lãnh đạo của thị trấn và bàn luận về các vấn đề của địa phương, có thể là về một con phố cần lát lại hay về kế hoạch cho một khu trung tâm cao cấp. Rồi chúng tôi chụp một vài tấm ảnh, bước vào hội trường nơi đám đông đang đợi. Tôi bắt tay mọi người trên lối lên sân khấu – sân khấu thường để trống, chỉ có một chiếc bục diễn giả, một micro, một chai nước và một lá cờ Mỹ được cắm trên chân đế. Trong khoảng vài tiếng đồng hồ sau đó, tôi trả lời câu hỏi của những người đã đưa tôi đến Washington.
Số người tham dự thay đổi trong mỗi buổi họp: chúng tôi từng đón tiếp chỉ khoảng năm mươi người, nhưng cũng đôi lúc con số này lên tới 2.000 người. Nhưng cho dù có bao nhiêu người tham dự đi nữa, tôi vẫn rất vui vì được gặp họ. Họ gồm đủ kiểu người ở những hạt mà chúng tôi tới thăm: đảng viên Cộng hòa và đảng viên Dân chủ, già và trẻ, béo và gầy, là người lái xe tải, giáo sư đại học, bà nội trợ, cựu chiến binh, giáo viên, đại lý bảo hiểm, kế toán viên, thư ký, bác sỹ và người làm công tác xã hội. Họ hầu hết đều lịch sự và chăm chú, ngay cả khi không đồng tình với tôi (hay một ai khác). Họ hỏi tôi về các đơn thuốc, về thâm hụt ngân sách, về nhân quyền ở Myanmar, về cồn ethanol, về cúm gia cầm, về việc tài trợ cho trường học và chương trình không gian. Họ thường làm tôi bất ngờ, như lần một phụ nữ trẻ tuổi tóc nâu đang, sống tại một vùng nông thôn đưa ra lời yêu cầu khẩn thiết phải can thiệp vào Darfur[98], hay khi một người đàn ông da đen lớn tuổi tại một khu phố cũ vặn hỏi tôi về vấn đề bảo tồn đất đai.
Khi nhìn khắp đám đông, tôi dường như được tiếp thêm sức mạnh.
Từ dáng vẻ của họ, tôi đọc được sự cần cù. Từ cách họ chăm sóc con trẻ, tôi nhìn thấy hy vọng. Thời gian ở bên họ với tôi như được tắm mình trong dòng suối mát. Sau đó tôi cảm thấy hoàn toàn thanh thản, sẵn sàng làm công việc mà tôi đã lựa chọn.
Vào cuối buổi gặp mặt, mọi người thường đến bắt tay, chụp ảnh hoặc đẩy lũ trẻ về phía tôi để hỏi xin chữ ký. Họ dúi vào tay tôi một vài đồ vật, những bài báo, những tấm danh thiếp, những tờ giấy viết tay, những tấm huy chương vì đã phục vụ cho quân đội, những vật tín ngưỡng nhỏ, những tấm bùa may mắn. Và đôi khi, ai đó nắm lấy tay tôi và nói rằng họ đặt niềm hy vọng lớn ở tôi, nhưng họ lo lắng rằng Washington sẽ làm tôi thay đổi và rồi tôi cùng sẽ giống những người có chức có quyền khác.
Hãy luôn là chính anh – Họ nói với tôi như vậy.
Đừng làm chúng tôi thất vọng.
ĐÃ THÀNH TRUYỀN THỐNG, những tồn tại của nền chính trị Mỹ đều được quy cho nguyên nhân năng lực của các chính trị gia của chúng ta. Đôi khi điều này còn dược diễn tả bằng những từ ngữ đặc trưng: Tổng thống là một thằng khờ, hoặc Hạ nghị sỹ X nào đó chỉ là một tên ăn bám. Đôi khi lại có một bản án bao quát hơn được tuyên như “Chúng đều là những con rối của nhóm đặc quyền”. Hầu hết các cử tri đều kết luận rằng những người ở Washington đều “chỉ là những con buôn chính trị”, nghĩa là việc bầu cử hay địa vị có được đều trái với lương tâm, rằng họ hành động vì tiền đóng góp cho chiến dịch tranh cử, để mua điểm trong các cuộc thăm dò dư luận, hay vì lòng trung thành với đảng phái hơn là cố gắng hành động đúng. Lời chỉ trích dữ dội nhất dành cho một chính trị gia lại thường xuất phát từ những chính trị gia cùng phẩm hàm, những đảng viên đảng Dân chủ là những kẻ “chẳng đại diện cho điều gì” hoặc “Đảng Cộng hòa chỉ là cái danh hão mà thôi”. Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận là nếu muốn làm một điều gì đó để thay đổi Washington thì chúng ta cần phải loại bỏ những kẻ bất lương đi đã.
Và rồi hết năm này sang năm khác, chúng ta vẫn để những kẻ bất lương ấy ở nguyên vị trí của họ, với tỷ lệ tái đắc cử của nghị sỹ giữ nguyên ở mức 96%.
Những nhà nghiên cứu chính trị có thể đưa ra vài lý do giải thích hiện tượng này. Trong thế giới đầy những mối liên hệ qua lại, khó mà hiểu được cách suy nghĩ của các cử tri – những người bận rộn và quẫn trí. Do đó, giành chiến thắng trong chính trị phần lớn chỉ đơn thuần là được nhận biết tên tuổi mà thôi, đây là lý do vì sao những nhà lãnh đạo đương nhiệm dành vô số thời gian để đảm bảo rằng tên của họ được nhắc đi nhắc lại tại các buổi cắt băng khánh thành, buổi diễu hành ngày 4 tháng Bảy hay trên chương trình trò chuyện truyền hình sáng Chủ nhật. Các nhà lãnh đạo đương nhiệm có được lợi thế trong việc gây quỹ mà ai cũng biết, bởi vì các nhóm lợi ích – dù thuộc cánh tả hay cánh hữu – đều có khuynh hướng ngả theo chiều gió khi đóng góp cho quỹ tranh cử. Và sự sắp xếp gian lận khu vực bầu cử cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tránh cho các nghị sỹ khỏi phải đối đầu với thách thức lớn (không tái đắc cử): Ngày nay, đại đa số các khu vực bầu cử đều được xác định chính xác như máy để đảm bảo khu vực đó có đa số cử tri ủng hộ đảng cầm quyền. Vì vậy, không hề phóng đại khi nói rằng ngày nay, phần lớn các cử tri không còn lựa chọn đại diện cho họ nữa, thay vào đó, các đại diện lựa chọn cử tri cho mình.
Một nhân tố khác tham gia vào trò chơi chính trị này, một nhân tố hiếm khi được đề cập nhưng cũng giúp giải thích tại sao các cuộc thăm dò dư luận luôn cho thấy các cử tri ghét quốc hội nhưng lại yêu mến nghị sỹ của họ. Điều này có thể khó tin nhưng phần lớn các chính trị gia là đều những người bạn đáng mến.
Tôi thấy điều này rất đúng với các đồng nghiệp của tôi. Từng đôi một, họ tạo thành những cặp đôi hoàn hảo – Tôi khó có thể gọi tên một người kể chuyện tài ba nào khác ngoài Ted Kennedy và Trent Lott, hay người dí dỏm, sắc sảo nào hơn Kent Conrad và Richard Shelby, hay những con người nồng nhiệt bằng Debbie Stabenow và Mel Martinez. Họ luôn luôn cho thấy là những người thông minh, chu đáo và chăm chỉ, sẵn sàng dành thời gian và tâm sức cho những vấn đề đang ảnh hưởng tới bang của họ. Đúng, có những người sống theo khuôn mẫu, có những người nói liên tu bất tận hay áp đảo nhân viên của họ. Càng ở lâu trong Thượng viện, tôi càng thường xuyên nhận ra ở mỗi thượng nghị sỹ những thói xấu mà chúng tôi đều ít nhiều mắc phải: có lúc là sự bẳn tính, có lúc là sự ngoan cố hay tính tự phụ thiếu kiềm chế. Tuy vậy xét một cách toàn diện, tỷ lệ của các tính xấu trên trong Thượng viện không cao hơn tỷ lệ này trong một bộ phận dân cư bất kỳ nào. Ngay cả khi trò chuyện cùng với các đồng nghiệp – những người mà tôi thực sự bất đồng quan điểm, tôi vẫn thường xuyên bị ấn tượng bởi sự thành thật tận bên trong họ, bởi khát vọng muốn thực hiện những điều đúng đắn và làm cho đất nước giàu mạnh hơn; khát vọng đại diện cho cử tri và các giá trị của họ là thành thật trong điều kiện cho phép.
Nếu vậy, điều gì đã khiến những người đàn ông, những người phụ nữ này mang dáng vẻ của những kẻ tàn nhẫn, không nhượng bộ, giả dối và đôi khi thật tầm thường khi xuất hiện trên những bản tin khuya của chúng ta? Điều gì ẩn chứa trong quá trình đang ngăn cản những con người hiểu biết và tận tâm này làm nhiệm vụ với quốc gia? Thời gian tôi phục vụ tại Washington càng lâu, tôi càng thấy bạn bè tôi hay chăm chú theo dõi khuôn mặt tôi để tìm ra dấu hiệu của sự thay đổi, nghiên cứu tôi để tìm sự ngạo mạn mới xuất hiện, tìm kiếm những dấu hiệu về tính hay cãi hay sự thủ thế. Tôi cũng bắt đầu chiêm nghiệm chính mình theo cách đó: bắt đầu nhìn nhận những tính cách cơ bản mà tôi và các cộng sự mới đều có chung, tôi băn khoăn liệu rằng điều gì có thể bảo vệ tôi khỏi việc trở thành một chính trị gia nhàm chán giống như trong các bộ phim truyền hình dở tệ.
ĐỂ TRẢ LỜI câu hỏi trên, cần bắt đầu từ việc hiểu được bản chất của tham vọng, ít nhất là ở mặt này, giữa các thượng nghị sỹ có sự khác biệt. Ít người có thể qua một đêm trở thành thượng nghị sỹ Mỹ; tối thiểu thì việc này cũng đòi hỏi phải có chứng hoang tưởng tự đại nhất định, một niềm tin rằng trong số tất cả những người có tài trong toàn bang, vì một lý do nào đó, bạn là người duy nhất có đủ tư cách đại diện phát ngôn cho họ, một niềm tin đủ vững chắc rằng bạn đã sẵn sàng để đón nhận được một quá trình đôi khi là huy hoàng, thi thoảng là điêu tàn, nhưng lúc nào cũng lố bịch một chút mà chúng ta gọi là chiến dịch tranh cử.
Nhưng còn hơn thế, chỉ tham vọng thôi chưa đủ. Bất kể với động cơ nào, cả thiêng liêng lẫn tầm thường, đẩy chúng tôi đến mục đích trở thành thượng nghị sỹ thì ai muốn thành công cũng phải thể hiện một sự chuyên tâm đến mức cuồng tín, đôi khi bất chấp cả sức khỏe, cả những mối quan hệ, cả sự cân bằng tâm lý và nhân cách của chính mình. Sau khi chiến dịch vận động tranh cử đầu tiên của tôi kết thúc, tôi nhớ lại cảm giác khi nhìn lại lịch làm việc của mình và nhận ra rằng trong suốt một năm rưỡi đó, tôi chỉ có đúng bảy ngày nghỉ. Những ngày còn lại, tôi luôn làm việc từ mười hai đến mười sáu tiếng một ngày. Đây chẳng phải là điều khiến tôi tự hào gì. Như Michelle đã nói cho tôi biết vài lần một tuần trong suốt chiến dịch tranh cử, điều đó không hề bình thường.
Tuy nhiên, cả tham vọng lẫn sự chuyên tâm theo đuổi mục đích đều chưa nói lên hết hành vi của những chính trị gia. Đi kèm còn có một thứ cảm xúc, có thể còn mạnh mẽ hơn và chắc chắn là tiêu cực hơn, một cảm xúc sẽ ngay lập tức đeo bám bạn, bủa vây bạn ngay sau khi bạn chính thức được công nhận là ứng cử viên và sẽ không chịu buông tha bạn cho đến sau ngày bầu cử. Cảm giác đó thật là đáng sợ. Không chỉ là nỗi sợ thất bại – mặc dù chỉ riêng điều này đã đủ tồi tệ rồi – mà còn là nỗi sợ về sự ê chề, bẽ bàng nữa.
