Hy Vọng Táo Bạo

Chuơng 5: Cơ hội



Một đặc điểm của nghề thượng nghị sỹ Mỹ là bạn phải bay rất nhiều. Ít nhất một lần một tuần phải bay đến Washington và bay về, chưa kể phải đến các bang khác để phát biểu, quyên tiền hay vận động tranh cử giúp đồng nghiệp. Nếu bạn đại diện cho một bang lớn như Illinois thì còn phải bay qua bay lại trong bang để họp mặt cử tri hay cắt băng khánh thành các công trình, để đảm bảo cử tri không nghĩ là họ bị bỏ quên.

Đa phần tôi đi máy bay của các hãng hàng không thương mại, hy vọng được chỗ ngồi sát lối đi hoặc cạnh cửa sổ, cầu trời vị khách ngồi đằng trước không ngả ghế ra sau.

Nhưng cũng có vài bận – vì tôi phải dừng nhiều lần ở Bờ Tây chẳng hạn, hoặc cần đến một thành phố khác vào thời điểm muộn hơn chuyến bay cuối cùng – tôi sử dụng máy bay tư nhân. Lúc đầu tôi không quan tâm đến lựa chọn này vì tôi nghĩ chi phí rất cao, không thể trả nổi. Nhưng trong chiến dịch vận động, nhân viên của tôi giải thích là theo quy tắc của Thượng viện, thượng nghị sỹ hoặc ứng cử viên có thể thuê máy bay của tư nhân và chỉ phải trả mức phí tương đương với giá vé hạng nhất thông thường. Sau khi xem xét lịch trình làm việc và cân nhắc khoảng thời gian tiết kiệm được, tôi quyết định thử đi máy bay tư nhân.

Hóa ra đi máy bay tư nhân rất khác và rất tuyệt vời. Máy bay cất cánh từ ga hàng không do tư nhân sở hữu và quản lý, với phòng chờ có những ghế sofa rộng, mềm mại, ti vi màn ảnh rộng và những tấm ảnh máy bay cổ trên tường. Phòng vệ sinh thường không có ai và sạch như lau như ly, lại còn có máy đánh giày, nước súc miệng và kẹo cao su bạc hà đựng trong bát. Không có gì phải vội ở ga này vì máy bay vẫn chờ bạn nếu bạn đến muộn, đứng sẵn đón bạn nếu bạn đến sớm.

Nhiều lần bạn có thể bỏ qua các phòng chờ và lái xe thẳng đến tận nơi máy bay dỗ. Nếu không thì phi công sẽ đón bạn ở ga chờ, xách hành lý hộ bạn và đưa bạn lên máy bay.

Và cái máy bay, chà, thật tuyệt. Lần đầu tôi sử dụng máy bay tư nhân, tôi được bay trên chiếc Citation X[121], một cỗ máy gọn gàng, chắc chắn và bóng loáng với nội thất ốp gỗ và các ghế ngồi đều bọc da, bất cứ lúc nào muốn nằm ngủ bạn có thể kéo chúng sát lại nhau làm thành giường nằm. Món salad tôm và pho mát nằm ngay trên dãy ghế sau, tủ lạnh mini phía trước lúc nào cũng đầy đồ uống. Các phi công treo áo khoác cho tôi, mời tôi chọn báo để đọc, và họ hỏi tôi có thoải mái không, tôi thoải mái quá đi chứ.

Và rồi máy bay cất cánh, hai động cơ Rolls-Royce của nó nghiến vào không khi y như tiếng chiếc xe thể thao ngon lành nghiến lên mặt đường vậy. Khi bay xuyên qua những tầng mây, tôi bật màn hình tivi nhỏ trước mặt. Bản đồ nước Mỹ hiện ra với hình máy bay của chúng tôi đang hướng về phía tây, có cả thông tin về vận tốc bay, độ cao, thời gian bay dự kiến và nhiệt độ bên ngoài. Máy bay lấy hết độ cao ở 40.000 feet (12.192m), và tôi nhìn xuống đường chân trời cong cong và những đám mây lững lờ xung quanh, mặt đất trải dài phía dưới – đầu tiên là những cánh đồng bằng phẳng bàn cờ vùng phía tây Illinois, rồi đến khúc sông Mississippi[122] uốn cong như một con rắn, tiếp nữa là những trang trại trồng trọt và chăn nuôi, cuối cùng là những đỉnh lởm chởm của dãy Rockies[123] vẫn phủ trắng màu tuyết, cho đến tận lúc mặt trời lặn xuống, và màu cam vàng rực bầu trời thu lại thành một đường chỉ đỏ mảnh mai, cuối cùng nó biến mất trong bóng đêm, chỉ còn ánh trăng và những vì sao.

Tôi có thể hiểu vì sao người ta quen với sự tiện nghi này.

Mục đích chủ yếu của chuyến đi hôm đó là gây quỹ – để chuẩn bị vận động cho đợt tổng tuyển cử, một vài người bạn và người ủng hộ tôi đã tổ chức các sự kiện ở L.A, San Diego và San Francisco cho tôi. Nhưng tôi nhớ nhất là chuyến đến thăm thị trấn Mountain View, bang California, cách Đại học Standford và Balo Alto vài dặm về phía nam, ngay trung tâm Thung lũng Silicon, nơi công ty sở hữu công cụ tìm kiếm Google đặt trụ sở chính.

Google đạt được vị thế một công ty hàng đầu vào giữa năm 2004, là biểu tượng không chỉ cho sức mạnh ngày càng lớn của mạng toàn cầu mà còn cho cả sự thay đổi rất nhanh của kinh tế thế giới. Khi ngồi trên ô tô trên đường từ San Francisco đến Mountain View, tôi đọc lại lịch sử công ty: hai nghiên cứu sinh ngành tin học của Đại học Standford, Larry Page và Sergey Brin, đã cùng làm việc với nhau trong một phòng ký túc xá để phát triển cách tìm kiếm tốt nhất trên mạng. Đến năm 1998, với một triệu dollar huy động được từ nhiều người quen, họ đã thành lập Google nơi ba nhân viên làm việc trong một garage. Rồi Google đã tiến ra mô hình quảng cáo dựa trên những đoạn ký tự đơn giản và phù hợp với từ khóa tìm kiếm của người sử dụng – qua đó công ty kiếm được lợi nhuận ngay cả khi thời kỳ bùng nổ của các dotcom[124] đi vào thoái trào. Sáu năm sau khi thành lập, Google được niêm yết trên sàn chứng khoán, nhờ đó Page và Brin trở thành hai trong số những người giàu nhất thế giới.

Mountain View trông giống như vùng ngoại ô California điển hình – phố xá yên tĩnh, những tòa nhà văn phòng mới sáng lấp lánh, những ngôi nhà khiêm nhường – nhưng với sức mua đặc biệt mạnh của công dân vùng Thung lũng Silicon – có lẽ có giá trị cả triệu dollar hoặc hơn. Chúng tôi tiến vào trước một dãy các tòa nhà hiện đại dạng module và được đón tiếp bởi luật sư của Google, David Drummond, một người da đen cũng trạc tuổi tôi, anh đã thu xếp cho tôi cuộc gặp này.

“Hồi Larry và Sergey đến gặp tôi để thành lập công ty, tôi nghĩ lại hai gã thông minh tham vọng khởi nghiệp thôi”, David kể. “Tôi không thể ngờ bây giờ lại được như thế này”.

Anh ta dẫn tôi đi thăm tòa nhà chính, nó giống một khu nhà dành cho sinh viên hơn là một văn phòng – với quán cà phê ở tầng trệt, nơi có cựu đầu bếp của ban nhạc Grateful Dead[125] quản lý việc chuẩn bị đồ ăn cho toàn bộ nhân viên; có trò chơi điện tử, bàn bóng bàn và một phòng tập thể dục đầy đủ thiết bị. (“Mọi người đều dành nhiều thời gian ở đây nên chúng tôi muốn làm họ vui vẻ”). Trên tầng hai, chúng tôi đi qua những nhóm nhân viên nam nữ mặc quần jean và áo phông (thun), tất cả đều mới ngoài hai mươi tuổi, đang chăm chú làm việc trước màn hình máy tính hay nằm dài trên những chiếc ghế sofa hoặc quả bóng cao su lớn dùng để tập thể dục và nói chuyện sôi nổi.

Cuối cùng chúng tôi nhìn thấy Larry Page đang nói chuyện với một kỹ sư về một trục trặc phần mềm gì đó. Anh ta cũng ăn mặc giống các nhân viên và trông cũng không già hơn họ bao nhiêu nếu đừng để ý đến một vài sợi tóc màu muối tiêu. Chúng tôi nói chuyện về sứ mệnh của Google – đó là sắp xếp tất cả các thông tin trên thế giới này theo một trật tự để có thể tiếp cận được trên toàn cầu, không bị lọc và dễ sử dụng – với số trang web Google tiếp cận được vào lúc đó là khoảng 6 tỷ trang. Gần đây công ty đã tung ra dịch vụ hệ thống thư điện tử mới có chức năng tìm kiếm đi kèm; và họ đang nghiên cứu công nghệ cho phép bạn tìm kiếm bằng giọng nói qua điện thoại, họ cũng đã bắt đầu dự án sách, mục tiêu là quét tất cả các đầu sách đã từng được xuất bản, chuyển thành dạng web dễ truy cập và tạo nên một thư viện ảo chứa toàn bộ hiểu biết của nhân loại.

Cuối chuyến thăm, Larry dẫn tôi vào một căn phòng, trong đó có một màn hình phẳng rất lớn với hình ảnh ba chiều của trái đất đang quay. Larry nhờ một kỹ sư trẻ người gốc Ấn đang làm việc gần đó giải thích hình ảnh chúng tôi đang xem.

“Những chỗ sáng này là nơi đang diễn ra việc tìm kiếm”, anh ta giải thích. “Mỗi màu là một ngôn ngữ. Nếu anh đẩy cái cần theo hướng này” – anh ta làm màn hình thay đổi – “anh sẽ thấy lưu lượng hoạt động của toàn bộ hệ thống mạng trên thế giới”.

Hình ảnh trước mắt rất mê hoặc, có vẻ sống động chứ không máy móc, như thể tôi đang thoáng thấy những bước đầu tiên của một quá trình phát triển rất nhanh, trong đó biên giới ngăn cách con người – quốc tịch, màu da, tôn giáo, tài sản – trở nên vô hình và không còn phù hợp, nhờ đó một nhà vật lý ở Cambridge, một nhà kinh doanh trái phiếu ở Tokyo, một sinh viên ở một ngôi làng Ấn Độ xa xôi, một giám đốc trung tâm thương mại ở Mexico City có thể cùng tham gia vào một cuộc trò chuyện dài, liên tục, và thời gian và không gian phải nhường bước cho một thế giới tràn đầy ánh sáng. Rồi tôi nhìn thấy những vệt tối sẫm khi trái đất tự quay quanh trục – phần lớn ở châu Phi, vành đai Nam Á, thậm chí vài vùng ở Mỹ, nơi chùm tia sáng dày đặc tan rã thành những sợi nhỏ rời rạc.

Cơn mơ màng của tôi chấm dứt bởi sự xuất hiện của Sergey, một anh chàng rắn chắc, có lẽ trẻ hơn Larry vài tuổi. Anh gợi ý mời tôi đi cùng họ tới buổi sinh hoạt thứ Sáu[126], một truyền thống được duy trì từ hồi mới thành lập công ty, đó là tất cả các nhân viên của Google tụ tập lại để ăn và uống bia và nói chuyện về bất cứ ý tưởng nào xuất hiện trong đầu. Khi chúng tôi vào căn phòng lớn, hàng đám đông người trẻ tuổi đã ngồi sẵn, một vài người uống bia và cười đùa, những người khác vẫn gõ phím PDA[127] hoặc máy tính xách tay, và một tinh thần hào hứng bao trùm bầu không khí. Một nhóm khoảng năm mươi người có vẻ thu hút sự chú ý hơn những người khác, David giải thích đó là những nhân viên mới, vừa tốt nghiệp đại học; hôm nay là ngày họ gia nhập đội ngũ Google. Từng người một, các nhân viên mới được giới thiệu, khuôn mặt họ hiện ra trên màn hình lớn cùng với thông tin về bằng cấp, mối quan tâm và sở thích. Ít nhất một nửa trong số họ có vẻ là người châu Á, phần lớn người da trắng mang những cái tên Đông Âu. Và tôi có thể nói là không ai trong số đó là người da đen hoặc Nam Mỹ. Lúc sau, khi quay về xe ô tô, tôi nói điều này với David và anh ta gật đầu.

“Chúng tôi biết vấn đề đó”, anh nói, và nhắc đến việc Google đã nỗ lực trao học bổng để tăng số sinh viên da màu thiểu số và sinh viên nữ theo học toán và khoa học. Đồng thời, Google cũng phải duy trì tính cạnh tranh, tức là phải tuyển những sinh viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo toán, tin học và kỹ sư xuất sắc nhất trên cả nước như Học viện công nghệ Massachusetts, Học viện công nghệ California, đại học Stanford, đại học Berkeley[128]. David nói với tôi là ở những ngành học nói trên tại các trường này số sinh viên da đen và Nam Mỹ chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Thực tế, theo David nói thì tìm được kỹ sư người Mỹ, bất kể màu da gì, cũng ngày càng khó hơn – đó là lý do tại sao tất cả các công ty ở Thung lũng Silicon ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào sinh viên nước ngoài. Gần đây, các nhà quản lý doanh nghiệp thuộc ngành công nghệ cao lại có nỗi lo mới: Từ sau sự kiện 11/9, rất nhiều sinh viên nước ngoài đã suy nghĩ lại việc du học tại Mỹ vì khó xin được thị thực nhập cảnh. Các kỹ sư thiết kế phần mềm xuất sắc nhất bây giờ không cần đến tận Thung lũng Silicon mới có việc làm hay được đầu tư mở công ty. Các công ty công nghệ cao đặt cơ sở ở Ấn Độ và Trung Quốc với tốc độ rất nhanh, và các quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay hoạt động trên toàn cầu; họ sẵn sàng đầu tư vào Mumbai hay Thượng Hải không khác gì vào California. Và trong dài hạn, theo David, đây sẽ là khó khăn đối với kinh tế Mỹ.

“Chúng tôi vẫn có thể thu hút được người tài”, anh nói, “vì chúng tôi rất có tên tuổi. Nhưng trong những công ty mới thành lập và một vài công ty có từ trước, ai mà biết được công ty nào sẽ là Google mới? Tôi chỉ hy vọng trên Washington hiểu được tình hình cạnh tranh bây giờ thế nào. Vai trò thống trị của chúng ta không phải là giữ mãi được đâu”.

CŨNG VÀO KHOẢNG thời gian tôi thăm Google, tôi có một chuyến đi khác khiến tôi phải suy nghĩ về những gì đang diễn ra trong nền kinh tế. Lần này tôi đi bằng ô tô chứ không phải máy bay, lái xe hàng dặm đường cao tốc không một bóng người đến một thị trấn tên là Galesburg, nằm ở phía tây bang Illinois, cách biên giới với bang Iowa khoảng 45 phút đi ô tô.

Ra đời năm 1836, Galesburg ban đầu là một thị trấn trường đại học, khi đó một nhóm các giáo sỹ Giáo hội Trưởng lão và Giáo đoàn Tự trị[129] ở New York quyết định đưa cuộc cách mạng xã hội và giáo dục thực hành của họ đến miền Tây. Ngôi trường được thành lập, Đại học Knox, trở thành căn cứ cho các hoạt động chống chế độ nô lệ trước cuộc Nội chiến – một nhánh của Đường sắt ngầm[130] từng chạy qua Galesburg. Hiram Revels, thượng nghị sỹ da đen đầu tiên của nước Mỹ đã học dư bị đại học tại trường này trước khi chuyển đến bang Mississippi. Năm 1854, đường sắt Chicago, Burlington & Quincy[131] được hoàn thành, chạy qua Galesburg làm cho hoạt động thương mại trong vùng bùng nổ. Bốn năm sau, khoảng 10.000 người đã tập trung ở đây để nghe cuộc tranh luận vòng thứ năm giữa Lincoln và Douglas[132], trong đó lần đầu tiên Lincoln trình bày quan điểm chống chế độ nô lệ như một vấn đề đạo đức. Tuy nhiên, tôi đến Galesburg không phải vì lịch sử vùng này. Tôi đến để gặp một nhóm các chủ tịch công đoàn ở các nhà máy của công ty Maytag[133] vì công ty này tuyên bố kế hoạch sa thải 1.600 nhân viên và chuyển sang hoạt động ở Mexico. Cũng như các thị trấn khác dọc miền Trung và miền Tây Illinois, Galesburg bị giáng một đòn mạnh khi ngành chế tạo dịch chuyển ra nước ngoài. Vài năm trước đó, thị trấn này đã mất đi các nhà sản xuất phụ tùng công nghiệp và một hãng sản xuất ống cao su; còn vào thời điểm tôi đến thì Butler – một công ty thép mới bị người Australian mua lại gần đây – cũng trong quá trình chuẩn bi ngừng hoạt động. Lúc đó tỷ lệ thất nghiệp của Galesburg là khoảng 8%. Nếu nhà máy Maytag đóng cửa thì thị trấn sẽ mất thêm khoảng 5% đến 10% lượng việc làm hiện có.

Trong phòng công đoàn của nhà máy, bảy hay tám người đàn ông và hai ba phụ nữ đang ngồi trên những chiếc ghế gấp bằng kim loại, nói chuyện một cách trầm lặng, vài người hút thuốc; phần lớn họ trạc năm mươi tuổi, tất cả đều mắc quần jean hoặc khaki, áo phông hoặc đồ bảo hộ kẻ ca-rô. Chủ tịch công đoàn, Dave Bevard, là một người đàn ông to lớn với bộ ngực rộng, khoảng 55 tuổi. Ông có bộ râu màu sẫm, đeo cặp kính màu và đội chiếc mũ phớt mềm, trông khá giống một thành viên của ban nhạc ZZ Top[134]. Ông giải thích là công đoàn đã thử mọi biện pháp có thể để làm Maytag thay đổi ý kiến – nói chuyện với báo chí, liên lạc với các cổ đông, kêu gọi sự ủng hộ của các quan chức địa phương và cấp bang, nhưng ban quản lý Maytag vẫn không lay chuyển.

“Mấy gã này không phải không kiếm được lợi nhuận”. Dave nói với tôi. “Nếu anh hỏi thì bọn họ sẽ trả lời là chúng tôi là một trong những nhà máy năng suất nhất của công ty. Công nhân tay nghề cao. Tỷ lệ sản phẩm lỗi thấp. Chúng tôi đã phải chịu cắt giảm lương, giảm phúc lợi, giảm việc làm. Bang và thành phố đã giảm cho Maytag ít nhất là 10 triệu dollar tiền thuế trong tám năm qua vì họ hứa sẽ tiếp tục ở tại đây. Nhưng vẫn không bao giờ đủ. Tay CEO (tổng giám đốc điều hành) nào đó đã kiếm được vài triệu dollar rồi nhưng vẫn quyết định cần tìm cách tăng giá cổ phiếu công ty để hắn ta kiếm chác thêm từ đó, và cách dễ nhất là chuyển hoạt động sản xuất sang Mexico và trả lương cho công nhân ở đó bằng một phần sáu ở đây thôi”.

