Đảo kinh hoàng

Ngày Thứ Hai



Laeddis

CAWLEY GẶP HỌ trong hành lang Khu B. Mặt mũi và quần áo ông ta ướt sũng, trông như một người ngồi cả đêm trên chiếc ghế băng ở trạm chờ xe buýt. 

“Bí quyết là đặt lưng xuống giường là phải ngủ, bác sĩ,” Chuck nói.

Cawley lau mặt bằng một chiếc khăn mùi soa. “Ồ, cái đó là bí quyết hả đặc vụ? Tôi biết là tôi có quên cái gì đó. Quên ngủ, ý anh là vậy? Đúng là thế thật.” 

Ba người họ bắt đầu leo lên các bậc thang màu vàng, gật đầu chào những hộ lý đứng ở tầng một.

“Bác sĩ Naehring sáng nay thế nào?” Teddy hỏi.

Cawley nhướng mày nhìn anh vẻ mệt mỏi. “Tôi xin lỗi về chuyện hôm qua. Jeremiah là một thiên tài nhưng anh ấy cũng nên sử dụng vài phép lịch sự trong giao tiếp xã hội. Anh ấy có ý tưởng viết một cuốn sách về văn hóa của các nam chiến binh trong lịch sử. Anh ấy thường xuyên đưa những điều ám ảnh anh ấy vào các cuộc đối thoại, cố xếp người khác vào những hình mẫu tưởng tượng của mình. Một lần nữa, tôi xin lỗi.”

“Các ông thường xuyên làm thế à?”

“Cái gì cơ, đặc vụ?”

“Ngồi quanh uống rượu và, hừm, thăm dò mọi người.”

“Rủi ro nghề nghiệp, tôi đoán thế. Đố anh cần phải có bao nhiêu bác sĩ tâm lý để vặn một cái bóng đèn?”

“Tôi không biết. Bao nhiêu?”

“Tám.”

“Tại sao?”

“Ôi thôi, đừng hỏi vặn vẹo nữa.”

Teddy bắt gặp ánh mắt của Chuck rồi cả hai phá ra cười.

“Kiểu đùa của bác sĩ tâm lý,” Chuck nói. “Ai mà đoán nổi?”

“Các vị, các vị có biết thực trạng của ngành sức khỏe tâm thần hiện nay ra sao không?”

“Không hề.”

“Chiến tranh,” Cawley nói và lấy chiếc khăn mùi soa ướt che miệng ngáp. “Chiến tranh tư tưởng, triết học và thậm chí cả tâm thần học.”

“Các ông là bác sĩ,” Chuck nói. “Các ông nên chơi đẹp, chia sẻ đồ chơi cho nhau.”

Cawley mỉm cười và họ tiếp tục đi qua những người hộ lý đang làm việc trên tầng hai. Từ đâu đó ở phía dưới một bệnh nhân đang la hét, tiếng kêu âm vang lên tận chỗ cầu thang họ đang đứng. Đó là một tiếng kêu ai oán và Teddy có thể nghe thấy sự tuyệt vọng bên trong, tuyệt vọng vì biết chắc rằng cho dù mong muốn điều gì thì nó cũng sẽ không được đáp ứng. 

“Trường phái cũ,” Cawley nói, “tin vào các liệu pháp gây sốc, phẫu thuật thùy não, trị liệu spa cho những bệnh nhân dễ bảo. Chúng tôi gọi chúng là phẫu thuật thần kinh. Trường phái mới thì theo đuổi chủ trương dược trị tâm thần. Họ nói đó là cách điều trị của tương lai. Cũng có thể. Tôi cũng không biết nữa.”

Nói tới đây ông ta dừng lại, một tay đặt lên thành cầu thang giữa tầng hai với tầng ba, và Teddy có thể cảm thấy sự mệt mỏi của ông ta thật rõ ràng, như một vật thể sống đang suy sụp, một cơ thể thứ tư hiện diện trên cầu thang cùng với bọn họ. 

“Dược trị tâm thần được ứng dụng như thế nào?” Chuck hỏi.

“Người ta vừa mới phê chuẩn việc sử dụng một loại thuốc mới có tên là lithium, có tác dụng làm thư giãn bệnh nhân tâm thần và thuần hóa họ theo quan điểm của một số người. Gông cùm sẽ đi vào dĩ vãng. Cả xiềng xích, còng tay. Theo những người của trường phái lạc quan thì thậm chí cả chấn song nữa. Trường phái cũ, dĩ nhiên, phản bác lại rằng chẳng gì có thể thay đổi phẫu thuật thần kinh, nhưng trường phái mới có vẻ mạnh hơn, tôi nghĩ thế và họ cũng sẽ có nhiều tiền hơn.”

“Tiền ở đâu ra?”

“Tất nhiên là từ các công ty dược phẩm rồi. Bây giờ mà đi mua thuốc về tích trữ thì sau này các vị có thể nghỉ hưu trên hòn đảo của riêng mình. Trường phái mới, trường phái cũ. Chúa ơi, đôi khi tôi cũng cứ huyên thuyên thế đấy.”

“Thế ông thuộc trường phái nào?” Teddy nhẹ nhàng hỏi.

“Tin hay không tùy anh, đặc vụ, tôi thì tin vào liệu pháp nói chuyện, vào những kỹ năng giao tiếp cơ bản. Tôi có một ý tưởng cấp tiến rằng nếu anh chữa trị bệnh nhân với sự tôn trọng và chịu khó lắng nghe những gì họ muốn bày tỏ với anh thì có thể anh sẽ giúp được họ.”

Lại một tiếng rú nữa. Vẫn là nữ bệnh nhân lúc nãy, Teddy dám chắc thế. Tiếng rú chen vào giữa họ và có vẻ làm sao nhãng sự tập trung của Cawley. 

“Nhưng những bệnh nhân như thế này?” Teddy nói.

Cawley mỉm cười. “Ừ, đúng là nhiều người trong số những bệnh nhân này cần phải điều trị, một vài người cần phải xích lại. Không có gì để tranh cãi. Nhưng đó là một con dốc trơn. Một khi đã đổ thuốc độc xuống giếng, làm sao có thể tách nó ra khỏi nước được nữa?” 

“Không thể,” Teddy nói.

Ông ta gật đầu. “Đúng thế. Cái nên coi là biện pháp cuối cùng lại dần dần trở thành phương pháp chữa bệnh tiêu chuẩn. Và, tôi biết là tôi đang bắt đầu nói năng lẫn lộn rồi đấy. Thiếu ngủ mà.” Ông ta quay sang nhìn Chuck rồi nói tiếp, “Đúng thế. Lần tới, tôi sẽ thử cái bí quyết của anh xem sao.”

“Tôi nghe nói là nó có hiệu quả đáng kinh ngạc đấy,” Chuck nói và họ lại tiếp tục leo lên tầng cuối cùng.

Trong phòng của Rachel, Cawley ngồi phịch xuống mép giường còn Chuck đứng dựa lưng vào cửa. Chuck nói, “Này, cần phải có bao nhiêu nhà siêu thực để vặn một cái bóng đèn nhỉ?”

Cawley nhìn anh ta và nói: “Tôi chịu. Bao nhiêu?”

“Một con cá,” Chuck nói rồi bật ra một tràng cười sảng khoái.

“Một ngày nào đó anh sẽ phải trưởng thành thôi, đặc vụ,” Cawley nói. “Đúng không?”

“Tôi vẫn có chút nghi ngờ về điều đó,” Chuck nói.

Teddy giơ tờ giấy ra trước ngực và vỗ vỗ vào đấy để thu hút sự chú ý của mọi người. “Hãy thử nhìn xem.”

LUẬT CỦA 4

TÔI LÀ 47

HỌ LÀ 80

+BẠN LÀ 3

CHÚNG TA LÀ 4

NHƯNG

AI LÀ 67?

Sau một phút, Cawley bỏ cuộc, “Tôi quá mệt, đặc vụ. Lúc này với tôi mọi thứ đều loằng ngoằng khó hiểu. Xin lỗi.”

Teddy nhìn sang Chuck. Chuck cũng lắc đầu.

