Cuộc Săn Cừu Hoang

Chương 32 Part 2



Bầu trời bị đè nặng xuống bởi một màu xám ẩm ướt đồng nhất – những đám mây dường như hòa làm một, che phủ toàn bộ ánh sáng. Phía dưới, những mảng mây đen dày đặc bay qua ở khoảng cách hầu như có thể chạm tới được. Những đám mây lao về phía Đông từ hướng lục địa châu Á, cắt ngang qua biển Nhật Bản tới Hokkaido trên đường tới biển Okhotsk với tốc độ phi thường. Tất cả đều góp phần khiến chúng tôi nhận thức được sự may rủi hoàn toàn của nơi chúng tôi đứng. Một cơn gió mạnh tình cờ lướt qua, thế là cả cái khúc quanh đang rụn ra dần dính vào vách đá này có thể dễ dàng lôi chúng tôi xuống vực thẳm.
“Mình đi tiếp thôi,” tôi nói, xốc chiếc ba lô khổng lồ lên vai. Một điều gì đó khủng khiếp, mưa hoặc mưa tuyết, đang hiện diện đâu đây, và tôi muốn ở gần một chỗ nào đó có mái che. Tôi chắc chắn không muốn ướt sũng ở đây trong trời lạnh.
Chúng tôi mau chóng cuốc bộ khỏi cái “khúc quanh tử thần” đó. Người trông nom trại cừu nói đúng: chỗ này là vận rủi. Có một cảm giác chết chóc thoạt đầu chiếm lĩnh thân thể tôi, rồi sau đó đột ngột đưa ra tín hiệu cảnh cáo trong đầu tôi. Cái cảm giác người ta bắt gặp khi đang vượt qua sông và bỗng nhiên sa chân vào đám bùn có nhiệt độ khác.
Chỉ sau ba trăm thước cuốc bộ, tiếng bước chân của chúng tôi trên mặt đường trải qua bao nhiêu lần thay đổi. Những con lạch được dòng suối cung cấp nước liên tục chảy ngoằn ngoèo qua đường.
Ngay cả khi đã qua khúc quanh, chúng tôi cũng không đi chậm lại, cố tạo ra khoảng cách càng xa càng tốt khỏi chỗ đó. Chỉ ba mươi phút sau chúng tôi mới bớt căng thẳng khi vách đá trở nên ít dốc hơn và cây cối hiện ra.
Đi xa được đến mức này, chúng tôi không gặp khó khăn gì với quãng đường còn lại. Con đường trải phẳng, và núi non mất đi những gờ đá nhọn. Dần dần, chúng tôi ở giữa một phong cảnh cao nguyên thanh bình.
Ba mươi phút sau đó, hình chóp nón hoàn toàn ở sau chúng tôi, và chúng tôi đến bên một cao nguyên có núi non vây quanh trông giống như hình cắt bằng giấy. Như thể nửa trên của ngọn núi lửa khổng lồ bị sụp xuống. Một rừng cây bu lô với đám lá thu trải dài bất tận. Giữa đám bu lô là những bụi cây và tầng cây thấp màu sắc rực rỡ, đây đó một cây bu lô bật gốc, màu nâu và mục nát.
“Có vẻ như một chỗ khá dễ chịu,” bạn gái tôi nói.
Sau khúc quanh đó, quả thực trông nơi đây có vẻ như một chỗ khá dễ chịu.
Con đường dẫn thẳng chúng tôi xuyên qua rừng cây bu lô. Nó hầu như không đủ rộng để xe jeep qua và thẳng tăm tắp. Không khúc ngoặt, không dốc đứng. Nếu ta nhìn về phía trước, mọi thứ bị hút vào một điểm. Ngay cả những đám mây đen cũng bay thẳng qua điểm đó.
