Âm Thanh Và Cuồng Nộ

CHƯƠNG 11



Họ nghe tiếng Dilsey lên tới đầu cầu thang, rồi tiếng chân bà chậm chạp lết phía trên đầu.
“Quentin” bà nói. Bà vừa cất tiếng gọi Jason liền bỏ dao nĩa xuống và hai mẹ con ngồi hai bên bàn dường như chờ nhau với điệu bộ y hệt, kẻ thì lạnh lùng tinh quái, với mái tóc nâu gợn sóng chải xuống thành hai cái móc bướng bỉnh ở hai bên trán như một anh bồi quầy rượu, với đôi mắt màu hạt dẻ và hai con người đen láy tròn xoe như hai hòn bi, người thì rầu rĩ than thở, với mái tóc bạc trắng và đôi mắt có quầng sưng húp và chảy xệ và tối đen đến mức tưởng như chỉ toàn tròng đen hay chỉ có con ngươi.
“Quentin” Dilsey nói “Dậy đi cưng. Mọi người chờ cưng xuống ăn sáng kìa”.
“Mẹ không hiểu làm sao cánh cửa sổ ấy gãy được” bà Compson nói. “Con có chắc là nó gãy hôm qua không? Trời nóng thế này, có khi nó gãy từ lâu rồi. Nhất là cái cánh cửa góc trên, sau tấm rèm ấy”.
“Tôi nhắc lại với mẹ lần cuối cùng rằng nó gãy hôm qua” Jason nói. “Phòng tôi ở sao tôi lại không biết? cửa sổ gãy thủng một lỗ bằng bàn tay chẳng lẽ ở cả tuần mới biết” giọng hắn bỗng khựng lại, im bặt, hắn chằm chằm nhìn bà mẹ một lúc với đôi mắt hoàn toàn trống rỗng. Đôi mắt hắn như thể đang nén giữ hơi thở của cả hai trong khi mẹ hắn nhìn lại hắn vẻ yếu đuối và phiền muộn, sâu thẳm, thấu suốt nhưng đờ đẫn. Giữa lúc họ ngồi như thế Dilsey lại lên tiếng:
“Quentin, đừng đùa nữa cưng. Xuống ăn sáng đi. Cả nhà đợi cưng kìa”.
“Mẹ không hiểu” bà Compson nói. “Cứ cho là có người cạy cửa vào nhà” Jason nhảy chồm dậy. Chiếc ghế bật ngửa kêu răng rắc. “Cái gì?” bà Compson nói, trố mắt nhìn hắn chạy ngang qua bà và nhảy lên cầu thang, nơi hắn đụng phải Dilsey. Mặt hắn bị khuất trong bóng tối. Và Dilsey nói:
“Nó dỗi. Má cậu chưa mở khoá”. Nhưng Jason chạy qua bà dọc theo hành lang đến một cái cửa. Hắn không gọi. Hắn nắm quả đấm và cố vặn, rồi hắn đứng giữ quả đấm trong tay và đầu hơi cúi, như thể hắn đang lắng nghe một cái gì mơ hồ ở đâu đó bên kia căn phòng sau cánh cửa, cái mà hắn đã từng nghe. Dáng điệu của hắn là dáng điệu của kẻ làm ra vẻ lắng nghe để tự lừa mình rằng mình đã nghe lầm. Sau lưng hắn, bà Compson đang lên thang, miệng gọi tên hắn. Rồi bà thấy Dilsey và thôi không gọi hắn nữa mà quay sang gọi Dilsey.
“Tôi đã bảo cậu là bà chưa mở khoá kia mà” Dilsey nói.
Trong khi đó thì hắn quay lại chạy đến chỗ bà, nhưng giọng hắn đã thực sự trầm tĩnh trở lại. “Bà ấy cầm chìa khoá theo?” hắn nói. “Bây giỜ bà ấy vẫn giữ chìa khoá, tôi muốn nói, hay là bà ấy sẽ”.
“Dilsey” bà Compson đứng ở cầu thang nói.
“Cái gì thế?” Dilsey nói. “Sao cậu không để”
“Chìa khoá” Jason nói “của cái phòng đó. Bà ấy lúc nào cũng đem theo chìa khoá chứ? Mẹ à” rồi hắn thấy bà Compson và hắn chạy xuống thang đến chỗ bà. “Đưa chìa khoá cho tôi” hắn nói. Hắn nhào tới túm lấy túi áo của chiếc áo dài đen bạc thếch bà đang mặc. Bà giằng lại.
“Jason” bà nói “Jason! Con với Dilsey lại định bắt mẹ nằm liệt giường nữa à?” bà nói, cố gạt hắn ra. “Ngày chủ nhật, mẹ cũng không được yên à?”
“Chìa khoá” Jason nói, túm lấy bà. “Đưa chìa khoá đây!” hắn quay lại nhìn cánh cửa, như thể hắn mong nó bật tung ra trước khi hắn trở lại với chiếc chìa khoá mà hắn chưa có.
“Dilsey!” bà Compson nói, quấn chặt áo quanh người.
“Đưa chìa khóa đây, bà già lẩn thẩn!” Jason bỗng hét lên. Hắn lôi từ trong túi bà ra một chùm chìa khoá to tướng đã gỉ sét móc vào một cái vòng sắt như một cái xiềng thời trung cổ và chạy lên hành lang với hai người đàn bà theo sau.