“Chính là cái dấu cộng khiến tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi. Hãy nhìn cái dòng ở dưới. ‘Họ là 80.’ Nếu cộng hai dòng đó lại thì chúng ta sẽ được gì?” Teddy nói.

“Một trăm hai mươi bảy.”

“Một, hai và bảy,” Teddy nói. “Đúng thế. Giờ thì cộng với dòng thứ ba. Nhưng nó lại được đặt riêng rẽ. Cô ta muốn chúng ta giữ nguyên các phần riêng rẽ. Chúng ta sẽ có một cộng hai cộng bảy cộng ba. Các anh đã nghĩ ra chưa?”

“Mười ba.” Cawley ngồi thẳng lên một chút.

Teddy gật đầu. “Con số mười ba có liên quan đặc biệt gì tới Rachel Solando? Có phải sinh nhật của cô ta vào ngày mười ba? Ngày cưới? Hay ngày cô ta giết bọn trẻ con?”

“Tôi sẽ phải kiểm tra lại,” Cawley nói. “Nhưng mười ba thường là một con số rất có ý nghĩa đối với những người mắc bệnh tâm thần phân liệt.”

“Tại sao?”

Ông ta nhún vai. “Nhiều người cũng nghĩ thế. Đó là biểu tượng của sự rủi ro. Phần lớn các bệnh nhân tâm thần phân liệt sống trong tình trạng sợ hãi. Đó là một nhân tố đặc trưng thường thấy ở bệnh này. Vì thế đa số họ cực kỳ mê tín. Vậy nên con số mười ba có vai trò quan trọng với họ.”

“Nghe cũng có lý,” Teddy nói. “Hãy nhìn con số tiếp theo. Bốn. Cộng một với ba thì thành bốn. Nhưng để nguyên thì sao?”

“Mười ba.” Chuck rời khỏi bức tường và thò đầu vào nhìn tờ giấy.

“Và con số cuối cùng,” Cawley nói. “Sáu mươi bảy. Sáu và bảy cũng thành mười ba.”

Teddy gật đầu. “Đó không phải ‘Luật của bốn’ mà là ‘Luật của mười ba’. Có mười ba chữ cái trong tên của Rachel Solando.”

Teddy nhìn Cawley và Chuck đang đếm nhẩm trong đầu họ. “Tiếp đi,” Cawley nói. 

“Hiểu được quy luật này thì ta có thể dễ dàng lần theo dấu vết của vô số mẩu vụn bánh mì mà Rachel để lại. Những mật mã tiếp theo tuân theo những nguyên tắc cơ bản nhất của việc phiên âm từ chữ ra số. Một tương đương với chữ A. Hai với chữ B. Hai người hiểu chứ?”

Cawley gật đầu, Chuck cũng gật theo sau giây lát. 

“Chữ cái đầu tiên trong trên của cô ấy là R. Mã của nó là số 18. A là một. C là ba. H là tám. E là năm. L là mười hai. Mười tám, một, ba, tám, năm và mười hai. Cộng tất cả vào thì hai người có gì nào?”

“Chúa ơi,” Cawley nói khẽ.

“Bốn mươi bảy,” Chuck nói, mắt trợn lên, nhìn chòng chọc vào tờ giấy trên ngực Teddy.

“Đó là ‘Tôi’,” Cawley nói. “Là tên riêng của cô ta. Giờ thì tôi hiểu rồi. Nhưng còn ‘họ’ là ai?”

“Là tên họ của cô ta,” Teddy nói. “Là tên họ của họ.”

“Của ai cơ?”

“Của nhà chồng cô ta và tổ tiên họ. Tên họ mà cô ta lấy theo nhà chồng, không phải là tên họ khai sinh. Hoặc chính là chỉ các con cô ta, chúng mang họ bố. Nhưng bất cứ trường hợp nào cũng không quan trọng. Dù sao đó cũng là tên họ của cô ta. Solando. Lấy từng chữ cái trong từ này ra chuyển thành số đếm thì tin tôi đi, các anh sẽ có được con số tám mươi.”

Cawley tụt khỏi giường, cả ông ta và Chuck đứng đối diện Teddy để nhìn vào đám mật mã trước ngực anh.

Chuck ngước lên nhìn vào mắt Teddy một lát. “Sếp là cái quái gì vậy, Einstein à?”

“Trước đây anh đã từng làm công việc giải mã hả, đặc vụ?” Cawley hỏi, mắt vẫn không rời khỏi tờ giấy. “Trong thời kỳ chiến tranh ấy?” 

“Không.”

“Thế làm thế nào mà anh lại…?” Chuck nói.

Tay Teddy mỏi nhừ vì giữ tờ giấy quá lâu trước ngực nên anh đặt nó xuống giường.

“Tôi không biết. Tôi giải rất nhiều ô chữ. Tôi thích giải câu đố.” Anh nhún vai nói.

“Nhưng anh là Tình báo Quân đội ở châu Âu, đúng không?” Cawley nói.

Teddy lắc đầu. “Quân nhân thường. Chính ông, bác sĩ, ông mới là người của OSS.” 

“Không, tôi chỉ làm vài việc tư vấn thôi,” Cawley nói.

“Tư vấn kiểu gì?”

Cawley lại cười với anh nụ cười trơn tuột của mình, một nụ cười biến mất ngay khi vừa xuất hiện. “Kiểu-không-bao-giờ-kể-lại-được.”

“Nhưng cái mã này,” Teddy nói, “nó đơn giản thôi.”

“Đơn giản?” Chuck nói. “Anh đã giải thích rồi mà đầu tôi vẫn ong ong.”

“Còn với ông thì sao bác sĩ?”

“Tôi biết nói với anh thế nào, đặc vụ? Tôi không phải là người giải mã,” Cawley nhún vai nói.

Cawley cúi đầu và đưa tay vuốt cằm khi quay lại nhìn vào đám mật mã. Bắt gặp mắt của Teddy, ánh mắt Chuck ngổn ngang những phân vân.

Cawley nói, “Như vậy là chúng ta đã đoán ra được, à đúng hơn là anh, đặc vụ, ý nghĩa của hai con số bốn bảy và tám mươi. Chúng ta cũng chắc rằng tất cả những dấu vết khác đều là sự hoán vị của con số mười ba. Nhưng còn “ba” thì sao?”

“Lại nữa,” Teddy nói, “hoặc là con số này ám chỉ chúng ta, trong trường hợp cô ta có khả năng đoán trước tương lai…”

“Không chắc vậy.”

“Hoặc là chỉ ba đứa con của cô ta.”

“Tôi thấy cái này còn có lý ”

“Cộng Rachel với số ba đó…”

“Thì ra dòng tiếp theo,” Cawley nói. “Chúng ta là bốn.”

“Thế ai là sáu mươi bảy?”

Cawley nhìn sang phía anh. “Anh không nói quá đấy chứ?”

Teddy lắc đầu.

Cawley lấy ngón tay vuốt dọc theo mép phải tờ giấy. “Không có con số nào cộng vào thành sáu mươi bảy à?”

“Không.”

Cawley xoa đầu, đứng thẳng người lên rồi hỏi, “Anh cũng không có giả thiết nào sao?”

“Đây là cái mã duy nhất tôi không thể nào giải được. Cho dù nó ám chỉ cái gì đi nữa cũng không thuộc phạm vi hiểu biết của tôi, điều đó khiến tôi nghĩ nó hẳn có liên quan tới hòn đảo này. Bác sĩ, ông thì sao?”

“Tôi, gì cơ?”

“Ông có giả thiết nào không?”

“Không. Tôi còn chẳng giải được cái dòng đầu tiên nữa là.”

“Đúng là ông có nói thế thật. Mệt mỏi và gì gì đó.”

“Cực kỳ mệt mỏi, đặc vụ.” Ông ta nói với cái nhìn xoáy vào mặt Teddy, rồi đi về phía cửa sổ nhìn ra ngoài trời mưa xối xả như những tấm màn dày đặc ngăn cách hòn đảo với thế giới bên ngoài. “Đêm qua anh nói là anh sẽ đi.”

“Ngay chuyến phà đầu tiên,” Teddy nói dối.

