Bạch Mã Khiếu Tây Phong
Chương 3 – Phần 2
Trong bộ tộc từ đời này truyền sang đời khác, trong đại sa mạc có một tòa mê cung, trong đó có không biết bao nhiêu là châu báu. Thế nhưng không ai biết đường đến mê cung, còn đi loanh quanh tìm kiếm trong sa mạc không tìm được lối về thì ai cũng sợ, thành thử không ai dám mạo hiểm đi vào. Thế nhưng hiện nay đã có địa đồ, trong sa mạc lại đầy tuyết, hai ba chục ngày cũng chưa tan hết, đằng sau lại có đại đội nhân mã tiếp ứng, còn sợ nỗi gì?
Huống chi, Tô Lỗ Khắc trước nay vẫn tự hào mình là dũng sĩ số một của người Cáp Tát Khắc, y chắc mẩm Xa Nhĩ Khố thể nào cũng sợ hãi bỏ cuộc không dám tiếp tục đuổi theo. Thế nhưng Xa Nhĩ Khố chẳng có vẻ gì tỏ ra nao núng. Lý Văn Tú nói: – Đúng, bọn mình cứ đi theo thử xem, trên đời này có hay không có tòa Cao Xương mê cung.
Nàng nghĩ đến cha mẹ vì chuyện đó mà bỏ mình, nếu chính mình tìm được đến mê cung này cũng là hoàn thành di chí của cha mẹ. A Mạn nói: – Các người già cả trong bộ tộc nói rằng, bảo vật trong Cao Xương mê cung có thể làm cho nghìn nghìn vạn vạn người ở cả nam bắc Thiên Sơn được sung sướng đời đời. Thế nhưng hàng nghìn năm nay đã có ai tìm thấy đâu?
Tô Phổ vui mừng nói: – Nếu mình tìm được, ai ai cũng được sung sướng thì còn gì bằng.
A Mạn nói: – Thế mình bây giờ không sung sướng hay sao?
Tô Phổ gãi đầu: – Sướng lắm chứ, sướng lắm chứ.
Y không nghĩ ra được trên đời này còn có cái gì làm cho y sung sướng hơn bây giờ được nữa. Lý Văn Tú lại nghĩ: “Dù cho Cao Xương mê cung có bao nhiêu trân kỳ bảo vật, cũng không làm cho ta được sung sướng hơn chút nào.”
Đến ngày thứ tám, bảy người đi theo vết chân vào trong dãy núi. Đá núi mấp mô, càng vào sâu càng khó đi, cũng may trên mặt tuyết vết chân vẫn còn rõ ràng. Có điều trong núi gập ghềnh chẳng có đường đi, cứ theo vết chân người đi trước mà vượt qua những triền núi, thung lũng, trước mắt thấy con đường vô cùng vô tận, hai hàng vết chân trước mặt tưởng chừng như đi thẳng vào địa ngục.
Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố thấy bốn bề hung hiểm, trong lòng đã thấy ớn, liền anh một câu tôi một câu hai bên cãi nhau. Tô Lỗ Khắc nói: – Xa Nhĩ Khố, ngươi toàn thân run bần bật, sợ quá vỡ mật thì khổ. Chi bằng ngồi đây đợi ta, nếu kiếm thấy châu báu thể nào cũng chia cho ngươi một phần.
Xa Nhĩ Khố đáp: – Bây giờ thì lên mặt anh hùng hảo hán, để đến khi ác quỷ nó ra, xem ngươi chạy trước hay con ngươi chạy trước nào?
Tô Lỗ Khắc đáp: – Đúng đó, cha con ta thấy quỷ cũng còn có sức mà chạy, còn hơn ngươi sợ quá chỉ còn nước khụy xuống mà run.
Hai người nói qua nói lại không ngoài chuyện ác quỉ trong sa mạc. Đi thêm một hồi, bốn bề chung quanh đều tối om. Tô Phổ nói: – Cha ơi, mình ngừng lại đây nghỉ ngơi, ngày mai đi tiếp.
Tô Lỗ Khắc chưa kịp trả lời, Xa Nhĩ Khố cười đáp: – Hay lắm, cha con ngươi nghỉ lại đây để khỏi nguy hiểm. A Mạn, ngươi theo ta đi. Lạc Đà, Tang Tư Nhi, mình không sợ quỉ, cứ đi tiếp.
