Bản Chất Của Dối Trá

Chương 6



Lừa dối bản thân

Hãy hình dung bạn là một chú cua trên một bãi biển cát trắng mịn màng. Thủy triều đang rút ra xa bờ, để lại một trảng cát rộng còn đẫm nước. Bỗng nhiên, bạn trông thấy ngay trước mắt mình một nàng cua xinh xắn. Cùng lúc đó, bạn cũng nhận thấy cuộc giao tranh với những chú cua khác để lọt vào mắt xanh của nàng cua đang đến rất gần. Bạn biết cách xử lý tốt nhất trong tình huống này chính là xua đuổi những chàng cua khác. Nhờ thế, bạn sẽ không phải giao chiến và chẳng may làm bản thân bị thương. Vì vậy, bạn buộc phải chứng tỏ với các chú cua khác rằng bạn to lớn và mạnh mẽ hơn họ. Càng tiến gần đến cuộc giao tranh, bạn biết mình phải gây ấn tượng mạnh mẽ hơn về kích thước của mình. Song, nếu chỉ giả vờ tỏ ra to lớn hơn bằng cách nhón trên các khớp chân và khua càng một cách miễn cưỡng, bạn có thể tự loại mình khỏi vòng chiến? Vậy, bạn phải làm thế nào?

Điều bạn cần làm là tự động viên bản thân và bắt đầu tin rằng bạn là một chú cua to lớn và ghê gớm hơn thực tế. Do “biết rằng” mình là chú cua to lớn nhất trên bãi biển, bạn sẽ vươn mình cao nhất có thể trên những cặp chân sau và vung đôi càng càng xa rộng càng tốt. Nếu tin tưởng vào lời bịa đặt này của bản thân, bạn sẽ không chùn bước. Và lòng tự tin (thái quá) của bạn sẽ áp đảo đối phương.

GIỜ HÃY TRỞ LẠI với câu chuyện. Là con người, chúng ta luôn có những phương thức tâng bốc bản thân tinh vi hơn so với các bản sao trong giới tự nhiên. Chúng ta có khả năng nói dối – không chỉ với người khác, mà ngay với bản thân mình. “Tự lừa dối” là một phương sách hữu hiệu giúp chúng ta tin vào câu chuyện do chính mình bịa ra; và nếu thành công, chúng ta sẽ bớt cảm thấy nao núng hoặc bất chợt thể hiện một con người khác với nhân vật mình đang “sắm vai.” Ở đây, tôi không đề cao việc nói dối như một phương thức giúp chúng ta chinh phục một người bạn đời, một công việc hay điều gì khác. Tuy nhiên, trọng tâm của chương này sẽ mở ra những phương pháp giúp chúng ta thành công trong việc lừa dối bản thân, như cách ta vẫn làm với những người xung quanh.

Tất nhiên, chúng ta không thể lập tức tin vào mọi lời dối trá của chính mình. Đơn cử, hãy tưởng tượng bạn là một chàng trai đang tham gia sự kiện hẹn hò chớp nhoáng, và đang cố gắng gây ấn tượng với một cô gái quyến rũ. Bỗng nhiên, bạn chợt nghĩ ra một ý tưởng táo bạo: bạn kể với cô nàng rằng mình có bằng phi công. Nhưng thậm chí nếu bạn có khiến cô ta tin sái cổ, thì bạn cũng khó lòng tự thuyết phục bản thân rằng: thực tế, bạn có bằng phi công; và trong chuyến bay sắp tới, bạn sẽ cho cơ trưởng lời khuyên để giúp ông hạ cánh tốt hơn. Mặt khác, hãy giả sử bạn đang chạy bộ với một người bạn và bàn luận về những lần chạy tốt nhất của mình. Bạn kể rằng mình đã từng chạy hết một dặm trong chưa đầy 7 phút, nhưng trên thực tế, thành tích tốt nhất của bạn lại nhỉnh hơn 7 phút vài giây. Vài ngày sau, bạn lại khoe điều tương tự với một người khác. Sau khi lặp lại những lời phóng đại từ ngày này sang ngày khác, cuối cùng, bạn có thể sẽ quên rằng mình thật sự vẫn chưa phá kỷ lục 7 phút. Thậm chí, bạn có thể tin tưởng đến mức sẵn sàng đặt cược vào điều đó.

HÃY ĐỂ TÔI kể với bạn câu chuyện về một lần tôi phải tự lừa dối bản thân. Mùa hè năm 1989 – khoảng hai năm sau khi tôi xuất viện – Ken, bạn tôi và tôi đã bay từ New York đến London để ghé thăm một người bạn khác. Chúng tôi đã bay chuyến rẻ nhất đến London – thuộc hãng hàng không Air India. Khi ta-xi thả chúng tôi ở cửa sân bay, cả hai đã choáng váng khi chứng kiến cảnh đoàn người xếp hàng vào nhà chờ. Ken nhanh chóng nảy ra một ý tưởng: “Sao cậu không thử dùng xe lăn xem sao?” Tôi suy nghĩ về sáng kiến này: nếu nghe theo Ken, không những tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn, mà cả hai còn có thể vào trong mau chóng hơn. (Thú thật, tôi rất khó đứng lâu vì máu lưu thông trong hai chân vẫn chưa ổn lắm. Nhưng tôi thật sự không cần đến xe lăn.)

Chúng tôi đều đồng ý đây là kế hoạch tốt, nên Ken đã nhảy ra khỏi ta-xi và quay lại với một chiếc xe lăn. Chúng tôi lướt nhanh qua quầy đăng ký, và do vẫn còn hai tiếng rảnh rỗi, tôi và Ken có thể cùng thưởng thức cà phê và bánh mì kẹp. Khi lên máy bay, ghế chúng tôi ở hàng thứ 30; và khi đến gần cửa ra vào, tôi mới nhận ra chiếc xe lăn quá lớn so với hành lang. Do đó, chúng tôi phải cố làm đúng như vai diễn yêu cầu: Tôi rời xe lăn ngay cửa máy bay, bá vai Ken, và để anh cõng tôi đến ghế ngồi.