“Nhưng sẽ không có chuyến phà nào ngày hôm nay. Tôi dám chắc về điều đó.”

“Thế thì ngày mai vậy. Hoặc là ngày kia.” Teddy nói. “Ông vẫn nghĩ rằng cô ta ở đâu đó ngoài kia chứ? Trong cái cảnh mưa gió này?”

“Không,” Cawley nói. “Tôi không nghĩ thế.”

“Không thì cô ta ở đâu?”

Ông ta thở dài. “Tôi không biết, đặc vụ ạ. Đó không phải là chuyên môn của tôi.”

Teddy cầm tờ giấy lên. “Đây là chìa khóa. Một sự hướng dẫn cho việc giải các mật mã tiếp theo. Tôi cược là thế, bằng cả tháng lương của mình.”

“Và nếu đúng là như thế thì sao?”

“Thì không phải là cô ta tìm cách chạy trốn, bác sĩ. Cô ta chỉ muốn mang chúng tôi tới đây. Tôi nghĩ là còn có thêm các mật mã khác nữa.”

“Nhưng không phải ở trong cái phòng này,” Cawley nói.

“Không. Nhưng có thể ở trong tòa nhà này. Hay ở trên hòn đảo này.”

Cawley hít một hơi rất sâu như thể hút cạn không khí ở trong căn phòng, rồi đứng tì một tay vào bậu cửa sổ, trông giống như cái xác chẳng còn chút sinh khí nào, khiến Teddy băn khoăn không hiểu chuyện gì đã khiến ông ta mất ngủ đêm qua.

“Cô ta mang các anh tới đây?” Cawley nói. “Để làm gì?”

“Ông nói xem.”

Cawley nhắm mắt lại và đứng yên một lúc lâu khiến Teddy bắt đầu nghĩ không hiểu có phải ông ta đã ngủ quên mất hay không.

Rồi ông ta mở mắt ra, nhìn hai người bọn họ và nói. “Tôi có một ngày làm việc bận rộn. Các cuộc họp nhân viên, họp ngân quỹ với ban quản giáo, họp về việc duy trì tình trạng khẩn cấp trong trường hợp cơn bão này tấn công chúng ta. Các anh hẳn sẽ hài lòng khi biết tôi đã cố thu xếp cho cả hai nói chuyện với tất cả bệnh nhân cùng nhóm điều trị với cô Solando trong cái đêm cô ấy mất tích. Những cuộc phỏng vấn có thể bắt đầu trong mười lăm phút tới. Các vị, tôi đánh giá cao sự có mặt của các vị ở đây. Tôi rất thật lòng. Tôi đã cố gắng hết sức mình cho dù điều đó có được người khác nhìn nhận hay không.”

“Vậy thì hãy đưa cho tôi hồ sơ cá nhân của bác sĩ Sheehan.”

“Tôi không thể làm được. Dứt khoát là không.” Ông dựa đầu vào tường rồi nói tiếp, “Đặc vụ, tôi đã yêu cầu người trực tổng đài cố liên lạc với anh ấy. Nhưng hiện giờ chúng tôi không thể nối liên lạc với bất kỳ ai. Theo chúng tôi được biết thì cả bờ biển phía Đông đang chìm dưới nước. Kiên nhẫn, các vị. Đó là tất cả những gì tôi yêu cầu. Chúng ta sẽ tìm thấy Rachel hoặc chúng ta sẽ tìm ra chuyện gì đã xảy đến với cô ấy.” Ông ta nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi muộn mất rồi. Có chuyện gì nữa không, hay chúng ta có thể nói sau?”

HỌ ĐỨNG DƯỚI MÁI CHE bên ngoài bệnh viện, mưa quất ngang tầm nhìn của họ thành những tấm màn dày đặc, rộng như những toa tàu.

“Anh nghĩ là ông ta biết ý nghĩa của con số sáu mươi bảy?” Chuck hỏi.

“Ừ.”

“Anh nghĩ là ông ta đã giải được mật mã đó trước cả anh?”

“Tôi nghĩ ông ta từng là nhân viên OSS. Ông ta hẳn phải có biệt tài nào đó để làm việc cho cái Cục ấy.”

Chuck lấy tay lau nước mưa trên mặt rồi khẽ vẩy tay cho nước rơi xuống đất. “Họ có bao nhiêu bệnh nhân ở đây nhỉ?” 

“Ở đây cũng nhỏ,” Teddy nói.

“Phải.”

“Bao nhiêu, có lẽ khoảng hai mươi nữ, ba mươi nam thôi nhỉ?”

“Cũng không nhiều lắm.”

“Không nhiều.”

“Dù sao cũng không tới sáu mươi bảy.”

Teddy quay lại nhìn anh ta. “Nhưng mà…” anh nói.

“Đúng thế,” Chuck nói. “Nhưng.”

Rồi hai người họ nhìn về hướng rặng cây và phía sau nó, ngọn pháo đài đang chống chọi với cơn bão, mờ mờ ảo ảo như một bức vẽ bằng chì than trong căn phòng đầy khói. 

Teddy nhớ lại những gì Dolores đã nói trong giấc mơ về việc đếm số giường bệnh.

“Không hiểu có bao nhiêu bệnh nhân bị đưa lên đó, cậu nghĩ sao?”

“Tôi không biết,” Chuck nói. “Phải đi hỏi vị bác sĩ hữu ích của chúng ta.”

“Ừ, phải, ông ta vừa mới rú lên cái từ ‘hữu ích’ đúng không nhỉ?”

“Này, sếp.”

“Gì?”

“Từ trước tới nay, đã bao giờ sếp tới cơ sở liên bang nào phí phạm tới mức này chưa?”

“Là thế nào?”

“Năm mươi bệnh nhân ở hai khu? Trong khi sếp nghĩ thử xem những tòa nhà này có thể chứa bao nhiêu người? Hơn vài trăm ấy chứ?”

“Ít nhất.”

“Rồi tỉ lệ nhân viên và bệnh nhân. Cứ mỗi bệnh nhân có từ một tới hai nhân viên chăm sóc. Sếp đã thấy thế bao giờ chưa?”

“Cái này thì phải nói là chưa.”

Cả hai cùng nhìn xuống nền đất đang xì xèo dưới mưa.

“Cái chỗ này là chỗ quái quỷ gì thế không biết?” Chuck nói.

CUỘC PHỎNG VẤN ĐƯỢC TIẾN HÀNH ở khu nhà ăn, Chuck và Teddy ngồi ở một chiếc bàn phía cuối phòng. Hai hộ lý ngồi gần đó để theo dõi các bệnh nhân còn Trey Washington thì chịu trách nhiệm dẫn từng người vào gặp họ rồi lại đưa đi khi đã hỏi xong.

Người đầu tiên là một kẻ thân tàn ma dại, râu ria lởm chởm, mắt liên tục chớp và máy. Anh ta ngồi thu người lại như một con sam biển, gãi tay sồn sột và tránh nhìn vào mắt họ. 

Teddy nhìn vào trang giấy trên cùng đống tài liệu mà Cawley đưa cho anh, chỉ là những phác thảo từ trí nhớ của Cawley chứ không phải hồ sơ bệnh nhân chính thức. Anh chàng này được đưa lên đầu danh sách, tên anh ta là Ken Gage, bị gửi tới đây do tấn công một người lạ tại lối đi của một cửa hàng tạp phẩm nằm ở góc phố, dùng một hộp đậu đánh vào đầu nạn nhân và trong lúc hành hung thì luôn miệng nói khẽ “Đừng đọc thư của tôi nữa.”

“Ken này,” Chuck nói. “Anh thấy trong người thế nào?”

“Tôi bị cảm lạnh. Tôi bị cảm lạnh ở chân.”

“Tôi rất tiếc.”

“Vâng, khi đi thì rất đau.” Ken gãi gãi xung quanh một mụn ghẻ trên tay, ban đầu có vẻ nhẹ nhàng như thăm dò để xác định kích thước của nó.

“Anh có mặt trong nhóm điều trị tối hôm kia không?”

“Tôi bị cảm ở chân và khi đi thì rất đau.” 

“Thế anh có cần tất chân không?” Teddy cố hỏi. Anh để ý thấy hai hộ lý nhìn về phía họ cười khúc khích.