Tôi hỏi họ chính quyền bang và liên bang đã làm những gì để đào tạo lại công nhân, và gần như cả phòng cùng một lúc bật cười nhạo báng. “Đào tạo lại chỉ là chuyện đùa thôi”. Phó Chủ tịch công đoàn Doug Dennison nói. “Anh định đào tạo lại cái gì khi chả còn việc làm nào ở đây?” Ông kể rằng cố vấn nghề nghiệp đã gợi ý ông cố gắng làm trợ lý y tá với mức lương không cao hơn lương Wal-Mart trả cho nhân lên phục vụ tầng trệt của họ. Một trong mấy người đàn ông trẻ hơn kể cho tôi nghe một chuyện rất nghiệt ngã: anh quyết định đi đào tạo lại làm kỹ thuật viên máy tính, nhưng vào học được một tuần thì Maytag gọi anh đi làm. Công việc ở Maytag chỉ là tạm thời, nhưng theo luật, nếu anh từ chối Maytag thì anh không được tiền đào tạo lại. Ngược lại, nếu anh quay lại Maytag và bỏ khóa học đang dở dang kia thì cơ quan quản lý liên bang sẽ xem như anh đã sử dụng mất cơ hội đào tạo duy nhất và sau này sẽ không trả tiền cho anh đi đào tạo lại nữa.

Tôi nói với cả nhóm là tôi sẽ kể lại câu chuyện này trong chiến dịch tranh cử và đưa ra một vài đề xuất mà nhân viên của tôi đã dự thảo – sửa đổi luật thuế để giảm ưu đãi thuế cho những công ty chuyển cơ sở chế tạo ra nước ngoài, chấn chỉnh lại và hỗ trợ hiệu quả hơn đối với chương trình đào tạo lại. Khi tôi sắp ra về, một người đàn ông cao lớn khỏe mạnh, đội mũ lưỡi trai lên tiếng. Ông nói tên ông là Tim Wheeler và là chủ tịch công đoàn của nhà máy thép Butler gần đó. Công nhân ở đó đã bị sa thải và Tim đang nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp, cố nghĩ nên xem làm gì tiếp theo. Nỗi lo lớn nhất của ông bây giờ là chi phí y tế.

“Con trai tôi, Mark, cần phải ghép gan”, ông nói với giọng dứt khoát. “Chúng tôi đang nằm trong danh sách chờ hiến gan, nhưng chúng tôi đã dùng hết tiền bảo hiểm y tế của tôi rồi, chúng tôi đang tìm hiểu xem liệu Quỹ Cứu trợ y tế (Medicaid)[135] có trả viện phí không. Không ai nói được rõ ràng cho tôi cả, và anh biết đấy, tôi sẽ bán hết mọi thứ tôi có để chưa cho Mark, sẽ vay nợ, nhưng tôi vẫn…”. Giọng của Tim nghẹn lại, vợ ông đang ngồi cạnh ông, vùi mặt vào hai bàn tay. Tôi cố đảm bảo với họ là tôi sẽ tìm hiểu xem quỹ Cứu trợ y tế sẽ trả những chi phí gì. Tim gật đầu, vòng tay ôm lấy vai vợ.

Khi lái xe quay về Chicago, tôi cố tưởng tượng ra hoàn cảnh bi thảm của Tim: thất nghiệp, cậu con trai ốm yếu, tiền tiết kiệm đã hết sạch.

Nếu đi máy bay tư nhân ở độ cao 40.000 feet, bạn sẽ bỏ lỡ những câu chuyện đó.

Ngày nay bạn sẽ thấy có vài quan điểm, của cả cánh tả lẫn cánh hữu, cho rằng về cơ bản chúng ta đang trải qua thời kỳ chuyển đổi kinh tế. Tiến bộ trong công nghệ số, cáp quang, mạng, vệ tinh và giao thông vận tải đã xóa bỏ rào cản kinh tế giữa các quốc gia và lục địa. Hàng dòng vốn chạy khắp thế giới để tìm nơi có lợi nhuận cao nhất, với hàng nghìn tỷ dollar vượt qua các biên giới chỉ với vài lần bấm phím. Liên Xô sụp đổ, Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu cải cách theo định hướng thị trường, các rào cản thương mại giảm dần và những nhà bán lẻ khổng lồ như Wal-Mart ra đời đã đưa hàng tỷ người vào cuộc cạnh tranh trực tiếp với các công ty Mỹ và công nhân Mỹ. Cho dù thế giới phẳng hay không phẳng thì, như nhà báo Thomas Friedman đã nói, chắc chắn mỗi ngày nó đang ngày càng phẳng hơn.

Không nghi ngờ rằng toàn cầu hóa đã đem lại nhiều lợi ích đáng kể cho người tiêu dùng Mỹ. Nó khiến giá các loại hàng hóa từng được coi là hàng xa xỉ giảm xuống, từ ti vi màn hình rộng đến đào tươi mùa đông, và nó làm tăng sức mua của những người Mỹ thu nhập thấp. Nó giúp kiểm soát lạm phát, tăng cao lợi nhuận cho hàng triệu người Mỹ đầu tư vào thị trường chứng khoán, đem lại thị trường mới cho hàng hóa và dịch vụ Mỹ, và cho phép những quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ giảm nghèo đói một cách đáng kể, nhờ đó trong dài hạn thế giới sẽ ổn định hơn.

Nhưng cũng không thể phủ nhân toàn cầu hóa làm hàng triệu người Mỹ bình thường rơi vào tình thế bất ổn về kinh tế. Để duy trì tính cạnh tranh và đảm bảo các nhà đầu tư được hài lòng trên một thị trường toàn cầu, các công ty Mỹ đã tiến hành tự động hóa, giảm quy mô, thuê gia công và chuyển nhà máy ra nước ngoài. Họ không hề tăng lương cho người lao động và thay chương trình bảo hiểm sức khỏe và hưu trí cố định bằng chương trình 401(k)[136] và Quỹ tiết kiệm y tế[137] qua đó người công nhân phải gánh chịu nhiều chi phí và rủi ro hơn.

Kết quả là nổi lên rõ nét nền kinh tế kiểu người-thắng-được-tất-cả. Nước nổi nhưng không phải thuyền nào cũng nổi được. Trong thập kỷ vừa qua, chúng ta đã chứng kiến kinh tế phát triển rất mạmh nhưng lượng việc làm tăng thêm rất ít: năng suất lao động tăng vọt nhưng mức lương thì đứng nguyên; lợi nhuận các công ty rất lớn nhưng phần người lao động được hưởng lợi từ lợi nhuận đó lại giảm. Đối với những người có trình độ và năng lực đặc biệt như Larry Page và Sergey Brin, và những lao động có tri thức như kỹ sư, luật sư, nhà tư vấn và nhà tiếp thị – những người có điều kiện làm việc – thì một thị trường toàn cầu hóa đem lai lợi ích tiềm năng lớn chưa từng có. Nhưng với những người như công nhân công ty Maytag, công việc của họ có thể thay bằng tự động hóa, số hóa hoặc bị chuyển sang những nước có mức lương thấp hơn, thì tác động của toàn cầu hóa có thể sẽ rất tồi tệ – tương lai là công việc lương thấp với phúc lợi ít ỏi, có nguy cơ khánh kiệt nếu ốm đau và không thể để dành tiền để nghỉ hưu hoặc cho con cái theo học đại học.

Câu hỏi đặt ra là chúng ta nên làm gì với vấn đề này. Từ đầu thập kỷ 90, khi xu hướng này bắt đầu xuất hiện, một phe trong đảng Dân chủ do Bill Clinton đứng đầu đã ủng hộ nền kinh tế mới với thúc đẩy tự do thương mại, quản lý tài chính và cải cách giáo dục và đào tạo, sao cho công nhân có thể tìm được những việc làm có giá hơn, lương cao hơn trong tương lai. Nhưng có một nhóm gồm rất đông lực lượng cử tri truyền thống của đảng Dân chủ – đặc biệt là công nhân cổ xanh như Dave Bevard – đã chống lai chương trình này. Họ lo ngại rằng tự do thương mại chỉ có lợi cho Wall Street[138] chứ không thể chấm dứt được nạn chảy máu những công việc lương cao ở Mỹ.

Đảng Cộng hòa cũng không tránh được sư căng thẳng này. Với những phản ứng gần đây về vấn đề nhập cư trái phép chẳng hạn, chủ nghĩa bảo thủ “Nước Mỹ là ưu tiên hàng đầu” của Pat Buchanan[139] có lẽ đã hồi sinh trong tư tưởng của đảng Cộng hòa và là một thách thức đối với chính sách tự do thương mại của chính quyền Bush. Và trong chiến dịch tranh cử năm 2000 cũng như trong nhiệm kỳ đầu của mình, George W. Bush đã đề xuất vai trò chính thống của chính phủ, một thứ “chủ nghĩa bảo thủ độ lượng”, theo Nhà Trắng, được thể hiện trong chương trình bảo hiểm theo đơn thuốc[140] của Quỹ Chăm sóc y tế (Medicare)[141] hay chương trình cải cách giáo dục có tên là “Không trẻ em nào bị bỏ quên”[142] – khiến cho những người bảo thủ theo quan điểm chính phủ gọn nhẹ phải nhói tim.

Tuy nhiên, chương trình kinh tế của đảng Cộng hòa dưới thời Tổng thống Bush chủ yếu là cắt giảm thuế, giảm các quy định hạn chế, tư nhân hóa dịch vụ công – và lại cắt giảm thuế. Các quan chức chính phủ gọi đây là “Xã hội Sở hữu”[143] nhưng nguyên lý cơ bản của nó là lý thuyết nhà nước không can thiệp đã có ít nhất là từ những năm 1930. Những người theo thuyết này cho rằng nếu giảm mạnh – hoặc trong một số trường hợp, xóa bỏ hoàn toàn – thuế đánh vào thu nhập, bất động sản lớn, giá trị vốn tăng thêm và cổ tức thì sẽ khuyến khích vốn hóa, giúp tỷ lệ tiết kiệm cao hơn, hoạt động đầu tư mạnh hơn và tăng trưởng kinh tế lớn hơn. Theo họ, các chương trình của chính phủ luôn không hiệu quả, sinh ra sự ỷ lại và làm giảm trách nhiệm, tính chủ động và lựa chọn của cá nhân.

Hay, như Ronald Reagan đã đúc kết: “Chính phủ không phải giải pháp cho các vấn đề, chính chính phủ mới là vấn đề”.

Đến giờ, chính phủ Bush mới chỉ đạt được một vế trong phương trình họ đưa ra; Quốc hội do đảng Cộng hòa chi phối đã thông qua thành công chính sách cắt giảm thuế vòng này qua vòng khác, nhưng lại từ chối quyết định khó khăn là kiểm soát chi tiêu. Đó là chi tiêu dành riêng cho các nhóm lợi ích đặc biệt, còn được gọi là chi tiêu đặc biệt, vốn đã tăng lên 64% từ khi Bush nhậm chức. Trong khi đó, các nghị sỹ đảng Dân chủ (và dân chúng) đã chống lại sự cắt giảm đột ngột khoản đầu tư cho đời sống, và công khai bác bỏ đề xuất tư nhân hóa chương trình Bảo hiểm xã hội của chính phủ. Không rõ chính phủ có thực sự tin rằng kết quả thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia tăng vọt là vấn đề quan trọng hay không. Chỉ có một điều rõ ràng là một biển những con số thua lỗ đã làm cho chính phủ khó mà đề xuất thêm bất cứ chính sách đầu tư nào để giải quyết các thách thức kinh tế của toàn cầu hóa hay để tăng cường mạng lưới an sinh xã hội Mỹ.

Tôi không muốn phóng đại hậu quả của tình huống bế tắc này. Chiến lược không làm gì cả và để mặc toàn cầu hóa tự động diễn ra không thể làm nền kinh tế Mỹ sụp đổ ngay. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước Mỹ vẫn lớn hơn cả Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại. Ít nhất, hiện tại, các công ty Mỹ vẫn tiếp tục giữ được ưu thế trong các ngành dựa vào tri thức như thiết kế phần mềm hay nghiên cứu dược phẩm, và hệ thống các trường đại học của chúng ta vẫn được thế giới thèm muốn.

Nhưng trong dài hạn, không làm gì cả cũng có thể dẫn đến một nước Mỹ rất khác so với nước Mỹ nơi phần lớn chúng ta sinh ra và lớn lên. Đó sẽ là một quốc gia bị phân hóa về kinh tế và xã hội hơn cả hiện tại: một quốc gia trong đó có một tầng lớp có trình độ hiểu biết ngày càng tăng, sống ở một khu vực riêng biệt, có thể có bất kỳ thứ gì họ muốn trên thị trường – trường học tư nhân, dịch vụ y tế tư nhân, an ninh tư nhân và máy bay tư nhân – trong khi ngày có nhiều đồng bào khác của họ phải làm công việc phục vụ với mức lương thấp, nhạy cảm với mọi quyết định thay đổi vị trí của các công ty, bị ép làm việc nhiều giờ hơn, phụ thuộc vào dịch vụ y tế, hưu trí và giáo dục của nhà nước vốn đang bị thiếu tiền, quá tải và chất lượng thấp.

Điều đó có nghĩa là sẽ có một nước Mỹ trong đó chúng ta tiếp tục gán nợ tài sản của chúng ta cho các chủ nợ nước ngoài, tự phó mặc bản thân cho cảm hứng của các nhà sản xuất dầu mỏ: một nước Mỹ trong đó chúng ta đầu tư quá ít vào nghiên cứu khoa học cơ bản và đào tạo lực lượng lao động – là những yếu tố quyết định tiềm lực kinh tế lâu dài – và bỏ qua nguy cơ khủng hoảng môi trường. Sẽ có một nước Mỹ phân hóa hơn, bất ổn hơn về chính trị khi thất bại kinh tế lan rộng và khiến mọi người trở nên thù ghét lẫn nhau.

Tồi tệ hơn cả là sẽ có ít cơ hội hơn cho thanh niên Mỹ, giảm khả năng cải thiện vị thế xã hội cao hơn vốn là cốt lõi trong cam kết của đất nước từ khi thành lập. Đó không phải nước Mỹ chúng ta muốn dành cho con cháu chúng ta. Và tôi tin rằng chúng ta có khả năng, có nguồn lực để tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn, một tương lai trong đó kinh tế phát triển và sự thịnh vượng được chia sẻ cho mọi người. Chúng ta không thể tạo nên tương lai đó không phải vì chúng ta thiếu ý tưởng. Mà là vì chúng ta thiếu một cam kết tầm quốc gia rằng sẽ tiến hành những bước khó khăn cần thiết để tăng khả năng cạnh tranh cho đất nước, và chúng ta thiếu sự đồng thuận mới quanh vấn đề vai trò phù hợp của chính phủ trên thị trường.

ĐỂ CÓ SỰ đồng thuận đó, chúng ta cần xem xét hệ thống thị trường của chúng ta đã tiến triển như thế nào qua thời gian. Tổng thống Calvin Coolidge từng nói, “Công việc chính của người Mỹ là kinh doanh”, và thực tế khó mà tìm được trên thế giới này có quốc gia nào luôn nhiệt tình chào đón logic của thị trường hơn chúng ta. Hiến pháp Mỹ đã xác định quyền tư hữu tài sản là yếu tố cơ bản trong nền tự do. Truyền thống tín ngưỡng Mỹ tôn vinh giá trị của sự chăm chỉ và thuyết phục rằng một cuộc sống có đạo đức sẽ được đền bù xứng đáng bằng vật chất. Thay vì nói xấu những người giàu, chúng ta tôn họ lên thành những hình mẫu, và truyền thuyết của chúng ta toàn những chuyện về những người thích làm giàu – dân nhập cư đến đây với bàn tay trắng và trở nên giàu có, những người trẻ tuổi hướng đến miền Tây để tìm kiếm vận may. Như Ted Turner[144] đã có một câu nói nổi tiếng, “Ở Mỹ tiền là cách chúng ta giữ vị thế của mình”.

Kết quả của nền văn hóa hướng về kinh doanh này là sự thịnh vượng vô song trong lịch sử loài người. Phải đến các nước khác mới hiểu rõ người Mỹ may mắn thế nào với sự thịnh vượng đó; ngay cả người nghèo ở đây cũng coi những hàng hóa dịch vụ như điện, nước sạch đến tận nhà, điện thoại, ti vi và đồ gia dụng là những thứ hiển nhiên phải có – trong khi phần lớn mọi người trên thế giới lại không thể có được chúng. Nước Mỹ có thể may mắn khi được thiên nhiên ưu đãi vào loại nhất thế giới, nhưng rõ ràng không chỉ nhờ tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta đạt được thành công về kinh tế. Tài sản lớn nhất của chúng ta là hệ thống tổ chức xã hội, một hệ thống đã luôn khuyến khích các cải tiến, vai trò chủ động của cá nhân và phân phối nguồn lực sao cho hiệu quả trong nhiều thế hệ.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi chúng ta có xu hướng coi hệ thống thị trường tự do của chúng ta là hiển nhiên có sẵn, cho rằng nó hoạt động tự nhiên theo quy luật cung cầu và lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith[145]. Từ giả định như vậy thì cũng không cần một bước quá xa để nghĩ tiếp rằng mọi sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động thần kỳ của thị trường – cho dù thông qua thuế, quy định quản lý, kiện cáo, thuế quan, bảo vệ người lao động hay chi tiêu cho phúc lợi – đều làm suy yếu các doanh nghiệp tư nhân và hạn chế tăng trưởng kinh tế. Sự sụp đổ của các mô hình tổ chức kinh tế khác như kinh tế kế hoạch hóa tập trung chỉ khẳng định thêm giả định này. Trong các cuốn sách giáo khoa kinh tế học chuẩn mực và trong các cuộc tranh luận chính trị hiện đại ngày nay, chúng ta mặc định quy tắc nhà nước không can thiệp; bất cứ ai nghi ngờ nó sẽ phải bơi ngược lại làn sóng chung.

Vì vậy chúng ta cần tự nhắc mình rằng hệ thống thị trường tự do không phải là kết quả của quy luật tự nhiên hay thượng đế thần thánh nào. Nó hình thành qua một quá trình thử nghiệm và điều chỉnh khó nhọc, qua một chuỗi những lựa chọn khó khăn giữa hiệu quả và công bằng, ổn định và thay đổi. Và mặc dù lợi ích của hệ thống thị trường tự do chủ yếu có được từ nỗ lực cá nhân của nhiều thế hệ người luôn theo đuổi cách nhìn hạnh phúc của riêng họ, nhưng trong mỗi thời kỳ biến động và chuyển đổi kinh tế, chúng ta đều phải nhờ đến chính phủ can thiệp để mở ra các cơ hội, khuyến khích cạnh tranh và làm cho thị trường hoạt động tốt hơn.

Theo nghĩa rộng, hành vi can thiệp của chính phủ có ba hình thức. Thứ nhất, trong suốt lịch sử của chúng ta, chính phủ được kêu gọi xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo lực lượng lao động hoặc tạo nền tảng cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. Tất cả những nhà sáng lập nước Mỹ đều nhận thấy mối quan hệ giữa tài sản cá nhân và tự do, nhưng chính Alexander Hamilton đã nhìn ra tiềm năng lớn lao của nền kinh tế cả quốc gia – không phải dựa vào quá khứ làm nông nghiệp mà là tương lai làm thương mại và công nghiệp. Hamilton cho rằng để nhận thức được điều này, nước Mỹ cần một chính phủ cấp quốc gia mạnh và chủ động, và khi làm Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của nước Mỹ, ông đã đưa những ý tưởng của ông thành hành động. Ông quốc hữu hóa các khoản nợ thời cách mạng giành độc lập, nhờ đó không chỉ gắn kết nền kinh tế các bang mà còn thúc đẩy hệ thống tín dụng và khai thông thị trường vốn. Ông đẩy mạnh các chính sách – từ luật bảo vệ phát minh sáng chế cho đến thuế quan cao – để khuyến khích ngành chế tạo, ông cũng đề xuất các chương trình đầu tư vào đường sá, cầu cống để hỗ trợ vận chuyển sản phẩm đến với thị trường.