Và thật tĩnh lặng. Bản thân tiếng gió bị khoảng rừng rộng lớn nuốt chửng đi. Không khí bị cắt ngang bởi tiếng hót của một con sáo đen béo ụ. Một khi con chim biến ra khỏi tầm mắt, yên lặng lại dội về, một chất lỏng nhơn nhớt lấp đầy mọi lỗ hổng. Lá cây rơi trên mặt đường ướt đẫm nước mưa từ hai ngày trước. Con đường dường như vô tận, giống như rừng cây bu lô quanh đó. Những đám mây bay là là, chỉ trước đó chút ít trông đáng sợ, giờ khi nhìn xuyên qua rừng lại có vẻ siêu thực.
Mười lăm phút sau, chúng tôi đến bên một con suối trong vắt. Có một cây cầu bằng thân gỗ bu lô chắc chắn có tay vịn, và ở gần đó, một khoảng rừng trống nhỏ. Chúng tôi đặt ba lô xuống, xuống suối uống nước. Đó là thứ nước có vị tuyệt vời nhất mà tôi từng uống. Đủ lạnh để làm tay tôi ửng đỏ, và ngọt, có vị đất thoang thoảng.
Những đám mây vẫn tiếp tục bay theo hướng đã định, nhưng kỳ quặc thay, thời tiết không trở nên tệ hơn. Cô chỉnh lại dây giày leo núi, tôi ngồi tựa vào tay vịn hút thuốc. Tôi có thể nghe tiếng thác nước ở hạ nguồn. Dựa vào âm thanh ấy thì thấy con thác cũng không lớn lắm. Một ngọn gió tinh nghịch thổi từ bên trái qua, khiến các tán cây gợn sóng lăn tăn và lá bay tung tóe.
Tôi hút hết điếu thuốc rồi lấy giày di qua di lại trên đất, chỉ để tìm thấy một mẩu đầu lọc khác ngay cạnh chân tôi. Tôi nhặt nó lên. Một điếu Seven Stars đã bẹp dí. Không ướt, vậy là nó ở đó từ sau trận mưa. Có nghĩa là hoặc hôm qua hoặc hôm nay.
Tôi thử nhớ xem Chuột thường hút loại thuốc nào. Nhưng tôi không thể nhớ được là hắn thậm chí có hút thuốc hay không. Tôi thôi không nghĩ nữa và quăng mẩu đầu lọc xuống suối. Ngay lập tức, dòng nước cuốn nó đi.
“Gì thế anh?” cô hỏi.
“Anh tìm thấy một mẩu đầu lọc còn mới, vậy là người nào đó hẳn đã ngồi lại đây hút thuốc như anh cách đây không lâu.”
“Bạn anh à?”
“Ước gì anh có thể nói vậy.”
Cô ngồi xuống bên tôi và vén tóc ra sau, lần đầu tiên để tôi ngắm tai cô sau một thời gian dài. Tiếng thác nước yếu đi, rồi lại dội về.
“Anh vẫn còn thích tai em chứ?” cô hỏi.
Tôi mỉm cười và nhanh chóng đưa tay chạm vào tai cô.
“Em biết là anh thích mà,” tôi nói.
Tuy vậy sau khoảng mười lăm phút tiếp theo, con đường đột ngột chấm dứt, cũng như rừng cây bu lô bỗng nhiên kết thúc. Trước mắt chúng tôi là một đồng cỏ rộng mênh mông như một cái hồ.
Các cây cột dựng cách nhau năm thước bao quanh đồng cỏ. Dây sắt kết nối chúng lại, cũ kỹ, han gỉ. Dường như chúng tôi đã tìm thấy đường đến đồng cỏ chăn cừu. Tôi mở tung cánh cổng đôi cũ nát rồi bước vào. Cỏ mềm, đất sẫm màu và ẩm ướt.
Những đám mây đen đang bay qua đồng cỏ. Theo hướng mây bay là một rặng núi cao, lởm chởm. Chắc chắn góc độ có khác, nhưng không nghi ngờ gì nữa: đó chính là rặng núi trong bức ảnh của Chuột. Tôi không cần phải lôi ảnh ra so sánh.