“Có, tôi muốn có mấy đôi tất, tôi muốn có mấy đôi tất, tôi muốn có mấy đôi tất.” Anh ta thì thầm, đầu vẫn cúi gằm, hơi lắc lư.

“Được thôi, chúng tôi sẽ kiếm cho anh. Chúng tôi chỉ muốn biết nếu anh đã…”

“Chỉ là nó quá lạnh. Trong chân tôi á? Nó lạnh và khi đi thì rất đau.”

Teddy nhìn sang Chuck. Chuck mỉm cười với hai người hộ lý khi tiếng khúc khích của họ bắt đầu vang tới tận bên bàn anh ngồi.

“Ken,” Chuck nói. “Ken này, anh có thể nhìn tôi được không?”

Ken vẫn cúi gằm, đầu lắc lư mạnh hơn. Móng tay của anh ta đã cạy toạc cái mụn ghẻ và một vệt máu rỉ ra giữa đám lông tay.

“Ken?”

“Tôi không đi được. Không phải như thế này. Không phải như thế này. Nó quá lạnh, lạnh, lạnh.”

“Ken, nghe này, nhìn tôi đi.”

Ken giáng một cú đấm xuống bàn.

Hai hộ lý đứng dậy trong lúc Ken nói, “Đáng lẽ nó không đau. Đáng lẽ là không. Nhưng họ muốn thế. Họ lấp đầy không khí bằng giá lạnh. Họ bơm nó vào đầu gối tôi.”

Hai hộ lý tiến tới bên bàn nhìn Chuck qua vai Ken. Người hộ lý da trắng nói, “Các anh xong rồi chứ, hay muốn nghe thêm về chân cẳng anh ta?”

“Chân tôi bị lạnh.”

Người hộ lý da đen khẽ nhướng một bên mày. “Thôi được rồi Kenny. Chúng tôi sẽ dẫn anh tới phòng Thủy lực và làm anh ấm lên tức thì.”

“Tôi đã ở đây năm năm. Chủ đề vẫn không thay đổi,” người hộ lý da trắng nói.

“Không hề?” Teddy hỏi.

“Khi đi thì rất đau.”

“Không hề,” người hộ lý nói.

“Đi thì đau vì họ để cái lạnh vào chân tôi…”

BỆNH NHÂN TIẾP THEO là Peter Breene, hai mươi sáu tuổi, tóc vàng, mập lùn. Một người thích cắn móng tay và bẻ các đốt tay kêu răng rắc. 

“Anh làm gì ở đây hả Peter?”

Peter nhìn qua bàn về phía Chuck và Teddy với đôi mắt có vẻ như luôn ướt át. “Lúc nào tôi cũng sợ.”

“Sợ gì cơ?”

“Mọi thứ.”

“Thế à!”

Peter gác chân trái lên đầu gối bên phải, tay giữ lấy cổ chân rồi cúi người ra phía trước. “Nghe thì có vẻ ngu ngốc nhưng mà tôi rất sợ đồng hồ. Chúng kêu tíc tắc. Chúng chui vào trong đầu anh. Bọn chuột cống làm tôi sợ.”

“Tôi cũng thế,” Chuck nói.

“Vậy sao?” Peter nói, giọng tươi tỉnh hẳn ra.

“Mẹ kiếp, đúng thế. Cái lũ chít chít khốn kiếp ấy. Chỉ cần nhìn thấy một con đã muốn vãi đái ra quần.”

“Thế thì đừng đi ra ngoài bức tường lúc buổi đêm, nhé,” Peter nói. “Chúng có mặt ở khắp mọi nơi.”

“Biết thế. Cảm ơn anh nhé.”

“Bút chì,” Peter nói. “Cái đầu bút chì ấy, anh biết không? Kêu xoèn xoẹt trên giấy. Tôi sợ anh.”

“Tôi á?”

“Không,” Peter nói và hất cằm về phía Teddy. “Anh ta.”

“Tại sao?” Teddy hỏi.

Peter nhún vai. “Anh cao lớn. Tóc húi cua trông hắc ám. Anh có thể tự lo liệu cho bản thân mình. Các khớp xương của anh thật đáng sợ. Bố tôi cũng giống như thế. Ông ấy không có một vết sẹo nào. Tay của ông ấy trơn nhẵn. Nhưng mà trông ông ấy rất hắc ám. Các anh em trai của tôi cũng vậy. Họ thường đánh tôi.”

“Tôi sẽ không đánh anh đâu,” Teddy nói.

“Nhưng mà anh có thể. Anh không thấy thế sao? Anh có cái quyền lực đó. Còn tôi thì không. Điều đó khiến tôi yếu ớt. Yếu ớt khiến tôi sợ hãi.”

“Và khi anh sợ hãi?”

Peter vẫn tóm lấy mắt cá chân, cả người đung đưa từ trước ra sau, một mớ tóc xòa xuống trán. “Cô ta tử tế thôi. Tôi cũng không có ý gì cả. Nhưng cô ta làm tôi sợ với bộ ngực đồ sộ của cô ta, cái cách cô ta có thể di chuyển trong chiếc váy màu trắng đó, tới nhà chúng tôi mỗi ngày. Cô ta nhìn tôi như thể… Anh có biết cái nụ cười người ta thường dành cho trẻ con không? Cô ta cười với tôi như thế. Mà cô ta chỉ bằng tuổi tôi. À, phải, hình như có hơn vài tuổi, nhưng mà vẫn ở độ tuổi hai mươi. Và cô ta có quá nhiều kinh nghiệm tình dục. Mắt cô ta nói lên điều đó một cách rõ rệt. Cô ta thích được trần truồng. Và rồi cô ta hỏi tôi xem cô ta có thể dùng một ly nước không. Cô ta ở một mình trong bếp với tôi mà cứ như là không có chuyện gì lớn?”

Teddy khẽ gạt tập hồ sơ để Chuck có thể nhìn thấy ghi chép của Cawley:

Bệnh nhân hành hung y tá của bố mình bằng một chiếc ly vỡ. Nạn nhân bị trọng thương, ám ảnh kinh niên. Bệnh nhân không thừa nhận trách nhiệm đối với hành động của mình.

“Chỉ vì cô ta làm tôi sợ,” Peter nói. “Cô ta muốn tôi lôi cái đó của mình ra để cô ta có thể cười nhạo. Nói với tôi rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có một người đàn bà nào, chẳng bao giờ có con cái, chẳng bao giờ là một người đàn ông thực thụ? Là thế đấy, nếu không thì tôi nghĩ các anh biết mà, các anh có thể đọc được điều đó trên mặt tôi – rằng tôi sẽ không làm đau dù chỉ một con muỗi. Đó không phải là tôi. Nhưng khi tôi trở nên sợ hãi? Ôi, trí óc tôi.”

“Nó làm sao?” Chuck nói giọng vỗ về. 

“Anh chưa từng nghĩ tới nó à?”

“Trí óc của anh hả?”

“Trí óc,” anh ta nói. “Của tôi, của anh, của bất kỳ ai. Về cơ bản, nó là một động cơ. Chính thế. Một cái mô tơ cực kỳ phức tạp và tinh xảo. Với tất cả những bộ phận khác nhau, số, bu lông và khớp nối. Chúng ta thậm chí không biết tới một nửa số chúng là cái gì. Nhưng chỉ cần trượt một số, chỉ một thôi… Các anh có bao giờ nghĩ tới điều đó không?”

“Gần đây thì không.”

“Anh nên. Nó giống như một chiếc xe ô tô. Không khác gì. Sai một số, lỏng một bu lông là cả hệ thống trở nên rối rắm. Các anh có biết rằng…” Anh ta dừng lại gõ tay vào thái dương trước khi nói tiếp, “rằng tất cả đều mắc ở trong này và anh không cách nào có thể đụng tới hay điều khiển nó. Mà nó điều khiển anh, đúng chứ? Và nếu một ngày nào đó nó quyết định rằng nó không thích hoạt động nữa?” Anh ta vươn người về phía trước và họ có thể nhìn thấy những đường gân nổi lên trên cổ anh ta. “Thì anh sẽ khốn khổ khốn nạn đấy, có đúng không?”