Hamilton đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của Thomas Jefferson vì ông sợ rằng một chính phủ mạnh gắn chặt với nhóm lợi ích thương mại giàu có sẽ làm suy giảm quan điểm dân chủ cân bằng của chính phủ đối với đất nước. Nhưng Hamilton hiểu rằng chỉ có thông qua giải phóng lượng vốn mà các nhóm lợi ích này đang sở hữu, nước Mỹ mới tiếp cận được với nguồn lực mạnh nhất của mình – đó là năng lượng, là tính táo bạo của người Mỹ. Ý tưởng xã hội thay đổi là một trong những thỏa hiệp vĩ đại đầu tiên của chủ nghĩa tư bản Mỹ: đó là chủ nghĩa tư bản công thương có thể gây ra mất ổn định, nhưng nó cũng là một hệ thống kinh tế rất năng động, trong đó bất cứ ai có đủ tiền và đủ năng lực cũng có thể bước lên vị trí cao nhất.

Và ít nhất Jefferson cũng đồng ý ở điểm này – chính nhờ niềm tin vào chế độ sử dụng nhân tài chứ không phải là chế độ quý tộc cha truyền con nối mà Jefferson đã ủng hộ thành lập các trường đại học công cộng quốc gia để có thể đào tạo nhân tài trên cả nước, và ông coi việc sáng lập ra Đại học Virginia là một trong nhưng thành tựu lớn nhất của mình.

Truyền thống chính phủ Mỹ đầu tư vào cơ sở vật chất và vào con người từng được Abraham Lincoln và đảng Cộng hòa thời kỳ đầu triệt để tuân theo. Đối với Lincoln, đặc điểm cơ bản của nước Mỹ là cơ hội, là khả năng “tự do lao động” để phát triển được trong cuộc sống.

Lincoln coi chủ nghĩa tư bản là phương tiện tốt nhất để tạo ra cơ hội đó nhưng ông cũng thấy rằng quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp cũng phá vỡ cuộc sống của nhiều người và phá vỡ cả cộng đồng.

Do đó, vào giữa cuộc Nội chiến, Lincoln đã bắt tay vào thực hiện một loạt các chính sách không chỉ tạo nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế mà còn mở rộng thang cơ hội về phía dưới để có nhiều người hơn được tiếp cận. Ông thúc đẩy xây dựng đường sắt xuyên lục địa đầu tiên. Ông tổ chức Học viện Khoa học quốc gia để khuyến khích các nghiên cứu cơ bản và khám phá khoa học có thể đem lại ứng dụng công nghệ và thương mại mới. Ông đã thông qua Đạo luật Bán đất công cho người dân năm 1862, một bước ngoặt qua đó một diện tích đất công khổng lồ suốt miền Tây nước Mỹ chuyển sang thuộc quyền sở hữu của người dân định cư đến từ miền Đông và dân nhập cư từ khắp thế giới, nhờ đó những người này cũng đóng góp vào nền kinh tế đang phát triển của cả quốc gia. Sau đó, thay vì để nhưng người chủ đất đó tự lo liệu, ông lại tạo ra hệ thống trường đại học và cao đẳng công cộng địa phương[146] để hướng dẫn nông dân các kỹ thuật nông nghiệp mới nhất, cung cấp giáo dục miễn phí cho họ, nhờ đó họ có thể có giấc mơ xa hơn cuộc sống nông trại hiện tại.

Sự sáng suốt của Halmlton và Lincoln – rằng nguồn lực và sức mạnh của chính phủ chỉ tạo điều kiện chứ không hề thay thế thị trường tự do – vẫn tiếp tục là viên đá tảng trong chính sách của cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ theo từng bước phát triển của nước Mỹ. Đập thủy điện Hoover[147], Công ty Thung lũng Tennessee[148], hệ thống đường cao tốc xuyên quốc gia, mạng Internet, dự án nghiên cứu mã gien người lần lượt cho thấy đầu tư của chính phủ đã tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế tư nhân bùng nổ. Và thông qua việc thiết lập hệ thống trường công cả ở cấp phổ thông và đại học, cũng như các chương trình như Đạo luật GI[149] qua đó đào tạo đại học đến được với hàng triệu người, chính phủ cũng cho mỗi cá nhân công cụ để điều chỉnh và thay đổi trong môi trường công nghệ thay đổi không ngừng.

Ngoài thực hiện đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết mà các công ty tư nhân không thể hoặc không muốn tham gia, một chính phủ chủ động cũng đóng vai trò không thể thiếu khi giải quyết các trục trặc của thị trường – những lỗ hổng luôn xuất hiện trong mọi hệ thống tư bản, vừa cản trở thị trường hoạt động hiệu quả, vừa dẫn đến thiệt hại cho toàn xã hội. Teddy Roosevelt nhận thấy sức mạnh độc quyền cản trở cạnh tranh, và ông đã coi việc “chống trust” là nhiệm vụ trung tâm của chính phủ thời ông nắm quyền. Tổng thống Woodrow Wilson lập ra Cục Dự trữ liên bang để quản lý cung tiền và kiềm chế những đợt khủng hoảng định kỳ trên thị trường tài chính. Chính phủ cấp bang và liên bang đã thông qua những luật dành cho người tiêu dùng đầu tiên – Đạo luật Lương thực và thuốc sạch, Đạo luật kiểm định chất lượng thịt – để bảo vệ người Mỹ khỏi các sản phẩm độc hại.

Nhưng chính sự sa sút của thị trường chứng khoán năm 1929 và cuộc Đại khủng hoảng[150] sau đó đã cho thấy vai trò sống còn của chính phủ trong vực quản lý thị trường trở nên rất rõ ràng. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin, các ngân hàng phá sản đe dọa dẫn tới sụp đổ hệ thống tài chính, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư liên tục giảm, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã tiến hành một loạt can thiệp của chính phủ để ngăn không cho kinh tế suy thoái thêm. Trong tám năm sau đó chính phủ với chương trình Kinh tế xã hội mới đã thử nghiệm các chính sách tái thiết nền kinh tế, và mặc dù không phải chính sách nào cũng đạt được kết quả mong muốn, nhưng cũng xây dựng nên một hệ thống quản lý giúp giảm nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Đó là ủy ban Chứng khoán và Ngoại hối đảm bảo tính minh bạch trên thị trường tài chính và bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ khỏi gian lận và vận động nội bộ. Đó là Bảo hiểm tiền gửi liên bang FDIC đem lại niềm tin cho người gửi tiền vào ngân hàng. Và còn có các chính sách tài khóa và tiền tệ chống khủng hoảng chu kỳ, dưới hình thức cắt giảm thuế, tăng tính thanh khoản hay chi tiêu trực tiếp của chính phủ để kích cầu khi doanh nghiệp và người tiêu dùng rút khỏi thị trường.

Cuối cùng – và có lẽ là vai trò gây tranh cãi nhất – là chính phủ tạo ra thỏa ước xã hội giữa chủ doanh nghiệp và công nhân. Trong 150 năm đầu của nước Mỹ, khi vốn ngày càng tập trung vào các trust và các công ty trách nhiệm hữu hạn, công nhân không được thành lập các tổ chức công đoàn do bị luật pháp và bạo lực ngăn trở. Công nhân gần như không được bảo vệ khỏi điều kiện làm việc không an toàn và vô nhân tính, cả ở các nhà máy bóc lột công nhân tàn tệ hay xưởng giết mổ gia súc[151]. Nền văn hoá Mỹ không thông cảm nhiều với các công nhân bị nghèo đói do sự bùng nổ định kỳ của “sự hủy diệt mang tính sáng tạo”[152] của chủ nghĩa tư bản – công thức thành công cho mỗi cá nhân là làm việc chăm chỉ hơn chứ không phải được chính phủ chăm nom. Hệ thống an sinh xã hội ra đời là do hoạt động từ thiện của cá nhân không thể đến với mọi người và nguồn lực của họ cũng hạn chế.

Một lần nữa, cần cú sốc của Đại khủng hoảng với một phần ba người dân rơi vào tình trạng mất việc làm, nhà cửa hoang tàn, quần áo sờn rách và thức ăn thiếu thốn để chính phủ giải quyết tình trạng mất cân bằng. Trong hai năm đầu làm tổng thống, F.D. Roosevelt đã thành công trong việc thuyết phục Quốc hội thông qua Đạo luật Bảo hiểm xã hội 1935, tâm điểm của nhà nước phúc lợi mới, một mạng lưới an sinh xã hội đã giúp hơn một nửa số công dân lớn tuổi thoát khỏi nghèo đói, đem lại bảo hiểm thất nghiệp cho những người mất việc làm và chi trả một khoản trợ cấp nhỏ cho những người tàn tật và người già nghèo khổ. F.D. Roosevelt cũng đề xuất những dự luật làm thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa giới tư bản và người lao động: luật làm việc bốn mươi giờ một tuần, luật lao động trẻ em và luật lương tối thiểu; và Đạo luật Quan hệ lao động quốc gia cho phép tổ chức những nghiệp đoàn quy mô lớn và buộc người sử dụng lao động phải thỏa hiệp với thiện chí.

Một phần nguyên nhân F.D. Roosevelt thông qua những luật này là lý thuyết của Keynes[153]: Một cách để cứu nền kinh tế khỏi khủng hoảng là đem lại cho công nhân thu nhập khả dụng cao hơn. Nhưng F.D. Roosevelt cũng hiểu rằng nền dân chủ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi mọi người phải đồng thuận, và thông qua việc đem lại cho công nhân miếng bánh lớn hơn trong nền kinh tế, cuộc cách mạng của ông đã ngăn chặn được phong trào ủng hộ mô hình chính phủ quản lý, mệnh lệnh và kiểm soát đang phổ biến khắp châu Âu. Như ông đã giải thích vào năm 1944, “những người đói khổ, những người thất nghiệp chính là lý do ra đời chế độ độc tài”.

Trong một thời gian câu chuyện tạm kết thúc ở đây – F.D. Roosevelt đã bảo vệ được chủ nghĩa tư bản thông qua chính phủ liên bang, tích cực đầu tư vào con người và cơ sở vật chất, kiểm soát thị trường và bảo vệ người lao động khỏi tình trạng khó khăn kinh niên. Và thực tế trong hai mươi lăm năm sau đó, qua các đời chính phủ thuộc đảng Cộng hòa và Dân chủ, mô hình nhà nước phúc lợi của Mỹ cũng nhận được sự ủng hộ rộng rãi. Một số người cánh hữu phê phán rằng chủ nghĩa xã hội đang dần chiếm lĩnh, còn người cánh tả lại cho rằng F.D.Roosevelt chưa thực hiện chính sách một cách triệt để. Nhưng tốc độ tăng trưởng mạnh của nền kinh tế sản xuất lớn của Mỹ và chênh lệch rất cao trong năng suất lao động giữa Mỹ và các quốc gia bị chiến tranh tàn phá ở châu Âu và châu Á đã làm tắt ngấm hầu hết các ý kiến tranh luận. Do không có đối thủ cạnh tranh nào đáng kể, các công ty Mỹ đều đặn chuyển chi phí lao động và chi phí quản lý cao hơn cho người tiêu dùng gánh chịu. Xã hội đầy đủ việc làm cho phép công nhân ở các nhà máy có công đoàn trở thành tầng lớp trung lưu, một người đi làm cũng nuôi được cả gia đình, có bảo hiểm y tế và lương hưu ổn định. Trong bối cảnh các công ty có lợi nhuận ổn định và mức lương ngày càng tăng, không ai phản đối khi các nhà hoạch định chính sách tăng thuế và đưa ra nhiều quy định hơn vì mục tiêu xã hội. Nhờ đó Chương trình xã hội của Johnson, bao gồm các quỹ Chăm sóc y tế, Cứu trợ y tế và các phúc lợi khác đã ra đời, cũng như Cơ quan Bảo vệ môi trường và Ban quản lý Sức khỏe và an toàn lao động đã được Nixon thành lập.

Chiến thắng của chủ nghĩa tự do chỉ gặp phải một vấn đề duy nhất – đó là chủ nghĩa tư bản không phải luôn đứng vững. Đến thập kỷ 70, năng suất lao động, động lực chính của nền kinh tế Mỹ sau chiến tranh, bắt đầu giảm xuống. Ảnh hưởng của OPEC tăng lên cho phép các nhà sản xuất dầu mỏ nước ngoài chiếm được phần lớn hơn trong nền kinh tế thế giới và khiến nước Mỹ lộ ra nhược điểm là rất nhạy cảm với mọi sự cắt giảm cung năng lượng. Các công ty Mỹ bắt đầu phải đối mặt với cuộc cạnh tranh từ các nhà sản xuất có chi phí thấp ở châu Á, và đến thập kỷ 80, một cơn lũ hàng nhập khẩu giá rẻ – gồm hàng dệt may, giày dép, điện tử và thậm chí cả ô tô – bắt đầu chiếm lĩnh một phần đáng kể thị trường nội địa Mỹ. Đồng thời, các công ty đa quốc gia của Mỹ cũng bắt đầu đặt một số cơ sở sản xuất ở nước ngoài – vừa để thâm nhập thị trường, vừa tận dụng ưu thế lao động giá rẻ.

Trong môi trường toàn cầu ngày càng cạnh tranh, công thức công ty cũ với lợi nhuận ổn định và phương thức quản lý trì trệ không còn hiệu quả nữa. Không còn nhiều khả năng chuyển chi phí cao và sản phẩm hỏng cho người tiêu dùng gánh chịu như trước, lợi nhuận và thị phần của các công ty này sụt giảm và các cổ đông bắt đầu đòi tăng giá trị công ty. Một số công ty tìm cách tăng năng suất bằng cách cải tiến và tự động hóa. Các công ty khác chủ yếu dùng cách sa thải hàng loạt công nhân, chống thành lập công đoàn, và sau đó cũng chuyển sản xuất ra nước ngoài. Những giám đốc công ty nào không thích nghi được sẽ bị những kẻ chuyên mua cổ phiếu để nắm quyền kiểm soát công ty hay những nghệ sỹ chuyên mua lại công ty bằng vay nợ tấn công – hai nhóm người này sẽ thay đổi công ty và không quan tâm đến đời sống nhân viên sẽ hoàn toàn bị đảo lộn hay cộng đồng bộ chia rẽ. Cách này hay cách khác, các công ty Mỹ ngày càng nghèo hơn, khó khăn hơn – và các công nhân đây chuyền lắp ráp kiểu cũ và những thị trấn như Galesburg là nạn nhân chính của quá trình chuyển đổi này.

Không chỉ có khu vực tư nhân phải điều chỉnh cho phù hợp với môi trường mới. Kỳ bầu cử mà Ronald Reagan giành thắng lợi đã cho thấy người dân cũng mong muốn chính phủ phải thay đổi. Reagan có xu hướng thổi phồng quá mức quy mô của nhà nước phúc lợi sau hai mươi lăm năm phát triển trước đó. Thực ra khi đạt tới mức cao nhất, tỷ lệ ngân sách liên bang so với quy mô nền kinh tế Mỹ vẫn thấp hơn con số tương ứng của các nước Tây Âu, ngay cả khi đã tính cả ngân sách khổng lồ nước Mỹ dành cho quốc phòng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng bảo thủ do Reagan khởi xướng cũng được nhiều người ủng hộ vì quan điểm của ông – rằng nhà nước phúc lợi tự do đã trở nên tự mãn và quan liêu quá mức, các nhà hoạch định chính sách Dân chủ bị ám ảnh bởi việc cắt nhỏ miếng bánh nền kinh tế hơn là làm cho nó lớn lên – rõ ràng có một phần sự thật. Cũng như rất nhiều các giám đốc công ty vì không bị cạnh tranh nên không tạo ra giá trị nữa, có rất nhiều quan chức nhà nước không còn đặt câu hỏi liệu những gì cổ đông (tức là công dân Mỹ có đóng thuế) và khách hàng của họ (người sử dụng dịch vụ công) được nhận có xứng đáng với đồng tiền những người này đã bỏ ra hay không.

Không phải chương trình nào của chính phủ cũng hiệu quả như được quảng cáo. Một vài nhiệm vụ nếu để khu vực tư nhân thực hiện sẽ hiệu quả hơn, tương tự như trong một số trường hợp, công cụ kinh tế dựa vào thị trường cũng đạt được kết quả như công cụ mệnh lệnh và kiểm soát mà lại có chi phí thấp hơn và linh hoạt hơn. Thuế suất biên cao ra đời từ khi Reagan lên nắm quyền có thể không làm giảm động lực lao động hay đầu tư, nhưng nó lại bóp méo các quyết định đầu tư – và dẫn tới một ngành công nghiệp lãng phí là tư vấn tránh thuế. Phúc lợi xã hội đã giúp đỡ rất nhiều người Mỹ đang lâm vào tình trạng khó khăn, tuy nhiên nó cũng gây hiệu ứng tiêu cực lên thái độ làm việc của người lao động và sự ổn định của các gia đình.

Vì buộc phải thỏa hiệp với Quốc hội do đảng Dân chủ nắm quyền kiểm soát nên Reagan không bao giờ đạt được các kế hoạch tham vọng nhất của ông nhằm giảm quy mô chính phủ. Nhưng về cơ bản ông cũng thay đổi được chủ đề các cuộc tranh luận. Phong trào phản đối chính sách thuế của tầng lớp trung lưu trở thành một phần tất yếu trong nền chính trị và nó cũng đặt ra giới hạn tối đa quy mô chính phủ. Đối với rất nhiều đảng viên Cộng hòa, không can thiệp vào thị trường đã trở thành nguyên tắc.

Dĩ nhiên, rất nhiều cử tri vẫn tiếp tục trông chờ vào chính phủ khi kinh tế tuột dốc, và vị thế của Bill Clinton ở Nhà Trắng đã được nâng cao nhờ kêu gọi chính phủ hành động tích cực hơn. Sau khi kế hoạch chăm sóc y tế bị thất bại thảm hại trên chính trường và đảng Cộng hòa giành thắng lợi ở Quốc hội năm 1994, Clinton đã phải giảm bớt tham vọng, nhưng dù sao ông cũng đã khiến cho các mục tiêu của Reagan bị phê phán nhiều hơn. Với tuyên bố kỷ nguyên chính phủ quy mô lớn đã qua, Clinton đưa những cải cách phúc lợi vào luật, thúc đẩy cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu và người nghèo, và nỗ lực giảm nạn quan liêu. Cũng chính Clinton lại đạt được cái mà Reagan chưa bao giờ làm được, đó là đưa hoạt động tài khóa vào trật tự nhưng đồng thời giảm nghèo và đầu tư chút ít vào giáo dục và đào tạo nghề. Khi Clinton kết thúc nhiệm kỳ, có vẻ như một trạng thái cân bằng mới đã dược thiết lập – chính phủ gọn nhẹ hơn, nhưng vẫn giữ được hệ thống an sinh xã hội mà F.D. Roosevelt đã xây dựng nên.

Chỉ có điều chủ nghĩa tư bản vẫn không đứng vững. Các chính sách dưới thời Reagan và Clinton có thể đã giảm bớt sự trì trệ của nhà nước phúc lợi tự do, nhưng không thể thay đổi được thực tế của cạnh tranh toàn cầu và cách mạng công nghệ. Việc làm vẫn chảy ra nước ngoài – không chỉ việc làm trong ngành chế tạo mà ngày càng nhiều ngành dịch vụ có thể xuất khẩu việc làm bằng công nghệ số, ví dụ như lập trình máy tính. Người làm kinh doanh tiếp tục phải đối mặt với chi phí bảo hiểm y tế cho lao động tăng cao. Nước Mỹ tiếp tục nhập khẩu nhiều hơn hẳn xuất khẩu và đi vay nhiều hơn hẳn cho vay.

Không có triết lý lãnh đạo rõ ràng, chính phủ Bush và đồng minh trong quốc hội của họ phản ứng lại bằng cách đẩy mạnh hơn cách mạng bảo thủ tới logic tận cùng của nó – thuế thấp hơn nữa, ít quy định quản lý hơn nữa, và mạng lưới an sinh xã hội nhỏ hơn nữa.

Nhưng khi đi theo con đường này, đảng Cộng hòa đang tham gia trận chiến cuối cùng, trận chiến mà họ đã tiến hành và giành thắng lợi hồi thập niên 80 trong khi đảng Dân chủ vẫn buộc phải tiếp tục cuộc chiến để mở đường máu bảo vệ chương trình Chính sách Kinh tế xã hội mới của thập kỷ 30.