Trong khi chờ máy bay cất cánh, tôi cảm thấy rất khó chịu vì buồng vệ sinh trong sân bay không hỗ trợ cho người khuyết tật, và hãng hàng không cũng không cung cấp cho tôi chiếc xe lăn vừa với ghế ngồi. Lửa giận trong tôi còn bốc cao hơn khi phát hiện tôi không thể uống giọt nước nào trong suốt 6 giờ bay, vì không cách gì sử dụng được buồng vệ sinh trên không. Khó khăn lại tiếp tục phát sinh khi chúng tôi hạ cánh xuống London. Một lần nữa, Ken phải tháp tùng tôi đến cửa ra, và do máy bay không có sẵn xe lăn, chúng tôi đành phải ngồi đợi.

Chỉ một chuyến phiêu lưu ngắn cũng đủ khiến tôi cảm thông với những bức xúc mà người khuyết tật trên khắp thế giới phải chịu đựng hàng ngày. Quả thực, tôi đã phẫn nộ đến mức quyết định phản ánh với trụ sở Air India lại London. Khi xe lăn vừa đến, Ken đã đẩy tôi đến văn phòng Air India; và với lòng căm phẫn cao độ, tôi đã diễn tả lại từng nỗi khó khăn và tủi nhục mình phải chịu đựng, đồng thời quở trách trụ sở Air India tại địa phương vì đã thiếu quan tâm đến những người khiếm khuyết từ khắp mọi nơi. Tất nhiên, người đại diện phải rối rít xin lỗi tôi, và sau đó chúng tôi rời khỏi văn phòng.

Điều kỳ lạ chính là: trong suốt chuyến đi, tôi vẫn biết rõ mình có thể đi lại bình thường, nhưng tôi đã nhập vai nhanh chóng và nhuần nhuyễn đến mức trong thâm tâm tôi cũng có cảm giác rằng: mình có lý do chính đáng để bực tức.

NHẰM XEM XÉT một cách nghiêm túc về sự tự lừa dối, Zoë Chance (học viên trên tiến sĩ tại Yale), Mike Norton, Francesca Gino và tôi đã quyết định tìm hiểu chi tiết hơn về cách thức và thời điểm chúng ta “dụ dỗ” bản thân tin vào lời nói dối do chính mình bịa ra, cũng như khám phá những phương pháp giúp ngăn chặn điều đó.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc nghiên cứu, người tham gia sẽ tiến hành một bài kiểm tra dạng IQ gồm 8 câu hỏi (chẳng hạn, một trong các câu hỏi sẽ là: “Số nào là ½ của ¼ của 1/10 của 400?”). Sau khi hoàn thành bài trắc nghiệm, người tham gia thuộc nhóm được giám sát sẽ nộp lại câu trả lời cho người phụ trách – người trực tiếp kiểm tra đáp án của họ. Nhờ thế, chúng tôi có thể tính toán thành tích trung bình của bài kiểm tra.

Trong tình huống cho phép gian lận, người tham gia sẽ được cho sẵn đáp án ở cuối trang. Họ cũng được thông báo rằng đáp án đã có sẵn nhằm giúp họ tự đánh giá xem mình trả lời tốt đến đâu. Tuy nhiên, họ phải trả lời câu hỏi trước và chỉ được xem đáp án để kiểm tra lại. Sau khi trả lời toàn bộ câu hỏi, người tham gia sẽ kiểm tra đáp án một lần nữa và báo cáo với giám sát viên.

Sau giai đoạn đầu của nghiên cứu, chúng tôi đã nhận được gì? Đúng như dự kiến, nhóm người chơi có cơ hội “kiểm tra đáp án” đã ghi được nhiều điểm số hơn mức bình quân, và cho thấy rằng họ đã sử dụng đáp án không chỉ để tự đánh giá, mà còn nhằm cải thiện thành tích của bản thân. Cũng như các thí nghiệm trước, chúng tôi nhận thấy người chơi đã gian lận khi có cơ hội, nhưng với mức độ không quá cao.

Tự giúp mình đạt điểm MENSA cao hơn

Bố cục của thí nghiệm trên đã được lấy cảm hứng từ một trong các tạp chí giới thiệu bạn có thể tìm thấy ở sau ghế máy bay. Trên một chuyến bay nọ, tôi đã lướt qua một cuốn tạp chí và khám phá ra bài trắc nghiệm MENSA (gồm một nhóm câu hỏi thử trí thông minh). Do sẵn máu hiếu thắng trong người, tôi quyết định thử sức. Chỉ dẫn trong bài viết cho biết các đáp án đã có sẵn ở mặt sau tạp chí. Sau khi trả lời câu hỏi đầu tiên, tôi liền giở ra sau để xem đáp án; và lạ chưa kìa! Tôi đã đáp đúng. Nhưng khi tiếp tục bài trắc nghiệm, tôi chợt nhận ra rằng mỗi khi kiểm tra các câu đã làm, mắt tôi cũng vô tình liếc sang đáp án tiếp theo. Do đã nhìn thoáng qua đáp án của câu hỏi kế, tôi có thể giải quyết chúng nhanh gọn hơn rất nhiều. Đến cuối bài trắc nghiệm, tôi đã trả lời đúng gần hết các câu hỏi, và điều đó khiến tôi chắc mẩm mình là một kiểu thiên tài nào đấy. Nhưng rồi, tôi buộc phải tự hỏi rằng phải chăng mình đạt điểm cao vì sở hữu một trí tuệ siêu phàm, hay chỉ vì đã nhìn trước đáp án qua khóe mắt (lẽ tất nhiên, trong thâm tâm tôi vẫn quy chúng cho đầu óc sáng suốt của mình).