“Một cách nhìn thú vị,” Chuck nói.

Peter dựa lại lưng vào ghế, có vẻ bình tĩnh một cách bất ngờ. “Đó là điều tôi sợ nhất.”

Teddy với những cơn đau nửa đầu khiến anh phần nào hiểu được sự thiếu tự chủ của một người đối với trí óc mình nên trên lý thuyết anh có thể nhượng bộ quan điểm của Peter, nhưng trên thực tế thì anh chỉ muốn siết lấy cổ họng tên nhãi ranh đó, nhấc hắn lên rồi ném vào một trong những chiếc lò nướng ở cuối nhà ăn và hỏi hắn về cô y tá tội nghiệp mà hắn đã cắt xẻo nhiều nhát.

Mày thậm chí có nhớ tên cô ấy không, Peter? Theo mày thì cô ấy sợ gì? Hả? Mày. Thế đấy! Cố gắng hoàn thành một ngày làm việc trung thực để kiếm sống. Có thể cô ấy có con cái, có một người chồng. Có lẽ họ đang cố gắng dành dụm đủ tiền cho một trong mấy đứa con vào đại học, để nó có cuộc sống tốt đẹp hơn. Một giấc mơ nhỏ bé.

Nhưng, không, một thằng quý tử khốn kiếp con nhà giàu nào đó quyết định giấc mơ của cô ấy không thể thành hiện thực. Rất tiếc, nhưng không được. Không có cuộc sống bình thường nào cho cô, thưa cô. Không bao giờ nữa. 

Teddy nhìn qua bàn về phía Peter Breene và chỉ muốn thụi cho hắn một quả ngay giữa mặt, mạnh tới mức các bác sĩ sẽ không tìm được mẩu xương nào trong mũi hắn nữa. Táng hắn thật mạnh khiến hắn không bao giờ quên được cái âm thanh của cú đấm đó. 

Tuy nhiên, anh chỉ đóng hồ sơ lại và nói, “Anh đã tham dự nhóm điều trị đêm hôm kia với Rachel Solando. Đúng không?”

“Có, tôi có tham gia, thưa ngài.”

“Anh có nhìn thấy cô ta đi lên phòng của mình không?”

“Không. Nam giới đi trước. Cô ấy vẫn còn ngồi lại với Bridget Kearns và Leonora Grant và cái cô y tá đó.”

“Cô y tá đó?”

Peter gật đầu. “Cái cô tóc đỏ ấy. Đôi khi tôi cũng quý cô ta. Cô ta có vẻ chân thành. Nhưng những lúc khác thì, anh biết không?”

“Không, không biết,” Teddy nói, cố giữ giọng trơn tru như Chuck vẫn thường làm.

“Nhưng mà anh có nhìn thấy cô ta đúng không?”

“Có. Nói lại xem tên cô ta là gì nhỉ?”

“Cô ta không cần một cái tên. Loại phụ nữ đó ư? Không có tên nào dành cho cô ta cả. Con gái Nhơ nhuốc. Đó là tên của cô ta.”

“Nhưng mà Peter,” Chuck lên tiếng. “Tôi tưởng anh vừa nói là anh quý cô ấy.”

“Tôi nói thế lúc nào?”

“Một phút trước đây.”

“Úi, cô ta là đồ rác rưởi. Đồ đĩ rạc.”

“Để tôi hỏi anh một chuyện khác.”

“Dơ dáy, dơ dáy, dơ dáy.”

“Peter?”

Peter ngước nhìn Teddy.

“Tôi có thể hỏi anh cái này được không?”

“Ồ, tất nhiên.”

“Có gì bất thường xảy ra trong nhóm điều trị đêm hôm đó không? Rachel Solando có nói gì hay làm gì khác với ngày thường không?”

“Cô ta chẳng nói lấy một lời. Cô ta là một con chuột. Cô ta chỉ ngồi đó. Cô ta giết con của mình đấy, anh biết rồi. Ba đứa. Anh có tin nổi không? Loại người gì mà có thể làm được chuyện đó? Nếu anh không ngại, thưa ngài, thì tôi xin nhắc, đó là những kẻ bệnh hoạn trên thế giới này.”

“Ai cũng có vấn đề,” Chuck nói. “Một số nghiêm trọng hơn những người khác. Bị bệnh, giống như anh nói đấy. Họ cần được giúp đỡ.”

“Chúng cần hơi ngạt thì có,” Peter nói.

“Gì cơ?”

“Hơi ngạt,” Peter nói với Teddy. “Hơi ngạt cho bọn biến thái. Hơi ngạt cho bọn giết người. Giết con của chính mình ư? Hơi ngạt cho con chó cái ấy.”

Rồi cả ba ngồi im lặng. Mặt Peter rạng rỡ như thể anh ta vừa thắp sáng thế giới này cho họ. Một lúc sau anh ta vỗ bàn rồi đứng dậy.

“Hân hạnh được gặp các vị, quý ngài. Tôi phải đi thôi.”

Teddy vớ lấy một cái bút chì và bắt đầu vẽ nguệch ngoạc trên tấm bìa hồ sơ khiến Peter dừng phắt lại và quay sang nhìn anh. 

“Peter,” Teddy nói.

“Vâng?”

“Tôi…”

“Anh có thể dừng cái đó lại không?”

Teddy chậm rãi vạch những nét dài các chữ cái tên anh ta lên tấm bìa cứng. “Tôi đang băn khoăn liệu…”

“Xin anh có thể, làm ơn…”

Teddy nhìn lên, tay vẫn đưa nét bút trượt dài trên giấy.

“Sao?”

“… dừng cái đó lại.”

“Cái gì cơ?” Teddy nhìn anh ta rồi lại nhìn xuống hồ sơ. Anh nhấc chiếc bút chì lên, nhíu một bên mày. 

“Đúng thế. Làm ơn. Cái đó.”

Teddy đặt chiếc bút chì xuống. “Tốt hơn chứ?”

“Cảm ơn anh.”

“Peter, anh có biết một bệnh nhân tên là Andrew Laeddis?”

“Không.”

“Không ư? Ở đây không có ai tên như vậy à?”

Peter nhún vai. “Ở Khu A thì không. Anh ta có thể ở Khu C. Bọn tôi không ở lẫn với chúng. Chúng điên bỏ mẹ.”

“Thôi được rồi, cảm ơn anh Peter,” Teddy nói rồi cầm bút chì lên tiếp tục vẽ nguệch ngoạc. 

SAU PETER BREENE, họ phỏng vấn tới Leonora Grant. Leonora một mực tin rằng cô ta là Mary Pickford và Chuck là Douglas Fairbanks còn Teddy là Charlie Chaplin. Cô ta cho rằng cái nhà ăn này chính là một văn phòng trên Đại lộ Sunset và ba người bọn họ đang ở đây để bàn chuyện tung ra thị trường cổ phiếu phổ thông của Hiệp hội Nghệ sĩ Liên bang. Cô ta cứ vuốt ve mu bàn tay Chuck và hỏi ai sẽ là người ghi lại biên bản cuộc họp. Cuối cùng, các hộ lý phải lôi tay Leonora ra khỏi cổ tay Chuck trong khi cô ta vừa khóc vừa nói, “Vĩnh biệt, anh yêu, vĩnh biệt.”

Đi được nửa phòng ăn thì cô ta vùng thoát khỏi hai hộ lý, quay trở lại bàn của hai người, tóm lấy tay Chuck và nói, “Đừng quên cho mèo ăn nhé!”

Chuck nhìn thẳng vào mắt cô ta rồi nói, “Nhớ rồi.”

Sau đó, họ gặp Arthur Toomey, người cứ nằng nặc đòi gọi anh ta là Joe. Joe đã ngủ gật suốt buổi chữa bệnh hôm trước. Joe, hóa ra là một người mắc chứng ngủ rũ. Trong lúc nói chuyện với họ, anh ta ngủ quên hai lần, và là lần thứ hai thứ ba gì đấy trong ngày. 