Tôi vẫn còn bị thiêu đốt bởi suy nghĩ về một thất bại của tôi trên chính trường, lần thất bại vào năm 2000 dưới tay hạ nghị sỹ Dân chủ đương nhiệm Bobby Rush. Đó là một cuộc đua mà tất cả những gì bất ổn đều thực sự nảy sinh, là một cuộc đua mà sai lầm của tôi đi kèm với những bi kịch và hài kịch. Hai tuần sau khi có thông báo về việc tranh cử của tôi, với vài nghìn dollar vận động được, tôi bắt tay vào thực hiện chiến dịch đầu tiên của mình và nhận ra rằng danh tiếng của Ngài Rush được biết đến với tỷ lệ khoảng 90% trong khi tôi chỉ đạt khoảng 11%. Tỷ lệ ủng hộ của ông xấp xỉ 70% trong khi của tôi khoảng 8%. Và như thế, tôi hiểu được một trong những nguyên tắc cốt lõi của chính trị hiện đại: Hãy thực hiện thăm dò dư luận trước khi thông báo ra tranh cử.
Mọi thứ xuống dốc kể từ lúc đó. Vào tháng Mười năm 2000, trên đường tới dự buổi gặp mặt để đảm bảo sự ủng hộ của một trong số vài quan chức trong đảng chưa nghiêng hẳn về phe đối thủ, tôi nghe được một bản tin nhanh trên đài về việc con trai lớn của Nghị sỹ Rush vừa bị hai kẻ buôn bán ma túy bắn chết ngay bên ngoài nhà của ông. Tôi thực sự bi sốc và lấy làm buồn cho ngài nghị sỹ và đã tạm ngừng hoàn toàn chiến dịch của tôi trong một tháng.
Sau đó, trong suốt kỳ nghỉ Giáng sinh, sau khi tới Hawaii năm ngày để thăm bà và dành thời gian cho Michelle và Malia lúc đó chỉ mới 18 tháng tuổi, Nghị viện bang triệu tập phiên họp đặc biệt để bỏ phiếu cho một điều khoản trong luật kiểm soát súng. Trong tình huống Malia đang bị ốm và không thể đi máy bay, tôi đành bỏ lỡ buổi bỏ phiếu và dự thảo luật không được thông qua. Hai ngày sau, tôi đáp chuyến bay đêm xuống sân bay O’Hare, theo sau là Malia đang khóc, còn Michelle không thèm nói chuyện với tôi, tôi được chào đón bằng bài báo trên trang nhất của báo Chicago Tribune (Diễn đàn Chicago) về sự thất bại của dự thảo luật kiểm soát súng khi chỉ thiếu vài phiếu tán thành và rằng thượng nghị sỹ của bang và ứng cử viên Thượng viện Mỹ Obama “đã quyết định tiếp tục kỳ nghỉ” tại Hawaii. Người phụ trách chiến dịch vận động của tôi gọi tới, đề cập tới việc một đoạn quảng cáo có thể sẽ sớm được tung ra – với hình ảnh của cây cọ, một người đàn ông nằm dài trên ghế ngoài bãi biển, đội mũ rơm, nhấm nháp một ly cocktail Mai tai trên nền nhạc guitar Hawaii eo éo, và rồi một giọng nói thuyết minh vang lên: “Khi Chicago đang chứng kiến tỷ lệ giết người cao nhất trong lịch sử thì Nghị sỹ Barack Obama…”.
Tôi ngăn anh ta lại ngay đó vì đã hiểu vấn đề.
Và thế là, chưa tới nửa chặng đường của cuộc vận động, từ tận tâm can mình, tôi hiểu rằng tôi sẽ thất bại. Từ khoảnh khắc ấy, mỗi buổi sáng thức giấc, tôi đều có một cảm giác kinh hoàng mơ hồ, nhận ra rằng cả ngày hôm đó tôi sẽ phải mỉm cười, phải bắt tay, phải giả vờ như mọi việc đều diễn ra đúng như kế hoạch. Một vài tuần trước cuộc bầu cử sơ bộ, chiến dịch vận động của tôi cũng hồi phục được đôi chút. Tôi thể hiện tốt trong những cuộc tranh luận lẻ tẻ, nhận được một số phản hồi tích cực trên các bản tin về các đề xuất về giáo dục và y tế thậm chi cả sự ủng hộ của tờ Tribune. Nhưng tất cả vẫn là quá muộn màng vả ít ỏi. Tôi tới dự buổi tiệc đón kết quả của tôi và nhận ra kết quả đã được công bố: Tôi đã thua với 31 điểm thấp hơn đối thủ.
Tôi không ám chỉ rằng chính trị gia là những người duy nhất phải trải qua những nỗi thất vọng kiểu như thế này. Chỉ là không giống phần lớn những người bình thường khác có được một điều xa xỉ là giữ nỗi đau cho riêng mình, những mất mát của các chính trị gia được phơi bày trước công chúng. Bạn phải phát biểu một bài diễn văn nhượng bộ lạc quan trong khán phòng chỉ đầy một nửa, phải trình diễn một bộ mặt can đảm để động viên các cộng sự và những người ủng hộ bạn, phải gọi đến cảm ơn tới những người đã giúp đỡ và vụng về kêu gọi hỗ trợ thêm để giải quyết các khoản nợ đọng. Bạn phải hoàn thành vai diễn của mình một cách tốt nhất, và cho dù trong thâm tâm bạn đang tự nói với bản thân mình những điều khác đi, cho dù việc đổ lỗi thất bại cho sự thiếu may mắn hay thời cơ chưa đến có thuyết phục đến nhường nào thì bạn vẫn không thể không cảm nhận rằng mình đã bị mọi người từ chối, rằng bạn không thực sự đáp ứng được những phẩm chất cần thiết, rằng bất cứ nơi nào bạn đi qua mọi người cũng sẽ nhìn bạn với ý nghĩ dù chỉ thoáng qua: “kẻ thất bại”. Đó là những cảm giác mà hầu hết mọi người không còn phải trải nghiệm từ khi tốt nghiệp trung học, khi cô bạn gái bạn theo đuổi từ chối bạn trước mặt nhóm bạn của cô ấy như một trò cười hay khi bạn ném trượt cả hai lần ném phạt của trận bóng rổ quan trọng – những cảm giác mà mọi người đều cố gắng không gặp phải trong cuộc đời.
Hãy thử hình dung tác động của những cảm xúc này lên một chính trị gia hàng đầu, người (mà không giống tôi) hiếm khi thất bại trên bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống – người đã từng là cầu thủ chuyền bóng[99] trong đội tuyển trường trung học, là học sinh đại diện phát biểu trong lễ tốt nghiệp, là con của một thượng nghị sỹ, một đô đốc – người mà ngay từ nhỏ đã được dạy rằng anh ta được sinh ra để làm những điều vĩ đại. Tôi nhớ đã từng nói chuyện với một giám đốc điều hành một công ty, một người từng ủng hộ mạnh mẽ cho Phó Tổng thống Al Gore trong đợt tranh cử tổng thống năm 2000. Trong văn phòng sang trọng của ông, nhìn xuống khu trung tâm Manhattan, ông kể cho tôi nghe về buổi gặp gỡ khoảng sáu tháng sau cuộc bầu cử, khi Gore đang tìm kiếm nhà đầu tư cho dự án truyền hình của ông.
Ngài giám đốc nói với tôi “Điều đó thật lạ, ông ấy ngồi đây, một cựu phó tổng thống, người mà chỉ vài tháng trước đó gần như đã có cơ hội trở thành người quyền lực nhất thế giới. Trong suốt chiến dịch tranh cử, tôi sẵn sàng nhận cuộc gọi của ông ấy vào bất cứ lúc nào, sẵn sàng sắp xếp lại toàn bộ công việc nếu ông ấy muốn gặp tôi. Nhưng thật bất ngờ, sau cuộc tuyển cử, khi ông ấy bước vào, tôi không thể không nghĩ rằng cuộc gặp này thật vớ vẩn. Tôi ghét phải thừa nhận điều này vì tôi thực sự rất thích ông ấy. Nhưng ở một mức độ nào đó, ông ấy không còn là Al Gore – cựu Phó Tổng thống nữa, ông ấy chỉ còn là một trong số hàng trăm kẻ mỗi ngày đến gặp tôi tìm kiếm chút tiền bạc. Điều đó làm tôi chợt nhận ra những chính trị gia như các anh đang đứng trên vách đá cheo leo đến thế nào”.
Một vách đá dựng đứng, một cú rơi tự do. Trong năm năm vừa qua, Al Gore đã cho thấy sự hài lòng và những ảnh hưởng mà cuộc sống hậu chính trị có thể mang lại, và tôi hoài nghi về việc người điều hành vui vẻ nhận cuộc gọi của ngài cựu phó tổng thống một lần nữa. Tuy nhiên, sau thất bại vào năm 2000, tôi mường tượng Gore hẳn cũng cảm thấy sự thay đổi từ những người bạn của ông. Ngồi trong căn phòng đó, đưa ra những ý tưởng cho chương trình của mình, nỗ lực làm những điều tốt nhất trong hoàn cảnh tồi tệ của bản thân, ông có thể nghĩ rằng tại sao hoàn cảnh của mình lại trớ trêu đến vậy, làm thế nào mà sau cả cuộc đời dành cho sự nghiệp ông lại có thể đánh mất tất cả chỉ vì một cuộc bỏ phiếu phù du không như ý, trong khi người bạn của ông – người giám đốc điều hành đang ngồi đối diện với ông và ban cho ông một nụ cười chiếu cố – chỉ đủ khả năng giữ vị trí thứ hai trong công ty sau nhiều năm, có thể đang phải chứng kiến cổ phiếu công ty mình đang tụt giá hay đang tiến hành một vụ đầu tư kém suy xét. Tuy nhiên ông ta vẫn luôn được coi là một người thành đạt vẫn được tận hưởng niềm tự hào của thành quả đạt được, được đãi ngộ hậu hĩ và có đầy quyền lực trong tay. Điều này thật không công bằng nhưng nó lại chẳng thể thay đổi được thực tế của ngài cựu phó tổng thống. Cũng giống như mọi người đi theo con đường chính trị khác, Gore biết điều gì có thể xảy đến với mình ngay khi ông quyết định tham gia tranh cử. Trong chính trị, có thể tồn tại hành động thứ hai nhưng không tồn tại vị trí thứ hai.
HẦU HẾT NHỮNG tội lỗi khác trong chính trị đều bắt nguồn từ tội lỗi lớn này – sức ép phải chiến thắng, và cả sức ép không được chiến bại. Hiển nhiên, việc theo đuổi đồng tiền chỉ có vậy. Trước khi có luật tài trợ tranh cử và sự can thiệp của giới truyền thông, đã từng có thời điểm tiền chi phối chính trị thông qua các khoản hối lộ công khai, khi một chính trị gia coi quỹ vận động tranh cử như tài khoản ngân hàng của riêng mình và chấp nhận những buổi tiệc xa hoa, khi những khoản thù lao từ những kẻ muốn tìm ảnh hưởng trở nên phổ biến và việc lập pháp rơi vào tay những kẻ trả giá cao nhất. Nếu các tin tức gần đây là chính xác thì những hình thức tham nhũng này chưa hoàn toàn biến mất, rõ ràng vẫn có những người ở Washington coi chính trị như một phương thức để làm giàu. Mặc dù nói chung họ chưa ngớ ngẩn đến mức nhận hàng bao giấy bạc lẻ thì họ cũng đã chuẩn bị ở mức cao nhất để chăm sóc những người đóng góp tài chính và thu vén cho bản thân. Đến khi thời cơ chín muồi họ sẽ nhảy vào lĩnh vực vận động hành lang béo bở, đại diện cho những người họ đã từng quản lý.
Mặc dù vậy, thông thường hơn thì đây không phải là cách tiền chi phối chính trị. Rất ít người vận động hành lang đề nghị một cuộc trao đổi rõ ràng với người thắng cử. Họ không cần phải làm vậy, ảnh hưởng của họ có được đơn giản từ việc có nhiều cơ hội tiếp cận với những quan chức hơn những cử tri bình thường, có thông tin tốt hơn và có khả năng chống đỡ cao hơn khi cần vận động thông qua một điều khoản tối nghĩa trong Luật thuế, điều đó mang lại hàng tỷ dollar với những khách hàng của họ và không một ai khác quan tâm đến nó.