Tô Lỗ Khắc hừ một tiếng, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, xông lên đi trước. Lý Văn Tú thấy hai người hăng máu tranh đua, chẳng ai chịu kém ai, đành phải đi theo. Thế nhưng A Mạn mệt quá gần như chịu không nổi nữa. Tô Phổ, Tang Tư Nhi hai người đi kiếm cành khô làm đuốc soi đường. Bảy người trong rừng sâu núi thẳm, lần theo dấu chân mà đi. Tối hôm nay đến một vùng quỉ khí âm u, ai nấy trong lòng đều sợ hãi, thỉnh thoảng tiếng chim rúc, hay tuyết đóng trên cành rơi ụp xuống, khiến mọi người đều nhảy dựng cả lên. Cũng thật lạ kỳ, giữa rừng sâu mà vẫn có đường đi, tuy cỏ mọc cao ngất che phủ, nhưng dấu vết từ xưa vẫn còn nhìn rõ.
Bảy người ở trong rừng đi một quãng dài, A Mạn bỗng kêu lên: – Ối chà, không xong rồi.
Tô Phổ vội hỏi: – Gì thế?
A Mạn chỉ vào một chiếc vòng bạc lấp lánh nằm bên đường nói: – Anh coi, cái vòng kia là của em đánh rơi đó.
Chiếc vòng đó ở phía trước chừng hai ba trượng, không hiểu vì cớ gì xuất hiện nơi đây. A Mạn nói: – Em đánh rơi chiếc vòng, định bụng khi trở về sẽ kiếm sau, sao bây giờ lại ở đây?
Xa Nhĩ Khố nói: – Ngươi thử nhìn cho kĩ, có thật là của ngươi hay không?
A Mạn không dám đến nhặt lên, Tô Phổ liền tiến lên cầm lấy, không đợi A Mạn xác nhận, y đã nhìn ra nói: – Đúng rồi, của nàng ta đó.
Nói xong đưa lại chiếc vòng cho A Mạn. A Mạn không dám cầm, run run nói: – Anh… anh vứt nó đi, em không lấy nữa đâu.
Tô Phổ nói: – Hay là ác quỷ đến phá mình thật chăng?
Dưới ánh lửa bập bùng, mặt mày ai nấy đều thật là khó hiểu. Qua một hồi sau, Lý Văn Tú nói: – E rằng còn ghê hơn là gặp ác quỷ, mình đang trở lại con đường cũ, khúc đường này lúc trước mình đã đi qua rồi.
Cả bọn lập tức nghĩ ngay đến truyền thuyết nổi tiếng từ trước đến nay: trong sa mạc kẻ lữ hành lạc mất lối, cứ đi đi mãi, đột nhiên thấy được dấu chân người, mừng muốn phát điên, cứ theo đó mà đi, ngờ đâu là bước chân của chính mình, đi một vòng lớn lại quay về chỗ cũ, đi mãi đến chết mới thôi.
Không ai muốn tin lời Lý Văn Tú là đúng, thế nhưng rõ ràng vật A Mạn rơi đã lâu, đi cả nửa ngày, lại đột nhiên xuất hiện ngay trước mặt, rõ ràng là đã đi một vòng trở lại chỗ cũ. Trong đêm tối, người mệt mỏi, có ai biết được trước mặt mình là dấu chân hai người hay có thêm dấu chân của bảy người nữa. Lạc Đà tiến lên mấy bước, cầm đuốc soi dấu chân dưới tuyết, kêu lên: – Có nhiều dấu chân lắm, đúng là của mình rồi.
Tiếng nói đầy hốt hoảng, cả bảy người nhìn nhau bần thần. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố chẳng ai còn dám huênh hoang, chế giễu người kia nữa. Lý Văn Tú nói: – Bọn mình đi theo dấu chân tên giặc cướp và người nào đó, nếu như họ cũng đi một vòng, thì chúng ta một hồi sau cũng quay trở lại chỗ cũ. Chi bằng mình nghỉ lại đây, để xem bọn họ có đến hay không?
