Con Người 80/20

Phần1 Tăng tốc sự nghiệp của bạn: trở thành một con người 80/20 7 1Làm thế nào để trở thành một con người 80/20



“Khi việc kinh doanh thay đổi, cá nhân chính là người đem công cụ đến cho công ty”.

Philip Harris, CEO, PJM Interconnection

“Ngày nay, gần như những bác thợ rèn ở các làng mạc trên thế giới cũng có thể đóng các trục xe ở sân nhà, gắn chúng với nhau và cạnh tranh với General Motors. Và đó là những gì đang diễn ra theo đúng nghĩa đen. Chúng ta có thể chứng minh điều đó qua hệ điều hành Linux”.

Paul Maritz, Phó Chủ tịch, Microsoft

“Trong tất cả mọi lĩnh vực, đơn vị chủ chốt của sự sáng tạo giá trị chính là cá nhân… logic của những chuỗi giá trị phi xây dựng được bao hàm trong giới hạn của nó: cá nhân những người lao động (đơn vị nhỏ nhất có thể trong một doanh nghiệp) bòn rút những giá trị mà chỉ riêng mình họ tạo ra”.

Philip Evans và Thomas S. Wurster, Nhóm Cố vấn Boston

“Nếu bạn lấy đi 20 người quan trọng nhất của chúng tôi, chúng tôi sẽ trở thành một công ty không quan trọng nữa”.

Bill Gates, Chủ tịch, Microsoft

“Vị hoàng đế trong tương lai sẽ là hoàng đế của ý tưởng”.

Winston Churchill

“Nếu trong tự nhiên có một điều gì khó bị tổn thương hơn những tài sản duy lý khác thì đó chính là sức mạnh của tư duy, hay còn gọi là ý tưởng”.

Thomas Jefferson

_ Có một cách mới để tạo ra sự giàu có tốt hơn con đường truyền thống.

_Những cá nhân sáng tạo chính là trái tim của cuộc cách mạng mới. Để tạo ra tài sản, những cá nhân sáng tạo quan trọng hơn tập đoàn hay vốn.

_Cuộc cách mạng tuân theo một nguyên tắc đơn giản – nguyên lý 80/20. Thành công xuất phát từ sự tập trung đặc biệt vào một nhóm nhỏ những lực lượng rất quyền năng hoạt động trong một lĩnh vực. Những lực lượng quan trọng nhất mà nguyên lý 80/20 áp dụng chính là ý tưởng và cá nhân. Nguyên lý này cũng áp dụng cho tất cả những “vật liệu thô” khác của doanh nghiệp: khách hàng, đối tác, công nghệ, sản phẩm, nhà cung cấp và vốn.

_Sự giàu có được bội nhân hiệu quả nhất bằng cách loại trừ và sắp xếp lại các lĩnh vực, không phải qua những con đường truyền thống như phối hợp hoạt động và tài sản. Nhiều doanh nghiệp riêng rẽ được thành lập, được thai nghén từ một ý tưởng sáng tạo mới của một cá nhân mới, và chúng liên kết với nhau qua thị trường chứ không phải qua cấp bậc và quy hoạch trung tâm.

_Cuộc cách mạng 80/20 có tầm quan trọng không kém ba cuộc chuyển tiếp khác trong lịch sử kinh tế: cách mạng nông nghiệp, cách mạng công nghiệp, và cách mạng quản lý. Những cuộc cách mạng này dẫn đến những nền kinh tế xã hội khác biệt nhau. Và có thể điều này sẽ xảy ra một lần nữa trong hai thập niên tới.

_Có lẽ những thay đổi mầm mống nhất đã xảy ra – những tập đoàn thành công nhất ngày nay đang xoay quanh một số cá nhân. Tập đoàn phục vụ cho cá nhân chứ không phải theo chiều ngược lại. Song điều này chưa xảy ra trên toàn cầu. Hầu hết nền kinh tế – dù không phải những khu vực có lợi nhuận cao nhất – vẫn tuân theo khuôn mẫu quản lý cũ. Khi khuôn mẫu này chấm dứt, nền kinh tế sẽ thay đổi đột ngột và cấp tiến. Chúng ta sẽ chứng kiến một sự chuyển giao khổng lồ đưa sự giàu có từ các tổ chức, các doanh nhân và những nhà đầu tư thụ động sang các cá nhân.

_Những cá nhân muốn làm giàu bằng cách trở thành một phần trong cuộc cách mạng 80/20 có thể đi trước một bước. Những bước này được mô tả đầy đủ trong Phần II. Cuốn sách này nói về một cuộc cách mạng có thể thay đổi

cuộc đời của mỗi con người, những người đang làm thay đổi thế giới. Tôi có thể gọi những nhà cách mạng đó là “những con người 80/20”, những người và những nhóm nhỏ đang sử dụng nguyên lý 80/20 để tăng tốc sự nghiệp của họ và xây dựng nên các doanh nghiệp. Có thể bạn đã là một con người 80/20 rồi mà không nhận ra điều đó. Nhưng nếu không, bạn vẫn có thể có được mọi thứ bằng cách trở thành một con người 80/20.

Nguyên lý 80/20, cuốn sách trước của tôi, đã trả lời hai câu hỏi sau:

_ Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 để tăng thêm lợi nhuận cho công ty của mình?

_Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 để cá nhân mình trở nên hiệu quả hơn?

Cuốn sách này sẽ trả lời một câu hỏi khác:

_Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 một cách chuyên nghiệp, để tạo nên sự giàu có cho bản thân mình?

Đây là một cuốn sách nói về cá nhân trong công việc. Tôi giải thích làm thế nào bạn có thể cực kỳ thành công trong sự nghiệp của mình bằng cách tạo biến đổi trong bất cứ một ngành nghề nào mà bạn đang làm việc. Bạn là một doanh nhân, một nhà quản lý, một nhà quản trị, một nhân viên, hay một người thất nghiệp… Không thành vấn đề. Bạn có thể sử dụng phương pháp từng bước một được mô tả dưới đây để tổ

chức lại công việc hiện tại của bạn hay tạo nên một công việc mới, sao cho bạn và những đồng sự thân thiết của bạn có thể thu được lợi nhuận. Mục tiêu của tôi trước nhất là giúp đỡ bạn, như một cá nhân, thứ hai là giúp các khách hàng và thứ ba là giúp các tổ chức tập đoàn chỉ khi việc đó có ích cho bạn.

Hãy tăng tốc sự nghiệp của bạn – hãy sử dụng nguyên lý 80/20 để thành công nhiều hơn với công sức ít hơn.

Sơ lược lịch sử của nguyên lý 80/20

Năm 1897, nhà kinh tế người Ý Vilfredo Pareto (1848-1923) phát hiện ra một khuôn mẫu thường xuyên trong việc phân phối tài sản hay thu nhập, bất kể ở đất nước nào hay giai đoạn thời gian nào. Sự phân phối bị nghiêng lệch hoàn toàn về một đầu cuối lớn nhất: Một thiểu số nhỏ đem lại thu nhập cao nhất luôn luôn chiếm phần lớn trong tổng số. Dần dần Pareto có thể tiên đoán được kết quả chính xác trước khi xem các dữ liệu.

Pareto rất hứng khởi với phát hiện của mình, và sau đó ông tin rằng phát hiện này có tầm quan trọng rất lớn không chỉ trong ngành kinh tế mà còn đối với toàn xã hội. Nhưng ông chỉ có thể thu hút sự chú ý của một vài nhà kinh tế khác. Dù ông có thể viết ra rõ ràng về những chủ ðề ít trọng yếu hõn nhýng trình bày của ông về “nguyên tắc Pareto” bị chôn vùi dưới những ngôn ngữ học viện dài dòng và những công thức đại số dày đặc.

Ý tưởng của Pareto chỉ bắt đầu được nhiều người biết đến khi Joseph Moses Juran, một trong hai chuyên viên quản lý chất lượng nổi tiếng nhất của thế kỷ hai mươi, đổi tên nó thành “Quy luật Số Ít Quan yếu”. Trong bộ sách “Sổ tay Quản lý Chất lượng” năm 1951, ban đầu có ảnh hưởng rất lớn ở Nhật và sau đó là ở phương Tây, Juran đối chiếu giữa “số ít quan yếu” với “số nhiều vặt vãnh”, cho thấy những sai sót về chất lượng có thể được loại bỏ phần lớn, nhanh chóng và ít tốn kém, bằng cách tập trung vào một số ít những nguyên nhân gốc rễ quan trọng. Juran, chuyển đến sống

ở Nhật vào năm 1954, đã dạy các nhà quản trị tại đây cách cải tiến chất lượng và chức năng. Từ năm 1957 đến 1989, Nhật là nước phát triển nhanh hơn bất cứ một nền kinh tế công nghiệp nào khác trên thế giới.

Tại Mỹ và châu Âu những năm 1960, nguyên tắc Pareto bắt đầu trở nên phổ biến với tên gọi “quy luật 80/20” hay “nguyên lý 80/20”. Dù không tuyệt đối chính xác nhưng nguyên tắc này tỏ ra rất có sức thuyết phục. Các kỹ sư và các chuyên viên máy tính bắt đầu sử dụng nguyên tắc này thường xuyên.