Tình huống cơ bản tương tự cũng có thể xảy đến với bất kỳ bài kiểm tra nào nếu đáp án được in sẵn ở mặt sau hay in ngược ở cuối trang, như ta vẫn thường gặp trong các tạp chí hay tài liệu hướng dẫn ôn tập SAT. Chúng ta thường lợi dụng các đáp án này khi ôn tập kiểm tra nhằm tự thuyết phục bản thân rằng ta là kẻ thông minh; và nếu chẳng may trả lời sai, ta cũng chỉ xem đó là sai lầm ngớ ngẩn và nhất quyết sẽ không mắc lại trong kỳ thi thật. Dù sao chăng nữa, ta cũng cảm thấy đắc ý do đã tự thổi phồng trí thông minh của mình – và đó là điều chúng ta sẽ vui vẻ đón nhận.

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU từ thí nghiệm đã cho thấy rằng: người tham gia có khuynh hướng tìm kiếm câu trả lời như một cách cải thiện điểm số của họ. Nhưng kết quả này vẫn chưa cho biết liệu họ có thật sự dính líu đến một tình huống gian lận kệch cỡm hay không, hoặc họ chỉ đang tự lừa dối bản thân. Nói cách khác, chúng ta vẫn chưa biết liệu người tham gia có hiểu rõ rằng họ đang gian lận, hay chỉ tự thuyết phục rằng họ đã biết trước câu trả lời đúng ngay từ đầu. Để tìm hiểu điều này, chúng tôi đã bổ sung một yếu tố mới trong thí nghiệm tiếp theo.

Hãy hình dung bạn đang tham gia một thí nghiệm tương tự như tình huống đầu tiên. Bạn nhận một bảng trắc nghiệm gồm 8 câu hỏi và trả lời đúng 4 câu (tương đương 50%); nhưng nhờ xem đáp án cuối trang, bạn cam đoan rằng mình đã giải đúng 6 câu hỏi (hay 75%). Đến đây, bạn sẽ cho rằng khả năng thật sự của mình chỉ nằm trong khoảng 50%, hay lên đến 75%? Một mặt, bạn có thể ý thức rằng mình đã lợi dụng đáp án nhằm thổi phồng điểm số. Mặt khác, do biết rõ bạn sẽ được trả thưởng tương ứng với 6 câu trả lời đúng, bạn có thể sẽ tự thuyết phục bản thân rằng mình đủ khả năng giải đúng 75% câu hỏi.

Đây chính là thời điểm bắt đầu giai đoạn hai của thí nghiệm. Sau khi hoàn thành bài trắc nghiệm toán học, giám sát viên sẽ yêu cầu bạn dự đoán thành tích của mình trong phần kiểm tra tiếp theo; cụ thể, bạn sẽ phải trả lời 100 câu hỏi trong điều kiện tương tự. Nhưng tất nhiên, lần này sẽ không có đáp án nào in sẵn ở cuối trang (do đó bạn cũng chẳng còn cơ hội tham khảo). Bạn dự đoán mình sẽ đạt thành tích ra sao trong bài trắc nghiệm kế tiếp? Liệu nó sẽ ứng với thực lực của bạn trong giai đoạn đầu (50%), hay ứng với khả năng được thổi phồng (75%)? Ta có thể lý luận như sau: nếu bạn thừa nhận đã lợi dụng đáp án để thổi phồng điểm số một cách giả tạo trong bài kiểm tra trước, bạn sẽ dự đoán mình chỉ giải đúng được số phần trăm câu hỏi ứng với tình huống không được trợ giúp (tương đương 4 trên 8 câu, hay 50%). Nhưng hãy giả sử rằng bạn bắt đầu tin tưởng mình thật sự đã giải đúng được 6 câu hỏi bằng thực lực bản thân, chứ không vì đã xem trước câu trả lời. Lúc này, bạn sẽ dự đoán rằng mình có thể giải đúng được số phần trăm câu hỏi cao hơn (tương đương 75%). Hiển nhiên, bạn thực chất chỉ có thể giải đúng khoảng một nửa số câu hỏi, nhưng chính sự tự lừa dối đã tâng bốc bạn – như một chú cua hung hăng – và giúp bạn tự tin hơn vào khả năng của mình.

Kết quả cho thấy rằng những người tham gia đã lựa chọn phương án sau: tự tâng bốc bản thân. Các con số dự đoán về thành tích của họ trong giai đoạn hai của thí nghiệm không chỉ chứng minh họ đã lợi dụng đáp án hòng phóng đại điểm số trong giai đoạn đầu, mà còn nhanh chóng thuyết phục bản thân rằng họ đã tự mình đạt đến điểm số đó. Về cơ bản, những ai có cơ hội kiểm tra lại đáp án trong giai đoạn đầu (và gian lận) đã dần tin tưởng rằng thành tích được phóng đại nói trên chính là minh chứng cho thực lực của họ.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta quyết định trả thưởng để người chơi dự đoán chính xác điểm số của họ trong giai đoạn hai? Với sự góp mặt của đồng tiền, rất có thể người tham gia sẽ không dễ dàng bỏ qua sự thật rằng họ đã lợi dụng đáp án hòng cải thiện điểm số trong bài trắc nghiệm trước. Lần này, chúng tôi đã lặp lại thí nghiệm trên với một nhóm người chơi mới, và treo thưởng số tiền lên đến 20 đô-la cho những ai dự đoán chính xác thành tích của họ trong giai đoạn hai. Tuy nhiên, ngay cả khi được khích lệ bằng tiền bạc, họ vẫn quyết định đặt trọn niềm tin vào điểm số và tiếp tục đánh giá quá cao khả năng của mình. Như vậy, bất chấp một động cơ mạnh mẽ hòng giúp ta xác định đúng thực lực, bản tính tự lừa dối vẫn tỏ ra thắng thế.