Cả hai chiến lược này đều không còn hiệu quả. Mỹ không thể cạnh tranh với Trung Quốc và Ấn Độ đơn giản bằng cách cắt giảm chi phí và thu hẹp chính phủ – trừ khi chúng ta sẵn lòng chấp nhận giảm đáng kể mức sống người dân – với những thành phố ngập trong khói và người ăn xin xếp hàng trên đường. Và Mỹ cũng không thể cạnh tranh đơn giản bằng cách dựng lên các rào cản thương mại và tăng mức lương tối thiểu – trừ khi chúng ta sẵn lòng lịch thu tất cả máy tính trên toàn thế giới.

Nhưng lịch sử cho chúng ta niềm tin rằng chúng ta không phải lựa chọn giữa nền kinh tế chỉ huy ngột ngạt hay chủ nghĩa tư bản lộn xộn và khắc nghiệt. Lịch sử cho thấy chúng ta có thể bước ra khỏi những biến động kinh tế lớn lao trong vị thế mạnh hơn chứ không hề yếu hơn. Cũng như những người đi trước, chúng ta nên tự hỏi những chính sách nào sẽ đem lại thị trường tự do năng động và ổn định kinh tế trên diện rộng, cải cách doanh nghiệp và nâng cao mức sống. Và câu châm ngôn giản dị của Lincoln có thể giúp định hướng cho chúng ta, đó là: thông qua chính phủ, chúng ta có thể cùng làm những việc mà riêng lẻ mỗi cá nhân hoặc tư nhân không bao giờ làm tốt hoặc đạt hiệu quả bằng.

Nói cách khác, chúng ta nên đi theo con đường có hiệu quả.

VẬY SỰ ĐỒNG THUẬN kinh tế mới ấy sẽ như thế nào? Tôi sẽ không làm ra vẻ tôi có mọi câu trả lời, thảo luận chi tiết chính sách kinh tế Mỹ thì phải viết vài quyển sách mới hết. Nhưng tôi có thể đưa ra một vài ví dụ mà trong đó chúng ta thoát ra được thế bí chính trị hiện nay; trong đó theo Hamilton và Lincoln, chúng ta có thể đầu tư vào cơ sở hạ tầng và con người; bắt đầu hiện đại hóa và Xây dựng lại Các thỏa ước xã hội mà F.D. Roosevelt đưa ra lần đầu tiên hồi giữa thế kỷ trước.

Hãy bắt đầu với những lĩnh vực đầu tư có thể làm tăng tính cạnh tranh của Mỹ trong nền kinh tế thế giới: đầu tư vào giáo dục, khoa học, công nghệ và độc lập năng lượng.

Trong suốt lịch sử, giáo dục luôn chiếm vị trí trung tâm trong cam kết của đất nước đối với công dân: Nếu bạn làm việc chăm chỉ và có trách nhiệm, bạn sẽ có cơ hội có cuộc sống tốt hơn. Và ở thế giới hiện tại nơi kiến thức quyết định giá trị của bạn trên thị trường lao động, nơi một đứa trẻ ở Los Angeles phải cạnh tranh không chỉ với những đứa trẻ khác ở Boston mà còn phải với hàng triệu trẻ em ở Bangalore và Bắc Kinh, thì có quá nhiều trường học Mỹ đã không thực hiện được cam kết này.

Hồi năm 2005, tôi đến thăm trường trung học ThorntonTownship, một trường chủ yếu dành cho học sinh da đen ở vùng ngoại ô phía nam Chicago. Nhân viên của tôi đã làm việc với các giảng viên ở đó để tổ chức một cuộc họp với học sinh trong trường. Đại diện của từng lớp đã dành nhiều tuần để xem xét các bạn học đang quan tâm đến vấn đề gì, sau đó chuyển kết quả thu được thành những câu hỏi dành cho tôi. Tai cuộc họp mặt, các em nói về vấn đề bạo lực trong vùng và thiếu máy tính cho lớp học. Những băn khoăn hàng đầu của những học sinh này là: Do chính quyền quận không đủ khả năng trả lương làm việc toàn thời gian cho giáo viên nên trường Thornton phải cho học sinh về vào lúc 1 giờ 30 chiều. Với lịch học bị thu hẹp như vậy, học sinh không có thời gian học trong phòng thí nghiệm hay lên lớp ngoại ngữ.

– Tại sao chúng cháu lại bị đối xử không công bằng thế? – Các em học sinh hỏi tôi – Có vẻ không ai muốn bọn cháu vào đại học thì phải.

Bọn trẻ muốn học nhiều hơn.

Chúng ta đã quen với những câu chuyện như vậy về trẻ em gốc Phi và gốc Nam Mỹ đang mòn mỏi theo học ở những ngôi trường không thể trang bị cho chúng đủ trình độ để tham gia vào nền kinh tế công nghiệp kiểu cũ, nói gì đến thời đại thông tin hiện nay. Nhưng vấn đề của hệ thống giáo dục của chúng ta không chỉ nằm ở khu phố cũ. Nước Mỹ còn có tỷ lệ học sinh ở cấp trung học bỏ học cao loại cao nhất trong số các nước công nghiệp phát triển. Học sinh năm cuối trung học của Mỹ có điểm kiểm tra toán và khoa học thấp hơn so với hầu hết các bạn đồng lứa nước khác. Một nửa thiếu niên Mỹ không hiểu được những phân số đơn giản, một nửa số trẻ em chín tuổi không làm được phép nhân hoặc chia cơ bản, và mặc dù có nhiều sinh viên Mỹ tham dự kỳ thi đại học hơn bao giờ hết, nhưng chỉ có 22% trong số đó được trang bị đủ để học tiếng Anh, toán và khoa học ở trường đại học.

Tôi không tin rằng một mình chính phủ có thể thay đổi được kết quả thống kê này. Cha mẹ là những người chịu trách nhiệm cơ bản trong việc giáo dục con cái họ phẩm chất chăm chỉ và giá trị của học hành. Nhưng các bậc cha mẹ cũng đúng khi kỳ vọng chính phủ, thông qua các trường công, sẽ hợp tác trọn vẹn với họ trong quá trình giáo dục – như đã từng làm với các thế hệ người Mỹ trước đây.

Không may là thay vì đổi mới, cải cách mạnh mẽ trường học – sự thay đổi cho phép các học sinh trường Thornton có thể cạnh tranh được một vị trí làm việc ở Google – trong gần hai mươi năm qua chúng ta chỉ thấy chính phủ cải cách giáo dục qua loa ngoài lề và chấp nhận chất lượng giáo dục chỉ ở mức trung bình. Một phần đây là kết quả của những cuộc tranh luận quan điểm lạc hậu dễ đoán trước. Nhiều người thuộc phe bảo thủ cho rằng tiền không thể nâng cao được kết quả học tập: những vấn đề phát sinh ở trường công là do nạn quan liêu và công đoàn giáo viên cứng nhắc gây ra; và giải pháp duy nhất cho vấn đề này là chấm dứt vai trò độc quyền giáo dục của chính phủ bằng cách thuê tư nhân làm giáo dục. Trong khi đó, những người cánh tả lại lên tiếng bảo vệ cho hiện trạng khó chấp nhận này, cho rằng chỉ cần chi thêm tiền là sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục.

Cả hai giả định này đều sai lầm. Tiền hẳn phải có vai trò nhất định trong giáo dục – nếu không tại sao phụ huynh học sinh lại chịu trả nhiều tiền hơn để sống ở những khu ngoại ô có trường học được nhà nước cấp ngân sách đầy đủ? Và thực tế ở rất nhiều trường học cả ở vùng đô thị và nông thôn vẫn có tình trạng lớp học quá đông, sách giáo khoa lạc hậu, trang thiết bị không phù hợp và giáo viên buộc phải bỏ tiền túi ra mua những đồ dùng giảng dạy thiết yếu. Nhưng không thể phủ nhận rằng cách quản lý trường công như hiện tại ít nhất cũng là một vấn đề nghiêm trọng không kém vấn đề tài chính cho các trường này.

Do đó, nhiệm vụ của chúng ta ở đây là tìm ra những thay đổi có tác động lớn nhất lên kết quả học tập của học sinh, tài trợ thực hiện các thay đổi đó, và xóa bỏ những chương trình không có kết quả. Và trong thực tế chúng ta đã có bằng chứng rõ ràng về những cải cách hiệu quả: một chương trình học khó hơn và nghiêm ngặt hơn, chú trọng vào toán, khoa học và kỹ năng ngôn ngữ; thời gian học một ngày dài hơn và nhiều ngày hơn để học sinh có thời gian và duy trì được sự tập trung cần thiết cho học tập: cung cấp giáo dục cấp mẫu giáo cho mọi trẻ em để không em nào bị tụt hậu trong những ngày đầu tiên đi học; thực hiện các đánh giá hợp lý dựa trên kết quả học tập, qua đó cung cấp bức tranh toàn cảnh về quá trình học tập của một học sinh; tuyển dụng và đào tạo các hiệu trưởng theo quan điểm cải cách và các giáo viên giảng dạy hiệu quả.

Điểm cuối cùng cần được chú trọng là phải có giáo viên tốt. Các nghiên cứu gần đây cho thấy yếu tố quan trọng nhất quyết định kết quả học tập không phải màu da hay xuất xứ của học sinh mà là giáo viên của em đó là ai. Không may là quá nhiều trường phải phụ thuộc vào các giáo viên không có kinh nghiệm, ít được đào tạo về môn học họ dạy, và thường các giáo viên yếu kém này lại tập trung ở những trường đang hoạt động chật vật. Hơn nữa, mọi việc ngày càng tồi tệ hơn trước chứ không tốt hơn: mỗi năm, các trường học lại mất đi các giáo viên có kinh nghiệm vì thế hệ Bùng nổ dân số đã bước vào tuổi nghỉ hưu, và trong thập kỷ tới phải tuyển dụng hai triệu giáo viên mới theo kịp được số trẻ em đi học ngày càng tăng.

Vấn đề không phải là không có người tâm huyết với nghề. Tôi thường xuyên gặp các bạn trẻ tốt nghiệp những trường đại học hàng đầu đã đăng ký làm việc hai năm ở những trường công khó khăn nhất nước thông qua những chương trình như Dạy học vì nước Mỹ. Họ thấy công việc này đặc biệt đáng trân trọng; và học sinh được hưởng lợi từ sức sáng tạo và sự nhiệt tình của họ. Nhưng sau hai năm, phần lớn các giáo viên này đều làm nghề khác hoặc chuyển đến các trường ngoại ô. Thực trạng này là hậu quả của mức lương thấp, thiếu hỗ trợ từ các bộ máy quản lý nhà nước ngành giáo dục và cảm giác bị cô lập.

Nếu chúng ta nghiêm túc muốn xây dựng một hệ thống trường học cho thế kỷ 21, chúng ta phải nghiêm túc xem xét nghề giảng dạy. Có nghĩa là phải điều chỉnh quá trình cấp bằng để một sinh viên chuyên ngành hóa học muốn đi dạy tránh được những khóa học bổ sung tốn kém; thiết lập hệ thống có cả giáo viên mới và giáo viên giàu kinh nghiệm để họ không bị cô lập và trao cho những giáo viên có trình độ quyền kiểm soát lớp học nhiều hơn.

Điều này còn có nghĩa là phải trả lương giáo viên đúng với giá trị của họ. Không có lý do gì một giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ cao và làm việc hiệu quả không được trả 100.000 dollar một năm khi ở đỉnh cao nhất sự nghiệp. Những giáo viên giỏi trong những lĩnh vực quan trọng như toán và khoa học – cũng như những người sẵn sàng dạy học ở những trường khó khăn nhất – càng nên được trả cao hơn.

Chỉ có một điều. Để có mức lương cao hơn, giáo viên phải có trách nhiệm hơn với kết quả dạy học – và các trường phải được phép loại bỏ các giáo viên không hiệu quả.

Cho đến hiện tại, công đoàn giáo viên luôn phản đối ý kiến trả lương theo kết quả dạy học, một phần vì điều này có thể phụ thuộc vào ý tưởng tùy hứng của vị hiệu trưởng. Công đoàn giáo viên cũng cho rằng – mà theo tôi nghĩ là đúng – phần lớn các trường chỉ dựa vào kết quả thi của học sinh để đánh giá giáo viên, mà kết quả thi của học sinh lại phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của giáo viên, ví dụ như số học sinh nghèo hoặc cần hỗ trợ đặc biệt trong lớp.

Nhưng đây không phải là vấn đề không có cách giải quyết. Hợp tác với công đoàn giáo viên, các bang và các trường học có thể giúp đưa ra các phương thức đánh giá kết quả giảng dạy tốt hơn, những phương pháp kết hợp cả kết quả thi cử của học sinh với hệ thống đánh giá chéo (phần lớn các giáo viên có thể cho bạn biết trong trường họ ai dạy giỏi ai dạy dở với kết quả nhất quán đáng ngạc nhiên). Và chúng ta có thể đảm bảo những giáo viên không hoàn thành nhiệm vụ sẽ không thể tiếp tục gây ảnh hưởng đến những học sinh thực sự muốn được học tập nghiêm túc.

Thực tế, nếu chúng ta định tiến hành những đầu tư cần thiết để chấn chỉnh lại các trường học thì chúng ta sẽ phải phục hồi niềm tin rằng mọi trẻ em đều có thể học. Gần đây, tôi có cơ hội đến thăm trường tiểu học Dodge ở Tây Chicago, một trường từng xếp hạng gần chót về mọi mặt nhưng đang trong quá trình thay đổi. Khi tôi nói chuyện với các giáo viên về những khó khăn họ gặp phải, một giáo viên trẻ đề cập đến cái mà cô gọi là “Hội chứng những đứa trẻ đó” – xã hội sẵn sàng tìm ra hàng triệu lý do tại sao “những đứa trẻ đó” không thể học được; “những đứa trẻ đó” có nền tảng khó khăn và “những đứa trẻ đó” quá tụt hậu như thế nào.

“Khi tôi nghe đến từ đó tôi tức điên người”, cô ấy nói. “Chúng không phải những đứa trẻ ‘đó’. Chúng là con cái, là bọn trẻ của chúng ta”.

Nền kinh tế Mỹ sẽ như thế nào trong những năm tới phụ thuộc rất nhiều vào việc chúng ta có thực sự suy nghĩ về điều đó không.

ĐẦU TƯ VÀO giáo dục không thể chỉ là hệ thống trường tiểu học và trung học cơ sở được cải thiện. Trong nền kinh tế tri thức với tám trong số chín nghề phát triển nhanh nhất trong thập kỷ này đòi hỏi trình độ khoa học và công nghệ, phần lớn công nhân cần được đào tạo cao hơn ở hình thức nào đó để kiếm được việc làm trong tương lai. Và nếu từ đầu thế kỷ 20, chính phủ đã xây dựng các trường trung học phổ thông miễn phí và bắt buộc để cung cấp cho công nhân các kỹ năng cần thiết cho thời đại công nghiệp thì ngày nay chính phủ cũng phải giúp lực lượng lao động điều chỉnh với thực tế của thế kỷ 21.

Về nhiều mặt, nhiệm vụ của chúng ta bây giờ dễ dàng hơn so với các nhà hoạch định chính sách một trăm năm trước. Một ví dụ là chúng ta đã có sẵn một hệ thống các trường đại học và cao đẳng cộng đồng được trang bị đầy đủ để tiếp đón thêm nhiều sinh viên hơn. Và rõ ràng không cần thuyết phục người Mỹ về giá trị của giáo dục đại học – tỷ lệ thanh niên có bằng cử nhân tăng đều đặn qua mỗi thập kỷ từ 16% vào năm 1980 lên 33% hiện nay.

Cái người Mỹ cần hỗ trợ, ngay bây giờ, đó là chi phí học đại học ngày càng tăng cao – một vấn đề mà Michelle và tôi đã quá quen thuộc (trong mười năm đầu hôn nhân, số tiền chúng tôi phải trả nợ học phí đại học và sau đó là theo học trường luật cao hơn tiền thế chấp rất nhiều). Trong năm năm qua, học phí trung bình cho bốn năm ở trường đai học công, sau khi điều chỉnh lạm phát, đã tăng lên 40%. Để trả được khoản phí này, các sinh viên phải đi vay những món nợ ở mức cao hơn bao giờ hết, mức nợ này khiến họ không muốn theo đuổi những nghề ít sinh lợi như đi dạy. Mỗi năm ước tính có khoảng hai trăm nghìn sinh viên đủ trình độ vào học đại học nhưng phải quyết định từ bỏ việc đi học vì không tìm ra cách nào để lo được học phí.

Chúng ta phải thực hiện một số bước để kiểm soát chi phí và tăng số người vào học đại học. Các bang có thể hạn chế mức tăng học phí ở các trường công lập. Với rất nhiều sinh viên bất thường[154], các trường dạy nghề kỹ thuật và các khóa học trên mạng là những lựa chọn có chi phi thấp giúp họ trang bị lại các công cụ để làm việc được trong một nền kinh tế liên tục thay đổi. Và các sinh viên có thể yêu cầu trường của họ nên nỗ lực xin tài trợ để tăng chất lượng đào tạo hơn là xây thêm sân bóng mới.

Nhưng dù chúng ta kiểm soát được chi phí giáo dục đến mức nào đi nữa thì vẫn cần phải trực tiếp hỗ trợ thêm nhiều sinh viên và phụ huynh trong việc chi trả các khoản chi phí học đại học, có thể thông qua trợ cấp, cho vay lãi suất thấp, tài khoản tiết kiệm giáo dục miễn thuế hoặc khấu trừ thuế hoàn toàn trên học phí. Cho đến hiện tại, Quốc hội đang đi theo hướng ngược lại bằng cách tăng lãi suất các khoản cho sinh viên vay do liên bang bảo lãnh và không thể tăng trợ cấp cho sinh viên nghèo để phản ứng với lạm phát. Không có lời nào bào chữa được cho những chính sách như vậy nếu chúng ta muốn duy trì cơ hội và khả năng tiến lên vị thế cao hơn như một đặc điểm ưu việt của nền kinh tế Mỹ.

Hệ thống giáo dục của chúng ta còn có một khía cạnh khác đáng được trân trọng – nó là trung tâm khả năng cạnh tranh của nước Mỹ. Từ khi Lincoln ký Đạo luật Morrill và tạo ra các trường đại học và cao đẳng công cộng địa phương, những nơi này luôn là các điểm nghiên cứu và phát triển chính của cả nước. Chính ở đây, chúng ta đào tạo được những nhà cải cách tương lai, với sư hỗ trợ quan trọng về cơ sở hạ tầng của chính quyền liên bang – từ phòng thí nghiệm hóa học cho đến máy gia tốc hạt – và số tiền đầu tư cho nghiên cứu có thể không đem lại kết quả ứng dụng sinh lợi ngay lập tức, nhưng có thể cuối cùng sẽ tạo ra bước đột phá lớn trong khoa học.

Cả ở đây nữa, chính sách của chúng ta cũng đi sai đường. Tại lễ phát bằng ở trường Đại học Northwestern năm 2006, tôi có nói chuyện với giáo sư Robert Langer, giáo sư ngành Hóa ở Học viện công nghệ Massachusetts và là một trong những nhà khoa học hàng đầu cả nước. Langer không phải một vị giáo sư hàn lâm chỉ ở trên tháp ngà kiến thức – ông có hơn năm trăm phát minh và nghiên cứu của ông đem lại kết quả trong mọi lĩnh vực, từ miếng dán nicotine[155] đến phương pháp điều trị ung thư não. Trong khi chờ đợi buổi lễ khai mạc, tôi hỏi ông về công việc hiện tại, và ông đề cập đến nghiên cứu mô, một nghiên cứu hứa hẹn sẽ tạo ra những phương pháp mới để đưa thuốc vào cơ thể người hiệu quả hơn. Nhớ lại những cuộc tranh luận quanh vấn đề nghiên cứu tế bào gốc, tôi hỏi ông liệu những quy định hạn chế họ tế bào gốc của chính phủ Bush có phải là chướng ngại lớn nhất cản trở ông nghiên cứu xa hơn không. Ông lắc đầu.