Nguyên lý 80/20 cho rằng có 80% kết quả xuất phát từ 20% nguyên nhân. Đây là một “định luật” mang tính kinh nghiệm đã được chứng minh trong kinh tế, kinh doanh, và cả những khoa học liên ngành. Như vậy, hầu hết những gì tồn tại trong vũ trụ này – những gì chúng ta làm, cũng như tất cả những sức mạnh, tài nguyên, ý tưởng

– đều có rất ít giá trị và đem lại rất ít kết quả. Song một phần nhỏ lại làm việc cực kỳ tốt và có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Không có phép thuật gì trong 80 và 20, vốn chỉ là những con số ước lượng. Vấn đề là thế giới này không phải 50/50. Nỗ lực và tưởng thưởng không có liên quan tuyến tính. Vũ trụ thật không đáng tin cậy.

Hầu hết vạn vật chỉ là những tiếng ồn vô nghĩa, song một phần nhỏ của chúng lại

có sức mạnh quyền năng và đạt hiệu quả đến mức không ngờ. Tách ra những lực lượng sáng tạo quyền năng này, bên trong và xung quanh chúng ta, và thế là xong, chúng ta có thể rút tỉa được những gì tinh hoa nhất.

Vào năm 1963, IBM phát hiện ra 80% thời gian của một máy tính được sử dụng để thực thi chưa đến 20% tập mã lệnh hoạt động của nó. Các kỹ sư IBM đã viết lại tập mã này để làm cho 20% chính yếu đó dễ sử dụng hơn và thân thiện với người dùng hơn, và nhờ đó họ đã bảo vệ được vị trí đứng đầu trong thị trường. Những tiến bộ phần mềm trong 30 năm qua – từ Lotus đến Microsoft sang Linux – đã tận dụng và phát huy ý tưởng này xa hơn nữa.

Năm 1997, tôi viết cuốn Nguyên lý 80/20, cuốn sách đầu tiên về chủ đề này. Tôi chứng minh nguyên lý này có thể được áp dụng không chỉ để giúp các tập đoàn kiểm soát kết quả kinh doanh của họ mà còn giúp mọi người có thể cải thiện cuộc sống. Để trở nên hiệu quả hơn hay có một cuộc sống hạnh phúc hơn, hãy nhận ra tầm quan trọng của một số ít những người hay những sự vật xung quanh mình. Nếu bạn tập trung vào một số ít những gì có tác động lớn nhất đến mình, bạn sẽ có thể có được những gì mình muốn. Bạn có thể bội nhân hiệu quả làm việc và thậm chí là bội nhân hạnh phúc của bạn. Đây là một lĩnh vực mới, do trước kia chưa ai từng liên hệ nguyên lý này với sự thỏa mãn cá nhân cả.

Tôi đã gióng lên một tiếng chuông. Với nhiều độc giả trên thế giới này có thể chứng thực, nguyên lý 80/20 là một cách vô cùng hữu dụng để đạt được nhiều thành công hơn trong cuộc sống.

Tuy nhiên, cuốn sách này nói về một chủ đề khác. Cuốn Nguyên lý 80/20 cho thấy làm thế nào các công ty có thể sử dụng nguyên lý này để định hướng kết quả kinh doanh, và làm thế nào mỗi người có thể cải thiện cuộc sống cá nhân – chứ không phải cuộc sống chuyên môn. Cuốn Con người 80/ 20 liên hệ giữa nguyên lý 80/20 và sự phát triển của mỗi con người, vốn chưa từng được đề cập đến trước đây. Nó giải thích thế giới đang thay đổi như thế nào và chứng minh nguyên lý 80/20 là một công cụ thực tế, quyền năng đến mức ngạc nhiên, để mỗi người có thể tạo nên những điều mới mẻ tuyệt vời.

Giá trị từ sự phát triển

Giai đoạn thú vị và giá trị nhất trong kinh doanh không phải là giai đoạn duy trì những hoạt động đang tồn tại: hôm nay tiếp tục làm tốt những gì đã làm hôm qua. Các tổ chức thường duy trì hiện trạng rất tốt, nhưng nếu đó là tất cả những gì chúng ta làm thì nền kinh tế sẽ không bao giờ phát triển được.

Phát triển là quan trọng hơn cả. Phát triển có nghĩa là tạo nên một cái gì đó mới mẻ và hữu ích. Sự phát triển, xét cho cùng, luôn được định hướng bởi một người hay một nhóm người, dù họ hoạt động trong những tập đoàn lớn đã được thành lập nhiều năm hay trong những doanh nghiệp nhỏ mới bắt đầu khởi xướng.

Một vũ khí mạnh mẽ nhất để phát triển doanh nghiệp chính là nguyên lý 80/20, được vận dụng sáng tạo bởi một người hay một nhóm người. Với nguyên lý 80/20, mỗi người có thể bội nhân những sức mạnh quyền năng nhất xung quanh họ

– những sức mạnh hữu hình, nhưng đặc biệt là những sức mạnh vô hình – khiến cả thế giới phải kinh ngạc với khả năng cung cấp cho khách hàng nhiều hơn những gì họ yêu cầu với ít hơn những gì họ muốn bỏ ra (tiền bạc, tài nguyên, thời gian, không gian, sức lực).

Những con người 80/20 trong các tổ chức

Người ta thường chỉ phần nào nhận thức được những gì họ có thể làm để tạo ra của cải và sự giàu có. Họ cũng có thể không nhận thức được những gì mình đã và đang làm. Trong cuốn sách này, bạn sẽ gặp một số người đang tạo ra những tài sản khổng lồ cho người khác nhưng bản thân họ lại không nhận ra điều đó. Họ là những con người 80/20, dù họ vẫn chưa gặt hái được những phần thưởng tương xứng với sức sáng tạo của mình. Họ nghĩ mình chỉ là một bánh răng nhỏ trong một bộ máy tập đoàn, nhưng trên thực tế, họ là tâm điểm tạo ra lợi nhuận và là trung tâm của sự phát triển kinh tế.

Ngay cả khi bạn làm việc cho một tổ chức uy tín lớn, nếu bạn nghĩ ra một cái gì mới phản ánh cá nhân và tư tưởng của bạn, thì bạn chính là người tạo ra tài sản đầu tiên. Tuy nhiên, thông thường, công ty bạn sẽ giữ hết phần lớn tài sản mà bạn tạo ra. Một khi đã nhận ra sự chênh lệch này, bạn sẽ có thể thu hẹp khoảng cách. Dù bạn nghỉ việc hay ở lại công ty, bạn cũng cần có khả năng kiểm soát chính mình.

Những người có khả năng tạo ra tài sản – và biết rằng mình có khả năng – có thể đưa ra những điều kiện của chính họ. Tiền bạc là quan trọng, song điều mà hầu hết mọi người mong muốn lại không phải là tiền bạc mà chính là hạnh phúc. Tiền bạc là phương tiện đi đến hạnh phúc, nhưng nó không phải là phương tiện chủ yếu. Điều mà hầu hết mọi người mong muốn chính là khả năng kiểm soát cuộc sống của riêng mình. Họ muốn có khả năng lựa chọn cuộc sống của mình: họ sẽ làm nghề gì, họ cư xử với bạn bè và đồng nghiệp như thế nào, những mối quan hệ cá nhân của họ tốt hay xấu, họ nghĩ về bản thân mình ra sao.

Là một con người 80/20, điều bạn có được là quyền kiểm soát cuộc sống của mình: cuộc sống công việc, cuộc sống cá nhân, và những không gian giao thoa có thể đem đến thành công hay gieo rắc thất vọng. Chẳng hạn như, bạn có thể có khả năng thương lượng với sếp của mình một hợp đồng lao động hoàn toàn khác với hợp đồng hiện tại. Có rất nhiều cơ chế mới cho phép những con người 80/20 chơi trò “chân trong chân ngoài”, vừa duy trì các mối quan hệ và tiếp tục với các đồng nghiệp nhưng cũng vừa có quyền sở hữu thật sự trong một doanh nghiệp mới. Với nhiều con người 80/20, những cơ chế song song này đặc biệt phù hợp hơn so với cơ chế thay thế truyền thống, khi bạn buộc phải lựa chọn hoặc tiếp tục làm việc như một nhân viên quèn,

hoặc bắt đầu một doanh nghiệp mới từ con số 0.

Tiền đề của tôi khá đơn giản – nếu bạn đang bổ sung thêm những giá trị lớn cho công ty bạn, bạn nhận thức được điều đó và bạn có thể chứng minh điều đó, thì bạn có thể đưa ra những yêu cầu của mình một cách hợp lý. Bạn có thể đặt ra những phần thưởng vật chất và phi vật chất cho mình, bởi vì dù bạn đòi hỏi cái gì thì nó cũng không thể bằng những gì bạn đã đem đến cho họ. Nếu quan điểm đơn giản này gây phiền hà cho những thỏa thuận hiện tại thì khi bạn ra đi, đối với họ, mọi chuyện sẽ càng tệ hại hơn. Bạn tạo ra – bạn kiểm soát.