Từ lúc đó, Teddy bắt đầu có những cảm nhận về khu bệnh viện nằm ở phía sau lưng anh. Cảm giác ấy khiến đầu óc anh nhột nhạt cho dù anh thấy cảm thông với hầu hết các bệnh nhân ở đây, trừ Breene, thì anh vẫn không hết băn khoăn tại sao người ta có thể làm việc được ở một nơi thế này.

Trey thong thả quay lại chỗ họ với một phụ nữ nhỏ nhắn, tóc vàng và có khuôn mặt rất cân xứng. Mắt cô ta ánh lên vẻ minh mẫn. Đó không phải là cái vẻ minh mẫn của người điên mà là cái minh mẫn thường trực ở một phụ nữ thông minh sống trong một thế giới kém thông minh hơn. Cô ta mỉm cười và khẽ ngượng ngập vẫy tay chào hai người họ trước khi ngồi xuống ghế.

Teddy nhìn xuống bản ghi chép của Cawley – Bridget Kearns.

“Tôi sẽ không bao giờ ra khỏi đây,” cô ta nói vài phút sau đó. Cô ta có thói quen dập thuốc khi chỉ hút tới một nửa, giọng cô ta nhẹ nhàng, tự tin. Hơn mười năm trước, cô ta đã giết chồng mình bằng một cái rìu.

“Tôi cũng không chắc là tôi có nên không nữa,” cô ta nói.

“Sao lại thế?” Chuck nói. “Ý tôi là, thứ lỗi cho tôi đã hỏi thế, cô Kearns…” 

“Bà.”

“Bà Kearns. Thứ lỗi cho tôi nhưng với tôi bà trông hoàn toàn bình thường.”

Cô ta ngồi dựa lưng vào ghế với cái vẻ thoải mái như tất cả bệnh nhân trước đó rồi cười khẽ. “Tôi cũng đoán thế. Nhưng lúc mới đến đây thì tôi không được vậy. Ôi Chúa ơi! Thật may là họ đã không chụp ảnh. Người ta chẩn đoán tôi mắc chứng điên loạn do trầm uất và tôi không có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Đúng là tôi đã có những ngày đen tối trong đời. Nhưng tôi nghĩ ai cũng vậy. Sự khác biệt là hầu hết mọi người không giết chồng họ bằng một cái rìu. Người ta bảo tôi có những xung đột gay gắt, không giải quyết nổi với cha mình. Điểm này tôi cũng đồng ý. Tôi ngờ rằng tôi sẽ ra khỏi đây và giết thêm một người nào đó nhưng chẳng ai có thể nói trước điều gì.” Cô ta dừng lại, chĩa đầu thuốc lá về phía họ. “Tôi cho rằng nếu một người đàn ông thường xuyên đánh đập bạn và ngủ với phân nửa số phụ nữ hắn gặp, mà không có ai đứng ra bênh vực bạn thì việc lấy rìu bổ cho hắn một nhát cũng không có gì là khó hiểu.”

Cô ta bắt gặp ánh mắt của Teddy và có cái gì đó trong mắt cô ta, một vẻ bối rối thẹn thùng kiểu nữ sinh trung học, khiến anh bật cười. 

“Gì vậy?” cô ta nói và cười với anh.

“Có lẽ cô cũng không nên rời hòn đảo thật!” anh nói.

“Anh nói vậy vì anh là đàn ông.”

“Cô nói quá đúng.”

“Vậy thì tôi cũng chẳng thể trách anh.”

Có thể cười đùa một chút sau khi gặp Peter Breene thật là dễ chịu và Teddy tự hỏi liệu có phải anh đang ít nhiều tán tỉnh cô ta hay không. Một bệnh nhân thần kinh. Một kẻ giết chồng bằng rìu. Có cái gì đó đang tiếp diễn, Dolores. Nhưng tất cả điều ấy không hề khiến anh khó chịu, như thể sau hai năm trời tiếc thương đằng đẵng, anh đã có quyền đối đáp đùa cợt vô hại một chút với một phụ nữ khác. 

“Tôi sẽ làm gì nếu tôi ra khỏi đây?” Bridget nói. “Tôi chẳng biết gì về thế giới ở bên ngoài nữa. Bom, tôi nghe nói vậy. Những trái bom có thể biến cả thành phố thành tro bụi. Và vô tuyến. Họ gọi chúng thế đúng không? Có tin đồn là mỗi khu trị bệnh sẽ có một chiếc và chúng tôi có thể xem phim ảnh trên đó. Tôi không biết liệu tôi có thích như vậy. Những giọng nói vang ra từ một cái hộp. Những khuôn mặt nhìn thấy từ một cái hộp. Tôi đã nghe đủ loại giọng và nhìn đủ loại mặt mỗi ngày. Tôi chẳng cần thêm sự ồn ĩ làm gì.”

“Cô có thể kể cho chúng tôi nghe về Rachel Solando không?” Chuck hỏi.

Cô ta dừng lại. Đúng hơn là khựng lại và Teddy thấy cô ta khẽ chớp mắt như thể đang tìm kiếm trong đầu câu trả lời chính xác. Teddy viết hai chữ “nói dối” vào quyển sổ ghi chép của mình rồi lấy cườm tay che chúng lại ngay khi viết xong.

Từ ngữ của cô ta bắt đầu tuôn ra một cách thận trọng hơn và bốc đầy mùi dối trá.

“Rachel khá tử tế. Cô ta rất khép mình. Cô ta nói về mưa khá nhiều, nhưng phần lớn thời gian thì chẳng nói gì cả. Cô ta tin rằng các con mình vẫn sống. Cô ta tin rằng cô ta đang sống ở Berkshires và tất cả chúng tôi đều là hàng xóm, là người đưa thư, giao hàng, bán sữa. Thật khó để có thể hiểu được cô ta.”

Đầu cô ta cúi gằm khi nói những lời này và tránh nhìn vào mắt Teddy khi nói hết câu. Cô ta rời mắt khỏi khuôn mặt anh và nhìn xuống bàn rồi châm một điếu thuốc khác.

Teddy nghĩ về những điều mà cô ta vừa nói và nhận ra những gì cô ta miêu tả về chứng ảo giác của Rachel giống hệt như những gì Cawley nói với họ hôm qua.

“Cô ta ở đây được bao lâu rồi?”

“Hả?”

“Rachel ấy. Cô ta đã ở Khu B với cô được bao lâu rồi?”

“Ba năm à? Khoảng đó, tôi nghĩ thế. Tôi chẳng còn khái niệm gì về thời gian nữa. Ở đây thì chuyện đó dễ xảy ra lắm.”

“Trước đó cô ta ở đâu?” Teddy hỏi.

“Khu C, tôi nghe nói thế. Tôi nghĩ là cô ta được chuyển sang đây.”

“Nhưng cô không chắc lắm?”

“Không. Tôi… Lại nữa, tôi lại không nhớ nổi.”

“Không sao. Có gì bất thường xảy ra vào lần cuối cùng cô nhìn thấy cô ta không?”

“Không.”

“Là ở trong nhóm điều trị.”

“Gì cơ?”

“Lần cuối cùng cô nhìn thấy cô ta,” Teddy nói. “Là ở trong nhóm điều trị đêm hôm kia.”

“Vâng, vâng.” Cô ta gật đầu mấy lần và gạt đám tàn thuốc vào rìa chiếc gạt tàn. “Trong nhóm điều trị.”

“Và tất cả các cô đi lên phòng cùng nhau?”

“Với ông Ganton, phải.”

“Đêm đó, trông bác sĩ Sheehan thế nào?”

Cô ta ngẩng mặt lên, Teddy thấy sự bối rối và có lẽ cả chút sợ hãi nữa trên gương mặt cô ta. “Tôi không hiểu ý anh định nói gì?”

“Bác sĩ Sheehan có mặt trong buổi tối hôm đó đúng không?”

Cô ta nhìn sang Chuck rồi lại nhìn Teddy, cắn môi đoạn nói, “Vâng, anh ấy có ở đó.”

“Trông anh ta thế nào?”

“Bác sĩ Sheehan à?”

“Anh ấy bình thường. Tử tế. Đẹp trai.”

“Đẹp trai?”

“Vâng. Anh ấy… không khó nhìn, như mẹ tôi vẫn thường hay nói.”