“Có thêm họ tế bào đương nhiên sẽ tốt hơn”, Langer trả lời, “nhưng vấn đề thực sự là số tiền trợ cấp cho nghiên cứu của nhà nước đã bị cắt giảm đáng kể”. Ông giải thích rằng mười lăm năm trước, 20% đến 30% số đề tài nghiên cứu đề xuất được liên bang tài trợ. Hiện nay con số này chỉ khoảng 10%. Đối với các nhà khoa học và nhà nghiên cứu, điều này có nghĩa là phải dành nhiều thời gian để kiếm tiền hơn và ít thời gian để nghiên cứu đi. Cũng có nghĩa là mỗi năm, ngày càng nhiều dự án nghiên cứu có tương lai hứa hẹn bị từ bỏ – đặc biệt là những nghiên cứu rủi ro cao có thể đem lại kết quả rất lớn.

Đánh giá của giáo sư Langer không có gì mới. Hình như tháng nào cũng có các nhà khoa học và kỹ sư đến văn phòng của tôi để bàn về cam kết tài trợ cho nghiên cứu khoa học cơ bản của nhà nước ngày càng giảm. Trong ba mươi năm qua, số tiền nhà nước tài trợ cho các ngành vật lý, toán và kỹ thuật tính theo tỷ lệ phần trăm so với GDP đã giảm xuống – trong khi các nước khác lại đang tăng ngân sách dành cho nghiên cứu và triển khai. Và như giáo sư Langer đã chỉ rõ, việc giảm hỗ trợ nghiên cứu khoa học cơ bản đã gây ra tác động trực tiếp lên số sinh viên theo học toán, khoa học và kỹ thuật – điều đó giải thích tại sao hàng năm số kỹ sư tốt nghiệp ra trường ở Trung Quốc cao gấp tám lần con số này ở Mỹ.

Nếu chúng ta muốn có một nền kinh tế đổi mới, nền kinh tế tạo ra nhiều Google hơn mỗi năm thì chúng ta phải đầu tư vào những người sẽ thay đổi tương lai – bằng cách tăng gấp đôi ngân sách tài trợ cho khoa học cơ bản trong năm năm tới, đào tạo thêm một trăm nghìn kỹ sư và nhà khoa học trong bốn năm tới, hoặc trợ cấp nghiên cứu thêm cho những nhà nghiên cứu trẻ xuất sắc trong nước. Tổng số tiền để duy trì hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ sẽ cao khoảng 42 tỷ dollar trong năm năm – một con số rõ ràng là lớn, nhưng chỉ bằng 15% ngân sách cho xây dựng đường cao tốc liên bang gần đây nhất.

Nói cách khác, chúng ta đủ khả năng chi trả cho những việc phải làm. Không phải chúng ta không có tiền mà đất nước ta đã không nhận thức được tính cấp bách của vấn đề.

NỘI DUNG ĐẦU TƯ quan trọng cuối cùng giúp nước Mỹ tăng tính cạnh tranh là vào cơ sở hạ tầng năng lượng để chúng ta hướng tới độc lập về năng lượng sau này. Trong quá khứ, chiến tranh hoặc những mối đe dọa trực tiếp tới an ninh quốc gia đã làm lung lay tính tự mãn của nước Mỹ và buộc Mỹ phải đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và khoa học, tất cả đều nhằm giảm tối đa khả năng bị tấn công của đất nước. Điều này đã xảy ra vào thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh lạnh, khi Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik làm dấy lên mối lo ngại họ sẽ vượt qua Mỹ về công nghệ. Để trả lời, Tổng thống Eisenhower đã tăng gấp đôi ngân sách liên bang dành cho giáo dục và cho toàn bộ thế hệ nhà khoa học và kỹ sư những gì họ cần để đem lại tiến bộ đột phá. Cùng năm đó, Cơ quan phụ trách Dự án Nghiên cứu tiến bộ quốc phòng (DARPA) được thành lập, cung cấp hàng tỷ dollar cho những nghiên cứu cơ bản mà sau này đã dẫn đến giúp hình thành mạng Intemet, mã vạch và phần mềm thiết kế trên máy tính. Năm 1961, Tổng thống Kennedy đưa ra chương trình không gian Apollo, tạo cảm hứng cho thanh niên khắp cả nước tham gia chương trình Biên giới mới[156] trong khoa học.

Vị thế hiện tại của nước Mỹ đòi hòi chúng ta phải làm tương tự với năng lượng. Việc tương lai đất nước phụ thuộc vào khả năng độc lập năng lượng là quá rõ ràng. Theo ủy ban quốc gia về chính sách năng lượng, nếu không thay đổi chính sách năng lượng, nhu cầu dầu của Mỹ sẽ tăng 40% trong hai mươi năm tới. Trong cùng thời gian đó, nhu cầu toàn thế giới sẽ tăng ít nhất 30% khi những quốc gia phát triển nhanh như Trung Quốc và Ấn Độ mở rộng sản xuất công nghiệp và trên đường phố hai nước này có thêm 140 triệu ô tô nữa.

Sự phụ thuộc vào dầu không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nó còn tác động đến an ninh quốc gia chúng ta. Mỗi ngày chúng ta mua dầu của nước ngoài hết 800 triệu dollar, trong đó một phần đáng kể được thanh toán cho những đất nước có chế độ thiếu ổn định nhất thế giới – Saudi Arabia. Nigeria, Venezuela và ít nhất là gián tiếp cho Iran. Việc những nước này có phải là quốc gia độc tài, có ý định sản xuất vũ khí hạt nhân hay là nơi trú ẩn của những kẻ gieo rắc hạt giống khủng bố vào đầu thanh niên hay không không quan trọng – họ có tiền của chúng ta vì chúng ta cần dầu của họ.

Tệ hơn là nguy cơ mất nguồn cung dầu cũng rất nghiêm trọng. Ở vịnh Ba Tư, nhiều năm nay Al Qaeda đã hướng mũi tấn công vào các nhà máy lọc dầu được bảo vệ kém; và chỉ cần một lần chúng tấn công được vào một trong những khu lọc dầu lớn của Saudi Arabia là nền kinh tế Mỹ có thể tụt dốc bổ nhào. Chính Osama bin Laden đã nói với người của hắn ta rằng “tập trung đánh vào dầu, đặc biệt ở lraq và Vùng Vịnh thì điều đó sẽ làm cho chúng chết dần chết mòn”.

Và sau đó là hậu quả môi trường của một nền kinh tế phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Gần như mọi nhà khoa học ở ngoài Nhà Trắng đều tin rằng biến đổi khí hậu là có thật, nghiêm trọng, và ngày càng tăng do con người vẫn liên tục thải khi carbonic. Nếu nguy cơ băng tan, mực nước biển dâng cao, thời tiết thay đổi, bão nhiệt đới xảy ra thường xuyên, lốc xoáy mạnh hơn, bão cát liên tục, rừng bị phá hủy, rạn san hô ngầm bị chết và bệnh hô hấp cũng như bệnh do côn trùng gây ra tăng lên không phải là nguy cơ nghiêm trọng thì tôi cũng không hiểu điều gì mới là nghiêm trọng.

Hiện tại, chính sách năng lượng của chính phủ Bush tập trung vào trợ cấp các công ty dầu lớn và mở rộng khoan thăm dò – cùng với đầu tư chiếu lệ vào phát triển nguồn năng lượng thay thế. Cách làm này chỉ có ý nghĩa nếu nước Mỹ sở hữu nguồn dầu mỏ dồi dào và chưa bị khai thác, có thể đáp ứng được nhu cầu (và nếu các công ty dầu thực sự không có lợi nhuận). Nhưng nguồn cung đó không hề tồn tại. Nước Mỹ chiếm 3% trữ lượng dầu toàn thế giới. Và chúng ta sử dụng 25% lượng dầu toàn thế giới. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề này bằng cách khoan giếng tìm dầu.

Việc chúng ta có thể làm là tạo ra nguồn năng lượng có thể tái sinh và sạch hơn cho thế kỷ 21. Thay vì trợ cấp ngành dầu mỏ, chúng ta nên chấm dứt mọi chính sách ưu đãi thuế mà ngành này đang được hưởng và yêu cầu các công ty dầu có lợi nhuận hàng quý hơn 1 tỷ dollar phải dành ra 1% doanh thu để tài trợ cho các nghiên cứu tìm năng lượng thay thế và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần thiết. Dự án này không chỉ đem lại lợi ích kinh tế, chính sách đối ngoại và môi trường rất lớn – nó còn là phương tiện để chúng ta đào tạo ra một thế hệ các nhà khoa học và kỹ sư mới và là nguồn tạo ra xuất khẩu và việc làm có mức lương cao.

Các nước như Brazil đã làm việc này. Trong ba mươi năm qua, Brazil đã kết hợp quy định của chính phủ và đầu tư trực tiếp của nhà nước vào việc phát triển một ngành công nghiệp năng lượng sinh học hiệu quả cao: 70% phương tiện đi lại hiện nay của nước này không chạy bằng xăng mà bằng ethanol làm từ mật mía. Thiếu sự quan tâm tương tự của chính phủ, ngành công nghiệp ethanol của Mỹ hiện nay vẫn phải đuổi theo họ. Những người ủng hộ thị trường tự do cho rằng bàn tay can thiệp mạnh mẽ của chính phủ Brazil không thể hợp với nền kinh tế nặng tính thị trường của Mỹ. Nhưng nếu các quy định quản lý được áp dụng một cách linh hoạt và nhạy cảm với các yếu tố trên thị trường thì hoàn toàn có thể thúc đẩy khu vực tư nhân cải cách và đầu tư vào công nghiệp năng lượng.

Lấy ví dụ vấn đề tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu. Trong hai thập kỷ qua, khi giá dầu còn rẻ, nếu chúng ta tăng dần tiêu chuẩn lên thì các nhà sản xuất ô tô hẳn đã phải đầu tư vào các sản phẩm mới, sử dụng nhiên liệu hiệu quả thay vì những chiếc xe thể thao đa dụng SUV uống xăng như nước, nhờ đó tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm khi giá xăng tăng. Thay vào đó, chúng ta chứng kiến các đối thủ cạnh tranh từ Nhật Bản dạo quanh sào huyệt ô tô Mỹ, Detroit[157]. Toyota dự kiến bán một trăm nghìn xe hybrid (chạy xăng và điện) Prius phổ thông trong năm 2006, trong khi chiếc xe Hybrid của hãng GM thậm chí không thể lăn bánh ra thị trường cho đến tận năm 2007. Và có thể dự đoán rằng những công ty như Toyota sẽ vượt qua các hãng ô tô Mỹ trên thị trường đang lên là Trung Quốc vì tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu của Trung Quốc cao hơn của chúng ta.

Điểm mấu chốt ở đây là những chiếc xe sử dụng nhiên liệu hiệu quả và những nhiên liệu thay thế như E85, một loại nhiên liệu có công thức 85% là ethanol chính là tương lai của ngành công nghiệp ô tô. Các công ty ô tô Mỹ có thể đạt được tương lai này nếu ngay bây giờ chúng ta chấp nhận những lựa chọn khó khăn. Trong nhiều năm, các công ty ô tô Mỹ và Công đoàn công nhân ngành ô tô (UAW) đã phản đối tăng tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu vì trang bị lại rất tốn kém và Detroit phải chật vật đấu tranh với chi phí y tế cho người về hưu tăng cao và môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vì vậy, trong năm đầu ở thượng viện, tôi đã đề xuất dự luật mà tôi gọi là “Chăm sóc y tế đổi lấy ô tô hybrid”. Dự luật này đưa ra thỏa thuận với các nhà sản xuất ô tô: để được liên bang hỗ trợ chi phí y tế cho các công nhân về hưu, ba công ty lớn nhất phải tái đầu tư số tiền tiết kiệm được này để phát triển sản phẩm sử dụng nhiên liệu hiệu quả.

Đầu tư mạnh vào nguồn năng lượng thay thế cũng sẽ đem lại hàng nghìn việc làm mới. Mười hay hai mươi năm nữa, xưởng Maytag cũ ở Galesburg có thể mở cửa lại, thành một nhà máy lọc ethanol từ cellulose. Cuối phố các nhà khoa học sẽ rất bận rộn trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu tế bào hydrogen mới. Và bên kia đường, một công ty ô tô mới sẽ nhanh chóng bán được những chiếc xe hybrid.

Việc làm mới sẽ do những công nhân Mỹ đảm nhiệm, họ có kỹ năng mới và được hưởng dịch vụ giáo dục đẳng cấp thế giới, từ tiểu học đến đại học.

Nhưng chúng ta không thể chần chừ thêm nữa. Tôi thoáng có ý niệm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nước ngoài có thể gây ra điều gì vào mùa hè năm 2005, khi Thượng nghị sỹ Dick Lugar và tôi đến thăm Ukraine và gặp tổng thống mới được bầu của nước này, Viktor Yushchenko. Sự kiện bầu cử Yushchenko đã lên đầu các bản tin trên khắp thế giới: vận động chống lại một đảng cầm quyền nhiều năm chỉ phục vụ lợi ích cho nước láng giềng là Nga, Yushchenko đã sống sót qua một vụ ám sát, một vụ bầu cử bị tước bỏ kết quả và những lời đe dọa từ Moscow trước khi người dân Ukraine nổi dậy trong “Cách mạng cam” – đó là một loạt những vụ biểu tình hòa bình quy mô lớn, cuối cùng dẫn tới việc Yushchenko lên làm tổng thống.

Lẽ ra đó là thời điểm khó khăn với đất nước trước đây nằm trong Liên bang Xô viết này, và thực tế, ở mọi nơi chúng tôi đến người ta đều nói về tự do hóa và cải cách kinh tế. Nhưng khi nói chuyện với Yushchenko và nội các của ông, chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra Ukraine có một khó khăn rất lớn – họ vẫn tiếp tục phải phụ thuộc hoàn toàn vào dầu mỏ và khí đốt của Nga. Lúc đó Nga đã tuyên bố Ukraine không được mua dầu khí từ nước này với giá thấp hơn giá thị trường thế giới nữa, một động thái dẫn tới giá dầu phục vụ sưởi ấm trong nhà của Ukraine tăng gấp ba lần trong mùa đông trước kỳ bầu cử quốc hội. Những lực lượng ủng hộ Nga ở Ukraine vẫn chờ cơ hội vì họ biết rằng dù có tất cả những từ ngữ bay bổng, những khẩu hiệu màu cam, những cuộc biểu tình, sự dũng cảm của Yushchenko, nhưng rồi Ukraine vẫn phải phụ thuộc vào người bảo trợ cũ.

Một quốc gia không thể tự kiểm soát nguồn năng lượng sẽ không thể tự kiểm soát được tương lai. Ukraine có thể không có nhiều lựa chọn trong vấn đề này, nhưng đất nước giàu nhất và mạnh nhất thế giới thì chắc chắn có.

GIÁO DỤC. Khoa học và công nghệ. Năng lượng. Đầu tư vào ba lĩnh vực then chốt này sẽ góp phần nâng cao tính cạnh tranh của nước Mỹ. Dĩ nhiên không lĩnh vực nào có thể đem lại kết quả ngay sau một đêm. Tất cả đều sẽ bị đưa ra tranh cãi. Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, và giáo dục sẽ tốn nhiều tiền trong khi ngân sách liên bang đang trong tình trạng căng thẳng. Tăng tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng nhiên liệu cho ô tô sản xuất trong nước hay thực hiện trả lương theo kết quả giảng dạy cho giáo viên các trường công lập đòi hỏi phải vượt qua được sư nghi ngờ của tầng lớp công nhân vốn đã cảm thấy bị thiệt hại đáng kể. Và những tranh luận quanh sự sáng suốt của phiếu tự chọn trường[158] hay độ bền của pin hydro sẽ không tắt trong một sớm một chiều. Có thể cần tranh luận cởi mở và mạnh mẽ về phương tiện chúng ta sử dụng để đạt được mục đích, nhưng bản thân mục đích cuối cùng đó không có gì phải bàn cãi. Nếu chúng ta không hành động, vị thế cạnh tranh của nước Mỹ trên thế giới sẽ giảm sút. Nếu chúng ta hành động kiên quyết, nền kinh tế của chúng ta sẽ bớt bị ảnh hưởng xấu, cán cân thương mại sẽ được cải thiện, tốc độ phát triển công nghệ sẽ tăng lên và công nhân Mỹ sẽ có vị thế mạnh hơn, điều chỉnh đáp ứng được nền kinh tế toàn cầu.

Nhưng liệu như thế đã đủ chưa? Giả định chúng ta có thể lấp đầy được những khác biệt về ý thức và giữ kinh tế Mỹ tăng trưởng, liệu tôi có thể nhìn thẳng vào mắt những công nhân ở Galesburg và nói với họ rằng toàn cầu hóa sẽ tốt cho họ và con cái họ không?

Đó là câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi trong cuộc tranh luận năm 2005 về Hiệp định Tự do thương mại Trung Mỹ CAFTA. Nếu nhìn nhận riêng biệt thì Hiệp định này không gây ra mối đe dọa gì đáng ngại với công nhân Mỹ – nền kinh tế kết hợp các quốc gia Trung Mỹ sẽ gần giống như khu New Haven, bang Connecticut. Nó đã mở ra thị trường mới cho các nhà sản xuất nông sản Mỹ, làm xuất hiện những nước nghèo rất cần đầu tư nước ngoài như Honduras hay Cộng hòa Dominica. Cũng có một hai vấn đề trong Hiệp định, nhưng nhìn chung CAFTA sẽ đem lại lợi ích cho kinh tế Mỹ.

Tuy nhiên, khi tôi gặp các đại diện công đoàn thì họ không hề nghĩ như vậy. Đối với họ, NAFTA đã là một thảm họa đối với công nhân Mỹ, và CAFTA cũng hứa hẹn tương tự. Họ nói rằng điều cần thiết không phải là tự do thương mại mà là thương mại công bằng: cần bảo vệ người lao động nhiều hơn ở những nước có thương mại với Mỹ, bao gồm quyền thành lập công đoàn, cấm lao động trẻ em; tăng tiêu chuẩn môi trường ở các nước này; chấm dứt trợ cấp của chính phủ đối với các nhà xuất khẩu và bỏ các rào cản phi thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Mỹ; bảo vệ bản quyền mạnh hơn cho sản phẩm của Mỹ; và đặc biệt đối với Trung Quốc, chấm dứt hiện tượng giữ giá nội tệ quá thấp của chính phủ – chính sách gây thiệt hại cho các công ty Mỹ.

Cũng như các đảng viên đảng Dân chủ khác, tôi rất ủng hộ những điều này. Nhưng tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải nói với các đại diện công đoàn rằng những biện pháp này sẽ chẳng thay đổi được thực tế toàn cầu hóa. Các quy định chặt chẽ hơn về lao động và môi trường trong hiệp định thương mại sẽ tăng sức ép phải cải thiện điều kiện làm việc ở các quốc gia khác, tương tự nỗ lực thỏa thuận với các nhà bán lẻ Mỹ sẽ dẫn đến sản phẩm họ bán ra được sản xuất với mức lương công bằng. Tuy nhiên, những biện pháp đó vẫn không thể xóa bỏ được khoảng cách quá lớn giữa mức lương của công nhân Mỹ và công nhân ở Honduras, Indonesia, Mozambique hay Bangladesh, nơi người lao động cho rằng làm việc trong một nhà máy bẩn thỉu hay các xưởng bóc lột công nhân nóng như thiêu đốt vẫn được coi là một việc làm tốt hơn so với thông thường.