Nguyên lý 80/20 là tâm điểm của sự sáng tạo

Người ta thường nghĩ sáng tạo phần lớn là tài năng, hay kinh nghiệm, hoặc có thể là do may mắn. Quan niệm đó là sai lầm. Tài năng, kinh nghiệm và may mắn là những yếu tố chủ chốt. Nhưng có một thứ còn quan trọng hơn, mạnh mẽ hơn, quyền năng hơn, mà bạn có thể sử dụng để nâng cao hiệu quả công việc sáng tạo của mình.

Nguyên lý 80/20 là trung tâm của tất cả mọi hoạt động sáng tạo. Trong kinh doanh, đó là yếu tố đằng sau mọi sự cách tân, mọi giá trị thặng dư. Đó là nguyên tắc của doanh nghiệp, công thức tạo ra giá trị, không chỉ cho các doanh nhân mà còn cho những nhà quản lý và các tổ chức nói chung.

Có những sức mạnh mãnh liệt nằm tiềm ẩn đằng sau mỗi hành động sáng tạo. Chẳng hạn như việc trồng cây lương thực, nguồn thức ăn phổ biến nhất và cũng là nguồn sống của con người, xuyên suốt nhiều thế hệ. Điều gì khiến cây trồng phát triển lên? Rõ ràng mưa là một yếu tố quan trọng. Cái gì tạo ra mưa? Mây – nhưng có một số dạng mây đặc biệt tạo ra nhiều mưa nhất, ở những thời điểm đặc biệt, những vị trí đặc biệt. Đất màu cũng rất quan trọng. Độ màu mỡ của đất một phần nhờ mưa, nhưng cũng còn những yếu tố khác, chẳng hạn như độ đa dạng và số lượng của những loại cây cỏ và động vật từng sống trên khu đất đó trước đây. Một số vùng đất màu mỡ hơn những nơi khác – không chỉ tốt hơn một chút hay tốt hơn hai ba lần mà có khi đến cả mười lần. Có một số yếu tố luôn luôn quan trọng, và có một số yếu tố luôn luôn góp phần lớn trong kết quả thu hoạch.

Sự sáng tạo có thể là không ý thức, như các đám mây, hay có ý thức, như yếu tố con người. Lịch sử của chúng ta, đặc biệt là ba thế kỷ vừa qua, đã chứng kiến con người có thể bội nhân hiệu quả của những yếu tố thiên nhiên còn lại lên đến hàng trăm, hàng ngàn, hoặc thậm chí hàng triệu lần. (Chúng ta cũng có thể nhân lên những sức mạnh hủy diệt của tự nhiên, nhưng hãy bỏ qua điều đó vào lúc này). Có ba phát minh vĩ đại đã nâng cao dân số trên hành tinh chúng ta, cùng mức sống của chúng ta.

Một là phát minh ra nông nghiệp vào khoảng 9000 năm trước. Trước kia, tổ tiên chúng ta chỉ biết hái lượm cây dại và săn bắt thú hoang. Việc nuôi trồng có chủ ý để lấy thức ăn đã gia tăng đáng kể kích thước và độ phức tạp của xã hội loài người.

Bước đột phá thứ hai là cuộc cách mạng nông nghiệp vào thế kỷ XVIII và XIX, sự

cơ khí hóa nông nghiệp và ứng dụng kỹ thuật công nghiệp. Nếu 300 năm trước, phần lớn dân số phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chỉ để kiếm được vừa đủ ăn thì ngày nay, trong thế giới phát triển, cũng số người đó không phải làm việc trên cánh đồng. Nhưng sản lượng nông nghiệp thì lại tăng lên gấp ngàn lần, đủ cung cấp cho một lượng người lớn hơn nhiều, với số lượng lương thực ngày càng nhiều và chất lượng càng cao.

Bước tiến vĩ đại thứ ba là cuộc cách mạng công nghiệp, sự liên minh giữa khoa học và kinh doanh đã định nghĩa thế giới hiện đại.

Những hành động sáng tạo phi thường có chủ đích ấy đã diễn ra như thế nào? Chúng ta có thể mô tả theo nhiều cách, nhưng trong bất cứ một sự sáng tạo có chủ đích nào cũng có ba yếu tố chính.

Một là: Sáng tạo là sự sắp xếp lại những gì đang tồn tại. “Không có gì mới dưới ánh mặt trời”, theo Kinh Cựu ước. Phát minh ra nông nghiệp vào khoảng 7000 năm trước Công nguyên đã lấy những gì tồn tại sẵn trong thiên nhiên và sắp xếp lại để giúp chúng đạt năng suất cao hơn một cách đầy kịch tính. Cuộc cách mạng nông nghiệp sau năm 1750 đã sắp xếp lại các yếu tố sản xuất cổ xưa với việc áp dụng phương tiện và máy móc. Công nghệ sinh học ngày nay bắt chước những gì tự nhiên đang làm và tăng tốc hơn với những trật tự mới. Cát đã tồn tại từ bao đời nay, thừa thãi và gần như không có giá trị gì; nhưng một con microchip làm từ hợp chất silic đyôxyt từ cát lại vô cùng giá trị.

Đặc điểm thứ hai của sự sáng tạo có chủ đích là nó tận dụng sức bật từ những lực lượng mạnh mẽ nhất có thể. Thiên nhiên có vô số sức mạnh, kể cả từ các giống loài động vật và từ những lực lượng vô tri (như mây chẳng hạn). Nhưng chỉ một số trong đó thật sự hữu ích cho sự sáng tạo. Và trong mỗi loại sức mạnh, có một phần nhỏ mạnh mẽ hơn nhiều và hữu ích hơn nhiều so với số còn lại. Trong các loại cây, một số loại rau củ có dinh dưỡng nhiều nhất. Trong các phương pháp trồng trọt có một số phương pháp nổi trội nhất. Trong tất cả các khu vực sản xuất, một số nơi có độ phì nhiêu màu mỡ cao nhất.

Sự đột phá trong năng suất diễn ra khi phương pháp hiệu quả nhất để làm một việc gì đó được đẩy bật cao hơn và xa hơn nhờ quy mô, nguồn vốn, hay một kỹ thuật đặc biệt nào đó. Sự đột phá bật ra từ tư duy và thử nghiệm. Lực lượng mạnh mẽ nhất mà tư duy có thể thúc đẩy chính là bản thân nó. Những gì vĩ đại được tạo ra khi ý tưởng thúc đẩy cả những sức mạnh quyền năng nhất lẫn những ý tưởng khác mạnh mẽ nhất.

Dưới đây là khía cạnh thứ ba và là khía cạnh thú vị nhất của sự sáng tạo có ý thức: Sự sáng tạo diễn ra khi ý tưởng và con người gặp nhau. Dĩ nhiên, nguyên liệu thô của sự sáng tạo là vật chất, những thứ mà vũ trụ đã tạo sẵn cho chúng ta. Nhưng cốt lõi của sự sáng tạo không phải là vật chất mà là trí tuệ.

Ý tưởng về microchip không phải xuất phát từ những trò chơi với cát trong sa mạc mà từ những trò chơi với các ý tưởng liên quan. Sự sáng tạo đòi hỏi phải có ý tưởng và con người, thường là mỗi bên một ít – và không quá nhiều. Tất cả những đột phá khoa học vĩ đại đều có thể truy ngược về một số ý tưởng sáng tạo đã được cân nhắc và sắp xếp lại bởi một người hay một nhóm người. Tất cả những phát triển kinh tế cũng phát triển theo một cách tương tự. Làm một việc gì đó theo một cách khác, tạo ra một cái gì mới – tất cả những hành động đó đều bắt đầu từ một ý tưởng. Ý tưởng thường bắt nguồn từ một con người, và được cải tiến bởi một nhóm người.

Những sáng tạo trong kinh doanh còn có một đặc điểm chung thứ tư: Nếu nó có thể tồn tại, dù chỉ trong một thời gian, nghĩa là một sự cách tân kinh doanh phải nâng cao giá trị cho khách hàng. Nó phải cung cấp một cái gì đó, đạt được nhiều hơn và tốn kém ít hơn – hoặc cái gì đó tốt hơn, hoặc cái gì đó chi phí thấp hơn, hoặc cái gì đó vừa tốt hơn vừa chi phí thấp hơn – cho những khách hàng sẽ trả tiền cho nó. Tuy nhiên, việc cung cấp món hàng A, với chất lượng tốt hơn và chi phí rẻ hơn món hàng B, sẽ là vô nghĩa nếu khách hàng không cần đến món hàng B, hoặc nếu có những biện pháp khác tốt hơn nữa để nâng cao chất lượng của món hàng A.

Cả hai cuộc cách mạng nông nghiệp – cuộc cách mạng vào khoảng năm 7000 trước Công nguyên và cuộc cách mạng vào khoảng năm 1750-1850 sau Công nguyên

– đều cung cấp những nguồn lương thực chất lượng cao hơn với chi phí thấp hơn nhiều. Bất cứ một chiếc xe nào bạn mua ngày nay cũng có cái giá chỉ bằng một phần nhỏ của giá mua một chiếc xe, đã điều chỉnh lạm phát tiền lương, vào 50 năm trước, nhưng nó lại an toàn hơn, tiện nghi hơn và đầy những chức năng mới với những hệ thống mạnh hơn hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn lần so với những gì tồn tại trên cả hành tinh này vào thời gian đó. Chúng ta được nhiều hơn rất nhiều và mất ít hơn rất nhiều.