Đối với phần lớn các chính trị gia thì tiền không phải là vấn đề làm giàu, ít nhất là trong Thượng viện, hầu hết các thành viên đều giàu có. Vấn đề ở đây là việc duy trì địa vị và quyền lực; là việc loại bỏ những thách thức và đẩy lùi những lo ngại. Tiền không thể đảm bảo cho chiến thắng, nó cũng không thể mua được niềm đam mê, sức thu hút hay khả năng kể chuyện. Nhưng nếu không có tiền hay không có những đoạn quảng cáo trên truyền hình tiêu tốn hết tiền bạn có, bạn cầm chắc là sẽ thất bại.
Số tiền tiêu vào việc này là một con số ngạt thở, đặc biệt trong cuộc đua ở những bang lớn có thị trường truyền thông đa dạng. Hồi ở Nghị viện bang, tôi chưa bao giờ phải tiêu quá 100.000 dollar cho một chiến dịch vận động: thực tế là tôi đã tạo cho mình danh tiếng là kiểu người rất bảo thủ khi dính đến việc gây quỹ – tôi là đồng tác giả của luật tài trợ tranh cử đầu tiên được thông qua trong hai mươi lăm năm, từ chối mọi lời mời đi ăn của những người vận động hành lang, không nhận những tấm séc của nhóm tư bản sòng bạc hay thuốc lá. Khi tôi quyết định tranh cử vào Thượng viện Mỹ, cố vấn truyền thông của tôi David Axelrod đã bắt tôi phải ngồi nghe anh ta giải thích về thực tế cuộc sống. Chiến dịch của chúng tôi cần có một ngân sách tối thiểu, chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của người dân và “quảng cáo miễn phí” – tức là năng lực tự làm ra tin tức của bạn. Tuy nhiên David vẫn thông báo với tôi rằng một tuần quảng cáo trên thị trường truyền thông Chicago sẽ tốn cỡ nửa triệu dollar. Ở những nơi còn lại trong bang một tuần xuất hiện như thế sẽ có giá khoảng 250.000 dollar. Với bốn tuần phát trên truyền hình, cộng với tất cả chi phí hành chính và lương của nhân viên cho một chiến dịch trên toàn bang, tổng số tiền cuối cùng cho chiến dịch sơ bộ sẽ xấp xỉ 5 triệu dollar. Nếu tôi giành thắng lợi sơ bộ, tôi sẽ phải quyên góp được thêm 10 hoặc 15 triệu dollar nữa cho cuộc tổng tuyển cử.
Tối đó tôi về nhà và tôi bắt đầu viết ra tên tất cả những người tôi biết sẽ đóng góp cho tôi thành những hàng cột ngay ngắn. Cạnh tên mỗi người, tôi viết số tiền lớn nhất mà tôi cảm thấy mình có thể hỏi xin họ.
Tổng số tiền tôi tính được là 500.000 dollar.
Không có tài sản lớn riêng thì cơ bản chỉ có một cách để có tiền chạy đua vào Thượng viện. Bạn phải hỏi xin những người giàu. Trong ba tháng đầu của chiến dịch tranh cử, tôi giam mình trong phòng với trợ lý gây quỹ và thực hiện những cuộc gọi lần đầu cho những người đã từng tài trợ cho đảng Dân chủ. Đôi khi mọi người dập máy khi nghe tôi gọi. Thường thì các thư ký sẽ ghi lại lời nhắn và rồi tôi không nhận được hồi âm gì, sau đó tôi sẽ gọi lại hai hoặc ba lần cho đến khi hoặc tự tôi từ bỏ người này hoặc người đó rút cục cũng nghe máy và nhã nhặn từ chối tôi. Tôi bắt đầu chơi mấy trò trốn tránh tinh vi khi tới giờ gọi điện – vào toa-lét thường xuyên, đi uống cà phê rất lâu, gợi ý với trợ lý chính sách là chúng tôi phải sửa bài phát biểu về giáo dục lần thứ ba hoặc thứ tư. Đôi khi trong những buổi làm việc như thế, tôi nghĩ đến ông tôi – hồi trung niên ông đã đi bán bảo hiểm nhân thọ và không thành công lắm. Tôi nhớ lại sự khổ sở của ông khi ông cố gắng hẹn gặp với những người thà đi hàn răng còn hơn là nói chuyện với một viên đại lý bảo hiểm, cũng như cái nhìn chê bai bà tôi dành cho ông chủ yếu vì khi sống với nhau, bà kiếm được nhiều tiền hơn ông.
Hơn bao giờ hết, tôi hiểu rõ cảm giác của ông.
Sau tròn ba tháng, chiến dịch của tôi chỉ quyên góp được 250.000 dollar – còn xa mới đến ngưỡng tối thiểu có thể chấp nhận được. Tồi tệ hơn, cuộc đua của tôi còn vấp phải cơn ác mộng lớn nhất đối với các chính trị gia: đó là một ứng cử viên tự tài trợ với túi tiền vô tận. Tên ông ta là Blair Hull, người đã bán công ty giao dịch tài chính của ông ta cho Goldman Sachs vài năm trước với giá 531 triệu dollar. Không có gì phải nghi ngờ rằng ông ta cho dù còn mơ hồ nhưng thực sự có mong muốn được cống hiến, và theo những thông tin có được thì ông ta là người rất có tài. Nhưng khi vận động, ông có vẻ xấu hổ một cách khổ sở, phong cách của ông hơi kỳ quặc và hướng nội – tính cách của những người phần lớn thời gian chỉ ngồi một mình trước màn hình máy tính. Tôi nghi rằng giống như nhiều người khác, ông này cũng cho rằng làm chính trị gia – không như nghề bác sỹ hay phi công – thì không cần chuyên môn đặc biệt trong bất cứ lĩnh vực nào, và rằng một doanh nhân như ông hoàn toàn có thể làm ít nhất cũng bằng, hoặc có thể tốt hơn một chính trị gia ông ta thấy trên ti vi. Trong thực tế, ông Hull xem khả năng làm việc với những cơn số của ông là một tài sản vô giá. Có lần trong chiến dịch vận động, ông đã tiết lộ cho một phóng viên công thức toán ông dựng nên để giành thắng lợi, một công thức bắt đầu thế này:
Xác suất = 1/(1 + exp(-l x (-3,9659056 +
(Trọng số tổng tuyển cử x l,92380219)…
và kết thúc bằng một vài thừa số cực kỳ khó hiểu.
Những chuyện này làm tôi dễ đàng xóa bỏ tên ông Hull với tư cách là đối thủ – cho đến một buổi sáng tháng Tư hoặc tháng Năm gì đó, khi tôi vừa lái xe ra khỏi đường vòng khu chung cư trên đường đến văn phòng, tôi được chào đón bằng hàng hàng lớp lớp những tấm bảng lớn màu đỏ, trắng và xanh lá mạ trên khắp các ngã tư. Các tấm bảng ghi: ỦNG HỘ BLAIR HULL VÀO THƯỢNG VIỆN; và suốt năm dặm đường tiếp theo tôi gặp chúng trên mọi phố nhỏ, dọc theo tất cả các đường lớn, ở mọi hướng, mọi ngóc ngách, mọi xó xỉnh – trên cửa sổ tiệm cắt tóc, trên những tòa nhà trống, trước trạm xe buýt, sau quầy bán rau. Bảng của Hull có mặt ở mọi nơi, chi chít khắp vùng như hoa cúc mùa xuân.
Ở chính trường Illinois có một câu nói rằng: “Bảng quảng cáo thì đâu có bỏ phiếu được”, nghĩa là bạn không thể đánh giá một cuộc chạy đua dựa trên số bảng quảng cáo của một ứng viên. Nhưng số bảng quảng cáo xuất hiện trong một ngày của ông Hull còn nhiều hơn toàn bộ số bảng của bất cứ chiến dịch tranh cử nào trước đó ở Illinois, cũng chưa ai từng thấy hiệu quả đáng sợ của đội quân làm việc cho ông, chỉ trong một đêm có thể giật hết các bảng quảng cáo của người khác và thay vào bảng quảng cáo của ông ta. Chúng tôi bắt đầu đọc được tin tức rằng một số thủ lĩnh cộng đồng da đen ở các khu vực xung quanh bỗng nhiên quyết định rằng ông Hull là người bảo vệ khu phố cũ, lãnh đạo vùng phía nam của bang thì ngợi ca sự ủng hộ của ông đối với các trang trại gia đình, tiếp theo là một loạt quảng cáo trên ti vi dồn dập xuất hiện trong suốt sáu tháng cho đến tận ngày bầu cử – Blair Hull với người cao tuổi, Blair Hull với trẻ em, Blair Hull đã sẵn sàng chiếm lại Washington từ những các nhóm lợi ích. Đến tháng Một năm 2004, ông Hull đã chiếm vi trí dẫn đầu trong các cuộc thăm dò dư luận và những người ủng hộ tôi bắt đầu liên tục gọi đến, nhắc tôi rằng tôi cần phải làm gì đó, rằng tôi cũng phải xuất hiện ngay lập tức trên ti vi, nếu không tôi sẽ mất tất cả.
Tôi phải làm gì? Tôi giải thích rằng tôi không giống ông Hull, thực tế giá trị tài sản của tôi là âm. Giả sử tình huống tốt nhất xảy ra là chúng tôi có đủ tiền để quảng cáo bốn tuần trên truyền hình thì trong tình thế này, điều đó cũng chả có ý nghĩa gì vì đến tháng Tám chúng tôi sẽ lại hết sạch tiền. Tôi nói với những người ủng hộ tôi là tất cả mọi người chỉ cần kiên nhẫn. Phải tự tin. Không được hoang mang. Rồi tôi dập máy điện thoại, nhìn qua cửa số và bỗng bắt gặp chiếc xe tải du lịch mà Hull dùng để đi vòng quanh bang, nó to như một chiếc tàu thủy và nghe nói được trang bị rất đầy đủ, và tôi tự hỏi rốt cuộc liệu đã đến lúc phải hoang mang chưa.
Về nhiều mặt, tôi vẫn may mắn hơn nhiều ứng cử viên khác rơi vào hoàn cảnh tương tự. Vì một lý do nào đó, đến một ngày chiến dịch của tôi bỗng nhiên có lực đẩy, có sức hấp dẫn bí hiểm lạ thường. Mốt mới của những nhà tài trợ giàu có là ủng hộ tôi và các nhà tài trợ nhỏ trong bang bắt đầu gửi những tấm séc qua mạng, nhiều và nhanh đến mức chúng tôi không bao giờ tưởng tượng nổi. Điều mỉa mai là vị thế ứng viên bất ngờ được đề cử giúp tôi tránh được một vài cạm bẫy nguy hiểm khi gây quỹ: phần lớn các ủy ban hành động chính trị né tránh tôi nên tôi không nợ họ. Một vài ủy ban có quyên góp cho tôi như Liên minh các Cử tri bảo vệ môi trường[100] thì thực sự đại diện cho lý tưởng mà tôi tin tưởng và đã tranh đấu vì nó lâu nay. Cuối cùng ông Hull chi nhiều hơn tôi gấp sáu lần. Nhưng với danh tiếng của ông ta (có thể sau này ông phải hối tiếc), ông ta không bao giờ đưa ra quảng cáo bôi nhọ tôi. Kết quả thăm dò cho thấy tôi ở sau ông chỉ một khoảng cách ngắn, và trong mấy tuần cuối của chiến dịch vận động ngay khi những quảng cáo trên ti vi của tôi bắt đầu xuất hiện và số người ủng hộ tôi tầng cao thì chiến dịch của Hull lại bị sụp đổ khi có những bằng chứng cho thấy ông ta đã có một vài cuộc cãi nhau không ra gì với vợ cũ.