“Con, Jason!” bà Compson nói. “Nó làm sao tìm được đúng chìa khoá đó” bà nói. “Chị biết tôi có bao giờ cho ai đụng vào chìa khoá của tôi đâu, Dilsey” bà nói. Bà bắt đầu rên rỉ.
“Nín đi” Dilsey nói. “Cậu ấy không làm gì được nó đâu. Tôi không để cậu ấy như thế đâu”.
“Nhưng lại đúng vào sáng chủ nhật, ngay trong nhà tôi” bà Compson nói “trong khi tôi đã cố hết sức để nuôi dạy chúng thành những con chiên của Chúa. Jason, để mẹ tìm chìa khoá cho” bà nói. Bà đặt tay lên cánh tay hắn. Rồi bà giằng co với hắn, nhưng hắn xô bà văng ra bằng khuỷu tay và quay nhìn bà một lúc, đôi mắt lạnh lùng và bực bội, rồi hắn quay lại với cánh cửa và chùm chìa khoá rắc rối.
“Nín đi nào” Dilsey nói. “Cậu Jason!”
“Chắc đã xảy ra chuyện gì kinh khủng lắm” bà Compson rên rĩ “Tôi biết thế mà, Jason à” bà nói và lại nắm lấy tay hắn. “Một căn phòng trong nhà tôi mà nó cũng không để tôi tìm chìa khoá!”
“Thôi nào, thôi nào” Dilsey nói “Có chuyện gì đâu? Tôi ở đây rồi. Tôi không để cậu ấy làm gì nó đâu, Quentin” bà cao giọng “Đừng sợ cưng. Có tôi đây”.
Cửa mở tung. Hắn đứng chặn giữa cửa một lúc, che khuất căn phòng rồi bước sang bên cạnh. “Vào đi!” hắn nói, giọng nhỏ và khản đặc. Họ bước vào. Đó không phải là phòng một cô gái. Cũng không phải là phòng của bất cứ ai, mùi son phấn rẻ tiền thoang thoảng và vài vật dụng đàn bà cùng một vài bằng chứng khác của sự cố gắng sống sượng và vô vọng để phụ nữ hoá căn phòng chỉ khiến nó càng trở nên vô danh, mang lại vẻ tạm bợ vô hồn và rập khuôn của các căn phòng trọ. Giường nệm vẫn chưa ai đụng đến. Một chiếc váy lót bằng lụa rẻ tiền màu hồng đậm lay lắt trên sàn, một chiếc tất lơ lửng buông thõng từ mép một ngăn kéo rút ra nửa chừng. Cửa sổ mở toang. Một cây lê mọc ngay đó, sát vào tường nhà. Cây đang độ nở hoa và cành lá cọ vào tường ràn rạt, gió ào ào tràn qua cửa sổ mang vào phòng mùi hương bị bỏ rơi của hoa lê.
“Thế nào?” Dilsey nói. “Tôi đã bảo nó không sao mà”.
“Không sao à?” bà Compson nói. Dilsey theo bà vào phòng và khẽ chạm tay vào người bà.
“Bây giờ cô về nằm nghỉ đi” bà nói. “Mười phút nữa tôi sẽ tìm ra nó”.
Bà Compson hất tay bà ra. “Tìm bức thư” bà nói. “Hồi trước khi thằng Quentin đi nó cũng viết thư để lại”.
“Được rồi” Dilsey nói. “Tôi sẽ tìm. Cô về phòng đi!”
“Tôi biết chuyện này sẽ xảy ra ngay từ khi người ta đặt tên cho nó là Quentin” bà Compson nói. Bà đi tới bàn học và bắt đầu lục lọi những đồ dùng bừa bộn – mấy lọ nước hoa, một hộp phấn, một chiếc bút bị gặm đầu, cây kéo gãy một lưỡi nằm trên một chiếc khăn quàng đan dính đầy phấn và loang lổ vết son. “Tìm tờ giấy” bà nói.
“Tôi sẽ tìm” Dilsey nói. “cô đi đi. Tôi và Jason sẽ tìm. Cô về phòng đi!”
“Jason” bà Compson nói. “Jason đâu rồi?” bà đi ra cửa. Dilsey đi theo. Bà ra ngoài hành lang, đến một cánh cửa khác. Cửa đóng chặt. “Jason” bà gọi qua cửa. Không có tiếng trả lời. Bà vặn thử quả đấm cửa, rồi lại gọi. Vẫn không có tiếng trả lời, vì hắn đang lúi húi hất tung đồ đạc trong tủ ra sau lưng: quần áo, giày dép, cả một chiếc vali. Rồi hắn chui ra mang theo một đoạn ván có mộng đã bị cưa và đặt nó xuống rồi lại chui vào tủ và bê ra một cái hộp sắt. Hắn đặt cái hộp trên giường sững sờ nhìn ổ khoá gãy, hắn móc chùm chìa khoá trong túi ra và chọn một cái chìa, và hắn lại sững một lúc lâu nữa nhìn chằm hcằm vào ổ khoá gãy, tay cầm chìa khoá, rồi hắn bỏ chùm chìa khóa vào túi và cẩn thận nghiêng hộp đổ ra tất cả những gì bên trong lên giường. Vẫn cẩn thận như thế hắn phân loại giấy tờ, nhấc từng tờ một lên và rũ rũ. Đoạn hắn dốc ngược cái hộp và lắc thật kỹ rồi chậm chạp xếp lại giấy tờ và lại đứng nhìn ổ khoá gãy, với cái hộp cầm trong tay và đầu cúi gục. Ngoài cửa sổ hắn nghe tiếng mấy con chim giẻ bay tới rít lên khàn khàn, rồi bay đi, tiếng kêu xé gió, một chiếc xe chạy qua đâu đó và bặt dần. Mẹ hắn gọi tên hắn bên ngoài cửa, nhưng hắn không nhúc nhích. Hắn nghe tiếng Dilsey dìu bà đi dọc hành lang và rồi một cánh cửa khép lại. Hắn để chiếc hộp vào tủ như cũ, quăng quần áo vào rồi xuống thang tới máy điện thoại. Trong khi hắn đứng đấy, ống nghe áp tai và chờ đợi, Dilsey xuống thang. Bà nhìn hắn không dừng chân và đi tiếp.