Đến nước này, mọi người đều đồng ý với lời nàng nói, liền quét sạch tuyết đóng trên đường, trải chăn ra ngồi xuống. Lạc Đà và Tang Tư Nhi đốt một đống lửa, cả bảy người ngồi vây quanh, chẳng ai ngủ được mà cũng chẳng ai muốn nói chuyện. Bọn họ ngồi chờ Trần Đạt Hải và kẻ kia đến, nhưng cũng lại sợ ví thử hai người tới thật, thì đúng là họ đã đi một vòng rồi quay lại đây, số mạng cả bọn cũng không khác gì.
Đợi lâu thật lâu, bỗng có tiếng chân người. Cả bảy người nghe tiếng chân cùng nhảy dựng cả lên, nhưng bỗng dưng ngừng bặt. Trong giây phút đó, đến tiếng tim chính mình đập cũng còn nghe. Đột nhiên tiếng bước chân lại vang lên, nhưng đi xa dần về hướng tây bắc. Ngay lúc đó, một cơn gió ở đâu ập tới, cuốn một mảng tuyết lớn trên đường trút ngay vào đống lửa, đống lửa liền tắt ngúm, bốn bề lập tức tối đen như mực.
Chỉ nghe soẹt soẹt soẹt mấy tiếng, sáu người bọn Tô Lỗ Khắc đều rút đao kiếm ra. A Mạn hốt hoảng “A” lên một tiếng, nép vào lòng Tô Phổ. Dưới ánh tuyết chiếu lên, lưỡi đao lưỡi kiếm lấp loáng, tiếng chân kia càng lúc càng xa, sau cùng không nghe thấy gì nữa.
Cho đến khi trời sáng, trong khu rừng không thấy gì khác lạ. Buổi sáng hôm sau, khi những tia nắng đầu tiên xuyên cành lá chiếu vào, cả bọn đều tinh thần phấn khởi, lại tiếp tục tìm đường mà đi. Đi một lúc nữa, A Mạn bỗng thấy mấy bụi cây phía trái có vài cành bị gãy, kêu lên: – Coi kìa!
Tô Phổ vạch cây ra thấy dưới đất có hai hàng dấu chân, reo lên: – Bọn họ từ đây đi tới.
A Mạn nói: – Chắc tên cường đạo kia coi sai địa đồ thành ra mới chạy một vòng, rồi lại từ đây mà đi làm cho bọn mình sợ cả một buổi.
Tô Lỗ Khắc cười ha hả nói: – Đúng đó, cả nhà Xa Nhĩ Khố nhát gan sợ mất vía. Còn nhà Tô Lỗ Khắc là dũng sĩ nên chỉ mong quỷ hiện ra để nắm tai nó xem thế nào.
Xa Nhĩ Khố không thèm nhìn y, làm như không nghe thấy, quay ngược lại nắm luôn tai y. Tô Lỗ Khắc kêu oái lên một tiếng, đấm ra một quyền, trúng ngay lưng y. Xa Nhĩ Khố lảo đảo, nhưng bàn tay nắm tai Tô Lỗ Khắc vẫn chưa buông khiến y rách tai máu chảy ròng ròng, nếu giựt mạnh một cái e rằng đến đứt tai mất.
Lý Văn Tú thấy hai người đã ngoài bốn mươi mà vẫn như hai đứa trẻ nít tranh cãi không ngừng, nửa đùa nửa thật, khiến người khác phải nực cười. Chỉ thấy Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố đấm nhau loạn xạ bình bình bình mấy cái mới thôi. Hai người một bên mũi tím bầm còn một bên mắt sưng vù nhưng vẫn vừa tranh cãi, vừa tiếp tục đi.
Bấy giờ con đường khúc khuỷu, chỗ cao chỗ thấp thật là khó đi, có lúc phải vòng qua núi, có lúc lại chui vào hang, nếu chẳng có dấu tuyết mà theo thì không cách gì nhìn rõ được. Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Cái mê cung này quả thực cực kỳ ẩn bí, nếu không có địa đồ thì làm sao mà tìm cho thấy?.”
Đi đến giữa trưa, cả bọn suốt đêm không ngủ, ai nấy đều cực kỳ mỏi mệt, chỉ có Lý Văn Tú nội công tương đối căn cơ, nên thần thái còn tỉnh táo. Tô Phổ nói: – Cha, A Mạn đi không nổi nữa rồi, mình ngồi nghỉ chút đã.