Vì thế, với tôi, ít nhất thiếu sự hỗ trợ của các ủy ban không phải là trở ngại dẫn tới thắng lợi. Nhưng tôi không thể không thừa nhận rằng cuộc săn tiền đã thay đổi tôi chút ít. Rõ ràng là tôi không còn chút cảm giác xấu hổ nào khi hỏi xin người lạ một số tiền lớn. Đến cuối chiến dịch vận động, những câu nói đùa, vài ba lời trao đổi thường có trong những cuộc gọi xin tiền của tôi cũng không còn. Tôi bỏ hết chúng chỉ để hỏi về tiền và cố gắng sao cho không bị từ chối. Nhưng tôi lo ngại rằng sẽ có những thay đổi khác nữa trong công việc. Tôi ngày càng nhận thấy mình dành nhiều thời gian hơn với những người giàu tiền bạc – chủ sở hữu công ty luật, chủ ngân hàng đầu tư, giám đốc quỹ phòng tránh rủi ro và nhà đầu tư mạo hiểm. Như mọi khi, họ là những người thông minh, thú vị, hiểu biết về chính sách công, có quan điểm chính trị tự do, khi đưa ra tấm séc họ không đòi hỏi gì hơn là có người lắng nghe. Nhưng họ, gần như tất cả như một, phản ánh cách nhìn của tầng lớp họ – khoảng 1% số người trên thang thu nhập có thể ký một tấm séc 2.000 dollar cho một ứng cử viên. Họ tin vào thị trường tự do và chính phủ thuộc về nhân tài được giáo dục, họ không thể tưởng tượng được là lại có vấn đề xã hội nào đó không giải quyết được bằng điểm SAT thật cao. Họ không có chút kiên nhẫn nào với chủ nghĩa bảo hộ, luôn thấy công đoàn là một vấn đề phiền toái và hoàn toàn không thông cảm với những người có cuộc sống bị thay đổi do ảnh hưởng của sự di chuyển dòng vốn trên toàn thế giới. Phần lớn kiên quyết ủng hộ quyền lựa chọn phá thai của phụ nữ và phản đối sở hữu súng, đồng thời họ tỏ ra mơ hồ nghi ngờ niềm tin tôn giáo. Và mặc dù thế giới quan của tôi phù hợp với họ về nhiều mặt – nói cho cùng thì tôi và họ từng học cùng trường, từng đọc một loại sách, cùng có chung mối lo ngại về con cái – nhưng tôi vẫn tránh né một số chủ đề nhất định khi nói chuyên với họ, tạm thời bỏ qua những khác biệt, và ước đoán mong muốn của họ. Về những vấn đề cơ bản, tôi tỏ ra thẳng thắn; tôi không thấy khó khăn gì khi nói với những nhà tài trợ giàu có rằng cần thay đổi chính sách cắt giảm thuế mà George Bush dành cho họ. Bất cứ khi nào có thể, tôi cố gắng chia sẻ với họ cách nhìn của những nhóm cử tri khác mà tôi biết: ví dụ, tín ngưỡng có vai trò hợp pháp trong chính trị hay súng là thứ có ý nghĩa văn hóa sâu sắc ở những vùng nông thôn trong bang.
Nhưng tôi biết rằng hậu quả của hoạt động gây quỹ là tôi ngày càng giống những nhà tài trợ giàu có tôi gặp, theo nghĩa là tôi dành ngày càng nhiều thời gian cho thế giới đứng trên sự tranh chấp, bên ngoài sự đói khổ thất vọng, sợ hãi, phi lý và khó khăn của 99% dân số – đây mới chính là những người mà tôi phải phụng sự khi bước chân vào nghề hoạt động công chúng. Cách này hay cách khác, tôi nghĩ thượng nghị sỹ nào cũng gặp vấn đề tương tự. Bạn ngồi ở ghế thượng nghị sỹ càng lâu thì phạm vi đối tượng tương tác của bạn càng thu hẹp. Bạn có thể chống lại nó, với những cuộc gặp mặt cử tri những chuyến đi thu thập ý kiến ở vùng lân cận. Nhưng kế hoạch làm việc của bạn cho thấy bạn đang di chuyển theo quỹ đạo khác với rất nhiều người mà bạn đóng vai trò đại diện.
Và khi kỳ tranh cử tiếp theo đến gần, sẽ có một giọng nói bên trong bạn nói rằng bạn không bao giờ muốn trải qua tất cả những nỗi khổ của việc đi quyên góp từng khoản tiền nhỏ xíu một lần nữa. Bạn nhận thấy bạn không còn có vẻ hấp dẫn của người mới thành đạt, của một khuôn nhặt mới; bạn đã chẳng thay đổi được gì ở Washington, và bạn làm rất nhiều người khốn khổ với những lá phiếu khó khăn. Con đường ít đối kháng nhất – với những người gây quỹ thuộc các nhóm lợi ích đặc biệt, hiệp hội các ủy ban hành động chính trị và các cơ sở vận động hành lang hàng đầu – bắt đầu trở nên hấp dẫn khủng khiếp, và nếu quan điểm của nhóm người này không hoàn toàn phù hợp với quan điểm trước kia của bạn thì bạn giải thích sự thay đổi đó là tính thực tế, là phải thỏa hiệp, là nắm vững tình hình. Khó khăn của người bình thường, tiếng nói từ những thị trấn thất nghiệp[101] hay những khu trung tâm đang suy thoái chỉ còn là những tiếng vọng xa xôi chứ không phải thực tế rõ ràng, là những vấn đề trừu tượng cần theo dõi hơn là cuộc chiến cần phải lao vào.
CÔNG VIỆC CỦA một thượng nghị sỹ còn chịu nhiều sức ép khác. Quan trọng không kém gì tiền, trong các chiến dịch vận động, ứng viên vươn lên được vị trí dẫn đầu không chỉ nhờ quyên góp. Nếu muốn giành thắng lợi trong chính trị – nếu không muốn thất bại, có nhân sự được tổ chức tốt cũng đóng vai trò quan trọng như có tiền, đặc biệt trong những cuộc bầu cử sơ bộ ít người tham gia – thường là cuộc đua quan trọng nhất mà một ứng cử viên phải đối mặt, nhất là trong cái thế giới có nền chính trị đầy gian dối phiếu bầu còn cử tri thì chia rẽ. Ngày nay rất ít người có thời gian hoặc có mong muốn tình nguyện làm việc trong một chiến dịch tranh cử, nhất là vì công việc hàng ngày trong lĩnh vực này nói chung chỉ là dán phong bì và gõ cửa nơi này nơi khác chứ không phải là soạn thảo những bài phát biểu hay tư duy những ý tưởng to lớn. Do đó, nếu bạn là một ứng cử viên đang cần người làm việc cho chiến dịch tranh cử hoặc cần danh sách cử tri sẽ bỏ phiếu cho bạn thì hãy tìm đến những nơi có nhân sự được tổ chức đàng hoàng. Với ứng viên Dân chủ thì nơi đó là các nghiệp đoàn, các tổ chức môi trường, các nhóm ủng hộ quyền lựa chọn của phụ nữ[102]. Với ứng viên Cộng hòa là các tổ chức quyền tự do tín ngưỡng, phòng thương mại tại địa phương, Hiệp hội Súng trường quốc gia NRA và các nhóm chống tăng thuế.
Tôi không bao giờ quen được với việc dùng thuật ngữ “nhóm lợi ích đặc biệt” để chỉ các nhóm người bao gồm cả tập đoàn dầu khi Exxon Mobil lẫn các công nhân xây dựng, đại diện các công ty dược[103] và phụ huynh trẻ em khuyết tật. Phần lớn các nhà nghiên cứu chính trị có lẽ sẽ không đồng ý với tôi, nhưng tôi thấy có sự khác biệt giữa những đại diện chuyên đi vận động chính sách cho các công ty lớn, hoạt động chỉ với mục đích là tiền, với các nhóm cá nhân có quan điểm tương đồng nhau như các công nhân ngành dệt, người ủng hộ sở hữu súng, cựu chiến binh hoặc nông dân vốn hợp tác với nhau để đẩy mạnh lợi ích chung. Tôi cũng thấy có sự khác biệt giữa những người sử dụng sức mạnh kinh tế để khuếch trương ảnh hưởng chính trị ở mức quá lớn nếu so với số người ít ỏi thuộc nhóm bọn họ và những người chỉ đơn thuần góp lá phiếu cho người đại diện của mình. Nhóm thứ nhất là những người phá vỡ nguyên tắc dân chủ: nhóm thứ hai lại chính là cốt lõi nền dân chủ đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của các nhóm lợi ích lên các ứng cử viên chính trị không phải lúc nào cũng tốt. Để duy trì vị thế chủ động, để tiếp tục được tài trợ và để nổi bật lên giữa sự ồn ào, các nhóm có ảnh hưởng chính trị không hề tìm cách tăng lợi ích cộng đồng. Họ không tìm kiếm ứng viên sâu sắc nhất, có khả năng nhất hay tư tưởng khoáng đạt nhất. Họ chỉ tập trung vào một vài mối quan tâm cụ thể – quỹ lương hưu của họ, hỗ trợ mùa màng cho họ, vụ kiện của họ. Nói đơn giản là họ có mục đích cá nhân. Và họ muốn một quan chức được bầu như bạn giúp họ đạt được mục đích đó.
Chẳng hạn, trong suốt chiến dịch tranh cử sơ bộ của tôi, tôi đã phải trả lời ít nhất năm mươi thư yêu cầu trả lời câu hỏi. Trong đó không cái nào tế nhị cả. Thường mỗi thư yêu cầu có mười hoặc mười hai câu hỏi được diễn đạt theo kiểu tương tự như sau: “Nếu được bầu, ông có cam kết sẽ bãi bỏ Luật Scrooge[104] đã loại những góa phụ và trẻ em mồ côi sang một bên?”
Thiếu thời gian nên tôi chỉ trả lời câu hỏi của những tổ chức có thể thực sự ủng hộ tôi (theo hồ sơ bỏ phiếu của chúng tôi thì Hiệp hội Súng trường quốc gia và Tổ chức Vì quyền sống quốc gia[105] không nằm trong những tổ chức này do đó tôi luôn có thể trả lời “Có” cho phần lớn các câu hỏi mà không thấy vướng bận gì. Nhưng đôi khi tôi gặp phải những câu hỏi khiến tôi phải ngập ngừng. Tôi có thể đồng ý với nghiệp đoàn rằng cần phải có các tiêu chuẩn lao động và tiêu chuẩn môi trường trong luật thương mại, nhưng liệu tôi có tin là phải bãi bỏ Hiệp định Tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) không? Tôi có thể đồng ý rằng y tế cho mọi người phải là một chính sách ưu tiên hàng đầu của quốc gia, nhưng có phải cách tốt nhất để đạt được mục tiêu này là sửa đổi Hiến pháp không? Tôi nhận thấy mình thận trọng trước những câu hỏi đó, viết ra lề giấy những lựa chọn chính sách khó khăn liên quan. Nhân viên của tôi lắc đầu. Họ giải thích, chỉ một câu trả lời không làm hài lòng người hỏi thôi thì tất cả sự ủng hộ, nhân viên của tổ chức và danh sách gửi thư sẽ dành cho ứng cử viên khác ngay. Nếu trả lời đúng ý họ tất cả các câu, tôi nghĩ, thì bạn đã tự giam mình trong cuộc chiến phe phái mà bạn hứa hẹn sẽ chấm dứt.
Khi vận động nói một kiểu, còn khi trúng cứ lại làm điều khác hẳn, bạn sẽ là một chính trị gia hai mặt điển hình.
Tôi đã mất một vài sư ủng hộ vì trả lời trái ý người hỏi. Đôi khi, một nhóm nào đó làm tôi ngạc nhiên vì vẫn ủng hộ tôi mặc dù tôi không đưa ra câu trả lời đúng.
Và đôi khi bạn trả lời câu hỏi thế nào cũng không quan trọng. Ngoài ông Hull, đối thủ lớn nhất của tôi trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ vào Thượng viện, còn có Bộ trưởng Tài chính bang Illinois – Dan Hynes, một người tốt và là một quan chức có tài. Cha ông, Tom Hynes, là cựu Chủ tịch Thượng viện bang, hội thẩm hạt Cook, ủy viên Hội đồng khu vực, thành viên ủy ban Quốc gia của đảng Dân chủ và là một trong những nhân vật có quan hệ chính trị tốt nhất bang. Thậm chí trước khi tham gia cuộc chạy đua, Dan đã nhận được sự ủng hộ của tám mươi lăm trong số một trăm lẻ hai vị chủ tịch đảng Dân chủ các hạt trong bang, của đa số đồng nghiệp của tôi trong Nghị viện bang, và của cả Mike Madigan – Chủ tịch Hạ viện bang kiêm Chủ tịch đảng Dân chủ bang Illinois. Đọc danh sách những người ủng hộ trên trang web của Dan không khác gì xem liệt kê những người tham gia thực hiện ở cuối mỗi bộ phim – bạn không thể chờ nó chạy hết.