Đường dây được nối. “Jason Compson đây” hắn nói, giọng hắn gay gắt và khản đặc đến nỗi tự hắn phải lặp lại “Jason Compson” hắn nói, cố nén giọng. “Chuẩn bị sẵn một chiếc xe, với một viên cảnh sát trong mười phút nữa, nếu ông không đi được. Tôi sẽ đến đó – Cái gì? – Ăn trộm. Trong nhà tôi. Tôi biết đó là ai – Tôi bảo là ăn trộm. Chuẩn bị một chiếc xe. Cái gì? Ông không phải ăn lương để thi hành luật pháp à? – phải, năm phút nữa tôi sẽ ở đó. Chuẩn bị xe để đi ngay tức khắc. Nếu không tôi sẽ trình lên ông thống đốc”.
Hắn đặt ống nghe xuống và đi qua phòng ăn, nơi bữa sáng hiếm khi bị bỏ đang nguội lạnh trên bàn, và vào bếp. Dilsey đang đổ đầy bình nước nóng. Ben ngồi yên lặng và trống rỗng. Bên cạnh, Luster như một con chó nhỏ, tỉnh táo canh gác. Nó đang ăn cái gì đó. Jason đi qua bếp.
“Cậu không ăn sáng à?” Dilsey nói. Hắn không buồn để ý đến bà. “Jason, ăn sáng đi đã”. Hắn đi tiếp. Cánh cửa ngoài đóng sầm lại sau lưng hắn. Luster đứng dậy đi ra cửa sổ nhìn.
“Chà” nó nói “Trên ấy có chuyện gì thế? Cậu ấy lại đánh cô Quentin phải không?”
“Mày câm mồm đi” Dilsey nói. “Mày mà làm Benjy giở chứng thì tao đập vào đầu. Mày trông cho cậu ấy yên đến khi tao quay lại”. Bà văn nắp bình và đi ra. Chúng nghe tiếng chân bà lên cầu thang, rồi tiếng Jason chạy xe qua nhà. Rồi trong bếp không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng thầm thì nghèn nghẹt của ấm nước và chiếc đồng hồ.
“Cậu biết tôi cuộc điều gì không?” Luster nói. “Tôi cuộc là cậu ấy vừa đánh cô ấy. Tôi cuộc là cậu ấy đánh cô ấy vào đầu và bây giờ phải đi gọi bác sĩ. Tôi cuộc là thế đấy”. Chiếc đồng hồ kêu tích tắc, trịnh trọng và thâm trầm. Có lẽ đấy chính là nhịp đập khô khốc của ngôi nhà đang tàn tạ này, một lát sau nó kêu rè rè, hắng giọng và đánh sáu tiếng. Ben ngước nhìn lên, rồi nhìn bóng cái đầu hình viên đạn của Luster trên cửa sổ và hắn bắt đầu gục gặc đầu, miệng chảy dãi. Hắn khóc thút thít.
“Nín đi, ông khùng” Luster nói mà không quay lại. “Cứ thế này thì hôm nay mình chẳng được đi nhà thờ nào mất”. Ben ngồi ở ghế, hai bàn tay to lớn mềm oặt buông thõng giữa hai đầu gối, rên rỉ khe khẽ. Bỗng nhiên hắn oà khóc, một tiếng rống chậm rãi, vô nghĩa và kéo dài. “Câm ngay” Luster nói. Nó quay lại và đưa tay lên. “Cậu muốn ăn đòn hả?” nhưng Ben nhìn nó, mỗi lần thở ra lại rống lên chậm rãi. Luster đến gần và lay người hắn. “Có nín ngay không?” nó hét lên. “Lại đây” nó nói. Nó lôi Ben ra khỏi ghế và kéo ghế lại phía trước lò, mở cửa lò và đẩy Ben ngồi xuống ghế. Trông chúng như một chiếc tàu đẩy thúc mũi vào chiếc tàu chở dầu kềnh càng trong một bến cảng chật hẹp. Ben lại ngồi xuống trước bếp lò đỏ rực. Hắn nín. Rồi chúng lại nghe tiếng đồng hồ, và Dilsey chậm chạp xuống thang. Khi bà bước vào hắn lại bắt đầu khóc thút thít. Rồi hắn khóc lớn hơn.
“Mày lại làm gì cậu ấy thế?” Dilsey nói. “Sao cả buổi sáng nay mày không để cậu ấy yên được hả?”