“Anh ta có bao giờ tán tỉnh cô không?”

“Không?”

“Có cố tiếp cận cô không?”

“Không, không, không. Bác sĩ Sheehan là một bác sĩ tốt.”

“Còn đêm hôm đó?”

“Đêm đó à?” Cô ta suy nghĩ một lát rồi nói, “Chẳng có gì bất thường xảy ra tối đó cả. Chúng tôi nói về, hừm, kiềm chế giận dữ thì phải? Và Rachel lại than vãn về trời mưa. Bác sĩ Sheehan rời đi ngay trước khi nhóm chữa bệnh giải tán, ông Ganton dẫn chúng tôi lên phòng và chúng tôi đi ngủ, tất cả chỉ có thế.”

Teddy viết thêm: “được mớm lời” và gạch chân chữ “nói dối” trong cuốn sổ ghi chép, rồi gấp lại.

“Tất cả chỉ có thế?”

“Vâng. Và sáng hôm sau thì Rachel đã đi khỏi.”

“Sáng hôm sau?”

“Vâng. Tôi thức dậy và nghe nói rằng cô ấy đã bỏ trốn.”

“Nhưng đêm hôm đó? Khoảng mười hai giờ, cô cũng đã nghe thấy rồi mà, đúng không?”

“Nghe gì cơ?” Cô ta dụi tắt điếu thuốc và vẩy tay cho tàn bụi dính trên đó bay đi.

“Báo động. Khi người ta phát hiện cô ta biến mất.”

“Không. Tôi…”

“Những tiếng la hét, tiếng lính gác chạy rầm rập từ mọi phía, tiếng chuông báo động.”

“Tôi nghĩ là mình đang nằm mơ.”

“Nằm mơ?”

Cô ta gật đầu cái rụp. “Phải, một cơn ác mộng.” Cô ta nhìn sang phía Chuck, “Cho tôi một ly nước được không?”

“Được thôi.” Chuck nói rồi đứng dậy nhìn quanh và thấy một dãy ly ở phía cuối nhà ăn bên cạnh một cái bình đựng nước bằng thép. 

Một trong hai người hộ lý nhô người ra khỏi ghế của mình, “Đặc vụ?”

“Chỉ lấy chút nước thôi mà. Không có gì đâu.”

Chuck tới bên cái bình đựng nước, chọn một chiếc ly và mất vài giây để quyết định xem đâu là vòi nước và đâu là vòi sữa. 

Trong khi Chuck kéo chiếc cần gạt nước có hình giống như một cái vuốt bằng sắt thì Bridget Kearns chộp lấy sổ tay và bút chì của Teddy. Cô ta nhìn anh chăm chú, mắt không rời khỏi mắt anh, và lật một trang trắng ra viết nguệch ngoạc vài chữ vào đó trước khi gấp lại rồi đẩy cả sổ lẫn bút về phía anh.

Teddy trao cho cô ta một cái nhìn dò hỏi nhưng cô ta cụp mắt xuống và bắt đầu vuốt ve bao thuốc của mình với vẻ thờ ơ.

Chuck trở lại với ly nước và ngồi xuống. Hai người cùng nhìn Bridget uống hết nửa ly nước rồi nói với họ, “Cảm ơn anh. Các anh còn hỏi gì nữa không? Tôi nghĩ là mình bắt đầu mệt rồi.”

“Cô đã bao giờ gặp một bệnh nhân tên là Andrew Laeddis chưa?” Teddy hỏi.

Mặt cô ta không có biểu hiện gì. Không có bất kỳ biểu hiện nào. Như thể gương mặt của cô ta vừa biến thành thạch cao. Hai tay cô ta úp chặt xuống mặt bàn như thể nếu chúng di chuyển thì chiếc bàn bay lên trần mất. 

Teddy không biết tại sao nhưng anh dám thề rằng cô ta chỉ chực bật khóc.

“Không,” cô ta nói. “Chẳng bao giờ nghe thấy tên anh ta.”

“ANH NGHĨ LÀ CÔ TA được mớm lời?” Chuck hỏi.

“Cậu không nghĩ vậy sao?”

“Ừ phải, nghe có vẻ hơi khiên cưỡng.”

Họ đang đi trong hành lang có mái che nối liền bệnh viện Ashecliffe với Khu B, mưa hắt cả vào người họ.

“Hơi ư? Có đôi lúc, cô ta sử dụng chính xác những từ mà Cawley đã nói. Khi chúng ta hỏi về chủ đề của nhóm chữa bệnh thì cô ta dừng lại rồi nói ‘kiềm chế giận dữ thì phải?’ như thể cô ta không chắc chắn. Như thể cô ta đang thi trắc nghiệm và đã mất cả đêm qua để nhồi nhét các đáp án có sẵn vào đầu.” 

“Để làm gì?”

“Tôi mà biết được tại sao thì đã chẳng có chuyện,” Teddy nói. “Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi vấn. Cứ chừng nửa tiếng lại có thêm ba mươi câu hỏi nữa mọc ra.”

“Đồng ý,” Chuck nói. “Nhưng này, tôi cũng có một câu hỏi cho sếp, Andrew Laeddis là ai?” 

“Cậu cũng để ý tới chuyện đó hả?” Teddy vừa nói vừa châm một trong những điếu thuốc mà anh thắng được từ canh bạc lần trước. 

“Bệnh nhân nào sếp chẳng hỏi câu đó.”

“Đâu có hỏi Ken hay Leonora Grant.”

“Teddy, hai người đó thậm chí còn không biết họ đang sống ở hành tinh nào nữa.”

“Đúng thế.”

“Sếp, tôi là đồng sự của sếp.”

Teddy đứng dựa lưng vào bức tường đá, Chuck cũng lẳng lặng làm theo. Teddy quay đầu sang nhìn Chuck.

“Chúng ta chỉ mới gặp,” anh nói.

“À, sếp không tin tôi.”

“Tôi tin cậu, Chuck. Thật đấy. Nhưng tôi là người phá vỡ nguyên tắc ở đây. Chính tôi đã yêu cầu được nhận vụ này. Ngay khi nó được thông báo ở văn phòng liên bang.”

“Thì sao?”

“Thì có nghĩa động cơ của tôi không hoàn toàn khách quan.”

Chuck gật đầu, châm một điếu thuốc, và suy nghĩ trong giây lát. “Bạn gái tôi, Julie-Julie Taketomi, tên đầy đủ của cô ấy là thế, cô ấy là người Mỹ giống như tôi vậy. Không nói lấy một từ tiếng Nhật. Quỷ tha ma bắt, gia đình cô ấy đã ở cái đất nước này từ hai thế hệ trước. Vậy mà họ nhốt cô ấy vào trong một cái trại và rồi…” Nói tới đây anh ta khẽ lắc đầu, búng tàn thuốc ra ngoài trời mưa rồi kéo áo sơ mi lên để lộ một vết sẹo phía trên hông phải. “Nhìn xem, Teddy. Một vết sẹo khác của tôi.”

Teddy nhìn vết sẹo. Nó dài và sẫm như một miếng thạch, dày bằng ngón tay cái.

“Tôi cũng không bị vết sẹo này từ chiến tranh. Mà là trong khi làm việc cho đội tầm nã. Bước vào cửa một ngôi nhà ở Tacoma. Cái gã mà chúng tôi truy bắt đã tặng tôi một nhát gươm. Anh có tin không? Gươm mới tởm chứ. Tôi nằm viện mất ba tuần cho họ khâu lại ruột. Vì phục vụ đội tầm nã liên bang Mỹ đấy Teddy. Vì tổ quốc. Thế mà họ đuổi tôi khỏi khu vực tôi sinh ra và lớn lên chỉ vì tôi yêu một phụ nữ Mỹ có đôi mắt và làn da châu Á.” Anh ta nhét lại áo vào trong quần. “Mẹ chúng nó chứ!”

“Nghe cậu nói thì tôi chắc rằng cậu hẳn phải yêu người phụ nữ đó lắm,” một lúc sau, Teddy lên tiếng.

“Có thể chết vì cô ấy,” Chuck nói. “Mà không hề hối tiếc.”