Mặc dù vậy, tôi vẫn hy vọng có được vài sự ủng hộ của riêng mình, nhất là các tổ chức lao động. Tôi đã là đồng minh của họ trong bảy năm ở cơ quan lập pháp bang, ủng hộ rất nhiều dự luật của họ và giải thích những vấn đề của họ trước Nghị viện. Tôi biết rằng theo truyền thống, Liên đoàn Lao động[106] đứng về phe những người đã luôn bỏ phiếu ủng hộ họ. Nhưng khi chiến dịch vận động diễn ra, nhiều chuyện không ổn bắt đầu xảy đến. Hiệp hội Lái xe tải tổ chức buổi hợp công bố sự ủng hộ của họ ở Chicago vào đúng ngày mà tôi phải ở Springfield để bỏ phiếu một dự luật. Hội này từ chối thay đổi kế hoạch, và rồi họ chuyển sang ủng hộ Hynes mà không nói với tôi một lời. Khi đến buổi tiếp tân của giới công đoàn ở Hội chợ bang Illinois[107], chúng tôi được thông báo rằng không được có bất cứ một bảng quảng cáo vận động nào, nhưng khi tôi cùng nhân viên đến nơi, chúng tôi thấy căn phòng treo đầy tranh ảnh cổ động Hynes. Vào buổi tối Liên đoàn Lao động công bố ứng cử viên họ ủng hộ, tôi nhận thấy một vài người bạn của tôi trong liên đoàn nhìn đi chỗ khác khi tôi đến. Một người bạn già đứng đầu một trong những nghiệp đoàn lớn của bang đến gần, vỗ nhẹ vào lưng tôi.
“Không có gì bí mật đâu anh Barrack”, ông ta nói với nụ cười rầu rĩ. “Anh biết đấy, Tom Hynes và tôi biết nhau năm mươi năm rồi. Cùng lớn lên một nơi, cùng chung một xứ đạo. Chết tiệt, tôi đã chứng kiến Danny trưởng thành”.
Tôi trả lời ông là tôi hiểu.
“Có khi anh nên tranh cử cái chức hiện tại của Danny khi cậu ta lên Thượng viện. Anh nghĩ sao? Anh sẽ là một tay bộ trưởng tài chính được đấy”.
Tôi quay lại chỗ các nhân viên, nói với họ là Liên đoàn Lao động sẽ không ủng hộ mình.
Một lần nữa mọi việc lại được giải quyết, Lãnh đạo một số công đoàn lớn nhất – Công đoàn Giáo viên, Công đoàn Dịch vụ công cộng, Công đoàn Nhân viên nhà nước và Công đoạn Dệt may, khách sạn, nhà hàng[108] bang Illinois đã tuyên bố không đồng ý với Liên đoàn Lao động và ủng hộ tôi thay vì Hynes – sự ủng hộ rất quan trọng vì họ giúp cho chiến dịch vận động của tôi có trọng lượng hơn. Về phía họ đây thực sự là một động thái mạo hiểm, nếu tôi thua, họ sẽ sẽ phải trả giá bằng niềm tin, bằng sự ủng hộ từ các thành viên của họ.
Vì vậy tôi nợ những tổ chức này. Khi lãnh đạo các nghiệp đoàn này gọi điện, tôi cố gắng gọi lại cho họ ngay lập tức. Tôi không coi đây là hành động mua chuộc phiếu bầu, tôi không phiền khi thấy mình có nghĩa vụ với công nhân làm nghề chăm sóc tại gia – những người hàng ngày phải dọn vệ sinh cho người khác với mức lương chỉ cao hơn con số tối thiểu chút ít – hay với các giáo viên đang dạy học ở những ngôi trường khó khăn nhất cả nước, nhiều người trong số họ đã dốc tiền túi của chính mình để mua bút chì màu và sách cho học sinh vào đầu mỗi năm học. Tôi bước vào nghề chính trị để đấu tranh cho họ, và tôi rất mừng khi công đoàn vẫn ở cạnh tôi, nhắc nhở tôi về điều đó.
Nhưng tôi cũng hiểu rằng sẽ có những lúc nghĩa vụ này va chạm với nghĩa vụ khác – ví dụ như nghĩa vụ đối với trẻ em ở khu phố cũ chưa biết đọc hay với những đứa trẻ chưa ra đời nhưng đã thành con nợ do những khoản vay chúng ta để lại. Đã có một vài căng thẳng xảy ra, chẳng hạn tôi đã đề xuất thí điểm trả lương cho giáo viên theo kết quả giảng dạy hay kêu gọi tăng tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu[109] mặc dù bạn bè ở Công đoàn Công nhân ngành ô tô phản đối. Tôi muốn tự nhủ rằng tôi sẽ tiếp tục cân nhắc một vấn đề dựa trên thực tế – cũng như tôi hy vọng trước cuộc bầu cử, đối thủ ở đảng Cộng hòa sẽ cân nhắc lại quyết định ủng hộ không đánh thêm thuế hay phản đối nghiên cứu tế bào gốc của ông ta dựa trên tiêu chí chính sách nào tốt nhất cho đất nước – chứ không phải dựa trên đòi hỏi của những người ủng hộ. Tôi hy vọng rằng tôi luôn có thể đến gặp những người bạn ở nghiệp đoàn để giải thích quan điểm của mình, nó nhất quán với giá trị của tôi thế nào và đem lại lợi ích lâu dài cho họ ra sao.
Nhưng tôi nghĩ rằng lãnh đạo các công đoàn không phải lúc nào cũng đồng ý với tôi. Sẽ có những lần họ coi đó là sự phản bội. Họ có thể báo động cho các thành viên rằng tôi đã bán đứng họ. Tôi có thể sẽ nhận được những bức thư, những cuộc điện thoại giận dữ. Và họ sẽ không ủng hộ tôi trong vòng bầu cử tiếp theo.
Khi những chuyên đó lặp đi lặp lai đủ nhiều lần, bạn sắp thua vì nhóm cử tri quan trọng đang nổi điên lên, hoặc bạn sẽ thấy mình đang tránh né đối thủ ở vòng sơ bộ – người gọi bạn là kẻ phản bội, có thể bạn không muốn tiếp tục tranh đấu nữa. Bạn tự hỏi thế lương tâm chính xác là cái gì: không để các “nhóm lợi ích đặc biệt” điều khiển hay phải tránh việc làm tổn thương bạn bè? Câu trả lời không hề rõ ràng. Vì thế bạn bắt đầu bỏ phiếu đúng như khi bạn trả lời bảng câu hỏi. Bạn không còn suy nghĩ quá nhiều. Bạn chọn câu trả lời “có” hết dòng này đến dòng khác.
CÁC CHÍNH TRỊ GIA nằm trong tay những nhà tài trợ khổng lồ hoặc chịu thua sức ép của các nhóm lợi ích – đây là nội dung chính trong các bản tin chính trị hiện nay, một câu chuyện chỉ đi theo hướng phân tích chuyện gì đang xảy ra với nền dân chủ trong nước. Nhưng đối với các chính trị gia đang phải lo giữ ghế, còn có một thế lực thứ ba dồn ép họ, hình thành nên bản chất của tranh luận chính trị và giúp chính gia đó xác định ông ta có thể và không thể làm gì, những vị trí nào ông ta có thể hay không thể giành được. Bốn mươi hoặc năm mươi năm trước, thế lực này là một bộ phận trong các đảng phái: thị trưởng các thành phố lớn, cố vấn truyền thông, môi giới chính trị[110] ở Washington. Họ có thể tạo dựng cũng như phá sập sự nghiệp của một người chỉ với một cú điện thoại. Ngày nay thế lực đó chính là báo chí.
Ở đây cần lưu ý rằng: Trong ba năm từ khi tôi tuyên bố ứng cử vào Thượng viện cho đến thời điểm cuối cùng của năm đầu tiên làm thượng nghị sỹ, ảnh hưởng tích cực bất thường, đôi khi quá đà, của báo chí đem lại khá nhiều lợi ích cho tôi. Chắc hẳn một phần là do tôi là người lép vế hơn trong cuộc tranh cử sơ bộ vào Thượng viện, đồng thời tôi khác lạ vì là một ứng lên da đen có lý lịch đẹp. Cũng có thể là do cách giao tiếp của tôi – rời rạc, ngập ngừng và dài dòng quá mức (cả các nhân viên lẫn Michelle đều luôn phải nhắc nhở tôi về chuyện này), nhưng lại được giới viết lách thông cảm.
Hơn thế nữa, kể cả khi tôi là nạn nhân của vài tin xấu thì các phóng viên tôi gặp cũng thường là người thẳng thắn. Họ thu âm lại những cuộc nói chuyện, cố gắng đưa ra bối cảnh tôi phát biểu và gọi điện hỏi ý kiến tôi mỗi khi tôi bị phê phán.
Vì vậy ít nhất đối với cá nhân tôi, tôi không có gì phải phàn nàn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi có thể không cần quan tâm đến báo chí. Chính xác là vì tôi đã thấy họ trao cho tôi một vai khó mà theo nổi nên tôi muốn tìm hiểu tại sao tình huống theo chiều ngược lại có thể diễn ra nhanh đến vậy.
Một phép toán đơn giản cũng chứng minh được điều đó. Trong 39 cuộc họp ở các tòa thị chính tôi đã tổ chức trong năm đầu nhậm chức, trung bình mỗi lần có 400 đến 500 người tham gia, có nghĩa là tôi đã được gặp khoảng 15.000 đến 20.000 người. Giả sử tôi vẫn duy trì được con số này trong cả nhiệm kỳ thì đến ngày bầu cử tiếp theo tôi sẽ tiếp xúc trực tiếp được với khoảng 95.000 đến 100.000 cử tri.
Ngược lại, một câu chuyện dài ba phút được phát trên một kênh tin tức địa phương ít người nghe nhất ở Chicago cũng đến được với 200.000 thính giả. Nói cách khác, tôi – cũng như mọi chính trị gia liên bang khác – đang gần như hoàn toàn phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông để đến với cử tri. Đó là tấm kính lọc qua đó mọi người diễn giải lá phiếu của tôi, phân tích câu nói của tôi, kiểm chứng niềm tin của tôi, ít nhất với công chúng, chân dung tôi là do báo chí phác họa, lời lẽ của tôi là do báo chí nói ra. Tôi trở thành đúng con người mà báo chí dựng nên.
Báo chí ảnh hưởng lên chính trị theo rất nhiều cách. Ngày nay đáng chú ý nhất là hình thức báo chí có tính đảng phái công khai phát triển mạnh: chương trình thảo luận trên đài, kênh truyền hình Fox News, các nhà báo phụ trách mục xã luận, tọa đàm trên truyền hình cáp, và gần đây nhất là tác giả các blog; họ nói với nhau về những lời lăng mạ, buộc tội, những chuyện tầm phào và cạnh khóe suốt 24 giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Ai cũng có thể thấy là kiểu làm báo thể hiện quan điểm này không hoàn toàn mới; trên khía cạnh nào đó, nó cho thấy xu hướng quay lại truyền thống thống trị của báo chí Mỹ, một cách tiếp cận tin tức được những chủ bút như William Randolph Hearst và đại tá Mccormick[111] ủng hộ trước khi một quan điểm làm báo khách quan sạch sẽ hơn xuất hiện sau Thế chiến thứ hai.
Tuy nhiên, khó mà phủ nhận được rằng tất cả những âm thanh và cuồng nộ được phóng đại trên truyền hình và trên mạng đó đã làm nên thứ văn hóa chính trị thô lỗ. Nó thổi bùng sự giận dữ, sinh ra sự ngờ vực. Và dù giới chính trị gia chúng ta có muốn thừa nhận hay không thì những lời đả kích bất tận đó có thể bào mòn nghị lực. Điều kỳ lạ là cuộc tấn công càng thô bạo thì bạn càng không nên quá lo lắng về nó: nếu thính giả của Rush Limbaugh thích nghe anh ta gọi tôi là “Osama Obama” thì thái độ của tôi là cứ để họ vui vẻ với nhau. Bởi những kẻ thạo nghề hơn mới làm bạn đau, một phần vì họ được công chúng tin cậy hơn, phần khác vì bọn họ có khả năng chộp lấy những lời nói của bạn và làm cho bạn trở nên một kẻ ngu ngốc.