Tuy nhiên, cảm giác thật bối rối khi tận mắt chứng kiến một cảnh tượng mà cho đến giờ tôi đã xem hàng trăm lần trong bức ảnh. Độ sâu của cái chỗ có thực này có vẻ không tự nhiên. Việc tôi có mặt ở đó cũng không sao xua nổi cái cảm giác phong cảnh này chỉ được tạm thời tập hợp lại cho phù hợp với bức ảnh.
Tôi dựa vào cổng và thở dài. Chính nó đây, thứ chúng tôi mãi tìm kiếm. Và cho dù cuộc tìm kiếm đó có mang ý nghĩa gì đi chăng nữa, chúng tôi đã tìm ra nó.
“Chúng mình thành công rồi, anh nhỉ?” cô nói, chạm vào tay tôi.
“Chúng mình thành công rồi,” tôi đáp. Không biết nói gì hơn.
Thẳng bên kia đồng cỏ là một ngôi nhà khung gỗ hai tầng cũ kỹ theo kiểu Mỹ. Ngôi nhà Giáo sư Cừu đã xây bốn mươi năm trước và cha của Chuột đã mua lại sau đó. Không có gì gần đó để so sánh, vì thế nhìn từ xa khó nói được nhà rộng cỡ nào. Dù thế nào thì đó cũng là một ngôi nhà thấp bè bè và không biểu lộ gì hết. Được quét vôi trắng, dưới bầu trời u ám trông ngôi nhà như có màu xám báo điềm gở.
Ở giữa mái nhà hình tam giác màu vàng mù tạt gần như màu gỉ sét nhô ra một ống khói gạch hình chữ nhật. Thay vì hàng rào quanh nhà, có cả dãy cây xanh quanh năm bảo vệ nhà khỏi nắng mưa. Ngôi nhà mang vẻ hoang lạnh đến kỳ lạ. Càng nhìn tôi càng thấy nó là một ngôi nhà kỳ cục. Nó chẳng đặc biệt không mến khách hay lạnh lẽo, hay được xây theo phong cách không bình thường, nó cũng không hư nát gì. Nó chỉ… kỳ kỳ sao ấy. Như thể một sinh vật to lớn già đi mà không thể diễn đạt được tình cảm của mình. Không phải vì nó không biết cách diễn đạt tình cảm, mà vì nó không biết diễn đạt cái gì.
Mùi mưa bỗng nhiên hiện diện khắp nơi. Đến lúc phải đi tiếp rồi. Chúng tôi đi thẳng qua đồng cỏ tới ngôi nhà. Mây thổi từ phía Tây qua không còn là những cụm mây bồng bềnh nhẹ trôi nữa; đó là những đám mây lớn báo hiệu mưa đang đến gần.
Đồng cỏ rộng mênh mông. Cho dù có đi nhanh cỡ nào, có vẻ như chúng tôi chẳng tiến xa được là mấy. Tôi không thể đoán định được khoảng cách. Nghĩ mới thấy đây là mặt đất bằng phẳng đầu tiên chúng tôi đi qua, vì thế thậm chí những thứ ở xa trông vẫn có vẻ trong tầm tay.
Một đàn chim bay ngang những đám mây tiến về hướng Bắc.
Sau khoảng thời gian cảm giác như hàng giờ liền, khi chúng tôi cuối cùng cũng đến được ngôi nhà, mưa bắt đầu rơi lộp độp. Nhìn gần, ngôi nhà trông lớn hơn và cũ kỹ hơn khi nhìn từ xa. Lớp vôi trắng phồng lên và bong tróc, chỗ vôi bong ra trên mặt đất đã từ lâu biến thành màu nâu vì mưa. Đến mức này, người ta sẽ phải bóc toàn bộ lớp vôi cũ trước khi có thể nghĩ đến việc quét một lớp mới. Cái viễn cảnh quét vôi một ngôi nhà như thế này – tại sao tôi lại nghĩ đến điều đó kia chứ? – khiến tôi co rúm lại. Một ngôi nhà không ai sống sẽ sụp đổ, và ngôi nhà này, không nghi ngờ gì nữa, đang trên đà tới đó.