TÔI ĐÃ BIẾT CẢ RỒI

Tôi đã có không ít bài phát biểu về nghiên cứu của mình trước nhiều đối tượng khán giả khác nhau, từ các trường viện cho đến doanh nghiệp. Khi bắt đầu diễn thuyết, tôi luôn mô tả rõ về thí nghiệm chúng tôi đã tiến hành, các kết quả thu được, và cuối cùng là bài học rút ra từ chúng. Song, tôi cũng thường xuyên nhận thấy một số khán giả có vẻ không mấy ngạc nhiên về các số liệu tôi trình bày, và sẵn sàng thừa nhận với tôi điều đó. Tôi rất lấy làm khó hiểu; bởi trên tư cách người đích thân tiến hành nghiên cứu, bản thân tôi cũng không ít lần sửng sốt trước kết quả mình thu được. Tôi tự hỏi, liệu những khán giả này có thật sự uyên bác đến thế không? Làm thế nào họ lại biết được kết quả sớm hơn tôi? Hoặc có khi nào đó chỉ là cảm giác gợi nhớ do trực giác hay không?

Cuối cùng, tôi đã tìm ra cách ứng phó với cảm giác “Tôi đã biết cả rồi” này. Tôi bắt đầu đề nghị khán giả dự đoán kết quả từ các thí nghiệm. Sau khi trình bày phương thức và dữ liệu đánh giá, tôi luôn dành cho họ vài giây suy nghĩ về chúng. Sau đó, tôi sẽ yêu cầu họ bình chọn kết quả đúng hoặc viết ra dự đoán của mình. Chỉ khi họ đã đưa ra câu trả lời của mình, tôi mới công bố kết quả. Tin tốt là phương pháp này tỏ ra khá hiệu quả. Nhờ luôn lưu ý “hỏi trước,” tôi đã tránh được những phản hồi kiểu “Tôi đã biết cả rồi.”

Nhân danh bản năng tự nhiên nhằm tự thuyết phục rằng chúng ta luôn biết rõ mọi câu trả lời, tôi đã gọi trung tâm nghiên cứu của mình tại Đại học Duke là “Trung tâm nhận thức muộn nâng cao.”

Sự ham thích phóng đại

Nhiều năm về trước – vào khoảng đầu thập niên 1990 – đạo diễn điện ảnh lừng danh Stanley Kubrick đã bắt đầu nghe được từ người trợ lý chuyện về một kẻ chuyên giả mạo ông. Gã tưởng-mình-là-Kubrick này (vốn tên thật là Alan Conway và chẳng có nét gì giống với vị đạo diễn râu rậm cả) đã đi khắp London và khoe khoang với mọi người hắn nổi tiếng ra sao. Do Stanley Kubrick là người sống khép kín và luôn tránh mặt các tay săn ảnh, nên hầu hết mọi người đều không rõ ông trông thế nào. Do vậy, đã có rất nhiều người cả tin rêu rao rằng họ quen thân với vị đạo diễn nổi tiếng, và hăm hở cắn câu của Conway. Hãng Warner Bros. – vốn là nhà tài trợ và phân phối các bộ phim của Kubrick – bắt đầu gọi điện đến văn phòng ông mỗi ngày với lời phàn nàn từ những người không hiểu vì sao “Stanley” không liên lạc lại với họ. Xét cho cùng, họ đã mời ông ăn uống và dùng bữa tối, thậm chí trả cả tiền ta-xi cho ông, và ông cũng hứa sẽ mời họ tham gia bộ phim sắp tới.

Một ngày nọ, Frank Rich (cựu chuyên gia phê bình sân khấu và là người phụ trách trang 3 của tờ New York Times) có hẹn dùng bữa tối với vợ ông và một cặp đôi khác tại một nhà hàng London. Cùng lúc đó, kẻ giả mạo Kubrick cũng đang ngồi chung bàn với một nghị sĩ được phong tước cùng một số thanh niên trẻ, và kể họ nghe về hành trình sáng tạo những kiệt tác điện ảnh của hắn. Khi trông thấy Rich ở bàn bên, hắn bèn tiến lại phía ông và bảo với nhà phê bình rằng hắn đang có ý kiện tờ báo này vì đã gọi hắn là kẻ “sáng tạo trong âm thầm.” Hân hoan vì được gặp “Kubrick” kín tiếng bằng xương bằng thịt, Rich đã mời hắn tham gia phỏng vấn. Conway bảo Rich gọi lại cho hắn, cho ông số điện thoại nhà, và rồi… lặn mất tăm.

Không lâu sau cuộc chạm trán trên, mọi chuyện về Conway đã dần sáng tỏ, và Rich cùng những người khác từng bị hắn qua mặt cũng nhanh chóng tỉnh ngộ. Cuối cùng, sự thật cũng được phơi bày khi Conway tìm cách bán câu chuyện của hắn cho các phóng viên. Hắn khăng khăng rằng mình là một bệnh nhân rối loạn tâm thần đang hồi phục. (“Thật kỳ quái. Kubrick đã ám ảnh tôi. Tôi đã thật sự tin rằng tôi là ông ấy!”) Cuối cùng, Conway đã chết như một tên nát rượu không xu dính túi, chỉ 4 tháng trước khi Kubrick qua đời.

Tuy câu chuyện trên nghe thật hoang đường, nhưng rất có thể Conway đã tin rằng hắn là Kubrick thật khi diễu khắp phố phường với lớp vỏ bọc như thế, và dấy lên câu hỏi rằng liệu có ai đó trong chúng ta lại tin vào lời bịp bợm của chính mình hơn cả người khác hay không. Nhằm xem xét khả năng trên, tôi đã tiến hành một thí nghiệm tái hiện lại bài kiểm tra tự lừa dối cơ bản; nhưng lần này, chúng tôi đã đồng thời tính toán khả năng người tham gia làm ngơ trước thất bại của họ. Để đánh giá khuynh hướng này, chúng tôi đã yêu cầu người chơi lựa chọn đồng tình hoặc không đồng tình với một số phát biểu, chẳng hạn như “Ấn tượng đầu tiên của tôi về người khác luôn đúng” hoặc “Tôi không bao giờ che giấu sai lầm.” Chúng tôi muốn xem liệu những người chọn cách trả lời “đúng” cho nhiều câu hỏi hơn cũng có khuynh hướng tự lừa dối bản thân cao hơn trong thí nghiệm này hay không.