Ví dụ hồi tháng Tư năm 2005, tôi xuất hiện trong chương trình khai trương Thư viện Lincoln mới ở Springfield. Tôi có một bài phát biểu dài năm phút trong đó tôi nói rằng đặc điểm rất con người của Lincoln, sự thiếu hoàn hảo trong ông lại khiến cho ông trở nên rất thuyết phục. Tôi nói trong phần bình luận, “Vươn lên từ nghèo đói, từ quá trình tự học và cuối cùng trở nên thành thạo ngôn ngữ và luật, khả năng vượt qua những mất mát cá nhân và vẫn giữ thái độ kiên định trước những thất bại liên tiếp – từ tất cả những điều này, chúng ta thấy được tính cách cơ bản của người Mỹ, đó là niềm tin rằng chúng ta luôn có thể thay đổi bản thân để đạt được giấc mơ lớn hơn”.
Vài tháng sau, tạp chí Time đề nghị tôi viết một bài cho số phát hành đặc biệt về Lincoln. Tôi không có thời gian để viết cái gì mới nên tôi hỏi các biên tập viên liệu họ có chấp nhận bài phát biểu cũ của tôi không. Họ trả lời là được, nhưng muốn bài viết đó đậm cá tính hơn nữa – nên nói gì đó về ảnh hưởng của Lincoln lên cuộc đời tôi.
Giữa những cuộc họp, tôi vội vàng sửa một vài chữ. Một trong những thay đổi là câu nói trên được sửa thành: “Vươn lên từ nghèo đói, từ quá trình tự học và cuối cùng trở nên thành thạo ngôn ngữ và luật, khả năng vượt qua những mất mát cá nhân và vẫn giữ thái độ kiên định trước những thất bại liên tiếp – từ tất cả những điều này, Lincoln nhắc tôi nhớ rằng đó không chỉ là cuộc chiến của riêng tôi”.
Ngay sau khi bài viết xuất hiện đã có người lập tức vớ lấy nó, đó là Peggy Noonan, trước kia là người viết các bài phát biểu cho Reagan, phóng viên tờ Wall Street Journal. Dưới tiêu đề Sự tự cao của chính phủ, bà này viết: “Tuần này chúng ta thấy Thượng nghị sỹ Barack Obama, một người luôn thận trọng, ba hoa trên tạp chí Time và cho rằng ông ta rất giống Abraham Lincoln, chỉ có điều là xuất sắc hơn”. Và bà tiếp tục kết luận, “lý lịch của Barack Obama không có gì bất ổn, nhưng cũng không có gì đáng là biểu tượng cho mọi người. Và cho đến giờ trong đó cũng không có gì vĩ đại. Nếu ông ta tiếp tục tự nói về mình theo kiểu đó thì lý lịch của ông ta sẽ mãi mãi chỉ như thế”.
Ôi trời!
Dĩ nhiên, khó mà biết được liệu bà Noonan có thực sự nghĩ tôi đang tự so sánh mình với Lincoln thật không, hay bà chỉ thích thú khi tiêu diệt tôi một cách nhã nhặn như vậy. Khi phát đạn từ tờ báo bắn bừa ra, nó rất nhẹ nhàng, và không hẳn là ám muội.
Tôi nhớ lại những gì các đồng nghiệp kỳ cựu đã nói từ trước – rằng mỗi lời phát biểu của tôi đều sẽ được nghiên cứu kỹ, bị cắt nhỏ, diễn giải theo những cách mà tôi không thể kiểm soát nổi. Phe đối lập sẽ lục lọi để tìm ra sai lầm, lỗi ăn nói, sự bỏ sót hay mâu thuẫn để lưu lại và sau đó đưa lên một quảng cáo đả kích nào đó trên tivi. Trong môi trường mà chỉ một lời phát biểu thiếu cân nhắc cũng gây dư luận tiêu cực hơn cả những chính sách thiếu cân nhắc trong nhiều năm thì tôi thấy không nên ngạc nhiên khi ở Điện Capitol, người ta nghiên cứu kỹ mọi câu đùa, nghi ngờ những lời mỉa mai, không khen ngợi phong cách thoải mái và coi sự đam mê là hết sức nguy hiểm. Tôi bắt đầu nghĩ không biết một chính trị gia mất bao lâu để tiếp thu tất cả những chuyện này; bao lâu để thói quen ghi chép, biên tập và sàng lọc luôn thường trực trong tâm trí bạn; và mất bao lâu nữa thì những phút giây “thực lòng” cũng đi theo kịch bản và bạn kiềm chế hoặc bộc lộ sự giận dữ một cách thích hợp.
Mất bao lâu để bạn nói được như một chính trị gia?
Và một bài học khác: Ngay khi bài báo của bà Noonan xuất hiện, nó đã lan khắp mạng, xuất hiện trên tất cả các trang web của cánh hữu như một bằng chứng cho thấy tôi là kẻ kiêu ngạo, ngu dốt nông cạn (nhìn chung trên các trang web đó chỉ có những câu mà bà Noonan nhặt ra chứ không phải toàn bộ bài viết của tôi). Theo nghĩa này, câu chuyện gợi ý đến một khía cạnh tinh vi hơn, phá hoại hơn của báo chí hiện đại – làm sao một câu chuyện nào đó, được nhắc đi nhắc lại và lan khắp thế giới mạng với tốc độ ánh sáng, cuối cùng lại có thể trở thành một mẩu thực tế khắc nghiệt, bằng cách nào mà những biếm họa chính trị và những quan niệm truyền thống lại chui được vào trong đầu óc chúng ta trong khi chúng ta không bao giờ dành thời gian suy nghĩ về nó.
Ví dụ, ít khi các đảng viên Dân chủ được nhắc đến mà không kèm theo ngụ ý đó là những kẻ “yếu đuối” và “chẳng đại diện cho điều gì”. Còn đảng Cộng hòa, ngược lại, là “mạnh mẽ” (dù hơi ích kỷ), và Bush là người “quyết đoán” bất kể ông ta thay đổi ý kiến thường xuyên đến mức nào. Một lá phiếu hay một bài phát biểu không theo khuôn mẫu của Hillary Clinton ngay lập tức bị coi là tính toán; hành động tương tự của John McCain lại đánh bóng thêm phẩm chất chính trị độc lập của ông. “Đã thành quy luật”, như một quan sát viên cay độc đã nói, trong bất cứ bài báo nào tên tôi cũng phải đi kèm cụm từ “ngôi sao đang lên” ở phía trước. Mặc dù câu chuyện của Noonan đã tạo cơ sở cho một cốt truyện khác nhưng cũng quen thuộc không kém: một gã thanh niên lên Washington và trở nên nổi tiếng, mất bình tĩnh vì điều đó và cuối cùng trở thành một người tính toán và thiên lệch (trừ khi hắn chứng tỏ được là có quan điểm chính trị độc lập).
Dĩ nhiên, cỗ máy quan hệ công chúng của các chính trị gia cũng như đảng của họ sẽ giúp chăm chút thêm những câu chuyện này. Trong vài vòng bầu cử gần đây, ít nhất thì những người Cộng hòa cho thấy họ “đưa thông điệp” giỏi hơn những người Dân chủ (một câu nói sáo rỗng, nhưng không may cho đảng Dân chủ chúng ta, là thực sự chính xác). Tuy nhiên, mọi sự vẫn luẩn quẩn vì bản thân ngành báo chí truyền thông cũng thích cái vòng luẩn quẩn đó. Tất cả các phóng viên ở Washington đều phải làm việc dưới sức ép của biên tập viên và nhà sản xuất. Biên tập viên và nhà sản xuất lại phải trả lời trước chủ bút hoặc giám đốc điều hành mạng truyền hình. Đến lượt những người này lại chỉ quan tâm đến con số tỷ lệ người xem tuần trước hay số lượng phát hành năm ngoái, cố gắng đấu tranh để tồn tại khi khách hàng ngày càng ưa thích trò chơi điện tử Play Station và các chương trình truyền trình thực tế. Để hoàn thành công việc đúng kỳ hạn, duy trì được thị phần và nuôi sống được con quái vật truyền hình cáp, các phóng viên bắt đầu tập trung cùng một địa điểm, đưa tin về cùng một sự kiện, một khung cảnh hay một nhân vật. Trong khi đó với những người xem bận rộn và do đó cũng hờ hững với tin tức một câu chuyện cũ rích, lặp đi lặp lại không hẳn là hoàn toàn không được hưởng ứng. Nó không đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ nhiều hay tốn thời gian, chúng ta nắm bắt nó rất nhanh và dễ dàng. Chấp nhận vòng luẩn quẩn này dễ dàng hơn cho tất cả mọi người.
Yếu tố tiện lợi này cũng giải thích tại sao ngay cả đối với những phóng viên trung thực nhất thì khách quan cũng thường có nghĩa là đưa ra quan điểm của nhiều bên trong một cuộc tranh luận mà không cần chỉ ra bên nào có vẻ đúng hơn. Một câu chuyện điển hình thường bắt đầu bằng: “Hôm nay Nhà Trắng cho biết mặc dù vừa tiến hành cắt giảm thuế, nhưng thâm hụt ngân sách dự kiến sẽ giảm một nửa đến năm 2010”. Tiếp sau câu đầu tiên này sẽ là một phát biểu của một nhà phân tích phe tự do nhằm vào con số Nhà Trắng đưa ra, rồi đến một nhà phân tích phe bảo thủ bảo vệ con số đó. Ai trong số hai người này đáng tin cậy hơn? Liệu có nhà phân tích độc lập nào khác giúp chúng ta hiểu mấy con số đó hơn không? Ai mà biết được? Các phóng viên gần như không có thời gian cho những chi tiết kiểu đó: câu chuyện ở đây thực ra không còn về chính sách cắt giảm thuế ưu việt thế nào hay thâm hụt ngân sách nguy hiểm ra sao mà là mâu thuẫn giữa hai đảng. Sau một vài đoạn văn ngắn, người đọc có thể kết luận rằng đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đơn giản là lại đang cãi nhau vặt thêm lần nữa, và họ giở sang trang thể thao, câu chuyện bên trang này bất ngờ hơn và ít nhất còn có ô tỷ số cho biết bên nào thắng.
Thực tế, các phóng viên thích thú việc đặt các bản tin đối lập cạnh nhau một phần vì làm như vậy sẽ thỏa mãn được nhu cầu luôn có xung đột cá nhân trên báo chí. Khó lòng phủ nhận sự lịch thiệp trong chính trị đã suy giảm nhiều trong thập kỷ trước, và các đảng phái có quan điểm rất khác nhau về những vấn đề chính sách lớn. Nhưng ít nhất sự suy giảm đó có một phần nguyên nhân là báo chí quan niệm lịch thiệp thì chán ngắt. Câu nói của bạn sẽ không có hiệu ứng gì nếu bạn nói: “Tôi hiểu quan điểm của anh ta” hay “Vấn đề này thực sự phức tạp”. Phải tấn công, và bạn gần như không thể thắng được những người đứng sau camera. Thường thì các phóng viên sẽ đi lệch hướng để khuấy động mâu thuẫn, hỏi những câu khiêu khích để nhận được phản ứng kích động. Hồi ở Chicago tôi biết một phóng viên truyền hình khét tiếng là có khả năng moi từ bạn câu trả lời anh ta muốn, đến mức cuộc phỏng vấn với anh ta cứ như là biểu diễn hài kịch của Laurel và Hardy[112] vậy.
“Ông có cảm thấy mình bị quyết định hôm qua của Thống đốc phản bội không?” Ví dụ anh ta hỏi tôi thế.
“Không. Tôi đã nói chuyện với Thống đốc, và tôi chắc chúng tôi có thể dàn xếp mọi vấn đề trước khi phiên họp kết thúc”.
“Chắc chắn rồi… nhưng ông có cảm thấy bị Thống đốc phản bội không?”
“Tôi sẽ không nói như vậy. Quan điểm của ông ta là…”
“Nhưng thế không phải là sự phản bội về phía Thống đốc à?”