Tô Lỗ Khắc chưa kịp trả lời, bỗng nghe Xa Nhĩ Khố đi ở phía trước kêu lên “A” một tiếng. Tô Lỗ Khắc vội vàng vượt lên, đi qua mấy hàng cây, thấy trước mặt là một quả núi, trên đó có hai cánh cửa đúc bằng thép. Cánh cửa đã rỉ sét hiển nhiên cực kỳ cũ kĩ.
Cả bảy người cùng reo lên: – Cao Xương mê cung!
Họ vội vàng tiến tới. Tô Lỗ Khắc dùng sức đẩy cánh cửa nhưng hai cánh cửa không hề chuyển động chút nào. Xa Nhĩ Khố nói: – Tên ác tặc chắc cài then bên trong rồi!
A Mạn xem kĩ chung quanh cánh cửa, thấy không có máy móc gì, nhưng cánh cửa dường như trời sinh gắn liền vào núi đá, chẳng có chút khe hở nào. A Mạn cầm chiếc vòng cửa, xoay qua bên trái không thấy gì. Mê cung này xây dựng đã mấy trăm năm qua, tuy trong sa mạc cực kỳ khô ráo mà cửa sắt cũng đã hoen rỉ, nếu như có cơ quan chuyển động thì cũng không còn dùng được. Nào ngờ khi nàng chuyển ngược lại phía bên phải, thì cái vòng lỏng ra. Nàng lắc thêm mấy cái, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố hai người đang hì hục đẩy cửa, đâu ngờ thiết môn bỗng mở vào bên trong nên đều bổ nhào về trước. Hai người kinh hãi nhưng lập tức định thần, cười ha hả rung cả toàn thân.
Phía sau cánh cửa là một cái hang đen ngòm, Tô Phổ vội đốt đuốc, một tay soi, một tay cầm đao, đi trước dẫn đường. Đi hết cái hang, đằng trước có một ngã ba. Trong mê cung không có dấu tuyết chỉ đường, không biết hai người kia đi theo lối nào. Cả bọn cúi xuống xem kĩ, thấy phía trái và phía phải hai đường đều có dấu chân mờ mờ. Tô Lỗ Khắc nói: – Bốn người đi bên trái, ba người đi bên phải. Sau đó mình trở lại đây gặp nhau.
Lý Văn Tú nói: – Cái đó không xong. Nơi này đã gọi là mê cung, đường đi ắt hẳn ngoằn ngoèo, bọn mình nên đi chung một chỗ.
Tô Lỗ Khắc lắc đầu: – Ở trong cái hang núi này có được bao nhiêu đường đất? Người Hán nhát gan, chẳng dám làm gì hết.
Tuy y nói thế nhưng cả bảy người vẫn đi cùng, thấy đường phía bên phải rộng rãi hơn cả nên đi về hướng đó.
Đi được độ mươi trượng, Tô Lỗ Khắc nghĩ thầm: “Gã người Hán này nói không sai.” Trước mặt lại có nhánh chia ra. Bảy người xem kĩ dấu chân, lại theo một đường mà đi. Có khi đường nhánh hai bên đều có dấu chân, họ chỉ còn nước chọn đại một đường. Đi một hồi lâu, trong hang núi không biết đã bao nhiêu nhánh đường. Mỗi khi đến chỗ nhánh chia, A Mạn lại dùng dao khắc lên tường làm dấu, để khi quay về khỏi bị lạc lối. Đột nhiên trước mắt mở rộng thành một vùng trống không, phía bên kia lại có hai cánh cửa sắt, nằm sâu trong triền núi.