Tương tự, nếu Trung Quốc chấp nhận tăng giá trị đồng nội tệ thì giá hàng hóa Trung Quốc sẽ tăng, khi đó hàng hóa Mỹ sẽ có tính cạnh tranh cao hơn. Nhưng kể cả khi làm như vậy, Trung Quốc vẫn có lượng lao động dư thừa ở các vùng nông thôn nhiều hơn một nửa dân số Mỹ – điều đó có nghĩa là Wal-mart vẫn sẽ có rất nhiều đơn đặt hàng cho những nhà cung cấp ở đó trong một thời gian rất dài nữa.

Tôi nói rằng chúng ta cần một cách làm khác với bài toán thương mại, một cách làm có tính đến thực tế này.

Và những người anh chị em ở công đoàn của tôi gật đầu, nói rằng họ cũng muốn nói chuyện với tôi về ý tưởng này, nhưng đồng thời liệu họ có thể coi là tôi đã bỏ phiếu chống CAFTA không?

Trên thực tế, những tranh luận cơ bản xung quanh tự do thương mại không thay đổi nhiều kể từ đầu nhưng năm 1980, và phe người lao động cùng đồng minh của họ nhìn chung thường thua cuộc. Suy nghĩ truyền thống của các nhà hoạch định chính sách, báo chí và cộng đồng doanh nghiệp hiện nay là tự do thương mại đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Họ lý giải rằng ở một thời điểm nhất định, một số việc làm ở Mỹ sẽ bị mất và gây ra khó khăn cho một vùng nào đó – nhưng cứ một nghìn việc làm ngành chế tạo mất đi do các nhà máy đóng cửa thì trong nền kinh tế sẽ có bằng hoặc thậm chí nhiều việc làm hơn thế sẽ hình thành trong ngành dịch vụ mới và đang phát triển.

Tuy nhiên, khi tốc độ toàn cầu hóa tăng lên, không chỉ có công đoàn lo lắng về triển vọng dài hạn của công nhân Mỹ. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng trên toàn thế giới – kể cả Trung Quốc và Ấn Độ – sẽ cần phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao hơn để tạo ra cùng một lượng việc làm, đó là hậu quả của tự động hóa phát triển mạnh và năng suất lao động tăng cao. Một vài nhà phân tích đặt câu hỏi liệu nền kinh tế Mỹ vốn ngày càng bị ngành dịch vụ chi phối có thể có mức tăng năng suất và qua đó tăng mức sống như trước kia không. Thực tế là trong năm năm qua, các con số thống kê luôn chỉ ra rằng mức lương của những việc làm bị mất đi ở Mỹ lại cao hơn mức lương của những việc làm mới được tạo ra.

Tuy nâng cao trình độ công nhân Mỹ sẽ giúp họ tự thích ứng được với nền kinh tế toàn cầu, nhưng chỉ cải thiện giáo dục thì không thể bảo vệ họ trước sức ép cạnh tranh ngày càng tăng. Ngay cả nếu nước Mỹ tạo ra số lập trình viên trên đầu người nhiều gấp đôi Trung Quốc, Ấn Độ hay bất cứ nước Đông Âu nào khác thì trong tổng số người bước vào thị trường toàn cầu vẫn có nhiều lập trình viên nước ngoài hơn là lập trình viên người Mỹ – tất cả họ đều chấp nhận mức lương bằng một phần năm lương của người Mỹ và làm việc ở bất cứ nơi nào có kết nối băng thông rộng.

Nói cách khác, tự do thương mại có thể làm tăng quy mô miếng bánh trên toàn thế giới – nhưng không có định luật nào nói rằng công nhân Mỹ sẽ ngày càng kiếm được phần bánh to hơn. Do đó hoàn toàn có thể hiểu tại sao một số người lại muốn chấm dứt toàn cầu hóa – đóng băng tình trạng hiện tại và cách ly bản thân chúng ta khỏi suy thoái kinh tế. Khi dừng chân ở New York trong vòng tranh luận CAFTA, tôi có nói chuyện với Robert Rubin, cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ thời Clinton, người tôi đã quen trong chiến dịch vận động của tôi, về một số bài nghiên cứu mà tôi đang đọc. Thật khó tìm được đảng viên Dân chủ nào gần gũi với toàn cầu hóa hơn Rubin – không chỉ vì ông đã từng là một trong những giám đốc ngân hàng có ảnh hưởng lớn nhất ở Wall Street trong vài chục năm mà còn vì trong phần lớn thập niên 90, ông đã góp phần tạo ra xu hướng tài chính thế giới. Ông cũng là một trong những người sâu sắc và khiêm tốn nhất mà tôi biết. Vì vậy tôi hỏi ông liệu ít nhất một vài mối lo ngại tôi nghe được từ những công nhân Maytag ở Galesburg đã xảy ra hay chưa – rằng không có cách nào tránh được thực tế mức sống của người Mỹ sẽ đi xuống nếu chúng ta hoàn toàn mở cửa cho cuộc cạnh tranh với lao động rẻ hơn trên toàn thế giới.

“Đó là một câu hỏi phức tạp”, Rubin trả lời. “Đa phần các nhà kinh tế sẽ nói với anh rằng con số việc làm tốt mà kinh tế Mỹ tạo ra là không giới hạn, vì cũng chả có giới hạn nào với sự khéo léo của con người cả. Con người sáng tạo ra ngành mới, nhu cầu mới, mong muốn mới. Tôi nghĩ các nhà kinh tế có thể cũng đúng. Trong lịch sử họ đã đúng. Dĩ nhiên không có gì đảm bảo giờ đây mô hình này vẫn đúng. Với tốc độ thay đổi công nghệ như hiện tại, rồi quy mô các quốc gia mà chúng ta đang phải cạnh tranh và chênh lệch chi phí giữa chúng ta và họ, có thể chúng ta sẽ chứng kiến một trạng thái bùng nổ mới. Nên tôi nghĩ ngay cả khi chúng ta không làm gì sai thì chúng ta vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn”.

Tôi nói mọi người ở Galesburg chắc sẽ không yên tâm với câu trả lời của ông.

“Tôi nói là có thể chứ có phải là chắc chắn đâu”, ông bảo. “Tôi chỉ lạc quan thận trọng cho rằng nếu chúng ta đưa hoạt động tài chính vào trật tự và cải thiện hệ thống giáo dục, con cái họ vẫn sẽ ổn. Tuy nhiên có một điều tôi có thể nói chắc với mọi người ở Galesburg, là mọi nỗ lực bảo hộ đều sẽ phản tác dụng – và sẽ làm cho con cái họ thiệt hại hơn trong cuộc mặc cả mà thôi”.

Tôi đánh giá cao hiểu biết của Rubin rằng công nhân Mỹ có lý do hợp lý khi lo ngại về toàn cầu hóa; theo kinh nghiệm của tôi, phần lớn các thủ lĩnh công đoàn đều đã suy nghĩ rất kỹ về vấn đề này và không thể coi họ như những kẻ theo chủ nghĩa bảo hộ hấp tấp. Nhưng thật khó mà bác bỏ được suy nghĩ thấu đáo của Rubin: chúng ta có thể cố gắng giảm bớt tốc độ toàn cầu hóa, nhưng chúng ta không thể chặn đứng nó. Nền kinh tế Mỹ quá gắn bó với phần còn lại của thế giới, và thương mại điện tử có phạm vi quá rộng, đến mức khó mà tưởng tượng được, chứ đừng nói đến thực hiện một cơ chế bảo hộ có hiệu quả. Thuế quan đánh trên thép nhập khẩu có thể tạm thời bảo vệ các nhà sản xuất thép của Mỹ, nhưng sẽ làm giảm tính cạnh tranh của các nhà sản xuất khác có sử dụng thép trên thị trường thế giới. Thật khó mà “mua hàng Mỹ” khi một trò chơi điện tử do công ty Mỹ bán ra lại do các kỹ sư phần mềm Nhật Bản phát triển và do người Mexico đóng gói. Các nhân viên tuần tra biên giới Mỹ không thể cấm dịch vụ gọi điện ở Ấn Độ hay ngăn cản một kỹ sư điện ở Praha gửi sản phẩm qua thư điện tử đến một công ty ở Dubuque, bang Iowa. Trong thương mại, chỉ còn tồn tại rất ít biên giới.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không giúp đỡ gì nữa và bảo các công nhân hãy tự lo liệu lấy. Tôi nói điều này với Tổng thống Bush vào cuối vòng tranh luận CAFTA khi tôi và một nhóm các thượng nghị sỹ khác được mời đến thảo luận ở Nhà Trắng. Tôi nói với Tổng thống rằng tôi tin vào ích lợi của thương mại, và tôi không nghi ngờ gì việc Nhà trắng có thể thu được dù số phiếu để thông qua hiệp định này. Nhưng tôi nói rằng thái độ phản đối CAFTA thật ra ít liên quan đến bản thân hiệp định mà nó liên quan nhiều hơn đến tình trạng ngày càng bất an của công nhân Mỹ. Trừ khi chúng ta tìm được chiến lược làm dịu bớt những mối lo ngại đó và có dấu hiệu chứng tỏ cho công nhân Mỹ thấy chính phủ đứng về phía họ, nếu không họ sẽ càng mong muốn tiếp tục được bảo hộ.

Tổng thống lắng nghe một cách lịch sự và nói ông rất quan tâm đến ý kiến của tôi. Đồng thời, ông nói rằng hy vọng tôi sẽ bỏ phiếu thuận.

Ông đã không có lá phiếu đó. Cuối cùng tôi bỏ phiếu chống CAFTA, hiệp định này được thông qua ở Thượng viện với tỷ lệ 55 phiếu thuận và 45 phiếu chống. Lá phiếu của tôi không làm tôi thỏa mãn, nhưng tôi cảm thấy đó là cách duy nhất để bày tỏ sự phản đối thái độ mà tôi coi là thiếu quan tâm của Nhà Trắng đến những người thất bại trong thế giới tự do thương mại. Cũng như Bob Rubin, tôi lạc quan về triển vọng lâu dài của kinh tế Mỹ và khả năng cạnh tranh của công nhân Mỹ – nhưng điều đó chỉ xảy ra khi chúng ta phân phối chi phí và lợi ích của toàn cầu hóa một cách công bằng hơn cho tất cả mọi người dân.

LẦN CUỐI CÙNG chúng ta đối mặt với quá trình chuyển đổi kinh tế cũng đổ vỡ như lần này là khi F.D. Roosevelt dẫn cả nước theo con đường xã hội mới – một thỏa hiệp giữa chính phủ, doanh nghiệp và công nhân dẫn đến thịnh vượng trên diện rộng và an toàn về kinh tế trong hơn năm mươi năm. Với một công nhân Mỹ trung bình, sự an toàn đó được đặt trên ba trục: khả năng tìm được việc làm có mức lương đủ nuôi cả gia đình và tích lũy phòng trường hợp khẩn cấp; người sử dụng lao động cung cấp bảo hiểm y tế và lương hưu trọn gói; và hệ thống an sinh xã hội của chính phủ – Bảo hiểm xã hội, Quỹ Cứu trợ y tế và Quỹ Chăm sóc y tế, bảo hiểm thất nghiệp, và ở mức độ thấp hơn là bảo vệ của liên bang khỏi phá sản ta bảo vệ lương hưu – những yếu tố này sẽ làm giảm bớt khó khăn cho những người thất bại trong cuộc sống.

Rõ ràng là lực đẩy nằm phía sau Chính sách Kinh tế xã hội mới này là sự đoàn kết toàn xã hội: giới chủ nên làm những việc đúng đắn cho công nhân, và nếu số phận hay sự nhầm lẫn làm bất cứ ai trong số chúng ta bị sẩy chân thì cả cộng đồng luôn có mặt để nâng người đó đứng lên.

Nhưng thỏa thuận này còn dựa trên nền tảng nhận thức rằng một hệ thống chia sẻ rủi ro và lợi ích sẽ cải thiện được hoạt động của thị trường. Roosevelt hiểu rằng nếu công nhân có lương và phúc lợi đầy đủ thì trong xã hội sẽ xuất hiện một tầng lớp người tiêu dùng trung lưu giúp ổn định và hướng tới mở rộng nền kinh tế Mỹ. Và Roosevelt nhận thấy chúng ta sẽ cùng chấp nhận rủi ro – thay đổi công việc hoặc khởi sự kinh doanh hoặc chấp nhận cạnh tranh từ các nước khác nếu chúng ta biết rằng chúng ta được bảo vệ mỗi khi gặp thất bại.

Đó là những gì chính sách An sinh Xã hội, trung tâm của chính sách Kinh tế xã hội mới mang lại – một mô hình bảo hiểm xã hội bảo vệ chúng ta khỏi những rủi ro trong cuộc sống. Chúng ta mua bảo hiểm cá nhân cho bản thân mọi lúc vì khi sống càng tự lập, chúng ta càng nhận thấy mọi việc không phải lúc nào cũng như ý muốn – con cái bị ốm, công ty đóng cửa, bố mẹ mắc bệnh Alzheimer[159], danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán xuống dốc. Số người được bảo hiểm càng nhiều, rủi ro càng được chia sẻ, phạm vi bảo hiểm càng rộng, chi phí càng thấp. Tuy nhiên, đôi khi, chúng ta không thể mua được bảo hiểm cho một vài rủi ro nhất định trên thị trường – thường vì các công ty thấy nó không đem lai lợi nhuận. Đôi khi bảo hiểm chúng ta mua được nhờ có việc làm vẫn chưa đủ, và chúng ta lại không có khả năng bỏ tiền ra mua thêm. Đôi khi một bi kịch bất ngờ xảy ra và chúng ta nhận thấy mình không có đủ bảo hiểm. Với tất cả những lý do đó, chúng ta cần chính phủ tham gia vào và thiết lập một quỹ bảo hiểm cho chúng ta, một quỹ bảo hiểm có sự tham gia của mọi người Mỹ.

Giờ đây thỏa ước xã hội mà Roosevelt đã dựng nên bắt đầu sụp đổ. Trước sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ nước ngoài và sức ép trên thị trường chứng khoán đòi hỏi lợi nhuận phải tăng đột biến hàng quý, người sử dụng lao động phải áp dụng tự động hóa, giảm quy mô và chuyển sang sản xuất ở nước ngoài, và những hành vi này khiến cho công nhân ngày càng dễ mất việc và ngày càng yếu thế khi muốn đòi mức lương và phúc lợi cao hơn. Mặc dù chính phủ liên bang đã có những chính sách hỗ trợ thuế rất rộng rãi cho những công ty có bảo hiểm y tế cho công nhân, nhưng các công ty vẫn đẩy khoản chi phí luôn tăng với tốc độ tên lửa này sang cho công nhân chịu, dưới dạng phí bảo hiểm cao hơn, chia sẻ số tiền phải trả với họ hoặc khấu trừ vào lương: trong khi đó một nửa các công ty quy mô nhỏ, nơi hàng triệu người Mỹ đang làm việc lại không thể cung cấp bất cứ một loại bảo hiểm nào cho nhân viên. Tương tự, các công ty cũng áp dụng biện pháp chuyển từ chính sách bảo hiểm hưu trí cổ điển sang 401(k), và đôi khi họ còn nhờ đến tòa phá sản để trốn tránh nghĩa vụ trả lương hưu cho nhân viên.

Tất cả những điều đó có tác động rất nghiêm trọng lên hộ gia đình.

Mức lương của một công nhân Mỹ trung bình gần như không được thay đổi theo lạm phát trong hai mươi năm qua. Từ năm 1988, chi phí bảo hiểm y tế cho một gia đình trung bình đã tăng lên bốn lần. Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân chưa bao giờ thấp như hiện tại. Và nợ cá nhân cũng cao chưa từng thấy.

Thay vì dùng chính phủ để giảm bớt tác động của xu hướng này, chính quyền Bush lại khuyến khích xu hướng đó phát triển. Đó chính là ý tưởng cơ bản của Xã hội Sở hữu: nếu giải phóng người sử dụng lao động khỏi mọi nghĩa vụ đối với công nhân và bỏ đi tất cả những gì còn sót lại của chính sách Kinh tế xã hội mới – các chính sách bảo hiểm xã hội của chính phủ – thì thị trường sẽ điều tiết phần còn lại. Nếu triết lý dẫn đường của hệ thống bảo hiểm xã hội cổ điển có thể mô tả bằng câu: “Tất cả cùng tham gia” thì triết lý của Xã hội Sở hữu có lẽ là: “Hãy tự lo lấy thân”.

Ý tưởng này thật hấp dẫn, rất thanh nhã bởi nó giản dị và giải phóng chúng ta khỏi mọi nghĩa vụ đối với người khác. Chỉ có một vấn đề duy nhất: là nó không thể xảy ra trong thực tế – ít nhất là đối với những người đang bị tụt hậu trong nền kinh tế toàn cầu.

Hãy xem chính phủ nỗ lực tư nhân hóa hệ thống Bảo hiểm xã hội. Chính phủ cho rằng thị trường chứng khoán có thể đem lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận cao hơn, và xét một cách toàn diện ít nhất họ cũng đúng; trong lịch sử thị trường đã làm tốt hơn bảo hiểm xã hội trong điều chỉnh chi phí sinh hoạt. Nhưng quyết định đầu tư của các cá nhân luôn dẫn đến có người thắng và có người thua – những người mua cổ phiếu của Microsoft từ sớm và những người mua cổ phiếu của Enron[160] quá muộn. Xã hội Sở hữu sẽ làm gì cho những người thất bại? Trừ khi chúng ta muốn thấy người già bị đói trên đường, còn không chúng ta phải chi trả lương hưu cho họ theo cách này hay cách khác – và vì chúng ta không thể biết trước ai sẽ đầu tư thất bại nên cách hợp lý là mọi người cùng bỏ tiền vào một quỹ chung để ít nhất bảo đảm được thu nhập như thời kỳ đỉnh cao. Điều này không có nghĩa là chúng ta không nên khuyến khích mọi người theo đuổi chiến lược đầu tư rủi ro cao hơn và lợi nhuận cao hơn. Mọi người nên làm như vậy. Nó chỉ có nghĩa là họ nên làm khi đã có khoản tiết kiệm khác ngoài khoản nộp vào Bảo hiểm xã hội.

Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng với nỗ lực của chính phủ để khuyến khích chuyển từ chính sách bảo hiểm y tế do người sử dụng lao động hoặc chính phủ cung cấp sang Quỹ tiết kiệm y tế cá nhân.

Phương thức bảo hiểm này sẽ hiệu quả nếu tổng số tiền mỗi người nhận được đủ để họ mua một hợp đồng bảo hiểm y tế đàng hoàng do người sử dụng lao động cung cấp và số tiền đó cũng được điều chỉnh theo tốc độ tăng của chi phí y tế theo lạm phát. Nhưng nếu nơi bạn làm việc không cung cấp bảo hiểm y tế thì sao? Hoặc nếu lý thuyết của chính phủ về lạm phát y tế sai thì sao – nếu rốt cuộc chi phí y tế lại không phụ thuộc vào thái độ của con người đối với sức khỏe của họ hoặc tham vọng phi lý là con người mua nhiều hơn mức họ muốn?

Khi đó “tự do lựa chọn” sẽ có nghĩa là người lao động phải tự chịu gánh nặng chi phí y tế tăng lên trong tương lai, và mỗi năm, số tiền họ có trong Quỹ tiết kiệm y tế cá nhân sẽ mua được ít hơn và chi trả được ít hơn.

Nói cách khác, Xã hội Sở hữu thậm chí còn không chia sẻ rủi ro và lợi ích của nền kinh tế mới cho tất cả mọi người. Thay vào đó, nó phóng đại những rủi ro và lợi ích của nền kinh tế kiểu người-thắng-được-tất-cả hiện tại. Nếu bạn khỏe mạnh, giàu có hoặc chỉ đơn giản là may mắn thì bạn sẽ càng khỏe mạnh, giàu có, may mắn hơn. Nếu bạn nghèo đói, ốm đau hoặc bị phá sản, bạn sẽ không tìm thấy ai để nhờ giúp đỡ. Đó không phải là công thức để tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì được một tầng lớp trung lưu vững mạnh. Đó rõ ràng cũng không phải công thức đem lại gắn kết xã hội. Nó đi ngược lại những giá trị cho rằng mọi người đều có lợi khi người khác thành công.