“Con có làm gì cậu ấy đâu” Luster nói. “Cậu Jason làm cậu ấy sợ, có thế thôi. Cậu Jason không giết chết cô Quentin chứ?”
“Nín đi Benjy” Dilsey nói. Hắn nín. Bà đi đến cửa sổ và nhìn ra. “Mưa tạnh rồi à?” bà nói.
“Vâng” Luster nói. “Tạnh lâu rồi”.
“Vậy chúng mày ra ngoài chơi một lúc đi” bà nói. “Tao phải dỗ cô Cahline khỏi khóc”.
“Mình có đi nhà thờ không?” Luster nói.
“Khi nào đến giờ thì tao bảo. Mày giữ cậu ấy chơi ngoài kia đến khi tao gọi”.
“Con ra đồng cỏ được không?” Luster nói.
“Được. Miễn là mày giữ cậu ấy chơi ngoài đó. Tao hết chịu nổi rồi “.
“Vâng ạ” Luster nói. “Cậu Jason đi đâu thế hả mammy?”
“Chuyện của mày đấy à?” Dilsey nói. Bà bắt đầu dọn bàn. “Nín đi Benjy, Luster dẫn đi chơi bây giờ đấy”.
“Cậu ấy làm gì cô Quentin hả mammy?” Luster nói.
“Chẳng làm gì cả. Chúng mày có đi khỏi đây ngay không?”
“Con cuộc là cô ấy không có nhà” Luster nói.
Dilsey nhìn nó. “Sao mày biết cô ấy không ở nhà?”
“Con và Benjy nhìn thấy cô ấy leo ra cửa sổ đêm hôm qua. Đúng không Benjy?”
“Mày thấy à?” Dilsey nói, nhìn nó.
“Đêm nào con cũng thấy cô ấy làm thế” Luster nói “Trèo xuống chỗ cây lê ấy”.
“Thằng nhãi con, mày nói láo với tao hả?” Dilsey nói.
“Con không nói láo. Hỏi Benjy thì biết”.
“Thế sao mày không kể ra?”
“Đâu phải chuyện của con” Luster nói. “Con không muốn dính vào chuyện của dân trắng. Lại đây Benjy, mình đi chơi thôi”.
Chúng ra ngoài. Dilsey đứng cạnh bàn một lúc, rồi bà đi ra dọn dẹp đồ ăn còn trên bàn, và ăn sáng và dọn bếp. Đọan bà cởi tạp dề treo lên và đi đến chân cầu thang lắng nghe một lúc. Không một tiếng động. Bà mặc áo khoác, đội mũ và đi về lều.
Mưa đã tạnh. Gió thổi từ phía đông nam, xé toạc ra từng mảnh trời xanh trên đầu bà. Trên một đỉnh đồi đàng sau những rặng cây, mái nhà và tháp chuông của thị trấn, ánh nắng trải dài như một tấm vải nhợt nhạt, rồi bị xoá đi. Một tiếng chuông rung động trên không, rồi như theo một hiệu lệnh, các tiếng chuông khác hoà âm và lặp lại.
Cửa lều mở và Dilsey chui ra, lại mặc chiếc áo lụa tím và quàng khăn màu hạt dẻ, mang đôi găng trắng bẩn dài đến khuỷu tay, và lần này bà bỏ khăn trùm đầu. Bà đi ra sân và gọi Luster. Bà đợi một lúc, rồi đi lên nhà, vòng sang phía cửa hầm rượu, nép sát tường và nhìn vào cửa hầm. Ben ngồi ở bậc thềm. Trước mặt hắn Luster ngồi xổm trên nền đất ẩm. Nó giữ một cái cưa bằng tay trái, lưỡi cưa oằn cong do nó ấn mạnh tay và nó đang đập lưỡi cưa bằng cái vồ gỗ cũ mà bà đã dùng để dập bánh quy hơn ba mươi năm nay. Lưỡi cưa phát ra một tiếng tăng tăng uể oải đơn điệu, rồi tắt ngấm khô khan, chỉ còn lại một đường cong mỏng mảnh giữa tay Luster và mặt đất. Lưỡi cưa vẫn uốn cong bí hiểm.
“Anh ta làm như thế đấy” Luster nói. “Có điều tôi chưa tìm được đúng cái để đánh vào lưỡi cưa”.
“Thì ra mày chơi trò này?” Dilsey nói. “Đưa cái vồ cho tao” bà nói.
“Con có làm hỏng nó đâu?” Luster nói.
“Đưa đây” Dilsey nói. “Lấy cưa ở đâu thì cất vào đấy như cũ”.
Nó cất cái cưa đi và đưa cái vồ cho bà. Rồi Ben lại rền rĩ, dằng dặc và vô vọng. Chẳng là cái gì cả. Chỉ là một tiếng kêu. Có lẽ tất cả thời gian bất công và đau khổ cùng một lúc cất thành tiếng bởi sự giao hội của các vì tinh tú.
“Nghe cậu ấy kìa” Luster nói. “Cậu ấy cứ thế từ lúc mammy bảo ra ngoài chơi đến giờ. Chả hiểu sáng nay có cái gì nhập vào cậu ấy”.
“Dẫn cậu ấy lại đây” Dilsey nói.
“Lại đây, Benjy” Luster nói. Nó bước xuống mấy bậc thềm và nắm tay Ben. Ben ngoan ngoãn đi theo và rền rĩ, cái tiếng kêu chậm rãi khàn khàn như tiếng tàu thuỷ, dường như nó cất lên trước khi tiếng kêu bắt đầu, và tắt lặng trước khi tiếng kêu chấm dứt.