Bảy người đi ra khoảng đất trống đi về phía cửa bên kia. Tô Lỗ Khắc lại đến vặn chiếc vòng, nào ngờ cánh cửa này chỉ khép hờ, chỉ đẩy nhẹ một cái, đã “kẹt” một tiếng mở ra ngay. Bảy người đi vào, thấy bên trong là một điện đường, bốn bề toàn là tượng Phật đắp bằng đất hay tạc bằng gỗ. Đi qua khỏi điện đường, liên miên bất tuyệt không biết bao nhiêu phòng ốc, phòng nào cũng toàn là tượng Phật. Thỉnh thoảng trên tường có những hàng chữ Hán viết nào là Cao Xương Quốc Quốc Vương, Văn Thái, Đại Đường Trinh Quan Thập Tam Niên… Có một tòa điện đường lại đầy những tượng đất người Hán, đứng giữa là một ông già, trên biển đề chữ “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử Vị”, trái phải thêm mấy chục người khác, đề các tên Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, Tử Hạ, Tử Trương… Tô Lỗ Khắc thấy nhiều tượng người Hán liền nhăn mặt đi ra nơi khác.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Ở nơi này mọi người đều theo đạo Hồi, sao trong mê cung lại nhiều tượng Phật, lại có cả người Hán? Trên tường lại viết chữ Hán, thật là lạ lùng.” Bảy người qua hết phòng này đến phòng khác, thấy quá nửa cung thất đã bị hủy hoại, có phòng thì đầy cát vàng, đến cửa ngõ cũng bị lấp kín. Đường trong mê cung vốn dĩ thật là phức tạp, rắc rối, lại thêm tường đổ cát lấp, càng khiến cho thêm nhức đầu. Thỉnh thoảng thông lộ lại có vài bộ xương trắng, các dụng cụ trong cung không giống như những gì người Hồi Cương đang dùng, Lý Văn Tú nhớ lại đây là những đồ người Hán ở Trung Nguyên sử dụng. Thế nhưng ai nấy coi thấy đều hoa cả mắt, tấm tắc khen lạ lùng. Thế nhưng truyền thuyết nói là đầy vàng bạc châu báu thì hoàn toàn không thấy đâu cả.
Bảy người cứ theo con đường hầm tối đen mà đi tới, đột nhiên phía trước có một tiếng người hầm hừ nói: – Ta ở nơi đây an tĩnh đã một nghìn năm qua, kẻ nào đến làm rộn ta đó. Đứa nào lớn mật tới đây lập tức chết ngay.
Người đó nói tiếng Cáp Tát Khắc, giọng thật là nhuần nhuyễn, thanh âm tuy không lớn nhưng nghe vẫn rõ ràng. A Mạn kinh hoảng kêu lên: – Ác quỷ đó! Y… y nói ở đây đã một nghìn năm.
Nàng cầm tay Tô Phổ, lùi về sau mấy bước. Lạc Đà kêu lên: – Đó là người chứ không phải quỷ đâu.
Y giơ cao cây đuốc tiến lên. Tang Tư Nhi không dám tỏ ra kém thế, cũng xông lên mấy bước, đi ngang với y. Hai người đi đến một khúc quẹo, bỗng dưng cùng kêu lên, thân hình ngã ngửa về sau. Mọi người kinh hãi, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố vứt đuốc trên tay, chạy lên đỡ họ dậy. Chỉ thấy phía trước vọng ra một tiếng cười quái dị, và tiếng người nói: – Ta ở đây đã một nghìn năm, ta ở đây đã một nghìn năm. Kẻ nào vào đây là chết.
Xa Nhĩ Khố không dám nghĩ thêm, vội ôm Lạc Đà chạy ngược lại. Tô Lỗ Khắc cũng ôm Tang Tư Nhi, cùng tất cả mọi người cùng chạy, đằng sau tiếng cười quái dị vẫn tiếp tục đuổi theo. Đến khoảng sân rồi, nhìn lại Lạc Đà và Tang Tư Nhi hai người khóe miệng ứa máu, đã chết cả rồi. Năm người nhìn nhau, trong lòng vừa đau đớn vừa kinh hoàng. A Mạn run run nói: – Con ác quỷ không muốn ai tới… tới làm rộn nó, thôi mình đi ra đi.
Đến nước này, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố không ai còn dám hung hăng sấn tới nữa. Bọn họ liền theo dấu đã ghi, ôm hai cái xác người đi ra khỏi mê cung. Xa Nhĩ Khố chết mất hai đệ tử thương yêu, trong bụng thật là đau đớn, không ngừng chùi nước mắt. Tô Lỗ Khắc cũng không còn dám trêu chọc y, ngược lại nói đôi lời an ủi: – Hai tên cường đạo người Hán vào trong mê cung rồi không thấy tăm hơi đâu, chắc là bị ác quỷ trong đó giết rồi. Thế cũng xong, hai tên giặc đó thật đáng đời chúng nó.
A Mạn nói: – Thôi mình cứ theo đường cũ mà về, từ rày… từ rày vĩnh viễn không bao giờ quay lại đây nữa.
Xa Nhĩ Khố đáp: – Đại đội nhân mã của bộ tộc mình sắp kéo đến đây rồi, phải cho họ biết, đừng để anh em nào tiến vào, ai vào là chết tươi đấy.