Cũng như các lần trước, chúng tôi nhận thấy những người chơi trong tình huống có sẵn câu trả lời đã gian lận để đạt điểm số cao hơn. Một lần nữa, họ đã dự đoán sẽ trả lời chính xác nhiều câu hỏi hơn trong thử thách tiếp theo. Và một lần nữa, họ lại mất tiền thưởng vì đã quá tự phụ về điểm số và kỳ vọng thái quá về thực lực của mình. Còn những người đã chọn nhiều đáp án “đúng” hơn đối với các phát biểu đề cập đến khuynh hướng của họ thì thế nào? Có rất nhiều người như thế, và họ chính là những người chơi dự đoán mình sẽ đạt điểm số cao nhất cho phần kiểm tra trong giai đoạn hai.

CỰU CHIẾN BINH ANH HÙNG Ư?

Năm 1959, Walter Williams, “người cựu chiến binh cuối cùng thời Nội chiến,” đã qua đời. Tang lễ của ông được cử hành theo nghi thức trọng thể, bao gồm một cuộc diễu hành lớn trước sự chứng kiến của 10 nghìn người, và được để tang suốt một tuần lễ. Tuy nhiên, nhiều năm sau, một phóng viên tên William Marvel đã phát hiện Williams chỉ vừa tròn 5 tuổi khi cuộc chiến nổ ra, đồng nghĩa ông chưa đủ tuổi để phục vụ trong quân ngũ dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, sự thật còn tồi tệ hơn thế. Huy hiệu chôn cùng Walter Williams thực chất đã được trao cho ông từ tay John Salling – theo điều tra của Marvel, nhân vật này cũng đã tự mạo nhận là cựu chiến binh sống thọ nhất từ thời Nội chiến. Thậm chí, Marvel đã khẳng định rằng khoảng một tá cựu chiến binh cuối cùng còn sống sót từ thời Nội chiến đều là kẻ giả mạo.

Những câu chuyện như trên tồn tại rất nhiều, thậm chí trong cả những cuộc chiến gần đây, dù có người sẽ cho rằng rất khó để bịa ra và giữ vững một tuyên bố như thế. Chẳng hạn, Trung sĩ Thomas Larez đã phải nhận vô số vết thương do đạn bắn trong khi chiến đấu với quân Taliban tại Afghanistan, do cố gắng đưa một chiến sĩ bị thương về nơi an toàn. Anh không những đã cứu sống đồng đội của mình, mà còn bất chấp thương tích để tiêu diệt 7 tên lính Taliban. Do vậy, khi chiến công của Larez được tường thuật trên kênh tin tức Dallas – nhưng sau đó buộc phải rút lại vì tuy Larez đúng thật là thủy quân lục chiến, nhưng anh chưa từng chiến đấu tại đâu gần Afghanistan – họ vẫn chưa biết toàn bộ câu chuyện chỉ là dối trá.

Phóng viên thường là người lật tẩy những tuyên bố giả dối. Nhưng đôi lúc, chính họ lại là kẻ bịp bợm. Phóng viên kỳ cựu Dan Rather đã từng sụt sùi kể lại quãng thời gian ông phục vụ trong hàng ngũ thủy quân lục chiến, dù ông thậm chí còn chưa từng trải qua một khóa huấn luyện cơ bản nào. Ông hẳn đã rất tin tưởng vào tuyên bố của mình, hơn cả những gì thật sự diễn ra.

DƯỜNG NHƯ CÓ rất nhiều lý do để chúng ta nói quá lên về thành tích phục vụ của mình. Thế nhưng, chính các câu chuyện về những người khai gian lý lịch, bằng cấp cũng như thân thế cá nhân hay xuất hiện thường xuyên đã làm nảy sinh những câu hỏi thú vị: Phải chăng khi nói dối một cách công khai, thì chính những lời nói dối được ghi nhận đã trở thành thứ “chiến tích” nhắc nhở chúng ta về các thành tựu chưa từng đạt được, và khiến điều huyễn hoặc ấy gắn chặt vào kịch bản cuộc đời của chúng ta? Do đó, nếu một chiếc cúp, một dải ruy-băng hay một tấm bằng có thể chứng nhận cho thứ thành tích chúng ta chưa từng chinh phục, thì liệu những “chiến tích” này có khiến ta mù quáng tin vào khả năng tầm thường của bản thân hay không? Và liệu những chứng chỉ đó có khiến chúng ta tự lừa dối thường xuyên hơn hay không?

CHÚNG TÔI ĐÃ KIỂM CHỨNG sức ảnh hưởng từ các chứng chỉ bằng cách cho người tham có cơ hội gian lận trong bài trắc nghiệm toán học đầu tiên (thông qua việc in sẵn đáp án). Sau khi quan sát họ phóng đại thành tích, chúng tôi lại trao cho một vài người trong số họ một tấm giấy chứng nhận thành tích (giả mạo) từ bài kiểm tra. Thậm chí, chúng tôi còn viết hẳn tên và điểm số của họ trên tấm bằng, và trân trọng in trên giấy tốt. Những người còn lại sẽ không được trao chứng nhận. Như vậy, liệu các chiến tích này có khiến người tham gia tự tin hơn vào thành tích được phóng đại của họ, vốn phải phụ thuộc một phần vào đáp án cho trước hay không? Liệu nó có khiến họ tin rằng điểm số đã phản ánh năng lực thật sự của họ hay không?