Sự sáng tạo không phải là một quá trình huyền bí, không giới hạn cho những thiên tài khoa học, những nhà phát minh điên khùng hay những doanh nhân với tầm nhìn rộng biết hết mọi thứ. Sự sáng tạo có thể được thiết kế xây dựng, nếu bạn hiểu những gì có thể đưa đến sáng tạo. Con người và ý tưởng đưa đến sáng tạo. Nó diễn ra theo những cách có thể dự đoán và có thể lặp lại. Nếu hiểu rõ điều đó, chúng ta có thể sáng tạo.

Trở thành một con người 80/20

Nguyên lý 80/20 cho phép bất cứ ai có tính quyết đoán, có sự nhanh nhẹn, hay có quyết tâm in dấu chân mình lên thế giới, có thể trở thành một con người 80/20. Để làm nên một cái gì mới và được ưa thích, để cảm thấy bạn đã đạt được một cái gì đó, để có được một vị thế và khả năng tự do chọn lựa trong những lĩnh vực mới, cuốn sách này giúp bạn khám phá khả năng cách mạng của mình.

2 4

2Sự vươn lên của một cá nhân sáng tạo

“Hãy cho tôi một điểm tựa và một đòn bẩy, tôi sẽ nâng bổng trái đất lên”. Archimedes

Trước đây thế giới chưa bao giờ có được những “trái chín sáng tạo” nhiều như lúc này. Dù tiếp tục làm việc cho công ty hiện tại, dù bắt đầu một công ty mới, hay dù bạn đang dấn thân vào một cuộc-phiêu-lưu-một-người, bạn vẫn có thể tạo ra những gì mà người khác mong muốn. Và nếu làm được điều đó, bạn có thể giành được quyền kiểm soát định mệnh của chính mình.

Thách thức của bạn là phải tạo ra nhiều, nhiều hơn nữa – nhiều hơn những gì bạn đã tạo ra trước đây và nhiều hơn những gì bạn nghĩ là có thể. Có một cách vô cùng mạnh mẽ có thể giúp bạn làm được điều đó. Để tạo ra một cái gì mới và giá trị, bạn phải thể hiện được tính cá nhân của mình và phải sử dụng một trong những sức mạnh quyền năng nhất thế giới, đó là nguyên lý 80/20. Bạn phải trở thành một con người 80/20.

Sự vươn lên của một cá nhân sáng tạo

Kinh doanh và xã hội đang chuyển mình theo sự vươn lên của cá nhân như một nguồn tài sản và nguyên tắc tổ chức của cuộc sống. Đó là sự vươn lên của những con người 80/20. Đó là cuộc cách mạng 80/20 – sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một hình thức mới thế kỷ XXI dựa trên những cá nhân trên nền tảng đội nhóm.

Những con người 80/20 là những người thể hiện tính cá nhân của mình để tạo ra những gì mới mẻ và hữu ích cho người khác. Họ không phải là những người máy móc trông nom những gì hiện tại, hay là những người xây dựng nên các cơ chế mà trong đó, tập thể quan trọng hơn cá nhân.

Những con người và đội nhóm 80/20 rất linh động. Sự trung thành tiên quyết của họ là với bản thân và những đội nhóm nhỏ của họ chứ không phải một thể chế. Họ có thể xây dựng nên những tổ chức lớn và giá trị, nhưng họ biết rằng tổ chức đó được thành lập nên dành cho những cá nhân sáng tạo chứ không phải ngược lại. Tổ chức là phương tiện chứ không phải chủ nhân. Trên hết, tất cả những con người 80/ 20 đều là những cá nhân có phong cách riêng. Và dù chỉ là những cá nhân đơn lẻ nhưng họ có một ảnh hưởng vô cùng sâu sắc.

Ai là những con người 80/20?

Những con người 80/20 có mặt trên khắp mọi lĩnh vực. Họ xuất hiện trên mọi nẻo đường cuộc sống: chính trị, kinh doanh, công tác xã hội, tổ chức phi lợi nhuận, thể thao, giải trí, truyền thông.

Oprah Winfrey là một con người 80/20. Một số con người 80/20 khác chẳng hạn như: Jeff Bezos, David Bowie, Richard Branson, Warren Buffett, Jim Clark, Bill Clinton, Larry Ellison, Bill Gates, John Grisham, Andy Grove, Tom Hanks, Robert

Johnson, Michael Jordan, Nelson Mandela, Ronald Reagan, Steven Spielberg. Vào thời đại của bà, Florence Nightingale cũng là một con người 80/20. Và cả Christoforo Colombo, Henry Ford, Isaac Newton, George Orwell, Mẹ Teresa, Sam Walton cũng vậy.

Trái lại, tất cả những người điều hành các bộ máy tổ chức trên thế giới – quân đội, nhà nước, các tổ chức kinh doanh – và thừa hưởng những bộ máy đó mà không tạo ra hay thay đổi chúng, thì không phải là những con người 80/20. Những người thừa kế tài sản mà không phát triển chúng lên không phải là những con người 80/20. Nữ hoàng Anh Elizabeth, ví dụ, không phải là một con người 80/20. Gerald Ford, Al Gore hay George W. Bush cũng không, mặc dù họ rất nổi tiếng. Hầu hết những người có quyền lực nhưng không có cá tính trên thế giới này đều không phải là những con người 80/20. Quyền lực của họ nằm ở tổ chức chứ không phải con người. Họ là những thành phần tinh hoa có thể thay thế chứ không phải là những người sáng tạo cá nhân.

Những con người 80/20 có sáng tạo, và đó chính là lý do. Không phải vì họ có tước vị hay vai trò chính thức – mà bởi vì những gì họ làm, vì họ là những cá nhân chứ không phải một thành phần trong một guồng máy.

Tất cả những doanh nhân thành công đều là những con người 80/20. Các doanh nhân sử dụng tính cá nhân của họ để tạo ra những gì mới mẻ, khác lạ và giá trị. Nhiều người thuộc các lĩnh vực khác cũng làm tương tự như thế: nghệ sĩ, nhà khoa học, nhà văn, phóng viên, các ngôi sao thể thao hay màn bạc, những người tổ chức phong trào. Chúng ta có thể nghĩ về họ như những doanh nhân trí tuệ, doanh nhân xã hội, doanh nhân giải trí, doanh nhân thể thao. Nhưng về bản chất, hai chữ “doanh nhân” vốn thuộc về việc kinh doanh, và mở rộng ý nghĩa của chúng sang những lĩnh vực khác sẽ không thỏa đáng lắm.

Ngay cả trong kinh doanh, hai chữ “doanh nhân” cũng gây nhiều rắc rối, bởi vì sự sáng tạo trong kinh doanh không chỉ hạn chế ở các doanh nhân. Nhiều nhà quản trị trong những tổ chức lớn tạo ra những giá trị khổng lồ, với tư cách cá nhân. Những nhà quản trị sáng tạo có thể tạo ra nhiều giá trị với tư cách cá nhân hơn nhiều doanh nhân có thể làm được. Một trong những thông điệp ngầm quan trọng của cuốn sách này là những nhà quản trị sáng tạo gần như luôn luôn nhận được ít hơn từ tổ chức của mình. Và nhiệm vụ của tôi là khuyến khích những cá nhân như thế nắm bắt được những giá trị lớn mà họ tạo ra. Với một số lượng nào đó các nhà quản trị sáng tạo làm được điều này, toàn bộ cơ cấu nền kinh tế sẽ đột nhiên thay đổi.

Những cá nhân sáng tạo làm thay đổi thế giới

John Maynard Keynes, có lẽ là nhà kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đã thừa nhận vai trò nòng cốt của những cá nhân sáng tạo và chủ nghĩa lạc quan cá nhân trong việc tạo ra sự phát triển và cách mạng kinh tế. Theo Keynes, kẻ thù của sự phát triển chính là sự thiếu đầu tư dài hạn. Vì con người có khả năng trở nên chống đối và

tương lai là không chắc chắn nên hiếm khi có sự đầu tư đầy đủ. Nền kinh tế chỉ có thể nhảy vọt khi có những nguyên nhân đặc biệt – ví dụ như dòng vàng tràn vào từ Tân Thế giới hay những phát minh đặc biệt như máy hơi nước – khi các nhà kinh doanh cá nhân bỗng cảm thấy tự tin mở rộng một cách bất thường.

Chúng ta có thể áp dụng quan điểm của Keynes rộng hơn. Những cá nhân sáng tạo đã làm thay đổi thế giới theo đúng nghĩa đen. Christoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, trực tiếp và gián tiếp tạo nên một khối tài sản khổng lồ trao cho các nhà cầm quyền châu Âu trên thế giới trong gần bốn thế kỷ. Các nhà khoa học vĩ đại, từ Isaac Newton đến Charles Darwin hay Albert Einstein, mở rộng và thay đổi chân trời tri thức của chúng ta, nâng cao cái nhìn của chúng ta về vũ trụ này và những tiềm năng của nó. Những nhà kinh doanh cá nhân – như Andrew Carnergie, Henry Ford, Bill Gates, Konosuke Matsushita, Akio Morita, hay Sam Walton – đã biến hóa cả một nền công nghiệp. Con đường này khá gian nan và gai góc, khi chúng ta loạng choạng tiến lên với sự can đảm phi thường của những cá nhân sáng tạo.