Hậu quả của cái vòng luẩn quẩn, phóng đại mâu thuẫn, bới móc bừa bãi các bê bối và sai lầm là làm xói mòn mọi chuẩn mực đánh giá sự thật thông thường. Mọi người thường kể một câu chuyện khá hay, có vẻ hơi không đáng tin lắm, về Daniel Patrick Moynihan, cựu thượng nghị sỹ từ New York, rất có tài, nóng tính và chống tôn giáo. Đại khái là Moynihan đang cãi nhau rất căng thẳng với một đồng nghiệp về một vấn đề nào đó, và vị thượng nghị sỹ kia, cảm thấy mình đang đuối lý, buột miệng: “Ờ, có thể anh không đồng ý với tôi Pat ạ, nhưng tôi có quyền có ý kiến của riêng mình chứ”. Và Moynihan nhạt giọng trả lời: “Anh có quyền có ý kiến riêng, nhưng anh làm gì có quyền có sự thật riêng”.
Moynihan cũng không còn đúng. Chúng ta không có những nhân vật đáng tin cậy, không còn Water Cronkite hay Edward R. Murrow[113] để lắng nghe và tin tưởng, giải quyết được các mâu thuẫn. Thay vào đó báo chí được chia nhỏ thành nghìn mảnh, mỗi mảnh có thực tế riêng, mỗi mảnh lại khẳng định sự trung thành với một quốc gia chia nhỏ. Tùy vào quan điểm của bạn, biến đổi khí hậu toàn cầu có thể đang gia tăng một cách nguy hiểm hoặc không, thâm hụt ngân sách có thể tăng lên hoặc giảm xuống.
Các sự kiên thuộc các vấn đề phức tạp cũng không bị hạn chế trong cách đưa tin. Vào đầu năm 2005, tờ Newsweek đưa ra thông tin là các nhân viên trại giam và nhân viên thẩm vấn ở nhà tù Vịnh Guantanamo đã kích động và lăng mạ tù nhân bằng nhiều cách trong đó có giật nước kinh Koran trong nhà vệ sinh. Nhà Trắng khẳng định câu chuyện này hoàn toàn không đúng sư thật. Không hề có tài liệu gì đáng tin cậy và trước sự phản đối đầy bạo lực ở Pakistan liên quan đến bài báo, Newsweek bị buộc phải tự rút lại thông tin. Vài tháng sau, Lầu Năm góc công bố một bản báo cáo cho biết một vài nhân viên của Mỹ ở Guantanamo thực tế đã có liên quan đến một số hành vi không phù hợp – trong đó có vụ một nữ nhân viên chính phủ Mỹ đã vờ bôi kinh nguyệt lên tù nhân trong khi thẩm vấn và ít nhất có một vụ khác là nhân viên trại giam hất nước tiểu vào người tù nhân và một quyển kinh Koran. Chiều hôm đó đài Fox News phát biểu: “Lầu Năm góc không tìm thấy bằng chứng cho thấy kinh Koran bị giật nước trong nhà vệ sinh”.
Tôi hiểu rằng không chỉ dựa vào thực tế để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Quan điểm về nạo phá thai không do lý thuyết khoa học về phát triển thai nhi quyết định, và đánh giá có nên rút quân khỏi Iraq hay không phải căn cứ vào những hậu quả có thể xảy ra sau đó. Nhưng trong một số trường hợp có câu trả lời đúng và câu trả lời sai, đôi khi có những thực tế không thể đảo lộn – giống như có thể trả lời câu hỏi trời có mưa hay không bằng cách bước ra ngoài trời xem. Nếu thực tế không phải là cơ sở để đi đến quyết định thống nhất thì mọi ý kiến đều có vị thế như nhau, do đó không thể đem lại thỏa hiệp đúng đắn. Điều này không đem lại ưu thế cho những người có quan điểm đúng mà là cho những người – như văn phòng báo chí Nhà Trắng – có thể lên tiếng to nhất, nhiều nhất, ngoan cố nhất và có hậu thuẫn mạnh nhất.
Chính trị gia ngày nay hiểu điều đó, ông ta có thể không nói dối, nhưng ông biết không có gì tốt đẹp dành cho những người nói sự thật, đặc biệt khi sự thật đó là vấn đề phức tạp. Sự thật có thể gây ra hoảng sợ; sự thật có thể bị tấn công; báo chí không đủ kiên nhẫn để lọc ra toàn bộ sự thật để công chúng có thể nhận thấy sự khác biệt giữa trung thực và dối trá. Hậu quả tiếp theo là vấn đề thái độ – phải nói sao cho tránh được tranh cãi hoặc có được sự ủng hộ cần thiết từ công chúng, hay phải có một lập trường phù hợp tới hình ảnh mà báo chí đã tạo ra cho chính trị gia này cũng như với câu chuyện chính trị nói chung trên các phương tiện truyền thông. Với sự chính trực, ông ta vẫn có thể muốn nói ra sự thật ông đang chứng kiến. Nhưng ông cũng biết rằng việc có tin vào quan điểm mình phát biểu hay không chẳng quan trọng bằng việc trông có vẻ tin; cuộc nói chuyện có thẳng thắn hay không không quan trọng bằng việc trên truyền hình nghe có vẻ thẳng thắn.
Tôi quan sát thấy có rất nhiều chính trị gia đã vượt qua được những chướng ngại vật ấy và giữ nguyên được tính chính trực của mình. Đó là những người vẫn nhận được tiền quyên góp cho chiến dịch vận động mà không bị mua chuộc, giành được sự ủng hộ mà không bị những nhóm lợi ích đặc biệt chi phối và quản lý được quan hệ với báo chí mà không đánh mất bản thân. Nhưng vẫn còn một chướng ngại vật cuối cùng mà khi bạn đã yên vị ở Washington, bạn không thể hoàn toàn tránh được nó, ít nhất chắc chắn nó cũng làm cho một lượng cử tri đáng kể thất vọng về bạn, đó là bản chất rất không hay của nghề lập pháp.
Trong những nghị sỹ tôi biết không có ai không thường xuyên bị ray rứt bởi lá phiếu của mình. Có khi chúng ta thấy một điều luật rõ ràng là rất đúng nên không cần đấu tranh tư tưởng (có thể nghĩ ngay đến John McCain đề nghị cấm chính phủ Mỹ sử dụng hình thức tra tấn). Nhưng có nhiều lần khác, một dự luật được đưa ra thảo luận lại cực kỳ thiên vị hoặc được soạn thảo quá kém đến mức ai cũng nghĩ không hiểu sao người ủng hộ dự luật này lại có thể làm ra vẻ trung thực được suốt cuộc tranh luận.
Nhưng thông thường, lập pháp là một âm mưu khá tăm tối, là sản phẩm của hàng trăm thỏa hiệp lớn nhỏ, là kết quả của sự kết hợp mục tiêu chính sách, vị thế chính trị, cơ chế quản lý cẩu thả và những khoản tiền chi cho vận động phiếu bầu theo kiểu truyền thống. Khi đọc qua những dự luật được đưa ra bỏ phiếu trong mấy tháng đầu làm việc ở Thượng viện, tôi phải đối mặt với thực tế là những vấn đề mang tính nguyên tắc thường không rõ ràng như tôi nghĩ, và bất kể tôi bỏ phiếu thuận hay phiếu chống thì ít nhiều tôi sẽ đều phải ân hận. Tôi có nên bỏ phiếu cho dự luật năng lượng trong đó có điều khoản của tôi là đẩy mạnh sản xuất nhiên liệu thay thế và cải thiện hiện trạng, nhưng cả dự luật thì hoàn toàn không phù hợp với mục tiêu giảm sự phụ thuộc của kinh tế Mỹ vào dầu mỏ nhập khẩu? Tôi có nên bỏ phiếu chống lại một sửa đổi trong Đạo luật Không khí sạch nhằm giảm kiểm soát ở một vài lĩnh vực nhưng lại tăng kiểm soát ở lĩnh vực khác, đồng thời xây dựng một hệ thống quy định dễ dự đoán hơn cho các doanh nghiệp thực hiện theo? Nên làm thế nào với một dự luật làm tăng ô nhiễm nhưng lại tài trợ cho công nghệ sử dụng than sạch, qua đó tạo việc làm cho một vùng khó khăn ở Illinois?
Hết lần này đến lần khác, tôi thấy mình cố gắng hết sức nghiên cứu bằng chứng thực tế, các lý luận ủng hộ và phản đối trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi bỏ phiếu. Nhân viên của tôi sẽ cho biết là hai bên đang có số thư và số lần gọi điện bằng nhau và số nhóm lợi ích cũng như nhau. Khi thời điểm bỏ phiếu đến gần, tôi thường nhớ lại những điều John F. Kennedy đã viết năm mươi năm trước trong cuốn sách Profiles in Courage (Tấm gương can đảm)[114]:
Rất ít người, phải đối mặt với quyết định khó khăn như khi một thượng nghị sỹ được gọi lên bỏ phiếu. Vị thượng nghị sỹ này có thể muốn có thêm thời gian để quyết định, ông ta có thể tin rằng cả hai phe đều có nhiều điều cần nói, ông ta có thể cảm thấy chỉ cần một chút chỉnh sửa là sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Những khi bị gọi đến tên, ông không thể lẩn trốn, không thể nói nước đôi cũng không thể trì hoãn – và ông cảm thấy cử tri của mình, như con quạ trong bài thơ của Poe[115], đang ngồi kia, ở chiếc bàn của ông tại Thượng viện, rền rĩ “Không bao giờ nữa” khi ông bỏ lá phiếu làm thay đổi tương lai chính trị của ông.
Điều này nghe có vẻ hơi kịch. Nhưng không nghị sỹ nào, ở cấp bang hay liên bang, tránh được những giây phút khó khăn đó, và còn khó khăn hơn nhiều đối với đảng đang mất ưu thế quyền lực. Là thành viên của phe đa số, bạn có thể có vài đóng góp mà bạn thấy quan trọng vào dự luật trước khi nó được đưa ra bỏ phiếu. Bạn có thể yêu cầu chủ tịch các ủy ban thêm vào những từ có lợi cho cử tri của bạn hoặc bỏ đi những từ làm tổn thương họ. Bạn thậm chí có thể đề nghị thủ lĩnh phe đa số hoặc người bảo trợ chính cho dự luật hoãn đưa nó ra bỏ phiếu một thời gian cho đến khi đạt được sự thỏa hiệp bạn mong muốn.
Nếu bạn thuộc phe thiểu số, bạn không thể có những quyền đó. Bạn phải bỏ phiếu thuận hoặc phiếu chống khi dự luật dược đưa ra, biết rằng không thể có một thỏa hiệp mà bạn và những người ủng hộ bạn coi là công bằng hoặc vừa phải. Ở cái thời đầy những dự luật thông đồng quyền lợi bừa bãi và chi tiêu khổng lồ, bạn có thể chắc rằng dù dự luật có bao nhiêu điều khoản tồi tệ thì vẫn luôn có những điều khoản khác – chẳng hạn như mua áo giáp cho binh lính hay tăng một chút phúc lợi cho cựu chiến binh – khiến cho bạn khó mà phản đối được dự luật.
Ít nhất trong nhiệm kỳ đầu tiên, Nhà Trắng dưới tay Bush cũng rất giỏi đánh lạc hướng kiểu đó khi làm luật. Có một câu chuyện như một bài học về đàm phán xung quanh vòng cắt giảm thuế đầu tiên dưới thời Bush, lúc đó Karl Rove mời một thượng nghị sỹ đảng Dân chủ đến Nhà Trắng để thảo luận khả năng ủng hộ của ông này với chương trình của Bush. Trong lần bầu cử trước đó, Bush đã giành thắng lợi ở bang của ông này một cách thuận lợi – một phần nhờ chương trình cắt giảm thuế, và vị thượng nghị sỹ nhìn chung ủng hộ một tỷ lệ cắt giảm thấp hơn. Nhưng ông vẫn thấy e ngại vì chính sách này thiên vị người giàu nên ông đề xuất một số thay đổi để cân bằng hơn ảnh hưởng của nó.
Ông nói với Rove: “Sửa thế này đi, và không chỉ tôi bỏ phiếu thuận đâu tôi đảm bảo ông sẽ có được bảy mươi phiếu thuận ở Thượng viện”.
Nghe đồn Rove trả lời: “Chúng tôi đâu cần đến bảy mươi phiếu. Chúng tôi cần năm mốt thôi”.
Không thể biết Rove có nghĩ dự luật Nhà Trắng đưa ra là chính sách tốt hay không, nhưng chắc chắn chỉ cần nhìn là ông biết ai sẽ giành chiến thắng trong chính trị. Hoặc vị thượng nghị sỹ kia bỏ phiếu thuận và giúp kế hoạch của tổng thống được thông qua, hoặc ông bỏ phiếu chống và trở thành đối tượng phải gạt ra trong vòng bầu cử tiếp theo.