Cây cối, trái ngược với ngôi nhà ọp ẹp, đang sinh sôi phát triển, bao quanh nhà như ngôi nhà trên cây trong phim Gia đình Thụy Sĩ trên hoang đảo. Cành cây dài không được xén tỉa, đâm tứ tung.
Con đường lên núi quanh co như thế mà Giáo sư Cừu xây được ngôi nhà này thì quả là một kỳ công. Chở gỗ lên, làm tất cả mọi việc, đổ toàn bộ tiền tiết kiệm vào đó, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến việc vẫn chính ông Giáo sư Cừu ấy giờ đang ẩn nấp trong căn phòng tối tăm ở khách sạn Cá Heo mà xem! Không thể đòi hỏi một dẫn chứng nào hay hơn (hoặc tệ hơn) thế về một cuộc đời không được thưởng công.
Tôi đứng trong mưa lạnh nhìn trân trân lên ngôi nhà. Ngay cả khi nhìn gần, nó vẫn không có dấu hiệu có người ở. Hàng tầng cát mịn tích tụ lại trên cánh cửa chớp bằng gỗ của cửa sổ trượt cao, hẹp. Mưa đã khiến cát cố định thành hình, trên đó một lớp cát khác lại được thổi tới, và một trận mưa mới lại khiến nó nằm cố định một chỗ.
Giữa cửa ra vào ngang tầm mắt là một ô kính rộng khoảng mười centimet vuông, bên trong phủ một tấm vải. Quả đấm cửa bằng đồng cũng bị cát tàn phá, chỉ cần chạm vào là sạn cát rơi lả tả. Quả đấm cửa lung lay như một chiếc răng hàm già nua, tuy thế cửa vẫn không mở. Được làm bằng ba tấm ván gỗ sồi, cánh cửa này chắc chắn hơn bề ngoài. Tôi gõ cửa thật mạnh vài lần chỉ để mà gõ. Như đã đoán trước, không có tiếng trả lời. Tôi chỉ tổ làm đau tay mình. Cành nhánh của cây sồi đỏ khổng lồ đung đưa trong cơn gió mạnh, tạo ra một trận cát lở thật sự.
Đúng như người trông nom trại cừu nói, chìa khóa ở đáy hộp thư. Một chiếc chìa khóa bằng đồng kiểu cổ, chỗ tay hay chạm vào có màu trắng xỉn.
“Anh có nghĩ là họ hơi bất cẩn khi để chìa khóa như thế không?” bạn gái tôi hỏi.
“Em biết có thằng trộm nào lần mò đến tận đây, ăn trộm thứ gì đó rồi chở đồ xuống dưới không?”
Chìa khóa khớp vừa khin khít với lỗ khóa. Tôi xoay chìa, có một tiếng cách to, và then cửa mở ra.
Trong nhà tối mờ mờ, tối một cách không tự nhiên. Cửa chớp đã được đóng suốt một quãng thời gian dài, phải mất một lúc mắt tôi mới điều chỉnh được. Chỗ nào cũng tối mò mò.
Căn phòng rộng rãi. Rộng rãi, yên tĩnh, và bốc mùi như một cái chuồng bò cũ. Cái mùi tôi nhớ được từ thuở thiếu thời. Đồ đạc cũ và thảm bỏ đi. Chúng tôi đóng cánh cửa sau mình lại, khiến tiếng gió ngoài kia ngưng bặt.
“Xin chào!” tôi hét lên. “Có ai ở nhà không?”
Tất nhiên là không rồi. Rõ ràng là không ai ở đó. Chỉ có sự hiện diện của chiếc đồng hồ quả lắc đang kêu tích tắc cạnh lò sưởi.