Cá nhân và những nhóm nhỏ của họ chính là nguồn lực của sự phát triển. Song đằng sau sự nở rộ của những cá nhân thiên tài chính là hai điều kiện tối cần. Một là cái mà Keynes gọi là “tinh thần động vật”, cảm giác rằng vũ trụ này là một sân chơi tuyệt vời mà chúng ta chỉ vừa mới bắt đầu khám phá. Hai là sự áp dụng rộng rãi một tri thức khoa học: nguyên lý 80/20.

Những con người sáng tạo và nguyên lý 80/20

Hãy nghĩ đến hàng tỷ người trên thế giới, ngày nay và xuyên suốt lịch sử. Rồi hãy nghĩ đến một số ít ỏi những người có ảnh hưởng quan trọng đến thế giới, những nhà tư tưởng lớn, những lãnh đạo tôn giáo, những người khám phá, những người lính, những nhà khoa học, các nhà chính trị, các nghệ sĩ… Cho dù chúng ta lập nên một danh sách như thế nào đi nữa, số người thật sự có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta chỉ là một con số rất nhỏ so với hàng tỷ người khác.

Có lẽ chưa tới 1% số người có ảnh hưởng đến hơn 99% những người khác trên thế giới. Những cá nhân sáng tạo này đã thay đổi tất cả những gì xảy ra trước đó và những gì hẳn sẽ xảy ra nếu không có họ. Họ đã làm những điều đó không phải với tư cách tập thể mà là với tư cách cá nhân: họ có những quan điểm “bất thường”, suy nghĩ “bất thường” và làm những việc “bất thường”.

Có phải một hội đồng lãnh đạo tôn giáo đã nghĩ ra Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo? Có phải tất cả những nhà lãnh đạo châu Âu đều quyết định tài trợ cho một chuyến hành trình vượt Đại Tây dương đi tìm vùng đất mới? Có phải một ủy ban các nhà khoa học đã quyết định rằng trái đất tròn chứ không phải dẹp, hay họ đã nghĩ ra định luật chuyển động của Newton, thuyết tiến hóa của Darwin, hay thuyết tương đối của Einstein?

Tôi không nghĩ chúng ta có thể hiểu rõ về quá trình sáng tạo của một con người

diễn ra như thế nào. Trong cuốn sách này, tôi trình bày một lý thuyết mới dựa trên nguyên lý 80/ 20. Hiển nhiên những con người sáng tạo có thể tạo ra những giá trị nhiều hơn những người trung bình gấp nhiều lần. Toán học đằng sau nguyên lý 80/20 cho rằng với thiểu số những con người sáng tạo, mỗi người có thể tạo ra năng suất cao hơn một người trong đa số còn lại ít nhất là 16 lần. Quan điểm này phù hợp với thực tế, nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được? Sự chênh lệch gấp 16 lần có đáng tin cậy hay không? Đó là một sự khác biệt đầy kịch tính. Ngay cả những thiên tài lỗi lạc nhất cũng không thông minh hơn người khác đến mức 16 lần.

Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở giả định sai lầm của chúng ta khi cho rằng trí thông minh trực tiếp tạo ra sự hiểu biết và giá trị. Theo quan điểm của tôi, tài sản và sự phồn vinh được tạo ra bởi những con người có sự tương tác với một “bội số sáng tạo tài sản” có thể bội nhân tác động của trí thông minh và nỗ lực cá nhân. Mắt xích ở đây chính là ý tưởng, hay chính là “bội số sáng tạo tài sản” mà tôi muốn nói.

Những người tạo ra tài sản không phải là những nguồn giá trị tuyệt đối; có những thứ còn cơ bản hơn thế nữa. Chúng ta giống như những con cá giữa đại dương, một phần của một dây chuyền hấp thu và tạo ra cuộc sống, sử dụng một thứ giá trị nhất vũ trụ này – ý tưởng. Tất cả mọi ý tưởng đều cần phải được hóa thân vào sản phẩm và dịch vụ. Chỉ có những cá nhân và những nhóm nhỏ mới có thể tạo ra, xem trọng, phát triển và hóa thân các ý tưởng vào thực tế kinh doanh. Sức mạnh mà con người có được xuất phát chủ yếu từ ý tưởng và từ việc họ sử dụng các ý tưởng đó như thế nào. Điều này rất quan trọng vì chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu được ý tưởng quan trọng đến mức nào, làm thế nào để lựa chọn giữa những ý tưởng mạnh mẽ và những ý tưởng vụn vặt, làm thế nào để kết hợp và thúc đẩy ý tưởng, và làm thế nào tiềm năng của chúng có thể được giải phóng và hồi phục tốt nhất.

Như chúng ta đã thấy trong Chương 1, nguyên lý 80/20 cho chúng ta biết có một số ý tưởng có sức mạnh đặc biệt hơn những ý tưởng khác. Albert Einstein nghĩ ra thuyết tương đối không chỉ vì ông là một thiên tài mà còn vì ông đã nghiền ngẫm những ý tưởng đặc biệt xuất phát từ vật lý lượng tử. Ông biết nên lựa chọn và đào sâu những ý tưởng nào cũng như làm thế nào để đem đến cho chúng những sức bật mạnh mẽ.

Dù vẫn mang tính cá nhân và tính cảm hứng nhưng sự sáng tạo của con người vẫn tuân theo một khuôn mẫu nhất định. Khuôn mẫu đó có thể được mô tả bằng nguyên lý 80/ 20. Bí quyết chính là hãy nhìn “bên dưới” hay “bên trên” bản chất “trung bình” của thực tế và nhận định một số ít sức mạnh thật sự mạnh mẽ và những ý tưởng đằng sau sự thành công – để tập trung vào “số ít quan trọng” chứ không phải “số nhiều vặt vãnh”.

Bản thân sự sáng tạo không thể được đúc kết lại như công thức nấu một món ăn. Sự hiểu biết và kiến thức của mỗi cá nhân luôn luôn là điều thiết yếu. Song những ai

có kiến thức sâu sắc hay bản năng tuyệt vời về một lĩnh vực đặc biệt có thể thúc đẩy quá trình sáng tạo này và tự tin hơn với một kết quả tích cực, bằng cách sử dụng nguyên lý 80/20. Hiểu biết về nguyên tắc này cho phép con người có thể sáng tạo nhiều hơn, nhanh hơn, và gặp phải ít ngõ cụt hơn. Tôi thật sự hy vọng rằng một khi sức mạnh của nguyên lý 80/20 được hiểu rõ, nhiều người sẽ có thể tiến lên phía trước với nỗ lực tạo ra một cái gì đó mới mẻ và giá trị. Thế giới không bao giờ có thể có quá nhiều con người 80/20.

Những kinh nghiệm sáng tạo của riêng tôi thuộc lĩnh vực kinh doanh. Hầu hết những trường hợp ví dụ của tôi nói về những nhà sáng tạo trong kinh doanh. Chắc chắn bạn có thể sử dụng cuốn sách này để giúp bạn tạo nên một cuộc phiêu lưu kinh doanh mới, nhưng nguyên lý 80/20 có thể áp dụng cho tất cả mọi lĩnh vực.

Cá nhân và những guồng máy

Một mối quan hệ cuối cùng và rất quan trọng giữa nguyên lý 80/20 với những con người sáng tạo là khuynh hướng gần đây thiên về cá nhân hơn là những guồng máy, thiên về những con người sáng tạo hơn là những tổ chức thuộc về người khác. Dù không phải mọi người đều đồng ý, và có vẻ như đây là một sự khẳng định lạ lùng, nhưng tôi tin rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mà càng ngày càng thiên về các cá nhân.

Cá nhân, tôi muốn nói, là những người tạo ra tài sản và sự thịnh vượng. Nhưng người ta thường không có cảm giác như thế. Nếu chúng ta được hỏi: “Điều gì thúc đẩy nền kinh tế phát triển?” hay “Cái gì tạo ra sự phồn vinh?”, hầu hết mọi người sẽ trả lời là: “những công ty lớn”, “thị trường chứng khoán”, “vốn”, “chính phủ” hay có thể là “những tổ chức tình nguyện”. Rất ít người có thể đưa ra câu trả lời “những cá nhân sáng tạo”.

Nếu chúng ta quay ngược câu hỏi lại: “Sự phồn vinh được tích lũy từ đâu?”, hầu hết các nhà quan sát sẽ chỉ vào những giá trị thị trường chói lóa đặt trên những tập đoàn lớn nhất của chúng ta. Như tôi đã viết, bất chấp sự sụp đổ của một số công nghệ và hầu hết những cổ phiếu Internet, Microsoft vẫn có giá trị 286 tỷ đôla. Những tập đoàn hàng đầu của chúng ta chưa bao giờ đạt giá trị cao hơn hiện nay, và bất chấp một số thoái trào gần đây, hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới vẫn cao hơn so với 5 năm về trước, và nhiều lần họ đạt mức cao hơn cả 30 năm về trước hay thậm chí là cao nhất từ trước đến nay. Và trong mỗi thị trường, giá trị được tập trung vào ngày càng ít chứng khoán. Những doanh nghiệp lớn là nơi tập trung giá trị. Trong mỗi lĩnh vực đều có khoản hai hoặc ba “siêu tập đoàn” điều khiển phần lớn thị trường.