Cuối cùng vị thượng nghị sỹ này – cũng như các đảng viên Dân chủ ở các bang đỏ khác – đã bỏ phiếu thuận, điều này rõ ràng phản ánh quan điểm của bang đó về cắt giảm thuế. Những câu chuyện như thế này minh họa cho cái khó mà đảng thiểu số gặp phải khi muốn đạt được “thỏa thuận song phương”[116]. Mọi người đều thích ý tưởng “thỏa thuận song phương”. Đặc biệt, báo chí rất say mê với thuật ngữ này vì nó đối lập hẳn với “bất đồng đảng phái” – một chuyện thường xuyên xảy ra ở Đồi Capitol.
Tuy nhiên, thỏa thuận song phương thực sự đòi hỏi một quá trình cho-và-nhận trung thực, và kết quả thoả hiệp được đo bằng khả năng đáp ứng những mục tiêu chung, có thể là tăng chất lượng trường học hay giảm thâm hụt ngân sách. Điều này đòi hỏi phải có lực lượng báo chí mạnh và cử tri có đầy đủ thông tin để kiềm chế phe đa số, khi đó họ buộc phải đàm phán với thiện chí. Nếu không – tức là không ai ngoài những người ở Washington quan tâm đến bản chất của dự luật, và chi phí thực của việc cắt giảm thuế bị che giấu bằng những phép tính giả tạo, nhờ thế giảm đi hàng nghìn tỷ dollar – thì phe đa số có thể bắt đầu quá trình đàm phán bằng việc đòi 100% những điều họ muốn, sau đó nhượng bộ 10% và buộc tội những thành viên phe thiểu số không ủng hộ sự “thỏa hiệp” này là “kẻ phá rối”. Khi đó đối với đảng thiểu số, “thỏa thuận song phương” nghĩa là luôn luôn bị áp chế, mặc dù cá nhân từng thượng nghị sỹ có thể có quyền lợi chính trị nhất định nhờ luôn luôn đi theo phe đa số, nhờ đó được tiếng là “vừa phải” hoặc “ôn hòa”.
Không ngạc nhiên khi có những nhà hoạt động khẳng định rằng các thượng nghị sỹ Dân chủ ngày nay phản đối mọi đề xuất của đảng Cộng hòa quá nhanh – ngay cả những đề xuất có ưu điểm – như thể đó là nguyên tắc hành động. Công bằng mà nói chưa ai trong số những nhà hoạt động này từng chạy đua vào vị trí cao trong chính phủ với tư cách là một đảng viên Dân chủ trong một bang đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát, họ cũng chưa bao giờ là đích ngắm của những đoạn quảng cáo đả kích trị giá hàng triệu dollar. Thượng nghị sỹ nào cũng hiểu rằng việc làm cho một lá phiếu biểu quyết một đạo luật phức tạp trở thành sai trái và vô đạo đức trong 30 giây quảng cáo trên tivi là rất dễ, nhưng giải thích được sự sáng suốt của lá phiếu đó chỉ trong vòng 20 phút lại rất khó. Thượng nghị sỹ nào cũng biết rằng chỉ trong một nhiệm kỳ, ông ta hoặc bà ta phải bỏ phiếu vài nghìn lần. Có nghĩa là trong kỳ bầu cử tới sẽ phải mất rất nhiều thời gian giải thích.
Có lẽ điều may mắn lớn nhất của tôi trong đợt tranh cử vào Thượng viện là không ai làm quảng cáo đả kích tôi cả. Lý do hoàn toàn là vì hoàn cảnh đặc biệt của cuộc chạy đua hồi đó, chứ không phải do thiếu phương tiện. Nói cho cùng, tôi đã làm việc trong nghị viện bang bảy năm trước khi tranh cử vào thượng viện, trong đó sáu năm là ở phe thiểu số và đã vài nghìn lần phải bỏ những lá phiếu khó khăn. Đúng như cách thức người ta thường làm ngày nay, Ủy ban Thượng viện của đảng Cộng hòa đã chuẩn bị một tập tài liệu dày cộp nghiên cứu về tôi thậm chí trước cả khi tôi được đề cử, còn nhóm nghiên cứu của tôi đã dành hàng giờ xem xét quá trình làm việc của tôi để đoán xem bên Cộng hòa có thể có trong tay những gì một khi làm quảng cáo đả kích tôi.
Họ không tìm thấy nhiều lắm, nhưng cũng đủ để làm hại tôi – có khoảng hơn mười lần bỏ phiếu, nếu không được mô tả đầy đủ hoàn cảnh thì nghe có vẻ rất kinh khủng. Khi cố vấn truyền thông của tôi, David Axelrod, kiểm tra thử tác động của những lá phiếu đó bằng một cuộc thăm dò thì tỷ lệ ủng hộ tôi ngay lập tức giảm xuống mười điểm. Có một dự luật hình sự với mục đích giải quyết nạn mua bán ma túy ở trường học, nhưng được soạn thảo tệ đến mức tôi kết luận là nó vừa không hiệu quả vừa vi hiến – và trong phiếu thăm dò, quyết định này được diễn đạt là “Obama đã bỏ phiếu làm suy yếu hình phạt cho những kẻ mua bán ma túy ở trường học”. Còn có một dự luật do những người hoạt động chống nạo phá thai bảo trợ, bề ngoài thì nghe rất hợp lý – nó buộc phải có các biện pháp bảo vệ cho trẻ sinh non (nhưng không đề cập đến việc biện pháp đó chính là luật) – nhưng lại cho rằng bào thai chưa thể tồn tại độc lập[117] đã là con người, do đó đã đi ngược lại phán quyết trong vụ Roe và Wade[118]; trong cuộc thăm dò, tôi bị coi là “đã bỏ phiếu bác bỏ những biện pháp chăm sóc nhằm bảo vệ tính mạng cho trẻ sơ sinh”. Khi đọc qua danh sách, tôi còn thấy lời buộc tội rằng khi ở nghị viện bang, tôi đã bỏ phiếu chống dự luật “Bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại tình dục”.
“Khoan đã”, tôi giật lấy tờ giấy trong tay David. “Chẳng may tôi ấn nhầm nút lúc bỏ phiếu cho dư luật ấy thôi. Tôi định bỏ phiếu thuận, và lá phiếu nhầm của tôi được sửa ngay trong kết quả chính thức rồi chứ”.
David cười. “Không hiểu sao tôi nghĩ là phần sửa đấy sẽ không được đưa lên trong quảng cáo của phe Cộng hòa đâu”. Anh ta nhẹ nhàng lấy lại tờ kết quả thăm dò từ tay tôi. “Dù sao đi nữa cũng hãy vui lên”, anh ta nói thêm, vỗ nhẹ vào lưng tôi. “Tôi đảm bảo cái này sẽ giúp anh chuẩn bị trước để tránh được tấn công trong vụ lá phiếu xâm phạm tình dục”.
ĐÔI KHI TÔI tự hỏi mọi việc sẽ thế nào nếu thực sự có những quảng cáo đả kích kia. Không phải vấn đề tôi sẽ thắng hay thua (vào thời điểm kết thúc bầu cử sơ bộ, tôi dẫn nước đối thủ đảng Cộng hòa tận 20 điểm), mà là chuyện cử tri sẽ nhìn tôi như thế nào, và tôi sẽ nhận được ít thiện ý hơn nhiều khi gia nhập Thượng viện. Vì đó chính là tình thế mà đa phần đồng nghiệp của tôi, cả ở đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ, gặp phải khi vào Thượng viện. Sai lầm của họ được thông báo rộng rãi, những lời nói của họ bị bóp méo, và động cơ của họ bị đặt câu hỏi. Họ bị thiêu đốt trong ngọn lửa đó, nó ám ảnh họ mỗi lần họ bỏ một lá phiếu, mỗi lần họ đưa ra một thông cáo báo chí hay một lời phát biểu. Họ không sợ thất bại trong cuộc chạy đua chính trị mà sợ mất đi hình ảnh trong mắt những người đã bỏ phiếu cho họ đến Washington – tất cả những người đã từng nói với họ: “Chúng tôi rất hy vọng vào ông/bà. Đừng làm chúng tôi thất vọng”.
Dĩ nhiên, có những cải tiến trong nền dân chủ giúp giảm được sức ép lên giới chính trị gia, có những thay đổi cơ cấu làm tăng mối liên hệ giữa cử tri và nghị sỹ. Phân chia khu vực bầu cử không theo đảng phái, đăng ký bỏ phiếu vào ngày bầu cử[119] và bầu cử vào cuối tuần đều có thể làm tăng tính cạnh tranh của cuộc chạy đua và khuyến khích cử tri tham gia nhiều hơn; và khi cử tri càng quan tâm thì tính trung thực càng được tưởng thưởng. Tài trợ công khai cho chiến dịch vận động hoặc quảng cáo miễn phí trên truyền hình hoặc phát thanh sẽ hạn chế đáng kể hành vi vòi tiền và giảm bớt ảnh hưởng của các nhóm lợi ích đặc biệt. Thay đổi các quy tắc ở Hạ viện và Thượng viện có thể làm tăng sức mạnh của những nghị sỹ phe thiểu số, tăng tính minh bạch trong quá trình làm luật và khuyến khích nói lên sự thật.
Nhưng những thay đổi đó không thể tự xảy ra. Thay đổi nào cũng đòi hỏi những người nắm quyền lực phải thay đổi thái độ của họ. Nó cũng đòi hòi mỗi chính trị gia phải chống lại cái trật tự đang tồn tại, bớt đi ham muốn giữ chiếc ghế họ đang ngồi, đấu tranh với cả bạn bè lẫn đối thủ nhân danh những lý tưởng trừu tượng mà công chúng có lẽ không quan tâm lắm. Thay đổi nào cũng đòi hỏi mọi người phải mạo hiểm với những gì họ đang có.
Cuối cùng, ta vẫn trở lại với phẩm chất mà JFK (Tổng thống John F. Kennedy) tìm cách định nghĩa hồi đầu sự nghiệp khi ông nằm dưỡng sức sau cuộc phẫu thuật, nghĩ về những hành động anh hùng của ông trong chiến tranh, nhưng có lẽ lo lắng về những thách thức mơ hồ trước mắt – sự can đảm. Bạn làm chính trị càng lâu thì càng dễ trở thành người can đảm vì bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận thấy rằng dù bạn làm gì đi nữa thì cũng luôn có người nổi cáu với bạn, cho dù bạn bỏ phiếu cẩn thận thế nào đi nữa thì vẫn có người tấn công bạn, và mọi sự suy xét đều có thể bị coi là hèn nhát, còn bản thân sự dũng cảm lại bị coi là tính toán. Tôi thấy thoải mái với thực tế là tôi làm chính trị càng lâu thì càng không cần đến sự nổi tiếng, việc theo đuổi quyền lực, địa vị, hay danh tiếng chỉ phản ánh tham vọng nghèo nàn, và tôi vẫn trả lời được những câu hỏi của lương tâm chính mình.
Và các cử tri của tôi. Sau một buổi gặp một cử tri ở Godfrey, một người đàn ông lớn tuổi đến gặp tôi, nói rằng ông bất bình vì mặc dù tôi phản đối Chiến tranh Iraq, nhưng tôi vẫn chưa kêu gọi rút hết quân đội khỏi nước này. Chúng tôi đã có vài câu tranh luận ngắn gọn và thân mật, trong đó tôi giải thích mối lo ngại rằng việc rút quân quá đột ngột có thể dẫn tới một cuộc nội chiến nghiêm trọng ở lraq, có nguy cơ dẫn tới xung đột rộng hơn trên toàn vùng Trung Đông. Cuối cuộc trò chuyện, ông bắt tay tôi.
“Tôi vẫn nghĩ là anh sai”, ông ta nói, “nhưng ít nhất thì có vẻ anh cũng đã suy nghĩ về vấn đề này. Chết tiệt, có khi anh còn làm tôi thất vọng nếu lúc nào anh cũng đồng ý với tôi đấy”.
“Cảm ơn ông”, tôi trả lời. Khi ông ta quay đi. tôi nhớ lại thẩm phán Louis Brandeis[120] đã từng nói: trong nền dân chủ, địa vị quan trọng nhất chính là địa vị công dân.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.