Tô Lỗ Khắc nói: – Đúng lắm. Chỉ nên ở bên ngoài mê cung, thì… thì sẽ không sao cả.
Có sao hay không thật cũng chẳng ai biết. Thế nhưng năm người đi ra đến sáu bảy dặm, đến một khu đất trống rồi lúc ấy mới dừng bước. Tô Lỗ Khắc nói: – Ác quỷ sợ ánh mặt trời, nó muốn đuổi theo mình đến chỗ đồng trống này thể nào cũng bị nắng cháy.
A Mạn nói: – Thế tối thì sao?
Tô Lỗ Khắc gãi gãi đầu, không sao trả lời được.
Nhưng may sao đến tối thì đội nhân mã đầu tiên đã đến nơi. Tô Lỗ Khắc vội kể chuyện tìm ra mê cung, trong cung có ác quỷ hại người như thế nào kể cho mọi người nghe. Tuy đông người mật lớn, chẳng ai dám đề nghị đi vào thám hiểm. Đội thứ hai, đội thứ ba lần lượt kéo đến, mấy trăm người ở nơi đất bằng này nghỉ ngơi. Cứ mỗi nhóm độ mươi người lại gầy một đống lửa, nghĩ rằng ác quỷ dù hung dữ nhưng chắc cũng sợ ánh sáng.
Lý Văn Tú nằm dựa vào một khối đá, trong bụng nghĩ thầm: “Cha mẹ ta hàng vạn dặm từ Trung Nguyên đến đất Hồi Cương, cũng chỉ vì muốn tìm đến Cao Xương mê cung. Hai người chưa tìm được đến nơi thì đã táng mạng. Thực ra nếu có kiếm được chăng nữa, phần lớn cũng bị ác quỷ trong cung giết chết, trừ khi nghe tiếng quỷ liền lùi ra ngay. Thế nhưng cha ta, mẹ ta một thân võ công, không đời nào lại nghe lời ác quỷ. Ôi, người võ công có cao bao nhiêu, nhưng làm sao đánh lại được quỷ quái?.”
Đột nhiên từ sau có tiếng người đi rón rén đến gần, ghé tai nói nhỏ: “A Tú.” Lý Văn Tú mừng quá, vội nhỏm dậy kêu lên: – Kế gia gia, ông cũng đến đấy ư?
Kế lão nói: – Ta không yên lòng nên đi theo đại đội đến kiếm ngươi đây.
Lý Văn Tú trong lòng cảm kích, cầm tay ông ta, nói: – Đường đi thật gian nan, ông tuổi đã lớn rồi, chắc khổ sở lắm, mau ngồi xuống nghỉ đi.
Kế lão bèn ngồi xuống bên cạnh nàng, bỗng từ phương tây vọng lại mấy tiếng cú rúc chói tai, thật là khó nghe. Cả bọn không hẹn mà cùng hướng về phía tiếng chim, chỉ thấy một con vật gì trắng toát, từ trong đêm tối lao vụt ra, đến cách chỗ mọi người chừng bốn trượng, đứng yên không động đậy, nhìn ra thì là một bóng người, dưới ánh lửa thấp thoáng, con quái vật đó khoác một tấm vải trắng, mặt đầy những máu, trên áo cũng máu me vương vãi, thân hình thật cao, phải hơn người thường đến năm thước. Trong đêm tối hình ảnh đó cực kỳ đáng sợ. Con quỷ đó vươn hai tay, mười móng tay so với ngón tay còn dài hơn, tay cũng đầy máu.
Cả bọn không ai dám thở, chỉ chăm chăm nhìn nó.
Con quỷ quái đó lại cười hinh hích, eo éo nói: – Ta ở mê cung ở đã một nghìn năm, không để cho ai làm rộn, sao các ngươi dám lớn mật đến thế?
Nó nói bằng tiếng Cáp Tát Khắc, chính là thanh âm Lý Văn Tú đã nghe trong mê cung lúc ban ngày. Con quái vật đó từ từ quay lại, hai tay nhắm ngay một con ngựa cách xa chừng ba trượng, kêu lớn: – Chết này!