Trong nền kinh tế toàn cầu, khi những con cá lớn ngày càng lớn hơn và thu hút hết của cải tài sản, đâu là nơi cho những cá nhân? Mỗi cá nhân phải biết tích hợp vào những tổ chức mạnh mẽ, cả trong công việc lẫn trong cuộc sống hàng ngày.

Có phải thế không? Có cách nào khác để diễn dịch những gì đang xảy ra?

Cá nhân: sức mạnh huyền bí vô hình đằng sau sự phát triển

Hãy xem nền kinh tế phát triển như thế nào. Có phải nó phát triển nhờ những công ty lớn diễu hành tiến lên phía trước, hay nhờ những công ty nhỏ vươn lên từ con số 0 để trở thành những công ty lớn? Câu trả lời là rõ ràng. Nghiên cứu của Hewlett-Packard và Ủy ban Chiến lược Tập đoàn cho thấy khi các công ty bước vào danh sách Fortune 50 – danh sách 50 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ – tốc độ phát triển của họ chậm lại từ 9-29% một năm cho đến 3-4%. Xét về dài hạn, 91% số công ty đủ lớn để bước vào danh sách Fortune 50 sau đó đều chậm lại và không bao giờ có thể phát triển một cách đáng kể nữa bất chấp mọi nỗ lực. Sáp nhập chính là bằng chứng cho thấy những doanh nghiệp lớn không có khả năng phát triển, chứ không phải ngược lại: Các công ty khổng lồ phải tăng doanh thu bằng cách sáp nhập bởi vì họ không thể tự phát triển hơn được.

Nền kinh tế phát triển vì những công ty nhỏ phát triển. Đằng sau sự thành công của mỗi công ty nhỏ chính là cá nhân hay những nhóm cá nhân. Cá nhân chính là trung tâm sự phát triển của các công ty nhỏ. Nhưng hơn thế nữa: Ngày nay, cá nhân thường cũng là trung tâm sự phát triển của những công ty lớn.

Microsoft, một công ty mà 30 năm trước chưa từng tồn tại, là một ví dụ. Hai mươi năm trước đây, giá trị của công ty này hầu như chỉ là con số 0 so với ngày nay, 286 tỷ đôla. Liệu Microsoft là bằng chứng cho quyền bá chủ tập đoàn hay cho sức mạnh của cá nhân?

Microsoft trông như một siêu tập đoàn. Công ty này nổi tiếng trên thị trường chứng khoán và suốt một thời gian dài, đó là công ty giá trị nhất trên toàn thế giới. Nhưng đó không phải là một tập đoàn lớn điển hình của thế kỷ XX. Tại Microsoft, không hề có sự chia sẻ quyền sở hữu kiểm soát, dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản quản trị. Chủ tịch công ty này, Bill Gates, sở hữu 12,3%, các giám đốc khác sở hữu 5%, và các nhân viên của họ sở hữu hơn một phần ba. Microsoft được sáng lập bởi một số ít những cá nhân sáng tạo và hoạt động phần lớn vì lợi nhuận của họ. Nó được đưa lên thị trường chứng khoán không phải vì Microsoft cần vốn hoạt động mà bởi vì con đường đó sẽ giúp Bill Gates và những nhà sáng lập khác trở nên giàu có hơn những con đường khác.

Trong mạng lưới toàn cầu, Warren Buffett là nhân vật thứ hai sau Bill Gates. Buffett quản lý một tập đoàn thành công nhất và lớn nhất nước Mỹ. Tuy nhiên, ông chỉ có một văn phòng nhỏ xíu với một nhúm nhân viên và rất ít việc làm. “Triết lý đầu tư của chúng tôi”, ông nói, “những ranh giới của sự mơ màng”. Làm thế nào chỉ có một người, được hỗ trợ bởi một nhóm ít ỏi, lại có thể tạo nên một tài sản lớn như thế? Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy?

Chúng ta không nhận ra rằng cách thức phát sinh tài sản đã thay đổi gần như hoàn toàn trong 50 năm qua và với tốc độ ngày càng tăng trong hai thập niên qua. Trước

kia, các công ty tập đoàn từng là những công cụ tập thể, khi hệ thống này tạo ra tài sản và các nhà quản trị cá nhân có thể thay thế cho nhau và có thể bị loại bỏ. Ngày nay, các công ty tập đoàn là những công cụ cá nhân, được cá nhân sử dụng cho mục đích riêng của họ. Những hệ thống này giờ đây đã có thể thay thế được; thành phần duy nhất không thể loại bỏ chính là cá nhân người tạo ra tài sản cùng một đội nhóm nhỏ của họ.

Cá nhân và nhóm nhỏ

Một cá nhân sáng tạo cần phải có một nhóm nhỏ, dù nhóm này chỉ khoảng từ hai đến ba người. Vào năm 2001, công ty tư vấn Accenture đã thực hiện một cuộc khảo sát lớn về chủ đề quản trị doanh nghiệp trên gần 1000 quản trị viên. Cuộc nghiên cứu này kết luận rằng hình ảnh thường thấy của một doanh nhân cô đơn chỉ là tưởng tượng: “Quản trị kinh doanh không phải là một cuộc theo đuổi đơn độc mà là sự kết hợp chặt chẽ những gì có tầm quan trọng đặc biệt với mỗi quốc gia hay tổ chức, bất kể quy mô kích thước ra sao”.

Phát hiện của công ty Accenture cộng hưởng với kinh nghiệm của những con người 80/20 mà chúng ta sẽ gặp trong suốt cuốn sách này. Những con người 80/20 này có không gian riêng của họ, nhưng họ không hề cô độc. Họ luôn có một nhóm nhỏ các đối tác hay những người hỗ trợ. Một trong những dấu hiệu đặc trưng của những con người 80/20 là sự tập trung vào những điểm mạnh và ý thức được những yếu điểm của mình. Những con người 80/20 cần được người khác bổ khuyết cho những yếu điểm của họ; và họ chỉ có thể làm việc hiệu quả với những người khác xung quanh.

Chủ nghĩa cá nhân hiện đại không phải sự lùi bước về thời đại anh hùng ca của thế kỷ XIX hay thời của những nhà hiền triết chính trị Victoria như John Stuart Mill. Chủ nghĩa cá nhân mới công nhận bối cảnh kinh tế xã hội mà mỗi cá nhân đang hoạt động và tầm quan trọng tột bực của nhóm hỗ trợ họ.

Những con người có phong cách riêng luôn tôn trọng, khuyến khích, và ủng hộ cái riêng của những người khác. Càng khác biệt và càng có phong cách riêng, chúng ta lại càng phải dựa vào những người khác với những đặc tính quan điểm hoàn toàn khác để bổ khuyết cho chúng ta. Đó chính là sự phát triển của môi trường và xã hội, với sự chuyên môn hóa và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn bao giờ hết. Sự sáng tạo thật sự đòi hỏi phải giải phóng tinh thần con người và phát triển những tiềm năng riêng biệt của mỗi cá nhân.

Xã hội mới của những cá nhân hợp tác

Chúng ta quen nghĩ rằng sự phồn vinh xuất phát từ những tổ chức lớn mà cho dù có tự do hay cá nhân đến mấy đi nữa cũng không thể tránh được hệ thống cấp bậc.

Suy nghĩ đó đã lỗi thời. Sự phát triển ngày nay xuất phát từ cá nhân và những nhóm nhỏ, liên kết với các nhóm khác có những kỹ năng bổ khuyết cho họ. Vị trí của các nhóm khác này như thế nào – họ là một phần trong cùng tổ chức, họ là một tổ

chức khác, hay họ không thuộc một tổ chức nào cả điều này càng ngày càng không quan trọng.

Có một mạng lưới biến ảo đang chuyển động giữa những cá nhân và nhóm riêng của họ trong quan hệ với những cá nhân và những nhóm khác. Họ hợp tác với nhau không phải vì ai bảo họ phải làm thế, không phải vì tinh thần tập thể, mà bởi vì việc đó có lợi cho họ. Cá nhân hợp tác để làm giàu. Cái lợi mà họ có được dựa trên sự chuyên môn hóa, và nói cho cùng, chính là dựa trên cá nhân.

Nhân đây tôi muốn giới thiệu về một thuật ngữ mà tôi sẽ sử dụng trong suốt phần còn lại của cuốn sách này. Khi tôi nói về một “cá nhân”, xin hãy hiểu rằng tôi đang muốn nói về “cá nhân và đội nhóm của họ”.