Trong giây lát, tôi có cảm giác chóng mặt. Ở đó trong bóng tối, thời gian bị đảo ngược. Thời khắc chồng chéo nhau. Ký ức tan thành mây khói. Rồi cảm giác ấy qua đi. Tôi mở mắt và mọi thứ lại trở về như cũ. Trước mắt tôi là một khoảng không gian màu xám đơn thuần, không gì hơn.
“Anh có sao không?” cô hỏi một cách lo lắng.
“Không sao đâu,” tôi nói. “Mình lên kiểm tra trên gác đi.”
Trong khi cô tìm công tắc điện, tôi kiểm tra chiếc đồng hồ quả lắc. Đó là loại có ba quả lắc, lên dây cót bằng xích. Mặc dầu cả ba đều xuống mức thấp nhất, chiếc đồng hồ vẫn cố gắng nhích thêm chút chuyển động cuối cùng. Xét độ dài của dây xích, có lẽ phải mất khoảng một tuần để quả lắc xuống mức thấp nhất. Có nghĩa là vào một lúc nào đó trong tuần ai đó đã ở đây để lên dây đồng hồ.
Tôi chỉnh ba quả lắc lên mức cao nhất rồi ngồi duỗi dài chân trên xô pha. Một cái xô pha cũ rích từ thời tiền chiến, nhưng ngồi khá dễ chịu. Không quá êm, không quá cứng và có mùi như lòng bàn tay.
Một tiếng tách, rồi đèn bật sáng. Cô từ trong bếp đi ra, ngồi trên ghế dài, rồi châm một điếu thuốc đinh hương. Tôi châm một điếu cho mình. Tồi dần dà yêu thích chúng qua cô.
“Có vẻ như bạn anh chuẩn bị qua đông ở đây,” cô nói.
“Có một đống chất đốt và thực phẩm cho cả mùa đông trong bếp. Một siêu thị thông thường.”
“Nhưng không có dấu hiệu gì của cậu ta.”
“Trên gác thì sao?”
Chúng tôi trèo lên cầu thang cạnh bếp. Nửa đường lên, cầu thang nghiêng về một góc. Lên đến tầng hai, chúng tôi dường như bước vào một tầng khí quyển khác.
Có ba phòng ngủ trên tầng hai. Một phòng lớn bên trái hành lang và hai phòng nhỏ hơn bên phải. Phòng nào cũng chỉ có ít đồ đạc tối thiểu, phòng nào cũng u ám. Phòng lớn có giường đôi và một tủ gương trang điểm. Giường chỉ còn trơ lại khung. Thời gian chết trong không trung.
Chỉ có căn phòng nhỏ xa hơn là phảng phất mùi người ở. Giường được dọn gọn ghẽ, gối hơi có vết lõm, và một bộ quần áo ngủ màu xanh được gấp ở đầu giường. Một ngọn đèn kiểu cổ đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh một cuốn sách bị lật ngược. Một cuốn tiểu thuyết của Conrad.
Cạnh giường là một chiếc tủ có ngăn kéo làm bằng gỗ sồi nặng trịch. Trong đó là một lô vật dụng gồm áo len nam, sơ mi, quần, tất và đồ lót. Áo len và quần đã cũ, chỗ này chỗ kia bị sờn, nhưng vẫn còn tốt. Tôi thề là trước đây đã trông thấy một số quần áo đó. Chúng thuộc về Chuột, đúng thế đấy. Áo sơ mi có vòng cổ ba mươi tám centimet, quần có vòng eo khoảng bảy mươi tư.
Cạnh cửa sổ là một cái bàn cũ và một cái ghế có kiểu dáng đơn giản độc nhất vô nhị ngày nay không thường gặp nữa. Trong ngăn kéo bàn, một chiếc bút máy rẻ tiền, ba hộp mực ống, và một bộ đồ dùng để viết thư, văn phòng phẩm chưa dùng đến. Trong ngăn kéo thứ hai, một lượng dự trữ kẹo ngậm ho đã dùng được một nửa và các thứ đồ nhỏ lặt vặt khác nhau. Ngăn kéo thứ ba, trống không. Không nhật ký, không sổ ghi chép, không gì hết. Hắn đã bỏ hết mọi thứ phụ. Mọi thứ đã được cất đi. Quá ngăn nắp. Tôi quệt ngón tay lên mặt bàn, kết quả là ngón tay tôi trắng vì bụi. Không nhiều bụi lắm. Có lẽ lượng bụi sau một tuần.