Đó không phải chúng ta, với tư cách là một dân tộc.

MAY MẮN LÀ có một cách làm khác, chính là làm mới lại thỏa ước xã hội của F.D. Roosevelt để đáp ứng được yêu cầu của thế kỷ mới. Trong mỗi lĩnh vực dễ ảnh hưởng đến công nhân như lương, thất nghiệp, hưu trí và chăm sóc y tế, luôn có những ý tưởng hay – có thể cũ, có thể mới – sẽ góp phần làm cho cuộc sống người Mỹ được an toàn hơn.

Hãy bắt đầu với vấn đề lương. Người Mỹ tin vào lao động – đó không chỉ là phương tiện kiếm sống mà còn đem lại cho họ mục đích sống, phương hướng, vị thế và phẩm giá. Chương trình phúc lợi trước đây, Hỗ trợ gia đình có con nhỏ, đã không thể đề cao được giá trị cốt lõi này, đó là lý do tại sao nó không phổ biến và lại bỏ qua những người cần được giúp đỡ nhất.

Mặt khác, người Mỹ cũng cho rằng nếu chúng ta làm việc toàn thời gian thì phải có đủ thu nhập nuôi bản thân và gia đình. Với rất nhiều người đang ở nấc thang thấp nhất của nền kinh tế – chủ yếu là các công nhân kỹ năng thấp trong ngành dịch vụ đang phát triển với tốc độ rất nhanh – thì nguyên tắc này chưa được đảm bảo thực hiện.

Chính phủ có thể có chính sách giúp đỡ những công nhân này mà không tác động gì nhiều đến hiệu quả thị trường. Đầu tiên, chúng ta có thể tăng lương tối thiểu. Các kinh tế gia có thể đúng khi cho rằng việc tăng đột ngột lương tối thiểu sẽ không khuyến khích người sử dụng lao động tuyển thêm công nhân. Nhưng nếu mức lương tối thiểu chưa hề thay đổi trong chín năm qua và sức mua của đồng dollar thực tế thấp hơn so với năm 1955 khiến cho ngày nay một số người làm việc toàn thời gian cũng không đủ để thoát nghèo thì lý luận này cũng không còn thuyết phục. Chương trình hoàn thuế thu nhập được Ronald Reagan áp dụng đem lại cho công nhân lương thấp thêm một khoản thu nhập[161] cần được mở rộng và cải thiện để có thêm nhiều gia đình được hưởng lợi từ chương trình đó.

Để giúp tất cả công nhân tự thích ứng được với nền kinh tế đang thay đổi với tốc độ rất nhanh, cũng đã đến lúc cập nhật lại hệ thống bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ thương mại[162]. Trong thực tế, có rất nhiều ý kiến hay về việc làm thế nào để hệ thống hỗ trợ thương mại hoàn chỉnh hơn. Chúng ta có thể mở rộng hỗ trợ này cho ngành dịch vụ, lập các quỹ đào tạo linh hoạt cho công nhân dành cho tái đào tạo, hoặc hỗ trợ chi phí đào tạo cho công nhân những ngành dễ thay đổi địa điểm sản xuất trước khi họ bị mất việc làm. Trong một nền kinh tế mà việc làm cũ đã mất thường có thu nhập cao hơn việc làm mới tìm được, chúng ta cũng có thể thử áp dụng bảo hiểm lương, qua đó hỗ trợ cho người lao động số tiền tương đương 50% mức chênh lệch giữa lương cũ và lương mới trong vòng từ một đến hai năm.

Cuối cùng, để giúp người lao động có mức lương cao hơn và phúc lợi tốt hơn, một lần nữa chúng ta phải xây dựng sân chơi bình đẳng cho công đoàn và người sử dụng lao động. Từ đầu thập kỷ 80, công đoàn đã dần mất đi sức mạnh, không chỉ vì kinh tế thay đổi mà còn vì luật lao động hiện tại – và Hội đồng quốc gia về Quan hệ lao động (NLRB) – gần như không bảo vệ công nhân. Mỗi năm có hơn hai mươi nghìn công nhân bị sa thải hoặc mất lương chỉ vì họ tổ chức hoặc gia nhập công đoàn. Cần thay đổi thực tế này. Chúng ta cần có chế tài mạnh hơn để người sử dụng lao động không thể sa thải hoặc phân biệt đối xử với những công nhân liên quan đến tổ chức công đoàn.

Người sử dụng lao động phải thừa nhận công đoàn nếu đa số người lao động ký vào giấy ủy quyền chọn công đoàn làm tổ chức đại diện cho họ. Và liên bang cần có hoạt động hòa giải để giúp người sử dụng lao động và công đoàn mới thành lập đạt được thỏa thuận chung sau một khoảng thời gian nhất định.

Các hội doanh nghiệp có thể cho rằng lực lượng lao động được tổ chức theo công đoàn nhiều hơn sẽ làm mất tính linh hoạt và cạnh tranh của kinh tế Mỹ. Nhưng chính vì môi trường toàn cầu càng cạnh tranh nên chúng ta có thể kỳ vọng công nhân trong công đoàn sẽ muốn hợp tác với người sử dụng lao động – chừng nào họ được hưởng một phần xứng đáng từ năng suất lao động cao.

Cũng như chính sách của chính phủ có thể tăng lương cho công nhân mà không làm tổn hại đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, chúng ta cũng có thể nâng cao mức sống của công nhân sau khi họ nghỉ hưu. Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc cam kết duy trì những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội và tăng khả năng thanh toán cho hệ thống này. Vấn đề tồn tại trong các quỹ tín thác bảo hiểm xã hội là có thật, nhưng có thể kiểm soát được. Năm 1983, khi đối mặt với khó khăn tương tự, Ronald Reagan và Chủ tịch Hạ viện Tip O’Neil đã ngồi lại với nhau và đưa ra một kế hoạch được cả hai đảng ủng hộ giúp ổn định hệ thống trong sáu mươi năm tiếp theo. Giờ đây, không có lý do gì chúng ta không làm được điều tương tự.

Đối với hệ thống hưu trí tư nhân, chúng ta cần biết rằng chương trình bảo hiểm hưu trí cổ điển đang suy giảm dần, nhưng vẫn phải nhấn mạnh rằng các công ty phải thực hiện mọi lời cam kết đang bỏ dở với công nhân và người về hưu. Có thể sửa đổi luật phá sản để những người nhận lương hưu được đưa lên đầu danh sách chủ nợ, qua đó các công ty không thể đệ trình kế hoạch tái cơ cấu theo Điều 11[163] để trốn tránh trách nhiệm trả lương hưu cho công nhân. Hơn nữa, luật mới cũng cần buộc các công ty phải tài trợ cho quỹ lương hưu, một phần là để những người đóng thuế không phải thanh toán hóa đơn này. Và nếu người Mỹ quyết định lựa chọn những chương trình như 401(k) kết hợp với bảo hiểm xã hội thì chính phủ cần có biện pháp đưa những chương trình này đến với tất cả mọi người và khuyến khích người dân tiết kiệm hơn. Cựu cố vấn kinh tế của Clinton là Gene Sperling đã đề xuất xây dựng hệ thống 401(k) thống nhất, trong đó chính phủ sẽ hỗ trợ mức đóng góp vào quỹ hưu trí mới cho các gia đình có thu nhập thấp và trung bình. Các chuyên gia khác gợi ý một bước đơn giản (và không mất tiền) trong đó người sử dụng lao động tự động đưa nhân viên tham gia vào chương trình 401(k) ở mức đóng góp cao nhất cho phép. Mọi người vẫn có thể chọn đóng góp ở mức thấp hơn hoặc không tham gia, nhưng thực tế cho thấy nếu thay đổi quy tắc mặc định thì tỷ lệ người lao động tham gia sẽ tăng rất nhanh. Là chương trình bổ sung cho các chương trình bảo hiểm xã hội, chúng ta nên chọn ra ý tưởng tốt nhất, dễ thực hiện nhất và bắt đầu hướng tới một hệ thống hưu trí mạnh hơn, đồng đều hơn, không chỉ khuyến khích tiết kiệm mà còn giúp mọi người Mỹ đều được hưởng phần lớn hơn trong trái ngọt mà toàn cầu hóa mang lại.

Một nhiệm vụ mang tính chất sống còn không khác gì vấn đề tăng lương và cải thiện bảo hiểm hưu trí cho người Mỹ và có lẽ có sức ép lớn nhất là thay đổi hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đã đổ vỡ của chúng ta. Không như bảo hiểm xã hội, hai quỹ bảo hiểm y tế của chính phủ – Quỹ Chăm sóc y tế và Quỹ Cứu trợ y tế – đều đã sụp đổ; nếu không thay đổi thì đến năm 2050, hai quỹ này cùng với bảo hiểm xã hội sẽ tiêu tốn một số tiền chiếm tỷ trọng trong nền kinh tế ngang với toàn bộ ngân sách liên bang hiện nay. Chính sách bảo hiểm theo đơn thuốc vô cùng tốn kém, phạm vi bảo hiểm hạn chế và không có biện pháp kiểm soát chi phí thuốc men chỉ làm tình hình xấu thêm. Còn hệ thống của tư nhân đang rơi vào tình trạng rất lộn xộn: các nhân viên làm việc không hiệu quả, giấy tờ nhiều bất tận, người bảo hiểm phải chịu gánh nặng quá tải và khách hàng thì không hài lòng.

Năm 1993, Tổng thống Clinton đã thử thiết lập một hệ thống bảo hiểm cho mọi rủi ro xảy ra trên toàn cầu, nhưng đã bị cản trở. Từ đó đến nay, những cuộc tranh luận đã rơi vào bế tắc. Một số người cánh hữu muốn có lực đẩy thị trường mạnh hơn thông qua quỹ Tiết kiệm y tế còn những người thuộc cánh tả lại bảo vệ kế hoạch bảo hiểm y tế một người trả tương tự với hệ thống ở châu Âu và Canada. Còn các chuyên gia thuộc đủ các nhóm chính trị khác nhau thì đề xuất một loạt các cải cách thực tế nhưng nhỏ lẻ.

Đã đến lúc chúng ta phá vỡ tình trạng bế tắc này, bằng cách chấp nhận một vài sự thực đơn giản.

Với số tiền mà chúng ta đang chi cho y tế (tính trên đầu người cao hơn tất cả các nước khác) thì chúng ta có thể chi trả cho những nhu cầu chăm sóc sức khỏe cơ bản của tất cả người dân Mỹ. Nhưng chúng ta không thể duy trì tốc độ tăng giá y tế hàng năm; chúng ta phải tính cả chi phí cho toàn bộ hệ thống, bao gồm Quỹ Chăm sóc y tế và Quỹ Cứu trợ y tế.

Người Mỹ đang thay đổi việc làm nhanh hơn, phải trải qua thời kỳ thất nghiệp thường xuyên hơn, và cũng làm việc bán thời gian hoặc tự kinh doanh nhiều hơn, do đó bảo hiểm y tế không thể cố định với người sử dụng lao động như trước. Nó cần linh hoạt, chuyển được từ nơi này sang nơi khác.

Thị trường không thể giải quyết được những khó khăn trong hệ thống y tế của chúng ta – một phần vì thị trường đã cho thấy nó không thể tạo ra một quỹ bảo hiểm đủ lớn để chi trả mọi chi phí cho các cá nhân, phần khác vì y tế không giống các sản phẩm hay dịch vụ thông thường (khi con bạn bị ốm, bạn không ra chợ để tìm mua dịch vụ y tế có giá hợp lý nhất).

Và cuối cùng dù thực hiện cải cách gì đi nữa thì cũng phải tạo động lực mạnh mẽ để cải thiện chất lượng, tăng tính phòng ngừa và đưa dịch vụ chăm sóc đến với nhiều người hơn.

Với những nguyên tắc này, tôi sẽ đưa ra đây ví dụ một kế hoạch y tế nghiêm túc là như thế nào. Trước hết phải có một tổ chức phi đảng phái như Học viện Dược phẩm quốc gia (IOM) để xác định một kế hoạch y tế cơ bản, chất lượng cao cần bao gồm những gì và chi phí khoảng bao nhiêu. Khi xây dựng kế hoạch mẫu này, IOM cũng xem xét hiện tại chương trình y tế nào có kết quả chăm sóc tốt nhất và hiệu quả nhất về chi phí. Đặc biệt, kế hoạch mẫu cần nhấn mạnh nội dung chăm sóc sức khỏe cơ bản, phòng ngừa, chăm sóc bệnh hiểm nghèo và theo dõi nhưng bệnh mãn tính như hen suyễn hoặc tiểu đường. Nhìn chung 20% bệnh nhân sẽ chiếm đến 80% yêu cầu chăm sóc y tế và nếu chúng ta có thể phòng bệnh hoặc kiểm soát ảnh hưởng của bệnh tật nhờ những biện pháp đơn giản như đảm bảo bệnh nhân tuân theo chế độ ăn kiêng và uống thuốc đều đặn, chúng ta có thể cải thiện đáng kể tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và tiết kiệm được rất nhiều tiền cho toàn bộ hệ thống.

Tiếp đó, chúng ta sẽ cho phép mọi người được mua loại bảo hiểm y tế mẫu này, qua quỹ bảo hiểm hiện có như các quỹ của nhân viên liên bang hoặc các quỹ mới được thành lập ở từng bang. Các công ty bảo hiểm tư nhân như Blue Cross, Blue Shield và Aetna sẽ phát cạnh tranh để cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho người tham gia, nhưng dù họ bán sản phẩm bảo hiểm gì đi nữa thì cũng phải đạt được tiêu chuẩn chất lượng cao và kiểm soát chi phí do IOM đặt ra.

Để giảm hơn nữa chi phí, chúng ta có thể yêu cầu những tổ chức bảo hiểm tham gia Quỹ Chăm sóc y tế, Quỹ Cứu trợ y tế, hoặc các chương trình bảo hiểm mới phải có hợp đồng điện tử, hồ sơ điện tử và hệ thống báo cáo lỗi về thông tin bệnh nhân được cập nhật. Điều đó sẽ làm giảm đáng kể chi phí hành chính, sai sót khám chữa bệnh và các hiện tượng bất lợi (qua đó làm giảm chi phí kiện tụng do sai sót). Chỉ một bước đơn giản này cũng làm giảm 10% chi phí y tế, một số chuyên gia cho rằng con số tiết kiệm được thậm chí còn lớn hơn thế.

Với số tiền tiết kiệm được thông qua tăng cường phòng bệnh và giảm chi phí quản lý và chi phí do sai sót, chúng ta có thể trợ cấp cho các gia đình có thu nhập thấp muốn mua chương trình bảo hiểm mẫu thông qua quỹ bảo hiểm ở bang của họ, và thực hiện ngay lập tức chính sách bắt buộc bảo hiểm cho tất cả các trẻ em chưa có bảo hiểm y tế. Nếu cần, chúng ta cũng có thể trợ giúp thêm cho hoạt động bao cấp này bằng cách cơ cấu lại hệ thống hỗ trợ thuế mà các công ty đang sử dụng phục vụ bảo hiểm y tế cho nhân viên: các công ty này có thể tiếp tục được ưu đãi đối với các chính sách bảo hiểm cho công nhân, nhưng chúng ta sẽ xem xét lại nhưng ưu đãi cho các chính sách bảo hiểm y tế quá đáng, chỉ mang tính hình thức chứ không đem lại thêm phúc lợi gì.

Điểm cơ bản của ví dụ này không phải là đưa ra một công thức dễ dàng cải thiện được hệ thống y tế của chúng ta – không hề có công thức đó. Trước khi tiến tới một kế hoạch kiểu như tôi vừa trình bày, chúng ta còn cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề chi tiết: cụ thể chúng ta phải đảm bảo việc xây dựng một quỹ bảo hiểm mới ở cấp bang mà không làm cho các công ty chấm dứt chương trình bảo hiểm hiện họ đang cung cấp cho nhân viên. Ngoài ra, còn có nhiều biện pháp khác có chi phí thấp hơn, thực hiện thuận lợi hơn có thể cải thiện được hệ thống y tế.

Điểm quan trọng là nếu chúng ta cam kết đảm bảo mọi người đều được hưởng chính sách chăm sóc sức khỏe tốt thì sẽ luôn có cách đạt được mục tiêu đó mà không ảnh hưởng đến ngân sách liên bang hay phải sử dụng chế độ chính phủ phân phối cho người dân.

Nếu chúng ta muốn người Mỹ chấp nhận sự khắc nghiệt của toàn cầu hóa thì chúng ta phải cam kết với họ chính sách y tế đó. Năm năm trước, có lần Michelle và tôi bị đánh thức giữa đêm vì tiếng khóc của Sasha, con gái bé của chúng tôi, từ phòng nó, Sasha lúc đó mới ba tháng tuổi, do đó con bé tỉnh giấc giữa đêm là một chuyện không có gì bất thường. Nhưng tiếng khóc của nó có vẻ gì đó là lạ và chúng tôi không sao dỗ con bé nín được, vì thế chúng tôi rất lo lắng. Cuối cùng chúng tôi gọi điện cho bác sỹ nhi và bác sỹ đồng ý sẽ khám tại phòng mạch ngay khi trời sáng. Sau khi khám, bác sỹ nói rằng có thể con bé bị viêm màng não và ngay lập tức đưa chúng tôi tới phòng cấp cứu.

Sasha đúng là đã bị viêm màng não, mặc dù là một dạng đáp ứng với kháng sinh truyền tĩnh mạch. Nếu không được cứu chữa kịp thời, con bé có thể sẽ bị điếc hoặc thậm chí mất đi mạng sống. Lúc đó, Michelle và tôi đã ở ba ngày trong bệnh viện bên cạnh con, nhìn các y tá nhấc nó lên khi các bác sĩ tiêm vào sống lưng, nghe nó khóc và cầu trời tình trạng của nó không xấu đi.

Hiện giờ Sasha đã ổn, vui vẻ và khỏe mạnh như mọi đứa trẻ năm tuổi khác Nhưng tôi vẫn rùng mình khi nghĩ về ba ngày đó; thế giới thu hẹp lại chỉ còn một điểm, tôi không quan tâm đến bất cứ cái gì hay ai khác bên ngoài bốn bức tường của phòng bệnh – dù đó là công việc, kế hoạch làm việc tương lai của tôi. Và tôi nhớ rằng không như Tim Wheeler, công nhân nhà máy thép mà tôi gặp ở Galesburg, người có con trai cần ghép gan, không như hàng triệu người khác phải trải qua thử thách tương tự, lúc đó tôi có việc làm, và được bảo hiểm.

Người Mỹ sẵn sàng cạnh tranh với thế giới. Chúng ta làm việc chăm chỉ hơn người dân mọi quốc gia phát triển khác. Chúng ta sẵn lòng chấp nhận bất ổn kinh tế hơn cũng như chấp nhận nhiều rủi ro cá nhân hơn để tiến lên phía trước. Nhưng chúng ta chỉ có thể cạnh tranh được nếu chính phủ có những đầu tư đem lại cho chúng ta cơ hội tranh đấu – và nếu chúng ta biết rằng gia đình chúng ta luôn có tấm lưới bảo hộ phía dưới.

Đó là một thỏa thuận với người dân Mỹ đáng để thực hiện.

ĐẦU TƯ TĂNG TÍNH cạnh tranh cho nước Mỹ và xây dựng thỏa ước xã hội mới – nếu đồng thời làm được cả hai việc này thì chúng ta sẽ nhìn thấy con đường đi tới tương lai tốt đẹp hơn cho con cháu chúng ta. Nhưng vẫn còn một miếng ghép cuối cùng trong bức tranh tổng thể, một câu hỏi luôn có mặt trong mọi cuộc tranh luận chính trị ở Washington.

Chúng ta lấy đâu ra tiền để làm việc đó?