“Đi lấy mũ cho cậu ấy” Dilsey nói. “Đừng làm ồn kẻo cô Cahline nghe thấy. Nhanh chân lên. Mình đi muộn rồi đấy”.
“Bà ấy sẽ nghe thấy bây giờ, nếu mammy không dỗ cậu ấy nín ngay đi”.
“Mình cứ đi là cậu ấy nín” Dilsey nói “Cậu ấy đánh hơi thấy rồi. Đúng như thế”.
“Đánh hơi thấy cái gì hả mammy?” Luster nói.
“Mày đi lấy mũ đi”, Luster đi. Họ đứng ở cửa hầm rượu. Ben đứng dưới bà một bậc thềm. Trời vỡ ra thành từng mảng mây trôi dạt kéo nhanh những bóng râm ra khỏi khu vườn tiều tuỵ, qua hàng rào đổ nát và qua sân. Dilsey xoa đầu Ben, đều đều chậm chậm vuốt mớ tóc trước trán hắn. Ben khóc lặng lẽ và chậm rãi. “Nín đi” Disley nói. “Nào nín ngay. Mình đi bây giờ đây. Nin ngay!” Hắn vẫn rền rĩ từng đợt âm thầm.
Luster quay lại, đội một chiếc mũ rơm cứng mới tinh có dải băng màu và cầm trong tay một chiếc mũ vải. Chiếc mũ rơm dường như tách biệt với cái đầu của Luster, nó nổi bật lên như một ngọn đèn sân khấu trong mắt khán giả, dưới mỗi bình diện và góc cạnh riêng biệt của nó. Hình dáng cái mũ độc đáo một cách kỳ dị đến mức mới thoạt nhìn người ta tưởng chiếc mũ ở trên đầu một ai đó đứng sau Luster. Dilsey nhìn chiếc mũ.
“Sao mày không đội cái mũ cũ?” bà nói.
“Con không tìm thấy”Luster nói.
“Tao biết ngay là mày không tìm thấy. Tao cuộc là đêm hôm qua mày đã giấu đi để không tìm được. Mày cố tình làm hỏng nó mà”.
“Kìa mammy” Luster nói. “Trời có mưa nữa đâu”.
“Làm sao mày biết? mày đi về lấy cái mũ cũ và cất cái mới này đi”.
“Kìa, mammy”
“Thế thì đi lấy dù”.
“Kìa mamy”.
“Mày chọn đi” Dilsey nói. “Đội mũ cũ không thì mang dù. Thế nào cũng được.”
Luster đi về lều. Ben lặng lẽ rền rĩ.
“Đi nào” Dilsey nói. “Rồi chúng sẽ đuổi kịp mình. Mình đi sớm nghe hát”. Họ đi vòng qua nhà, ra ngoài cổng. “Nín đi”, Dilsey chốc chốc lại nói trong lúc họ đi ra ngõ. Họ ra tới cổng. Dilsey mở cổng. Sau lưng họ Luster cũng đã ra tới ngõ, tay cầm dù. Một người phụ nữ đi bên cạnh nó. “Chúng kia rồi” Dilsey nói. Họ ra khỏi cổng.”Nào, đi!” bà nói. Ben thôi khóc. Luster và mẹ nó đuổi kịp họ. Frony mặc chiếc áo lụa màu xanh sáng và đội mũ đính hoa. Cô gầy và có gương mặt mỏng khả ái.
“Mày khoác lên người phải đến sáu tuần lương” Disley nói. “Nhỡ mưa thì sao?”
“Thì ướt chứ sao” Frony nói. “Con có ngăn được mưa đâu”.
“Mammy lúc nào cũng lo mưa” Luster nói.
“Tao không lo cho chúng mày thì ai lo cho.” Dilsey nói. “Đi thôi, mình đến muộn mất”.
“Hôm nay mục sư Shegog thuyết giáo” Frony nói.
“Thế à?” Dilsey nói. “Ông ấy ở đâu tới?”
“ông ấy từ Saint Louis tới” Fron nói. “Giảng hay lắm”.
“Dào” Dilsey nói. “Cái cần thiết là người nào có thể khiến lũ nhãi ranh báng bổ này biết sợ Chúa”.
“Hôm nay mục sư Shegog sẽ giảng” Frony nói. “Người ta bảo thế”.
Họ đi trên phố. Dọc con đường yên tĩnh, đây đó từng nhóm người da trắng mặc những bộ đồ sáng sủa đi về phía nhà thờ, dưới tiếng chuông lộng gió, và trong nắng sớm tràn trề. Gió thổi từng cơn từ phía đông nam tới, lạnh và buốt sau những ngày ấm áp.
“Gía như mammy đừng đưa cậu ấy đi nhà thờ” Frony nói. “Người ta bàn tán”.
“Người ta bàn tán cái gì?” Dilsey nói.
“Con nghe người ta nói” Frony nói.
“Tao biết đó là loại người nào rồi” Dilsey nói. “Bọn dân trắng rác rưởi chứ còn ai nữa. Họ nghĩ nó không xứng đáng vào nhà thờ trắng, mà nhà thờ đen cũng không xứng cho nó vào”.
“Họ vẫn nói” Frony nói.