Tôi kéo cửa sổ lên và mở tung cửa chớp. Mây đen bay là là đang sà xuống. Gió đã tập hợp sức mạnh, hầu như có thể thấy được gió nhảy chồm chồm qua đồng cỏ như một con thú hoang. Xa xa là rừng cây bu lô và bên kia rừng là núi. Khung cảnh hệt như trong bức ảnh. Chỉ khác là không có cừu.
Chúng tôi đi xuống tầng dưới rồi ngồi trên xô pha. Chiếc đồng hồ quả lắc đổ một hồi chuông gióng giả, rồi đánh mười hai tiếng. Chúng tôi yên lặng cho tới khi tiếng chuông cuối cùng bị nuốt chửng vào không khí.
“Chúng mình làm gì bây giờ anh?” cô hỏi.
“Chúng mình đợi thôi. Biết làm gì nữa?” tôi nói. “Chuột ở đây một tuần trước. Đồ đạc của cậu ta vẫn còn đây. Cậu ta sẽ phải quay lại thôi.”
“Nhưng nếu tuyết rơi trước khi cậu ta quay lại, chúng mình sẽ phải ở đây cả mùa đông và thời gian của chúng mình sẽ hết.”
Quả vậy.
“Tai em không nói với em điều gì à?”
“Chúng hiện không hoạt động. Nếu em mở tai ra, em bị nhức đầu.”
“Thế thì, anh nghĩ chúng mình cứ nghỉ cho khỏe và đợi Chuột thôi,” tôi nói.
Thế nghĩa là chúng tôi không còn cách lựa chọn nào khác.
Trong khi cô vào bếp pha cà phê, tôi đảo nhanh một vòng quanh phòng khách lớn, kiểm tra từ góc nọ tới góc kia. Lò sưởi, một lò sưởi thật vẫn đang hoạt động đặt ở giữa bức tường chính, sạch và sẵn sàng để sử dụng. Nhưng mới đây nó không được sử dụng. Một vài chiếc lá sồi rơi vào qua đường ống khói, nằm trong lòng lò sưởi. Một chiếc máy sưởi lớn chạy bằng dầu đặt gần đó. Dụng cụ đo mức dầu cho thấy dầu còn đầy.
Cạnh lò sưởi là một giá sách âm tường bằng kính, đầy những sách cũ. Tôi lôi ra mấy cuốn lật qua. Tất cả đều là sách xuất bản trước chiến tranh, hầu như không cuốn nào có giá trị. Địa lý, khoa học, lịch sử, triết học và chính trị. Cả đống sách hoàn toàn vô dụng, có chăng là những đầu sách phải đọc của một nhà trí thức bốn mươi năm về trước. Cũng có cả sách xuất bản sau chiến tranh, có giá trị tương tự. Chỉ có những cuốn Những cuộc đời của Plutarch và Bi kịch Hy Lạp chọn lọc cùng vài cuốn tiểu thuyết là còn sống sót được qua sự bào mòn của năm tháng. Đây là một kinh nghiệm mới mẻ với tôi: tôi chưa từng trông thấy một bộ sưu tập toàn những cuốn sách vô dụng mà lại khổng lồ đến thế.