Vào cuối nhiệm kỳ tổng thống của Bill Clinton, chúng ta đã có câu trả lời. Lần đầu tiên trong gần ba mươi năm, chúng ta có thặng dư ngân sách rất lớn và tỷ lệ nợ quốc gia giảm rất nhanh. Thực tế, Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Alan Greenspan[164] đã bày tỏ mối lo ngại rằng nợ được thanh toán quá nhanh, do đó hạn chế khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ của cơ quan này. Ngay sau khi quả bong bóng dotcom vỡ tung và nền kinh tế buộc phải chịu cú sốc 11/9, chúng ta đã có cơ hội chi trả cho tăng trưởng kinh tế bền vững và tạo ra nhiều cơ hội hơn cho mọi người Mỹ.

Nhưng chúng ta lại không làm như vậy. Thay vào đó, Tổng thống Bush bảo chúng ta rằng chúng ta có thể tham gia hai cuộc chiến tranh, tăng ngân sách quốc phòng lên 74%, bảo vệ tổ quốc, chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục, đưa ra bảo hiểm theo đơn thuốc cho người cao tuổi và đề xuất các vòng cắt giảm thuế diện rộng liên tục, tất cả diễn ra cùng một lúc. Các vị thủ lĩnh ở quốc hội nói với chúng ta rằng họ có thể bù đắp phần thu mất đi bằng cách cắt giảm sự lãng phí và gian lận trong chính phủ, ngay cả khi các con số dự án vì mục tiêu phiếu bầu đã tăng lên một con số đáng sợ là 64%.

Kết quả của một loạt những chính sách này là tình trạng ngân sách bấp bênh chưa từng thấy trong nhiều năm. Hiện tại thâm hụt ngân sách hàng năm là khoảng 300 tỷ dollar, đấy là chưa tính đến hơn 180 tỷ dollar chúng ta vay từ Quỹ Tín thác bảo hiểm xã hội mỗi năm, tất cả đều tính vào nợ quốc gia. Mức nợ này hiện tại vào khoảng 9 nghìn tỷ dollar, nghĩa là 30.000 dollar cho mỗi người đàn ông, phụ nữ và trẻ em trên cả nước.

Bản thân khoản nợ không phải vấn đề lớn nhất. Một số khoản nợ là hợp lý nếu chúng ta sử dụng tiền đó đầu tư vào những thứ làm tăng khả năng cạnh tranh cho đất nước – chỉnh đốn các trường học, tăng khả năng tiếp cận mạng băng thông rộng hay lắp đặt đường ống nhiên liệu ethanol E85 ở các trạm xăng trên cả nước. Chúng ta cũng có thể sử dụng phần thặng dư để cải thiện bảo hiểm xã hội hoặc tái cơ cấu hệ thống y tế. Nhưng thay vào đó, phần lớn khoản nợ đều do chính sách cắt giảm thuế của Tổng thống gây ra, 47,4% trong số đó làm lợi cho 5% người ở nấc thang cao nhất trong khung thu nhập, 36,7% thuộc về 1% số người đứng đầu, và 15% là dành cho một phần mười của 1% số người đứng đầu đó, những người có thu nhập hàng năm ít nhất là 1,6 triệu dollar.

Nói cách khác, chúng ta đã sử dụng chiếc thẻ tín dụng quốc gia theo cách làm cho những người được hưởng lợi nhiều nhất từ toàn cầu hóa giờ đây còn được hưởng phần lớn hơn.

Cho đến hiện tại, chúng ta vẫn có thể tránh được khối nợ như trái núi này vì một số ngân hàng trung ương nước ngoài – đặc biệt là Trung Quốc – vẫn muốn chúng ta mua hàng xuất khẩu của họ. Nhưng việc cho nợ dễ dàng này sẽ không kéo dài mãi. Một lúc nào đó, người nước ngoài sẽ không cho chúng ta vay tiền nữa, lãi suất sẽ tăng, và chúng ta sẽ phải dành phần lớn sản lượng sản xuất ra cho việc trả nợ.

Nếu chúng ta thực sự muốn tránh được tương lai đó thì chúng ta phải bắt đầu tự cứu mình thoát khỏi cái hố này. Ít nhất là trên giấy chúng ta cũng biết được phải làm gì. Chúng ta có thể cắt bỏ và củng cố lại các chương trình không quan trọng. Chúng ta có thể kiềm chế chi tiêu y tế. Chúng ta có thể xoá bỏ chính sách nợ thuế vốn đã qua thời kỳ hữu ích và khắc phục nhưng khe hở cho phép các công ty bỏ ra nước ngoài và không đóng thuế. Và chúng ta có thể phục hồi lại hiệu lực của đạo luật đã từng được áp dụng thời Clinton – được gọi là Paygo – trong đó không cho phép lấy đi một khoản tiền nào của ngân sách liên bang, dù dưới hình thức chi mới hay giảm thuế, mà không đưa ra biện pháp đền bù.

Nếu chúng ta thực hiện tất cả những bước đi này, kết quả của tình trạng tài chính hiện tại vẫn sẽ còn khó khăn. Có thể chúng ta phải trì hoãn một số hoạt động đầu tư mà ta biết chắc sẽ cải thiên vị thế cạnh tranh trên thế giới, và chúng ta phải ưu tiên cho những hỗ trợ đối với các gia đình đang gặp khó khăn.

Nhưng ngay cả khi chúng ta đã quyết định giữa các lựa chọn khó khăn đó, chúng ta vẫn phải cân nhắc bài học rút ra từ sáu năm qua và tự vấn liệu ngân sách và chính sách thuế đã thực sự phản ánh những giá trị mà chúng ta lưu truyền hay chưa.

“NẾU CÓ MỘT CUỘC chiến tranh giai cấp ở Mỹ thì giai cấp của tôi đang là phe chiến thắng”. Hôm đó, tôi ngồi ở văn phòng của Warren Buffett, chủ tịch Berkshire Hathaway và là người giàu thứ hai thế giới. Tôi đã nghe nói về sự giản dị nổi tiếng của Buffett – ông vẫn sống trong căn nhà vừa phải ông mua từ năm 1967 và vẫn cho con cái học ở trường công Omaha.

Nhưng tôi vẫn hơi ngạc nhiên khi đến một khu văn phòng rất bình thường ở Omaha, bước vào một nơi giống như phòng làm việc của một viên đại lý bảo hiểm vậy – những tấm ốp tường giả gỗ, một vài bức tranh trang trí treo trên tường, và không có ai xung quanh. “Mời ông vào đây”, một giọng nữ vang lên, và tôi rẽ vào góc, nhìn thấy chính “Nhà tiên tri xứ Omaha”[165] đang thủ thỉ gì đó với con gái ông, Susie và nữ trợ lý, Debbie, bộ com lê của ông hơi nhàu, còn cặp lông mày rậm thì hơi cao so với cặp kính.

Buffett mời tôi tới Omaha để thảo luận chính sách thuế. Cụ thể hơn, ông muốn biết tại sao Washington vẫn tiếp tục giảm thuế cho những người giàu như ông trong khi đất nước đang nợ chồng chất.

“Hôm trước tôi đã làm thử vài phép tính”, ông nói khi chúng tôi ngồi trong phòng làm việc của ông. “Mặc dù tôi chưa bao giờ sử dụng các biện pháp tránh thuế hay có nhân viên tư vấn giảm thuế, và sau khi tính toán bảng lương thuế phải trả thì thuế suất của tôi năm nay còn thấp hơn cả thuế suất của cô lễ tân ở công ty tôi. Thực tế, tôi dám chắc là thuế suất của tôi thấp hơn mức thuế suất của một người Mỹ trung bình. Nếu Tổng thống còn tiếp tục chính sách này thì số thuế tôi phải nộp sẽ còn giảm nữa”.

Thuế suất thấp của Buffett là hậu quả của thực tế rằng, như đa phần những người giàu khác, phần lớn nguồn thu nhập của ông là từ cổ tức và giá trị vốn tăng lên, thu nhập từ đầu tư chỉ bị đánh thuế ở mức 15% từ năm 2003. Còn lương của cô lễ tân thì phải chịu thuế suất gấp đôi nếu tính cả thuế thu nhập liên bang[166]. Theo quan điểm của Buffett thì sự chênh lệch này cực kỳ vô lý.

“Thị trường tự do là cơ chế tốt nhất từng tồn tại để phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả và đạt năng suất cao nhất”, ông nói. “Chính phủ không thể làm tốt việc này. Nhưng thị trường thì lại không thể đảm bảo của cải được phân chia một cách công bằng hay hợp lý. Một phần trong số của cải đó phải được đầu tư lại vào giáo dục để thế hệ tiếp theo có cơ hội công bằng, và còn phải bảo trì cơ sở hạ tầng, cung cấp biện pháp bảo vệ dưới hình thức nào đó cho những người gặp thất bại trong nền kinh tế thị trường. Và hiển nhiên là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ thị trường nên đóng góp phần lớn hơn”.

Cả giờ đồng hồ tiếp theo chúng tôi nói về toàn cầu hóa, thu nhập của giám đốc cao cấp, thâm hụt thương mại ngày càng tăng và nợ quốc gia. Buffett đặc biệt băn khoăn về đề xuất bỏ thuế thừa kế bất động sản của Bush, một bước mà ông tin là chỉ có lợi cho tầng lớp quý tộc giàu có hơn là những người xứng đáng được hưởng.

“Khi anh bỏ đi thuế thừa kế bất động sản”, ông nói, “về cơ bản anh đang trao quyền làm chủ nguồn tài nguyên của đất nước cho những người không hề làm ra nó. Giống như ta lập đội tuyển tham dự Olympic 2020 bằng cách chọn con cái của những người đoạt huy chương Olympic 2000 vậy”.

Trước khi về, tôi hỏi Buffett liệu có bao nhiêu người bạn tỷ phú của ông đồng quan điểm với ông. Ông cười to.

“Phải nói với anh là không nhiều đâu”, ông trả lời. “Họ nghĩ là đó là tiền của họ” và họ có quyền giữ từng xu. Họ không đếm xỉa đến tất cả những gì xã hội đã đầu tư để tạo điều kiên cho chúng ta được sống như bây giờ. Lấy tôi làm ví dụ nhé. Tôi may là có tài sử dụng vốn. Nhưng việc tôi có sử dụng dược cái tài đó hay không hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội tôi sống. Nếu tôi sinh ra ở bộ lạc chuyên săn bắt thì tài của tôi hoàn toàn chả có giá trị gì. Tôi không chạy nhanh, tôi không đặc biệt khỏe. Có khi tôi đã trở thành bữa tối của một con thú nào đó ấy chứ”.

“Nhưng may sao tôi lại sinh ra ở thời điểm và ở nơi mà xã hội đánh giá cao tài năng của tôi, cho tôi cơ hội học hành để phát triển nó, đề ra những điều luật và dựng nên hệ thống tài chính cho phép tôi làm những việc tôi yêu thích – và kiếm được nhiều tiền từ đó. Thì ít nhất cái tôi có thể làm được là góp phần chi trả cho tất cả những thứ ấy chứ”.

Có lẽ vài người khá ngạc nhiên khi nghe một nhà tài phiệt lớn nhất thế giới nói những lời như vậy, nhưng quan điểm của Buffett không hẳn là dấu hiệu của từ tâm. Thực ra, những lời này cho thấy ông hiểu rằng cách thức phản ứng với toàn cầu hóa không chỉ là tìm ra chính sách đúng đắn. Đó còn là thay đổi về tinh thần, là thái độ sẵn sàng đặt lợi ích chung và lợi ích của các thế hệ tương lai lên trên lợi ích cá nhân trong ngắn hạn.

Cụ thể hơn, chúng ta phải chấm dứt thái độ giả bộ như mọi sự cắt giảm chi tiêu đều có vai trò như nhau, cũng như mọi sự tăng thuế đều có tính chất ngang hàng. Chấm dứt các chính sách trợ cấp doanh nghiệp không vì một mục tiêu kinh tế rõ ràng nào là một chuyện, cắt giảm phúc lợi y tế dành cho trẻ em nghèo lại là một chuyện hoàn toàn khác Vào thời kỳ mà một gia đình bình thường cảm thấy gặp khó khăn từ mọi phía thì mong muốn phải đóng thuế ở mức thấp nhất có thể là hoàn toàn đúng và đáng trân trọng. Điều không đáng trân trọng bằng chính là việc những người giàu và có quyền lực lại sẵn lòng lợi dụng quan điểm chống tăng thuế cho mục tiêu cá nhân của riêng họ, là cách thức tổng thống, Quốc hội, những người vận động hành lang và các nhà bình luận bảo thủ đã đưa vào đầu các cử tri ý tưởng là gánh nặng thuế thuộc về giai cấp trung lưu, còn phần chi cho người giàu là hoàn toàn kiểm soát được.

Sự hiểu lầm này thể hiện rõ nhất trong những tranh cãi xung quanh đề xuất bãi bỏ thuế thừa kế bất động sản. Với thuế này hiện tại, một người chồng và vợ anh ta có thể để lại 4 triệu dollar mà không cần đóng thuế thừa kế bất động sản; và đến năm 2009, theo luật hiện hành, con số này sẽ tăng lên 7 triệu dollar. Do đó, thuế này chỉ ảnh hưởng đến một nửa của 1% dân số hiện tại và một phần ba của 1% dân số năm 2009. Xóa bỏ hoàn toàn thuế thừa kế bất động sản sẽ làm ngân sách Mỹ mất đi khoảng một nghìn tỷ dollar, do đó thật khó mà tìm được chính sách cắt giảm thuế nào lại ít đáp ứng được mong muốn của đa phần người dân bình thường hơn, đồng thời ít đem lại lợi ích trong dài hạn hơn cho đất nước hơn chính sách này.

Tuy nhiên, sau một vài hành động quảng cáo khôn khéo của Tổng thống và đồng minh thì 70% người dân đã phản đối “thuế thừa kế”.

Nhiều nhóm nông dân đến văn phòng của tôi, khẳng định rằng thuế thừa kế bất động sản sẽ kết liễu trang trại gia đình cho dù Hội Nông dân[167] không thể chỉ ra bất cứ một trang trại nào trên cả nước bị biến mất do hậu quả của “thuế thừa kế”. Các tổng giám đốc điều hành giải thích với tôi rằng Warren Buffett dễ dàng ủng hộ thuế thừa kế bất động sản – vì ngay cả khi phải chịu thuế suất 90% thì ông ta vẫn còn vài tỷ dollar để lại cho con cháu – nhưng thuế này hoàn toàn không công bằng đối với những người có bất động sản trị giá “chỉ” 10 hay 15 triệu dollar.

Do đó cần phải làm rõ ở đây. Người giàu ở Mỹ gần như không có gì phải phàn nàn. Từ năm 1971 đến năm 2001, trong khi mức lương trung bình và thu nhập từ lương của một công nhân bình thường không hề tăng thì thu nhập của nhóm 1% người giàu nhất trong 1% những người giàu nhất nước đã tăng lên 500%. Phân phối tài sản còn bị thiên lệch hơn, và chênh lệch giàu nghèo hiện ở mức cao hơn bao giờ hết kể từ Thời Vàng son[168]. Xu hướng này tiếp tục diễn ra suốt thập niên 90. Chính sách thuế của Clinton chỉ làm chậm nó đi chút ít. Rồi chính sách cắt giảm thuế của Bush lại làm tình hình tồi tệ hơn.

Tôi nói ra điều này không phải nhằm mục đích – như các đảng viên Cộng hòa thường làm – là khuấy động sự ganh ghét giai cấp. Tôi ngưỡng mộ những người Mỹ giàu có và hoàn toàn không ghen tị gì với thành công của họ. Tôi biết rằng nhiều người, nếu không phải đa số trong đó đạt dược thành tựu như vậy nhờ họ đã làm việc chăm chỉ, tạo ra hoạt động kinh doanh, việc làm và giá trị cho khách hàng của họ. Tôi có niềm tin đơn giản rằng trong chúng ta, những ai được hưởng lợi nhiều nhất từ nền kinh tế mới hiện tại thì cũng có khả năng gánh vác trách nhiệm đảm bảo cho mọi trẻ em Mỹ đều có cơ hội đạt được thành công tương tự. Và có lẽ tôi có cái tính đa cảm nhất định của người vùng Trung Tây được thừa hưởng từ mẹ và ông bà ngoại. Tính cách đó có lẽ tương đồng với Warren Buffett: rằng một lúc nào đó khi một người đã kiếm được đủ, tức là người đó có thể thấy một bức tranh của Picasso treo ở viện bảo tàng cũng đem lại niềm vui không kém gì bức tranh treo trong phòng riêng. có thể cảm thấy cực kỳ ngon miệng với bữa “dưa cà” có giá dưới hai mươi dollar ở nhà hàng (sau những bữa tiệc thường xuyên), và tấm ra (ga) trải giường của người đó còn đắt tiền hơn thu nhập hàng năm của một người Mỹ trung bình, thì người đó có thể nộp thuế nhiều thêm một chút.

Không gì khác, chính suy nghĩ rằng bất kể chênh lệch giàu nghèo, chúng ta luôn cùng phát triển hoặc cùng suy vong làm chúng ta không thể thất bại. Khi thay đổi diễn ra ngày càng nhanh, với một số người giàu lên và rất nhiều người khác nghèo đi, thì càng khó giữ được tinh thần chung đó. Jerferson không hoàn toàn sai khi lo ngại về tầm nhìn quốc gia của Hamilton, vì chúng ta luôn phải hành động cân bằng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa thị trường và nền dân chủ, giữa tập trung của cải và quyền lực và việc mở ra cơ hội. Tôi nghĩ ở Washington chúng ta đã đánh mất sự cân bằng đó. Khi tất cả chúng ta tranh cướp để quyên tiền cho các chiến dịch tranh cử, khi công đoàn bị yếu thế, báo chí mất phương hướng còn các nhà vận động hành lang cho những kẻ quyền lực đẩy mạnh ưu thế tuyệt đối của họ thì không còn mấy tiếng nói nhắc chúng ta là ai, từ đâu đến và khẳng định chúng ta phụ thuộc lẫn nhau.

Đó là ý nghĩa ngầm của cuộc tranh luận đầu năm 2006 khi một vụ bê bối về hối lộ nổ ra, là điểm khởi đầu dẫn tới những nỗ lực hạn chế ảnh hưởng của các nhà vận động hành lang ở Washington. Một trong những đề xuất đem lại kết quả là cho phép các thượng nghị sỹ sử dụng máy bay tư nhân với chi phí tương đương vé hạng thương gia của các hãng hàng không thương mại. Điều khoản này không có nhiều cơ hội được thông qua. Nhưng nhân viên của tôi vẫn gợi ý rằng là phát ngôn viên được chỉ định của đảng Dân chủ về các vấn đề cải cách đạo đức, tôi không nên cho phép mình sử dụng quyền đó.

Đó là một hành động đúng, nhưng tôi sẽ không nói dối; lần đầu tiên tôi định đi công tác đến bốn thành phố trong hai ngày bằng máy bay thương mại thông thường, tôi cảm thấy có chút ân hận. Giao thông trên đường tới sân bay quốc tế O’Hare của Chicago thật kinh khủng. Khi tôi đến nơi thì chuyến bay đến Memphis, bang Tennessee bị hoãn. Và một đứa bé đánh đổ nước cam lên giày tôi.

Sau đó, khi tôi đang đứng xếp hàng, một người đàn ông tiến đến gần, anh ta trạc 35 tuổi, mặc quần vải chino và áo phông có cổ. Anh ta nói với tôi là anh hy vọng năm nay Quốc hội sẽ làm gì đó ủng hộ nghiên cứu tế bào gốc. Tôi đang ở giai đoạn đầu bệnh Parkinson, anh kể, và con trai tôi mới ba tuổi. Có thể tôi không bao giờ chơi được trò đuổi bắt với con. Tôi biết có thể với tôi là quá muộn, nhưng không có lý do gì một ai đó khác cũng phải trải qua những tình cảnh giống như tôi.

Ngay lúc ấy, tôi nghĩ, nếu đi máy bay tư nhân mình sẽ bỏ lỡ những câu chuyện này.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.