“Bảo họ đến nói với tao đây này” Dilsey nói. “Bảo họ là Chúa đâu cần biết nó khôn hay dại. Ngoài lũ rác rưởi ấy ra thì ai cần”.
Bên tay phải là một ngã rẽ vuông góc, đổ dốc và lầy bùn. Hai bên lề đường trũng hẳn xuống, một bãi đất rộng bằng phẳng lác đác những mái lều dãi dầu mưa nắng chỉ cao bằng mặt đường. Lều dựng trên những khoảnh đất nhỏ rải đầy các vụn vỡ, gạch bể, ván gãy, mảnh sành, những thứ đã từng một thời hữu dụng. Chỉ có cỏ dại mọc được ở đó, còn cây cối toàn là dâu, thích và sung – tất cả như cùng chia sẻ vẻ khô cằn bẩn thỉu bao quanh các túp lều, những cây cối mà mỗi chồi non dường như là tàn dư buồn thảm và ương ngạnh của tháng Chín, như thể mùa xuân đã đi qua, bỏ mặc chúng sống nhờ vào cái mùi ngột ngạt không thể lẫn được của người da đen ở nơi chúng mọc.
Những người da đen đứng ở cửa lều cất tiếng chào khi họ đi qua, thường là chào Dilsey.
“Bà Jibson! Hôm nay bà khoẻ chứ?”
“Tôi vẫn bình thường. Bà có khoẻ không?”
“Tôi cũng vậy. Cảm ơn”.
Từ các túp lều, họ chui ra và khó nhọc leo dốc lên mặt đường – đàn ông mặc đồ đen hoặc nâu sẫm trang trọng, với dây đồng hồ vàngvv vài ba người cầm can, thanh niên mặc màu xánh choé rẻ tiền hay kẻ sọc và đội những chiếc mũ thời trang, đàn bà mang váy xoè cứng quèo, còn trẻ con mặc đồ cũ mua lại của người da trắng, nhìn Ben với vẻ vụng trộm của những con thú ăn đêm.
“Tao đố mày dám lại sờ nó”.
“Sao không dám?”
“Tao cuộc là mày không dám. Nó làm mày sợ”.
“Nó không hại ai đâu. Nó khùng mà”.
“KHùng mà không hại ai?”
“Thằng này thì không. Tao sờ nó rồi”.
“Bây giờ mày chẳng dám đâu”.
“Nhỡ cô Dilsey thấy thì sao?”
“Dù sao mày cũng không dám”.
“Nó không hại ai đâu. Nó khùng mà”.
Những người lớn tuổi chuyện trò với Dilsey, nhưng nếu họ không già lắm, Dilsey cho phép Frony tiếp chuyện.
“Sáng nay mammy không được khoẻ”.
“Vậy à? nhưng mục sư Shegog sẽ chữa cho. Ông ấy sẽ giúp bà cụ được thanh thản và bình an”.
Con đường lại lên dốc, dẫn đến một cảnh trí như bức phông vẽ. Nó bị chặn ngang như một dải băng bị cắt, đâm thẳng vào một khu đất sét đỏ bao quanh bởi những cây sồi. Bên cạnh đó, ngôi nhà thờ dột nát vì mưa nắng với những tháp chuông kỳ cục vươn cao như một ngôi nhà thờ vẽ, và toàn bộ quan cảnh trông dẹt và thiếu chiều sâu như một bức tranh đặt sát mép tận cùng của mặt đất, đối diện với không gian đầy nắng gió tháng Tư và một buổi sáng muộn màng vang vọng tiếng chuông. Họ kéo nhau từng đám về phía nhà thờ với vẻ đủng đỉnh cố tình của ngày Chủ Nhật. Đàn bà và trẻ con đi thẳng vào trong, đàn ông dừng lại bên ngoài và túm năm tụm ba rì rầm trò chuyện đến khi chuông ngừng rung. Rồi họ cũng vào.
Nhà thờ được trang hoàng bằng những bó hoa lưa thưa hái ngoài vườn rau hay hàng rào, và những băng giấy kếp sặc sỡ. Phía trên bục giảng treo một quả chuông Giáng sinh méo mó, cũng xứng với khung cảnh đổ nát xung quanh, bục giảng còn trống, nhưng ca đoàn đã vào chỗ, phe phẩy quạt dù trời không nóng.
Phần lớn đàn bà tụ tập ở một phía. Họ trò chuyện. Rồi chuông gióng một tiếng và họ tản về chỗ, tất cả ngồi im lặng chờ đợi một lúc lâu. Ca đoàn đứng lên và bắt đầu hát, mọi người đồng loạt quay đầu lại, khi sáu đứa bé – bốn bé gái bím tócthắt nơ bướm bằng vải, hai bé trai tóc hớt ngắn – bước vào và đi lên hai phía bàn thờ, chúng nối nhau thành hàng bằng một dây lụa trắng kết hoa. Theo sau chúng là hai người đàn ông đi thành hàng một. Người thứ hai cao lớn, nước da màu cà phê, bệ vệ trong chiếc áo lễ thắt nơ trắng. Đầu ông uy nghi và thâm trầm, cổ ông bị cổ áo đẩy lên thành nhiều nếp gấp. Nhưng ông đã quá quen thuộc với họ nên họ cũng không quay đầu nhìn theo khi ông đi ngang, đến khi ban đồng ca ngừng hát họ vẫn chưa nhận ra rằng vị khách mời đã bước vào, và khi họ nhìn thấy người đàn ông đi trước mục sư của họ và đang tiến thẳng lên bục giảng, một âm thanh không diễn tả nổi trỗi dậy, một tiếng thở dài, một tiếng kêu ngạc nhiên và thất vọng.