Nó lập tức xoay người đi mất, chỉ nháy mắt đã không còn thấy hình bóng đâu. Con quỷ đó chợt đến, chợt đi, thật là đáng sợ, mãi đến khi nó đi một lúc rồi, mọi người mới kinh hoảng kêu la. Con ngựa bị nó chỉ vào bốn chân khuỵu xuống, ngã ra chết rồi. Mọi người chen nhau đến coi, thấy con vật toàn thân không có thương tích gì, mũi mồm cũng không chảy máu, không biết trúng phải phép ma phép quái gì mà chết.
Mọi người cùng nói: – Đúng quỷ rồi, đúng quỷ rồi.
Có người nói: – Ta đã bảo Đại Qua Bích có quỷ mà!
Người khác nói: – Mê cung đó hàng ngàn năm không ai dám vào, dĩ nhiên có quỷ canh giữ.
Lại người khác nói: – Nghe nói quỷ quái không có chân, xem con quỷ này có dấu chân không nào?
Mọi người liền cầm đuốc, đến chỗ con quỉ bỏ đi soi tìm, thấy cứ năm thước lại có một cái lỗ nhỏ, dấu chân người không thể nhỏ như thế, hai dấu cách nhau cũng không thể xa như thế.
Chuyện xảy ra như vậy không ai còn hồ nghi, chắc chắn là quỷ quái trong mê cung ra phá phách, đều nói: – Dù trong mê cung có cái gì chăng nữa thì mình cũng chẳng thèm. Sáng sớm ngày mai, tất cả rút trở về.
Đêm đó người nào cũng phập phồng lo sợ, nhưng hôm sau khi mặt trời lên thì không ai còn sợ hãi như trước nữa. Một số thanh niên bàn nhau nên vào mê cung xem cho biết. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố đều xẵng giọng ngăn lại, bảo là nếu như muốn vào mê cung thì phải bàn cho kĩ lưỡng tìm một cách thức an toàn.
Bàn tán cả ngày nhưng có ra cách thức nào đâu? Tuy nhiên tất cả đồng ý ở lại thêm một đêm, ngày mai tính lại. Đến khoảng gần giờ hợi, chính là lúc quỷ quái xuất hiện đêm trước, lại nghe thấy phương tây ba tiếng cú rúc, cả bọn ai nấy đều nổi da gà. Con quỷ áo trắng chân dài, toàn thân đầy máu lại vụt tới, đứng cách chừng vài trượng, eo éo nói: – Các ngươi chưa chịu về phải không? Cứ ở loanh quanh đây thêm một đêm nữa, từng đứa từng đứa ta sẽ cho chết không kịp ngáp. Ta ở trong cung một nghìn năm qua không ai dám vào, chúng bay lớn mật thật.
Nói tới đây nó lại từ từ quay đầu, hai tay chỉ vào một thanh niên đứng tận đằng xa, kêu lên: – Chết này!
Nói xong, nó lập tức rút về chạy mất, dưới ánh trăng thấy nó chạy mỗi lúc một xa, sau cùng biến mất. Chỉ thấy thanh niên kia từ từ sụm xuống, không nói được một câu, chết ngay lập tức, trên người cũng không có vết thương nào. Đêm qua chỉ mới chết một con ngựa, hôm nay lại giết một thanh niên khỏe mạnh. Như thế còn ai dám ở bây giờ? Huống chi bọn Tô Lỗ Khắc lại nói là trong mê cung nào có báu vật gì đâu, đến một cục vàng cục bạc cũng không. Nếu chẳng phải vì trời tối, cả bọn chắc đã lên đường chạy rồi.
Hôm sau trời vừa hửng sáng, cả bọn đã lếch thếch quay về.
Lý Văn Tú hôm trước đã đến xem kĩ xác con ngựa, bây giờ lại đến coi thi thể chàng thanh niên, trong bụng không còn hoài nghi gì nữa, nói lẩm bẩm: “Cái này không phải ác quỷ.”
Bỗng dưng đằng sau có tiếng người run run: – Đúng là ác quỷ, đúng là ác quỷ! A Tú, so với ác quỷ còn đáng sợ hơn, thôi mình đi về.
Không biết từ bao giờ, Kế lão đã đứng ngay sau lưng nàng. Lý Văn Tú thở dài nói: – Được, thôi mình đi về.
Đột nhiên nghe tiếng Tô Phổ kêu thất thanh: – A Mạn, A Mạn, em ở đâu?