Hóa ra, tôi không phải người duy nhất chịu ảnh hưởng từ bằng cấp treo trên tường. Những người tham gia được chứng nhận đã dự đoán họ sẽ trả lời chính xác nhiều câu hỏi hơn trong thử thách giai đoạn hai. Có vẻ như chỉ một lời nhắc nhở “làm tốt lắm” cũng đủ khiến ta tin rằng mọi thành tích đều xuất phát từ năng lực của mình, bất chấp kết quả thực tế ra sao.

NỮ VĂN HÀO thế kỷ XIX, Jane Austen đã cung cấp một ví dụ tuyệt vời về cách những mối quan tâm ích kỷ, cộng với sự ủng hộ của những người xung quanh, có thể khiến ta tin rằng sự ích kỷ của chúng ta chính là hiện thân của lòng khoan dung và bác ái. Trong tác phẩm Lý Trí Và Tình Cảm, có một phân cảnh gợi mở mà John, người con trai trưởng duy nhất và cũng là người thừa kế, đã cân nhắc những điều thật sự có trong lời hứa của anh đối với cha mình. Bên giường bệnh, anh đã hứa với người cha già cả rằng sẽ quan tâm chăm sóc người mẹ kế tốt bụng nhưng nghèo khổ, cùng ba đứa em gái nửa ruột thịt của mình. Giữ đúng lời hứa, anh đã quyết định trao cho người phụ nữ 3 nghìn bảng, số tiền chẳng thấm tháp gì so với gia sản kếch sù của anh, và tin rằng mình đã chăm sóc họ chu đáo. Sau tất cả, anh chỉ ôn tồn giải thích, “cha có thể dễ dàng chia sẻ một khoản tiền lớn mà chẳng phải bận tâm chút nào.”

Bất chấp việc John cảm thấy hài lòng về sáng kiến của mình, cũng như món quà sẽ được trao tay một cách dễ dàng, người vợ ma mãnh và ích kỷ của John đã thuyết phục anh rằng – thực tế chẳng khó khăn gì khi mụ đã viện sẵn hàng tá lý do – bất kỳ khoản tiền nào anh trao tặng người mẹ kế cũng sẽ khiến anh và vợ con anh phải “khốn khổ đến cùng cực.” Chẳng khác gì mụ phù thủy trong câu chuyện cổ tích, mụ cãi cố rằng cha anh chắc hẳn đã mê sảng. Suy cho cùng, ông già khốn khổ chỉ còn cách cái chết vài phút khi ra lời nhắn nhủ. Sau đó, mụ tiếp tục đay nghiến về sự ích kỷ của người mẹ kế. Mẹ kế của John và ba cô con gái của bà sao có thể xứng đáng với số tiền đó cơ chứ? Làm thế nào anh, người chồng của mụ lại có thể hoang phí gia sản của cha anh cho bà mẹ kế và những đứa em tham lam? Hoàn toàn bị tẩy não, chàng trai đã kết lại rằng: “Thật sự không cần thiết, nếu không muốn nói là hết sức lố bịch, khi ta cứ phải chu cấp cho mụ góa và ba đứa con gái của mụ…” Than ôi! Lương tâm đã lùi bước, lòng tham đã lên ngôi, còn số phận thì mãi không được đoái hoài.

TỰ LỪA DỐI TRONG THỂ THAO

Vận động viên nào cũng biết sử dụng steroid là trái luật, và nếu bị phát hiện sử dụng chúng, họ sẽ tự mình bôi nhọ mọi kỷ lục cũng như toàn bộ môn thể thao. Thế nhưng, khao khát lập nên những kỷ lục mới (với sự trợ giúp của steroid) và giành lấy sự quan tâm của giới truyền thông cũng như được khán giả ngưỡng mộ đã thôi thúc các vận động viên gian lận bằng chất kích thích (doping). Đây là vấn nạn của mọi môn thể thao. Chúng ta có Floyd Landis, người đã bị tước bỏ danh hiệu Tour de France năm 2006 do sử dụng steroid. Đại học Waterloo tại Canada cũng đã đình chỉ toàn thể đội bóng bầu dục trong vòng một năm khi phát hiện tám thành viên trong đội dương tính với steroid tổng hợp. Một huấn luyện viên bóng đá người Bulgari cũng bị cấm hành nghề trong 4 năm do cho phép các cầu thủ dùng steroid trong một trận đấu năm 2010. Thế nhưng, chúng ta vẫn không biết những người sử dụng steroid đã nghĩ gì khi chiến thắng một trận đấu, hay giành lấy một huy chương nhờ có chúng. Họ có nhận ra vinh quanh của mình là vô nghĩa, hay thật sự tin rằng thành tích đó hoàn toàn là minh chứng của kỹ năng.

Và tất nhiên, bóng chày cũng có trong danh sách. Liệu Mark McGwire có nắm giữ nhiều kỷ lục đến thế nếu không dùng steroid? Liệu ông có thật sự tin rằng mình đã giành được thành tích nhờ thực lực bản thân? Sau khi thừa nhận sai phạm, McGwire đã tuyên bố rằng: “Tôi tin chắc sẽ có người tự hỏi liệu tôi có ghi được toàn bộ những cú home run (ăn điểm trực tiếp) trong sự nghiệp nếu không dùng steroid hay không. Tôi đã có những năm chơi tốt khi không sử dụng chúng, và cũng có những năm chơi rất tệ. Điều tương tự cũng xảy đến khi tôi dùng steroid. Nhưng dù sao đi nữa, tôi vẫn không nên làm thế; và do đó, tôi thật lòng xin lỗi tất cả.”

Ông có thể xin lỗi; nhưng sau cùng, từ các fan của McGwire cho đến bản thân ông vẫn không thể biết ông thực sự chơi tốt ra sao.