Vị khách quá thấp bé, mặc một chiếc áo vải len alpaca, gương mặt đen đủi nhăn nheo như một con khỉ già loắt choắt. Và suốt thời gian đó ca đoàn lại hát, rồi sáu đứa bé đứng dậy nối lời bằng một giọng thì thầm lạc điệu và the thé vì sợ hãi, họ kinh ngạc nhìn người khách tầm thường ngồi lọt thỏm ở đó và càng có vẻ quê mùa hơn bên canh vị mục sư cao lời bệ vệ của họ. Họ vẫn còn nhìn ông với con mắt kinh ngạc và ngờ vực khi vị mục sư đứng dậy giới thiệu ông bằng một giọng đầy đặn uyển chuyển như càng nhấn mạnh vẻ tầm thường của vị khách.
“Vậy mà người ta mời bằng được từ Saint Louis đến” Frony thì thào.
“Tao biết Chúa còn sử dụng những công cụ lạ lùng hơn thế nhiều” Dilsey nói. “Nín đi nào” bà nói với Ben. “Họ lại hát ngay mà”.
Khi vị khách đứng dậy để nói, ông phát âm như một người da trắng. Giọng ông bằng phẳng và lạnh lùng. Nó quá lớn với một người như ông và đầu tiên họ nghe vì tò mò, như thể nghe một con khỉ nói. Rồi họ bắt đầu nhìn ông như nhìn một người đi trên dây. Rồi họ quên mất cái vẻ ngoài tầm thường của ông trước tài hùng biện khi dồn dập khi chao đảo khi vút lên trên sợi dây căng thẳng và lạnh lùng của giọng ông và rồi sau cùng, khi giọng ông buông lướt xuống để nghỉ bên cạnh chiếc bàn đọc với một cánh tay duỗi dài trên bàn ở tầm ngang vai và cái hình hài loài khỉ của ông trở nên bất động hoàn toàn như một xác ướp hay một con tàu rỗng, cử toạ thở dài như vừa tỉnh dậy từ một giấc mơ cộng đồng và khẽ nhúc nhích tại chỗ. Đàng sau bục giảng ca đoàn vẫn phe phẩy quạt. Dilsey thì thào “Nín ngay nào. Họ hát liền bây giờ mà”.
Rồi một giọng nói cất lên “Các anh em”
Nhà thuyết giáo đứng im lìm. Cánh tay ông vẫn đặt ngang bàn, và ông giữ nguyên tư thế đó trong khi giọng ông tắt đi giữa những tiếng vang của các bức tường. Khác hẳn với giọng ông lúc trước như ánh ngày và bóng tối, nó buồn bã và lanh lảnh như một cây kèn alto, thấm vào trái tim họ và lại cất lên ở đó khi nó đã ngưng trong những âm vang chất chứa và lụi tàn.
“Các anh chị em” nó lại cất lên. Nhà thuyết giáo thu cánh tay lại và bắt đầu đi tới đi lui trước bàn, tay chắp sau lưng, cái hình thể khẳng khiu, còng gập xuống như một kẻ đã trường kỳ kháng cự với đất chẳng chịu buông tha mình. “Tôi có hồi ức và máu huyết của Con Chiên!” ông đều đều đi tới đi lui dưới chuỗi hoa giấy và quả chuông Giáng sinh, người lom khom, tay chắp sau lưng. Ông giống như một tảng đá bé nhỏ mỏi mòn bị chìm lấp dưới những làn sóng liên tiếp của giọng mình. Tưởng chừng như ông nuôi dưỡng giọng nói ấy cắn ngập răng vào da thịt ông. Và cử toạ tưởng chừng đang chứng kiến tận mắt giọng nói ấy ăn mòn ông, đến khi ông không còn gì nữa và họ không còn gì nữa cũng không còn cả cái giọng, chỉ còn lại trái tim họ đang nói với nhau qua những nhịp hát không cần đến lời, khi ông tới dựa vào bàn để nghỉ, khuôn mặt loài khỉ của ông ngước lên và toàn bộ dáng điệu của ông như của người bị hành hình trên cây thập tự, bình thản siêu việt, vượt lên trên sự tiều tuỵ và tầm thường, một tiếng rên dài thoát ra khỏi lồng ngực của họ, và một giọng nữ cao đơn độc thốt lên “Vâng, Jesus!”
Khi ngày đã đứng bóng, những khuôn cửa sổ bẩn thỉu chập chờn mờ tối như bóng ma. Một chiếc xe chạy qua ngoài đường, lạo xạo trên cát rồi im bặt. Dilsey ngồi thẳng người, tay bà đặt trên đầu gối Ben. Hai dòng lệ chảy xuống đôi má xệ của bà, vô số những giọt lóng lánh của hy sinh của xả kỷ và của tuổi tác.
“Các anh em” vị mục sư nói bằng một giọng thì thầm gay gắt, không động đậy.
“Vâng, Jesus!” giọng đàn bà chưa tắt hẳn.