Không phải là châu chấu đá xe

Gần đây, Charles Handy có viết một cuốn sách nói về thế giới của “châu chấu đá xe”. “Xe” ở đây là những tổ chức lớn. “Châu chấu” ở đây là những người mà ông gọi là “những người độc lập”, những tổ-chức-một-người như các nhà văn, nhà tư vấn, nghệ sĩ… Ông nhận thấy số người độc lập này ngày càng gia tăng, khi những người như ông rời bỏ các tổ chức để trở thành những nhà kinh doanh độc lập. Handy đem đến cho họ những lời khuyên hữu ích làm thế nào để tồn tại bên ngoài một tổ chức.

Handy đã đúng khi nói rằng số lượng “châu chấu” đang ngày càng gia tăng. Nhưng nếu chỉ nói như thế sẽ không hình dung được tầm quan trọng của sự gia tăng đó. Nếu tất cả những gì họ làm chỉ là rời tổ chức này rồi lại bán sức lao động cho tổ chức khác thì nền kinh tế xã hội sẽ không thay đổi gì nhiều. Chủ nghĩa cá nhân vẫn sẽ chỉ giới hạn bên lề của nền kinh tế.

Những con người 80/20 không phải là “châu chấu”. Những con người 80/20 không phải là những tổ-chức-một-người. Những con người 80/20 có hoài bão cao hơn là đem bán sức lao động. Những con người 80/20 hợp tác với nhau, và với cả “châu chấu” lẫn “xe”, để tạo nên những tổ chức xã hội hay những doanh nghiệp mới có siêu năng suất thật sự.

Những con người 80/20 không ngừng bổ sung thêm vào dòng phát triển. Họ để lại những sản phẩm hay những tổ chức có thể đem đến những sản phẩm hay những tổ chức khác thậm chí còn tốt hơn.

Những con người 80/20 không phải là những con người độc lập cô đơn. Họ hợp tác với những người khác để tạo nên những tổ chức mới. Những tổ chức này không phải là “xe” mà là một cái gì đó khác hơn. Có thể gọi chúng là “máy bay” nếu bạn thích, miễn là một cái gì đó nhanh chóng và mạnh mẽ.

Nói cho cùng thì sự hoán dụ này cũng có thể bị loại bỏ. Mỗi người là duy nhất, cũng như những tổ chức mà họ tạo ra cũng là duy nhất. Những tổ chức 80/20 mới phản ánh cá tính của mỗi cá nhân. Tổ chức phục vụ cho cá nhân chứ không phải ngược lại. Những tổ chức 80/20 là kết quả của nỗ lực chung, của cả nhóm cá nhân. Cá

nhân kiểm soát sự tập trung này và những giá trị thặng dư mà nó tạo ra.

Tại sao sự vươn lên của cá nhân lại thú vị đến thế?

Tại sao tôi lại hứng thú với sự vươn lên của cá nhân? Một phần vì đó là một cách nhìn hợp lý vào thực tế với những vấn đề mà cho đến nay chúng ta vẫn còn đang vất vả tìm cách thích nghi với những quan điểm và cách tư duy hiện tại của chúng ta.

Ví dụ, vài năm qua người ta bàn tán rất nhiều về “tài sản trí tuệ” và tầm quan trọng ngày càng tăng của nó so với tài sản tài chính. Khái niệm này khá trực giác nhưng cũng rất hữu ích, dù đồng vốn “thực” vẫn là mối quan tâm hàng ngày của các CEO và thị trường tài chính.

Nghịch lý này có thể được giải thích như thế nào? Đơn giản hãy nhận ra rằng tài sản trí tuệ thuộc về cá nhân chứ không phải tập đoàn. Tài sản trí tuệ chỉ có thể được tạo ra bởi cá nhân. Ngoài bằng sáng chế, thương hiệu và sự công nhận của pháp luật (điều này luôn luôn rất quan trọng), tài sản trí tuệ sẽ không có giá trị gì trừ phi chúng được đổi mới hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày.

Tầm quan trọng ngày càng tăng của tài sản trí tuệ có thể góp phần giải thích tại sao quyền lực của cá nhân ngày càng tăng trong khi sức mạnh của hệ thống tập đoàn ngày càng giảm. Việc biến tài sản trí tuệ thành sở hữu tập đoàn, hay xem như cả hai là một, cũng giống như đổ rượu mới vào bình cũ. Những tài sản trí tuệ giá trị nhanh chóng trở thành những tài sản thật sự do cá nhân nắm giữ. Ví dụ, những tài sản trí tuệ mà Bill Gates tạo ra có thể xấp xỉ bằng giá trị cổ phần Microsoft thuộc sở hữu cá nhân của ông.

Trước đây chưa bao giờ có nhiều cá nhân ghi dấu cá tính của mình trên thế giới nhiều như hiện nay. Song tôi tin rằng nếu đếm số người tạo nên những tài sản quan trọng và sự phồn vinh thịnh vượng cho người khác, có lẽ chỉ có khoảng 10, 20, hay 100 người có thể làm điều đó.

Một trong những mục đích chính của tôi khi viết cuốn sách này là để thuyết phục một số lớn cá nhân thử bắt tay vào tạo nên một cái gì đó mới mẻ và giá trị hơn. Dù chỉ có rất ít người sẽ thật sự làm việc này nhưng hầu hết mọi người đều có thể làm, nếu họ thật sự muốn. Tôi sẽ mô tả làm thế nào để làm được điều đó trong Phần II. Bạn sẽ rất hào hứng khi phát hiện ra một cái gì mà mình có thể làm rất giỏi, phát hiện ra một ý tưởng phù hợp với tài năng của mình và lại có thể áp dụng tốt, phát hiện ra những người khác có thể làm việc với bạn để phát triển ý tưởng đó và làm cho nó trở nên có giá trị đối với khách hàng.

Trước đây, đại đa số mọi người cảm thấy việc tạo lập một doanh nghiêp mới là vô cùng khó khăn hay thậm chí là không thể được. Không có vốn, không có người quản lý, không có công nghệ, không có ý tưởng. Những thành phần quan trọng này đã bị độc quyền bởi các tập đoàn lớn. Hầu hết mọi người không nhận ra rằng ngày nay, những rào chắn đó không còn nữa. Họ nghĩ tạo lập một doanh nghiệp rất rủi ro và

phiền toái. Họ đã sai lầm. Những rào chắn đó xuất phát từ chính bản thân họ trong một kỷ nguyên đã qua.

Nếu bạn muốn tạo ra một cái gì mới và giá trị, bạn hoàn toàn có thể. Tất cả những gì bạn cần là những ý tưởng đúng đắn, con người thích hợp, cùng sự quyết đoán và thông minh vừa phải. (Quá thông minh thường cũng không tốt).

Một điểm rất quan trọng nữa là nhiều người tạo ra những doanh nghiệp mới giá trị lại không được tưởng thưởng về điều đó. Trong cuốn sách này bạn sẽ gặp nhiều ví dụ về các nhà quản trị và những cá nhân sáng tạo khác thật sự làm nên sự thay đổi – đôi khi có thể đo bằng hàng chục hay hàng trăm triệu đôla – và bản thân họ hầu như không nhận được gì cả. Đôi khi, vì lý do xã hội hay từ thiện, những nhà sáng tạo này vui vẻ cho đi mà không nhận. Tuy nhiên, đa số họ là những nhà quản lý làm việc trong các tập đoàn vị lợi, ở đây những lợi nhuận mà họ làm ra phần lớn chảy vào túi các nhà đầu tư thụ động.

Tại sao lại thế? Bởi vì những nhà sáng tạo này không nhận thức được cá nhân họ đã tạo ra một giá trị lớn đến mức nào. Họ nghĩ rằng tập đoàn của họ mới là nguồn tài sản cơ bản, và họ nghĩ như thế là công bằng khi họ không nhận được gì hơn một số lượng kha khá. Tôi hy vọng có thể thuyết phục được những người này – bạn có thể là một trong số họ – sử dụng sức mạnh của mình để có được một phần thưởng xứng đáng với những gì họ đã tạo ra.

Nếu có một khoảng cách quá lớn giữa những người tạo ra giá trị và những người được nhận giá trị, nền kinh tế sẽ bị bóp méo và sự phát triển sẽ chậm hơn tốc độ mà lẽ ra nó có thể có được. Nếu những cá nhân sáng tạo được tưởng thưởng xứng đáng, họ sẽ tiếp tục sáng tạo thêm nhiều nhiều nữa, bởi vì họ có cả động lực tinh thần lẫn vật chất. Và điều đó sẽ khuyến khích những nhà sáng tạo khác tiếp tục tiến lên.

Một hiện tượng mới: Tỷ phú 80/20

Nguyên lý 80/20 đã tạo ra cả một hiện tượng mới: những nhà tỷ phú 80/20. Những nhà lãnh đạo của các tập đoàn lớn như Black Entertainment Television, Oracle hay Goldman Sachs vừa là các nhà quản trị vừa là những ông chủ tỷ phú.

Với hầu hết mọi người, những tập đoàn này trông có vẻ khác biệt với các tập đoàn khác như General Motors hay IBM duy nhất ở giá trị cao hơn của chúng. Nhưng thật ra, những tập đoàn mới do chính chủ nhân của chúng quản lý, nơi các nhà quản trị sở hữu không phải là các tùy chọn hay những số vốn nhỏ xíu mà là hàng tỷ đôla cổ phần, có một đặc điểm rất đặc biệt. Chúng là công cụ của những người sáng lập, tác động trực tiếp đến thị trường vốn không phải bằng số vốn mà bằng giá trị cổ phần của chúng. Nếu không có nguyên lý 80/ 20, những tập đoàn xoay-quanh-cá-nhân này hẳn không thể tồn tại được.