Xa Nhĩ Khố kinh hoảng hỏi: – A Mạn không đi với ngươi ư?
Nói xong y cất tiếng gọi lớn: – A Mạn, A Mạn! Thôi mình đi về.
Lập tức chạy đi tìm con gái. Tô Phổ cũng vừa kêu “A Mạn” vừa chạy lên một cái gò, nhìn bốn bề, bỗng thấy phía tây cạnh đường có một cái khăn choàng đầu thêu hoa, vội vàng chạy tới nhặt lên xem, chính là khăn của A Mạn. Y hoảng không để đâu cho hết, kêu lớn: – A Mạn bị ác quỷ bắt đi rồi.
Lúc này đoàn người đi đã xa, ngay cả xác của Lạc Đà, Tang Tư Nhi, và chàng thanh niên cũng đã khiêng đi rồi, ở lại chỉ còn có Tô Lỗ Khắc, Xa Nhĩ Khố, Tô Phổ, Lý Văn Tú và Kế lão năm người thôi. Cả bọn nghe Tô Phổ hoảng hốt kêu vội chạy tới hỏi han. Tô Phổ cầm chiếc khăn hoa, chân tay rụng rời nói: – Cái này của A Mạn. Nàng… nàng… bị ác quỷ bắt mất rồi.
Lý Văn Tú hỏi lại: – Bắt đi lúc nào?
Tô Phổ đáp: – Ta không biết. Chắc là đêm hôm qua. Nàng… nàng ngủ chung với mấy cô bạn gái, sáng nay không còn thấy đâu nữa.
Y ngơ ngẩn một hồi, đột nhiên nhắm hướng mê cung lao mình chạy tới, vừa chạy vừa kêu: – Ta thề cùng chết với A Mạn.
A Mạn bị ác quỷ bắt đi rồi, y làm gì có tài cứu được nàng về. Thế nhưng nếu A Mạn chết rồi, y cũng chẳng muốn sống làm gì nữa. Tô Lỗ Khắc gọi vói theo: – Tô Phổ, Tô Phổ, thằng ngu, mau quay lại, ngươi không sợ chết ư?
Thấy con mình càng chạy càng xa, tình cha con sau cùng thắng được nỗi sợ ác quỉ, y cũng chạy theo. Xa Nhĩ Khố ngơ ngẩn, kêu lên: – A Mạn, A Mạn!
Rồi cũng chạy theo hai người kia. Kế lão lắc đầu: – A Tú, thôi mình đi về.
Lý Văn Tú nói: – Không, Kế gia gia, cháu phải đi cứu họ.
Kế lão nói: – Ngươi đánh không lại ác quỷ đâu.
Lý Văn Tú nói: – Không phải ác quỷ, người đó.
Kế lão đột nhiên giơ tay ra, nắm chặt tay Lý Văn Tú, run run nói: – A Tú, dẫu có là người, y so với ác quỷ còn đáng sợ hơn. Ngươi nghe lời ta, mình đi về thôi, đi cho thật xa. Mình là người Hán, không thể ở Hồi Cương được, ngươi và ta cùng về Trung Nguyên.
Lý Văn Tú thấy Tô Phổ ba người càng lúc càng xa, trong bụng bồn chồn, cố giãy ra, nào ngờ Kế lão tuy tuổi đã cao, sức lực không phải tầm thường, liên tiếp mấy lần vẫn không thoát ra được. Nàng kêu lên: – Bỏ tay cháu ra. Tô Phổ, Tô Phổ cũng bị nó giết mất.
Kế lão thấy nàng mặt đỏ gay, bộ dạng thật là gấp rút, đành thở dài một tiếng, bỏ tay nàng ra buồn bã nói: – Vì chàng thanh niên Cáp Tát Khắc kia, ngươi chẳng coi cái gì vào đâu.
Lý Văn Tú vừa thoát được liền quay đầu chạy ngay, không nghe Kế lão nói gì. Nàng chạy một mạch đến trước mê cung, thấy Tô Phổ tay đang múa đao, vừa múa vừa gào: – Ác quỷ chết tiệt kia, ngươi giết chết A Mạn, thì giết luôn ta đi. A Mạn chết rồi, ta còn sống làm gì. Ta là Tô Phổ, ngươi có giỏi ra đây cùng ta quyết đấu, ngươi sợ ta hay sao?
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.