Bên cạnh giá sách là một giá trưng bày, cũng âm vào tường, trên đó là một dàn máy hifì âm thanh nổi – loa nhỏ, ampli, bàn quay – loại thông dụng vào những năm sáu tư, sáu nhăm. Khoảng hai trăm đĩa hát cũ, cái nào cũng bị xước đến không nhận ra nổi, nhưng ít nhất không đến nỗi vô giá trị. Gu âm nhạc không bị xói mòn như hệ tư tưởng. Tôi bật ampli đèn chân không và hạ kim xuống. Bài Phía Nam biên giới của Nat King Cole. Bỗng nhiên căn phòng có cảm giác như được đưa trở về những năm 1950.
Bức tường đối diện có bốn cửa sổ trượt cao hơn mét tám đặt cách đều nhau. Có thể thấy lúc này mưa đang trút xối xả. Một màn mưa màu xám, che khuất những dãy núi phía xa.
Căn phòng lát ván gỗ, ở giữa là một tấm thảm rộng hai mét tư nhân ba mét sáu, bên trên đặt một bộ bàn ghế phòng khách và một ngọn đèn cây đặt trên sàn. Một cái bàn ăn đặt ở một góc phòng, phủ bụi.
Một căn phòng trống rỗng từng có người ở.
Một cánh cửa được lắp kín đáo vào trong tường mở vào một phòng chứa đồ khá rộng. Căn phòng xếp chật ních các đồ đạc dư thừa, thảm, bát đĩa, một bộ gậy chơi gôn, một cây đàn ghi ta, một tấm đệm, áo khoác, ủng leo núi, tạp chí cũ. Thậm chí cả sách tham khảo thi cử cho học sinh cấp hai và một chiếc máy bay điều khiển bằng vô tuyến. Hầu hết đều là sản phẩm của thập kỷ năm mươi và sáu mươi.
Ngôi nhà lưu giữ mạch thời gian riêng, giống như chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách. Những người tình cờ đi qua nâng quả lắc, và chừng nào quả lắc được lên dây, chiếc đồng hồ tiếp tục kêu tích tắc. Nhưng khi mọi người đi hết và quả lắc không được ngó ngàng tới, cả khối thời gian bị bỏ lại để góp nhặt dần những gì còn sót lại của một cuộc sống đang mất dần trên sàn.
Tôi mang mấy cuốn tạp chí điện ảnh cũ vào phòng khách. Ảnh tiêu điểm trong một cuốn là từ bộ phim Trận chiến Alamo. Bộ phim đầu tiên do John Wayne đạo diễn với sự ủng hộ hết mình của John Ford. John Wayne nói, tôi muốn làm một đại sử thi tồn tại mãi trong trái tim người Mỹ. Ông ta trông sến hết sức khi đội cái mũ làm bằng lông hải ly.
Bạn gái tôi trở lại cùng cà phê, rồi chúng tôi đối diện nhau uống cà phê. Những giọt mưa thỉnh thoảng lại gõ nhẹ lên cửa sổ. Thời gian trôi qua chậm chạp trong khi khí lạnh tràn khắp căn phòng. Ánh sáng vàng của ngọn đèn trôi quanh phòng như phấn hoa.
“Anh mệt à?” cô hỏi.
“Chắc vậy quá,” tôi nói, ngó lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Chúng mình chạy quanh tìm như điên cả ngần ấy thời gian, và giờ đây chúng mình phải ngừng lại. Chưa thể hoàn toàn quen với điều đó. Rốt cuộc thì chúng mình đã tìm được cảnh trong bức ảnh, không có Chuột mà cũng chẳng có cừu.”
“Anh ngủ chút đi. Em sẽ nấu bữa tối.”
Cô mang từ trên gác xuống một cái chăn và đắp cho tôi. Rồi cô khởi động máy sưởi chạy dầu, đặt một điếu thuốc lên môi tôi rồi châm lửa.
“Vui lên chút đi nào. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi.”
“Cảm ơn em,” tôi nói.
Đến đó, cô biến mất vào trong bếp.
Hoàn toàn một mình, tôi cảm thấy người nặng trĩu. Tôi làm hai hơi rồi dập thuốc, trùm chăn đến tận cổ, và nhắm mắt. Chỉ mất có vài giây là tôi thiếp đi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.