NHƯ BẠN ĐÃ THẤY, con người thường có khuynh hướng tin vào câu chuyện do chính họ thêu dệt. Liệu có biện pháp nào giúp ngăn chặn, hay chí ít cũng hạn chế bớt hành vi này? Do việc thưởng tiền nằm thuyết phục mọi người đánh giá thành tích của họ chính xác hơn dường như cũng bất lực trước sự tự lừa dối, nên chúng tôi đã quyết định can thiệp từ trước, tại ngay thời điểm họ để cho cơ hội gian lận cám dỗ. (Phương pháp này có liên quan đến cách chúng tôi áp dụng Mười Điều răn trong chương 2, “Cấp số giả dối.”) Tất nhiên, do người tham gia có thể phủ nhận ảnh hưởng của đáp án cho trước đối với điểm số của họ, nên chúng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi khiến việc phụ thuộc vào các đáp án trên trở nên rõ ràng hơn, ngay khi họ bắt đầu lợi dụng chúng? Nếu việc lợi dụng đáp án nhằm nâng cao điểm số trở nên cực kỳ hiển nhiên, thì liệu họ có tiếp tục tự thuyết phục bản thân rằng mình đã biết câu trả lời đúng từ trước hay không?

Trong các thí nghiệm ban đầu (tiến hành trên giấy), chúng tôi đã không thể xác định chính xác thời điểm người tham gia liếc nhìn đáp án, cũng như mức độ tự giác của họ đối với sự trợ giúp từ các câu trả lời cho sẵn. Do đó, trong thí nghiệm kế tiếp, chúng tôi đã yêu cầu người chơi hoàn thành bài trắc nghiệm tương tự trên phiên bản máy tính. Lần này, các đáp án ở cuối màn hình đã được che giấu từ ban đầu. Để mở đáp án, người tham gia phải di chuyển con trỏ xuống cuối màn hình; và khi họ di trỏ ra xa, câu trả lời sẽ lại biến mất. Bằng cách này, người chơi buộc phải cân nhắc chính xác thời điểm cũng như khoảng thời gian giữa những lần xem đáp án, và họ sẽ không thể dễ dàng phủ nhận một hành vi rõ ràng và có chủ đích như thế.

Tuy hầu hết những người tham gia đều tham khảo đáp án ít nhất một lần, nhưng trong lần thí nghiệm này (trái với phiên bản trên giấy), chúng tôi đã phát hiện họ không còn phóng đại thành tích trong thử thách thứ hai nữa. Bất chấp thực tế rằng họ vẫn còn gian lận, nhưng chính quyết định sử dụng đáp án một cách có chủ ý – thay vì chỉ đơn giản liếc xuống phía cuối trang giấy – đã loại bỏ thành công khuynh hướng tự lừa dối. Có vẻ như, nếu ý thức rõ ràng về cách thức mình gian lận, chúng ta sẽ bớt tin tưởng một cách tùy tiện vào thành tích của bản thân.

Tự lừa dối và tự lực cánh sinh

Như vậy, chúng ta phải đối phó ra sao với sự tự lừa dối? Chúng ta nên duy trì, hay loại bỏ nó? Tôi ngờ rằng, cũng như những họ hàng xa của nó – bao gồm sự cả tin và lạc quan – và mọi trạng thái thiên kiến khác, sự tự lựa dối cũng bao hàm cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Về mặt tích cực, chính lòng tin được tiếp lửa một cách phi lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng sống của chúng ta, thông qua việc hỗ trợ đối phó với áp lực; nó cũng tiếp sức cho lòng kiên trì khi chúng ta thực hiện các nhiệm vụ khó khăn và buồn tẻ; cũng như mang lại những trải nghiệm mới mẻ, khác biệt.

Chúng ta không ngừng tự lừa dối bản thân một phần cũng vì muốn bảo vệ hình ảnh tích cực của chính mình. Chúng ta đều muốn che giấu thất bại và đề cao thành công (dù đôi khi chúng không hoàn toàn thuộc về chúng ta), và sẵn sàng đổ lỗi cho người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài khi vấp phải thất bại không thể chối cãi. Giống như bạn cua đực hiếu chiến, chúng ta có thể lợi dụng sự tự lừa dối nhằm đánh thức lòng tự tin khi cảm thấy mình không đủ gan dạ. Tự đặt bản thân vào vị thế tốt hơn có thể giúp chúng ta chinh phục một cuộc hẹn, hoàn thành một đề án lớn hay ổn định một công việc. (Tất nhiên, tôi không có ý khuyên bạn thổi phồng lý lịch của mình, nhưng dù sao vẫn tốt hơn nếu bạn được tiếp thêm chút tự tin.)

Về mặt tiêu cực – nhất là khi cái nhìn lạc quan thái quá về chính bản thân đã trở thành nền tảng cho mọi hành vi của bạn – chúng ta có thể giả định một cách sai lầm rằng mọi thứ sẽ diễn ra hoàn hảo, nhưng rốt cuộc lại không chủ động đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Sự tự lừa dối cũng khiến ta vô tình “tô vẽ” cho chuyện đời của mình – chẳng hạn như tốt nghiệp từ một trường đại học danh tiếng – điều có thể khiến chúng ta vô cùng suy sụp khi sự thật bị phơi bày. Và hiển nhiên, bạn phải trả giá cho sự lừa dối. Khi chính bản thân và những người xung quanh đều thiếu trung thực, chúng ta sẽ bắt đầu nghi ngờ tất cả, và cuộc sống sẽ khó khăn hơn gấp bội phần nếu thiếu đi lòng tin.