Tôi nói ra điều này nghe có vẻ lố bịch, nhưng đó là sự thật: Những gì Bill Gates và các nhà tỷ phú khác đã làm, bạn hoàn toàn có thể làm được, dù có thể là ở một quy

mô khiêm nhường hơn. Bạn không cần phải là một thiên tài kỹ thuật. Nhưng bạn cần phải biết cách sử dụng nguyên lý 80/20 một cách sáng tạo.

Ưu thế thuộc về cá nhân chứ không phải những tập đoàn lớn

Trong thế kỷ XX, nguyên lý 80/20 chủ yếu được sử dụng bởi những tập đoàn lớn để củng cố vị trí độc tôn của họ trong những thị trường được lựa chọn. Trong bất cứ một thị trường nào, luôn luôn có chưa tới 20% tổng số công ty chiếm đến 80% giá trị thị trường. Về cơ bản, mỗi thị trường toàn cầu có khoảng 2 hoặc 3 nhà sản xuất chiếm ưu thế tại Mỹ, và 1 hoặc 2 từ các nước khác. Ví dụ, thị trường xe hơi chủ đạo tập trung vào Ford, General Motors và Chrysler, với Toyota là một đối thủ nước ngoài chính. Người ta thường nghĩ rằng nguyên lý 80/ 20 sẽ thiên về sự tập trung và kích thước tập đoàn.

Tôi cũng không tránh khỏi giả định này. Khi tôi xuất bản cuốn Nguyên lý 80/20 vào năm 1997, cuốn sách áp dụng nguyên lý 80/20 cho công việc và cho con người, nhưng không phải cho con người trong công việc. Phần áp dụng nguyên lý 80/20 trong công việc nói về các nhà quản trị áp dụng nguyên tắc này cho lợi ích của tập đoàn hay công ty họ. Phần áp dụng nguyên lý 80/20 cho con người nhằm khuyến khích chất lượng cuộc sống và hiệu quả cá nhân chứ không phải nhằm phát triển một doanh nghiệp với cá nhân là trung tâm.

Với cuốn Con người 80/20, chúng ta bước sang một thế giới khác. Ở đây, một người có thể xoay chuyển một thị trường hiện hữu bằng cách tập trung vào một phần nhỏ trong đó – phần đem lại lợi nhuận nhiều nhất. Thay vì một công ty độc quyền thị trường, chúng ta tìm kiếm 20% hữu lợi nhất có khả năng phát sinh 80% lợi nhuận. Chúng ta có thể tìm thấy 20% (hoặc 5% hay chỉ 1%) số khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên, khu vực địa lý, sản phẩm và hoạt động… đem lại lợi nhuận cao nhất. Ví dụ: Nếu toàn bộ lợi nhuận của bạn phát sinh từ việc đóng nhãn sản phẩm thì tại sao phải quan tâm đến việc sản xuất, phân phối hay tiếp thị làm gì?

Điều gì xảy ra trong thế giới mới này? Các thị trường cất cánh. Những gì trước kia chỉ là một thị trường nay có thể trở thành hàng chục hoặc hàng trăm, theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên, đa số lợi nhuận được tạo ra chỉ ở một số, hoặc có thể chỉ một hay hai, thị trường này.

Intel và Microsoft có thể kiếm được lợi nhuận ở nhiều thị trường, nhưng họ lại tập trung vào việc sản xuất chip và phát triển phần mềm, chừa lại tất cả những công việc nặng nhọc khác – đại đa số khổng lồ của hoạt động vật lý và đầu tư trong thị trường máy tính – cho các công ty khác.

Vì những tay chơi mới không cần tham gia mọi sản phẩm hay mọi hoạt động nên họ có thể lựa chọn những sân chơi tốt nhất cho mình. Một thiểu số hoạt động nhỏ có thể đem lại đa số lợi nhuận. Và như vậy nguyên lý 80/20 không hề ủng hộ những nhà độc tài cũ quy mô lớn hay những tập đoàn già cỗi mà ngược lại, nó nghiêng về những

cá nhân bắt đầu các doanh nghiệp mới.

Tất cả những sự đầu tư nhỏ bé này có giá trị như thế nào, khi một cá nhân khôn ngoan có thể áp dụng nguyên lý 80/ 20 cùng một số vốn rất nhỏ để nắm bắt những điểm nóng trong một thị trường? Đầu tư trở thành một cái bẫy. Một công ty lớn và cơ cấu của nó trở thành nghĩa vụ chứ không phải tài sản. Nguyên lý 80/20 mở cửa với tất cả các thế giới mới, đặc biệt và ưu tiên cho những công ty nhỏ, những công ty mới, và trên hết là cho các cá nhân.

Bản chất của nguyên lý 80/20 là nó bao quát toàn bộ khán đài – ở mức trung bình

– và tìm ra những chỗ ngồi tốt nhất trong khán đài đó. Nó tìm kiếm những mảnh vụn nhỏ nhất có thể nhưng lại mang giá trị lớn nhất có thể. Trong kinh doanh, mảnh vụn nhỏ nhất của sự sáng tạo giá trị trở thành những cá nhân giàu trí tưởng tượng – và giá trị lớn nhất có thể có được nhờ cá nhân đó, thường là thông qua công ty hay tập đoàn mà người đó sở hữu.

Có phải chúng ta đã đến gần điểm mốc?

Một “điểm mốc” là nơi một sản phẩm, một khuynh hướng, hay một thái độ, từ lúc còn bị hạn chế trong một nhóm tiểu văn hóa hay một khu vực nhỏ bắt đầu biến đổi thành một hiện tượng đại chúng. Điểm mốc là một ranh giới vô hình mà một khi đã vượt qua, mọi thứ sẽ được thay đổi, có thể là mãi mãi.

Một căn bệnh, chẳng hạn như bệnh cúm hay bệnh AIDS, trở thành một dịch bệnh. Quan hệ tình dục trước hôn nhân trở thành một phần trong nền văn hóa của giới trẻ hiện nay. Nước trở thành hơi nước. Điện thoại di động trở nên phổ thông.

Có phải sự vươn lên của cá nhân đã đến gần một điểm mốc? Tôi nghĩ vậy. Khuynh hướng tăng tốc của 20 năm qua – đặc biệt là sự gắn kết giữa giá trị với tài

sản và sở hữu, sự phát triển của gia công và liên minh, sự tái xuất hiện của các nhà quản lý tự làm chủ, và sự sáng tạo của những hệ thống kinh tế mới vượt qua những ranh giới doanh nghiệp cá nhân – tất cả đều đem đến sức mạnh và của cải cho những con người sáng tạo, và biểu thị tiềm năng của một nền kinh tế khác biệt. Nếu chúng ta không vượt qua điểm mốc, cá nhân sẽ làm giàu hay sẽ được nhận những phần thưởng phi tiền tệ bên trong hệ thống kinh tế quen thuộc của chúng ta.

Nhưng nếu chúng ta vượt qua điểm mốc, chuyện gì sẽ xảy ra? Khi đó mọi thứ sẽ như thế nào?

Chúng ta không thể biết chắc được. Bản chất của sự chuyển tiếp đầy kịch tính là chúng tạo ra một cái gì đó hoàn toàn khác, không thể đoán trước bằng phương pháp loại suy đơn giản những khuynh hướng trong quá khứ. Ai có thể biết được việc trồng trọt và thuần hóa nuôi dưỡng thú vật sẽ dẫn đến vua chúa, thầy tế và nông nô cũng như những kiến trúc và đế chế vĩ đại? Ai có thể biết được xã hội phong kiến đó sẽ trở nên lỗi thời và lạc hậu trước những bộ máy hơi nước? Hay ai có thể biết được sự quản lý cần thiết ban đầu cho các đường sắt sẽ dẫn đến những quy trình sản xuất hàng loạt,

chiến tranh toàn diện, bộ máy quan liêu và xã hội tiêu thụ?

Tuy nhiên, tôi linh cảm rằng chúng ta sẽ có thể nhìn thấy những thay đổi bất ngờ. Tập trung nền kinh tế và xã hội xung quanh cá nhân sẽ là một điều tốt. Nhưng nếu nó kích động sự sụp đổ hàng loạt vĩnh viễn của các thị trường chứng khoán trên thế giới thì sao? Không một sự thay đổi kinh tế xã hội lớn nào có thể tránh được những tác động tiêu cực về một khía cạnh nào đó.

Chuyển tiếp sang phần II

Phần II – chín điểm cốt lõi của thành công 80/20 trong công việc – cho thấy bạn có thể tạo ra những gì mới mẻ và giá trị như thế nào. Mỗi chương sẽ nói về một điểm. Trong phần II này, bạn sẽ gặp rất nhiều con người 80/20 trong thế giới thực, những con người sáng tạo đã kết hợp với những người khác để tạo nên một sức mạnh thống nhất.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.