“Các anh chị em!” giọng ông lại vang lên, như tiếng kèn. Ông thu tay lại và đứng thẳng người rồi giơ hai bàn tay lên cao. “Tôi có hồi ức và máu huyết của Con Chiên!” Họ không để ý là từ lúc nào, thanh điệu của ông, ngữ âm của ông đã trở thành của người da đen, họ chỉ hơi cựa quậy một chút trên ghế khi cái giọng nói ấy hớp hồn họ.
“Trong những năm dài, lạnh lẽo – ôi, tôi nói cùng anh chị em, trong những năm dài, lạnh lẽo – tôi thấy ánh sáng và tôi thấy lời nói, kẻ tội lỗi khốn khổ! Họ bỏ mình ở Ai Cập, những chuyến xe lảo đảo, bao thế hệ đã bỏ mình. Kẻ giàu có ư: họ đâu rồi, hỡi anh em? Kẻ nghèo khổ ư: họ đâu rồi, hỡi chị em? Ôi tôi nói cùng các người, nếu các người không có được dòng sữa và hạt sương của cứu rỗi xưa khi những năm dài, lạnh lẽo trôi qua!”
“Vâng, Jesus!”
“Tôi nói cùng các anh em, và tôi nói cùng các chị em, sẽ có lúc họ tới. Kẻ tội lỗi khốn khổ nói: Hãy để tôi nằm xuống với Chúa, hãy để tôi đặt xuống gánh nặng của tôi. Rồi Jesus nói gì, hỡi anh em? Hỡi chị em? Ngươi có hồi ức và máu huyết của Con Chiên chăng? Nếu ta không từ trên trời xuống?”
Ông thò tay vào túi áo ngoài và lấy ra một chiếc khăn tay và lau mặt. Một hoà âm trầm trổi dậy từ cử toạ: M m m m m m! giọng đàn bà nói “Vâng, Jesus! Jesus!”
“Các anh em! Hãy nhìn con trẻ đang ngồi kia. Jesus đã từng là con trẻ như thế. Mẹ ngài đã đón nhận bao vinh quang và đau khổ. Đôi khi không chừng bà bế ngài trên tay khi đêm xuống trong lúc các thiên thần hát ru ngài ngủ, không chừng bà nhìn ra cửa và thấy lính La Mã đi qua. “Ông đi tới đi lui, lau mặt. “Hãy nghe đây các anh em. Tôi thấy ngày ấy. Bà Mary ngồi ở cửa với Jesus trong lòng, Jesus hài đồng. Tôi nghe thấy các thiên thần hát những bài ca thanh bình và vinh quang. Tôi thấy những đôi mắt khép, thấy Mary đứng phắt dậy, nhìn vào mặt tên lính. Chúng ta sẽ giết! chúng ta sẽ giết! chúng ta sẽ giết thằng bé Jesus của ngươi! Tôi nghe thấy tiếng khóc và lời than vãn của người mẹ khốn khổ mà không có cứu rỗi và lời của Thiên Chúa”.
“H m m m m m m m m! Jesus! Jesus hài đồng!” và một giọng nói khác cất lên:
“Tôi thấy, ôi Jesus! Ôi tôi thấy!” và lại một giọng nói nữa, không rõ lời, như bong bóng nổi lên từ đáy nước.
“Tôi thấy cái đó, các anh em! Tôi thấy cái đó! Thấy cảnh tượng chói loà, loá mắt! Tôi thấy Calvary, với các cây thiêng,thấy kẻ trộm và kẻ sát nhân và từng người một, tôi nghe thấy tiếng quát tháo doạ nạt, nếu ngươi là Jesus, hãy nhổ cây của ngươi lên và bước đi! Tôi nghe thấy tiếng rền rĩ của những người đàn bà và lời than vãn buổi chiều tà, tôi nghe thấy tiếng khóc thầm và lời kêu và gương mặt quay đi của Thiên Chúa, chúng đã giết Jesus, chúng đã giết con của Ta!”
Hm m m m m m m m! Jesus! Tôi thấy, ôi Jesus”
“Ôi kẻ tội lỗi mù loà! Các anh em, tôi nói cùng các người, các chị em, tôi nói cùng các người, khi Thượng Đế quay khuôn mặt uy nghi của ngài đi, phán, Ta sẽ không làm chật thiên đàng! Tôi có thể thấy Đức Chúa Cha mất con đóng cánh cửa của Ngài, tôi thấy hồng thuỷ cuồn cuộn ở giữa, tôi thấy bóng tối và cái chết không ngừng ngự trị trên các thế hệ. Và rồi, kìa! Các anh em! Vâng, các anh em! Tôi thấy gì? Tôi thấy gì? Ôi kẻ tội lỗi! Tôi thấy phục sinh và ánh sáng, thấy Jesus nhân từ phán bảo: chúng giết Ta để các ngươi sẽ sống trở lại, Ta chết để những gì các ngươi thấy và tin sẽ không bao giờ chết. Các anh em, ôi các anh em! Tôi thấy tối tăm nứt vỡ và tiếng kèn vàng vọng xuống vinh quang và những kẻ chết đứng dậy, những kẻ có máu huyết và hồi ức của Con Chiên!”
Ở giữa những giọng nói và những bàn tay, Ben ngồi, ánh mắt xanh biếc dịu dàng nhìn chăm chú. Dilsey ngồi thẳng người bên cạnh, khóc day dứt và lặng lẽ trong nỗi nung nấu và máu huyết của Con Chiên được hồi tưởng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.