Như mọi khía cạnh khác trong cuộc sống, sự cân bằng cũng tồn tại giữa niềm vui sướng (một phần xuất phát từ sự tự lừa dối) và các quyết định sáng suốt dành cho tương lai (với cái nhìn thực tế hơn về bản thân). Tất nhiên, ta sẽ rất háo hức trước một viễn cảnh tươi sáng, cùng niềm hy vọng về một tương lai tuyệt vời – nhưng trong tình huống tự lừa dối, niềm tin bị cường điệu hóa có thể phá hủy chính chúng ta khi thực tại khắc nghiệt ập đến.

Mặt sáng của lời nói dối

Khi nói dối vì lợi ích của người khác, chúng ta thường gọi đó là “lời nói dối vô hại.” Khi thốt ra lời nói dối vô hại, chúng ta vẫn đang tăng thêm cấp số giả dối, nhưng không vì những lý do ích kỷ. Chẳng hạn, hãy thử cân nhắc tầm quan trọng của những lời khen không thành thật. Chúng ta đều hiểu rõ giá trị vàng của lời nói dối vô hại, như khi một phụ nữ kém thon thả khoác lên mình một chiếc váy bó mới và hỏi ông chồng: “Trông em có béo lắm không?” Người đàn ông lập tức cân nhắc lợi-hại; ông biết những tháng ngày đẹp đẽ của mình sẽ chấm dứt nếu thú nhận sự thật phũ phàng. Vì vậy, ông đã trả lời rằng: “Em yêu, trông em thật tuyệt.” Và một buổi tối nữa (hay một cuộc hôn nhân nữa) lại được cứu vãn.

Đôi khi những câu nói này chỉ là lời xã giao, nhưng trong nhiều thời khắc khác, chúng lại trở thành thứ phép màu giúp con người vượt qua những tình huống ngặt nghèo nhất; đó chính là bài học tôi nhận được năm 18 tuổi, khi đang là bệnh nhân bỏng toàn thân.

Sau vụ tai nạn suýt cướp đi mạng sống, tôi đã tỉnh dậy trong bệnh viện với những vết bỏng độ 3 bao phủ 70% cơ thể. Ngay từ đầu, các bác sĩ và y tá đã luôn trấn an tôi: “Mọi thứ sẽ ổn thôi.” Và tôi thật lòng muốn tin lời họ. Trong tâm trí non nớt của tôi, “Mọi thứ sẽ ổn thôi” đồng nghĩa rằng mọi vết sẹo do bị bỏng cùng nhiều, rất nhiều lần ghép da khác rồi sẽ qua đi và tan biến, hệt như ai đó tự làm bỏng mình khi rang bắp hay nướng kẹo dẻo bên ngọn lửa trại.

Một ngày trước khi tôi kết thúc năm đầu tiên trong bệnh viện, vị bác sĩ trị liệu phụ trách đã bảo rằng cô muốn giới thiệu tôi với một nạn nhân bỏng khác đã hồi phục, người từng trải qua cảnh ngộ tương tự từ một thập kỷ trước. Cô muốn chứng minh rằng tôi vẫn có thể hòa nhập với cuộc sống và tiếp tục những việc tôi từng làm – về cơ bản, mọi thứ vẫn ổn. Nhưng khi vị khách bước vào, tôi đã vô cùng khiếp hãi. Những vết thương thành sẹo của ông ấy trông rất tệ, và thân thể ông bị biến dạng vô cùng khủng khiếp. Ông có thể cử động bàn tay và sử dụng chúng một cách thuần thục, nhưng chỉ vừa đủ chức năng. Hình ảnh này khác xa với những gì tôi vẫn hình dung về trường hợp bình phục của mình, về khả năng hoạt động, và về dáng vẻ của tôi khi rời bệnh viện. Sau cuộc gặp gỡ, tôi đã suy sụp trầm trọng, do nhận ra những vết sẹo và khả năng cử động của mình sẽ biến đổi tồi tệ hơn những gì tôi vẫn hình dung.

Các bác sĩ và y tá lại an ủi tôi bằng những lời nói dối hết sức tử tế về cơn đau tôi sắp phải chịu đựng. Trong suốt cuộc phẫu thuật bàn tay kéo dài đến không thể chịu nổi, các bác sĩ đã xuyên những chiếc kim dài từ đầu ngón tay đến khớp xương của tôi, nhằm giữ cho ngón tay thẳng và giúp lớp da hồi phục tốt hơn. Tại đầu của mỗi chiếc kim, họ bố trí một nút vặn để tôi không thể tự cào cấu mình hay chọc vào mắt trong vô thức. Sau vài tháng sống chung với thiết bị kỳ quái này, tôi nhận ra nó sẽ được gỡ bỏ trong phòng điều trị – mà không dùng đến thuốc tê. Điều này khiến tôi rất lo lắng, vì tôi có thể tưởng tượng ra cơn đau sẽ rất khủng khiếp. Nhưng cô y tá đã nói rằng: “Ồ, đừng lo lắng. Đây chỉ là một tiểu phẫu đơn giản, anh sẽ không kịp thấy đau đâu.” Vài tuần sau đó, tôi đã bớt lo lắng hơn về cuộc phẫu thuật.

Khi đến thời điểm rút kim, một y tá đã giữ chặt tay tôi để một người nữa nhẹ nhàng rút chúng bằng chiếc kìm. Tất nhiên, tôi phải chịu muôn ngàn đau đớn, và chúng vẫn còn âm ỉ suốt mấy ngày sau – hoàn toàn trái ngược với những gì họ mô tả về ca phẫu thuật. Mặc dù vậy, khi ngẫm nghĩ lại, tôi vẫn thấy vui vì họ đã nói dối với tôi. Nếu họ nói với tôi sự thật sắp xảy đến, hẳn tôi đã trải qua hàng tuần lễ phập phồng đau khổ, sợ hãi và căng thẳng – điều chắc chắn sẽ gây tổn thương đến hệ miễn dịch quý giá của tôi. Nên sau tất cả, tôi vẫn tin lời nói dối vô hại cần được bênh vực trong nhiều trường hợp nhất định.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.