Teddy gật đầu. Anh chưa từng biết tới cảm xúc nào chân thực hơn thế trên đời này.

“Đừng để nó tuột mất, anh bạn trẻ.”

“Không đâu, Teddy, tin tôi đi. Nhưng anh phải cho tôi biết tại sao chúng ta lại ở đây. Andrew Laeddis là tên quái nào vậy?”

Teddy vứt mẩu thuốc còn lại xuống dưới bức tường đá rồi lấy chân di di.

Dolores, anh nghĩ, anh phải nói cho cậu ấy biết. Anh không thể làm chuyện này một mình.

Nếu sau tất cả những tội lỗi của anh, sau những cơn say xỉn, sau những lần anh bỏ em một mình quá lâu, làm em thất vọng, làm em đau lòng – nếu như anh có thể bù đắp lại bất cứ điều gì trong số đó, thì đây chính là lúc, là cơ hội cuối cùng mà anh có. 

Anh chỉ muốn làm cho đúng, em yêu. Anh muốn chuộc lỗi. Trên đời này nếu có ai hiểu được anh, đó chính là em. 

“Andrew Laeddis,” anh nói với Chuck nhưng từ ngữ bỗng dưng tắc lại trong cổ họng khô khốc của anh. Anh nuốt nước bọt, cố làm cho miệng mình bớt khô rồi lên tiếng, “Andrew Laeddis,” anh nói, “là nhân viên bảo trì trong tòa nhà tôi và vợ tôi sống.”

“Thế à.”

“Hắn cũng là người phóng hỏa tòa nhà.”

Chuck tiếp nhận thông tin đó và chăm chú quan sát gương mặt Teddy. 

“Andrew Laeddis,” Teddy nói, “đã châm ngọn lửa gây ra vụ hỏa hoạn…”

“Chó chết.”

“… giết chết vợ tôi.”

TEDDY BƯỚC RA chái hành lang, thò đầu ra ngoài trời mưa cho nước chảy tràn lên đầu và mặt. Anh có thể nhìn thấy cô trong những giọt nước mưa. Tan biến khi chạm xuống mặt đất.

Sáng hôm ấy, cô không muốn anh tới chỗ làm. Vào cái năm đó, cái năm cuối cùng của đời cô, cô trở nên nhõng nhẽo một cách khó hiểu, những cơn mất ngủ thường xuyên khiến cô lúc nào cũng run rẩy và đãng trí. Cô khẽ vuốt ve anh sau khi chuông báo thức tắt và gợi ý việc hai người đóng những cánh cửa chớp lại, tránh ánh sáng ban mai và không rời khỏi giường suốt cả ngày. Và rồi cô ôm lấy anh, cô ôm anh rất chặt, rất lâu khiến anh có thể cảm thấy xương trên cánh tay cô cứa vào cổ anh.

Và khi anh đứng tắm dưới vòi hoa sen thì cô tới nhưng anh quá vội vì đã trễ, đầu óc anh lơ mơ, ngây ngất và trạng thái này xảy ra một cách khá thường xuyên trong những ngày đó. Đầu anh nặng trịch, như có ngàn mũi kim đâm. Cơ thể cô giống như một tờ giấy nhám khi cô áp vào người anh. Nước tuôn ra từ vòi hoa sen rát như những tia điện châm. 

“Ở lại đi anh,” cô nói. “Chỉ một ngày thôi. Một ngày thì có thay đổi gì?”

Anh cố mỉm cười và dịu dàng đẩy cô ra chỗ khác, thò tay lấy miếng xà phòng tắm. “Anh không thể, em yêu.”

“Tại sao không?” Tay cô khẽ lần xuống giữa hai đùi của anh. “Chỗ này. Đưa xà phòng cho em, em sẽ cọ nó cho anh.” Lòng bàn tay cô khẽ trượt nhẹ ngay dưới tinh hoàn của anh, miệng cô khẽ nhay khắp ngực anh. 

Anh cố để không ẩy cô ra. Anh nhẹ nhàng tóm lấy hai vai cô và nhấc cô ra phía sau. “Thôi nào,” anh nói, “anh thật sự phải đi rồi.”

Cô lại cười một lúc nữa, tiếp tục hôn hít anh nhưng anh có thể thấy mắt cô bắt đầu sẫm lại vì tuyệt vọng. Để được hạnh phúc. Để không bị bỏ rơi một mình. Để có lại những ngày xưa cũ, những ngày anh không làm việc quá nhiều, không uống rượu quá nhiều, những ngày mà mỗi sớm mai thức dậy cô không cảm thấy thế giới này quá chói chang, quá ồn ã hay quá lạnh giá. 

“Thôi được, thôi được.” Cô lùi lại để anh có thể nhìn thấy gương mặt cô khi nước từ vai anh rỏ xuống thành một màn sương mờ đục bao trùm lấy cơ thể cô. “Em thỏa thuận thế này nhé. Không cần cả ngày, anh yêu. Không cần cả ngày. Chỉ cần một tiếng đồng hồ thôi. Chỉ trễ một tiếng đồng hồ thôi.”

“Thì anh đã…”

“Một tiếng,” cô nói và lại tiếp tục vuốt ve anh, tay cô giờ đầy xà phòng. “Một tiếng và rồi anh có thể đi. Em muốn được cảm thấy anh ở bên trong em.” Cô kiễng chân lên để hôn anh.

Anh chạm lẹ vào môi cô rồi nói, “Anh không thể, em yêu.” Rồi anh quay mặt về phía vòi hoa sen. 

“Họ có gọi anh quay trở lại không?”

“Hả?”

“Ra trận ấy.”

“Nếu như họ gọi anh. Thì anh sẽ phải đi thôi. Nhưng họ sẽ không gọi đâu, em yêu ạ.”

“Sao anh biết?”

Anh bắt đầu thoa dầu gội lên đầu.

“Thế giới này sẽ nổ tung mà em thậm chí không hiểu tại sao?” cô nói.

“Nó sẽ không nổ tung.”

“Nó sẽ nổ tung. Anh chỉ cần đọc báo và…”

Teddy xả dầu gội trên đầu và cô khẽ áp mặt mình vào lưng anh, tay cô sờ soạng phía bụng dưới của anh. “Em nhớ lần đầu tiên em nhìn thấy anh ở Cocoanut Grove. Trong bộ quân phục.”

Teddy không thích khi cô nói vậy. Lại con đường hoài niệm. Cô không thể thích ứng với hiện tại, với tình trạng hiện nay của họ, với những hạn chế và khiếm khuyết trong cuộc sống của họ nên cô quay ngược đường về quá khứ để tự an ủi bản thân mình.

“Lúc đó anh mới đẹp trai làm sao. Và Linda Cox bảo em rằng ‘Tớ nhìn thấy anh ấy trước nhé!’ Nhưng anh biết em đã nói gì với cô ấy không?”

“Anh muộn rồi, em yêu.”

“Không hiểu sao em lại nói thế cơ chứ. Không, em nói. ‘Cậu có thể nhìn thấy anh ấy trước tiên, Linda. Nhưng tớ sẽ nhìn thấy anh ấy cuối cùng.’ Cô ấy cho rằng nhìn gần thì anh cũng hơi đáng sợ nhưng em nói ‘Cưng ơi, cậu đã nhìn vào mắt anh ấy chưa? Không có gì đáng sợ trong đó cả.’ ”

Teddy ngắt vòi nước rồi quay đầu lại và nhận thấy vợ anh cũng đã lấm xà phòng khắp người. Những vệt xà phòng trắng lấp lánh trên da thịt cô. 

“Em có muốn anh bật nước lại không?”

Cô lắc đầu.

Anh cuốn một chiếc khăn tắm quanh hông rồi bắt đầu cạo râu bên bồn rửa mặt còn Dolores thì đứng dựa lưng vào tường nhìn anh, xà phòng khô lại thành những vệt màu trắng trên người cô. 

“Sao em không lau người đi?” Teddy nói. “Rồi mặc váy vào.”

“Giờ thì nó cũng hết rồi,” cô nói.

“Chưa hết. Trông như những con đỉa màu trắng bám khắp người em ấy.”

“Em không nói xà phòng.”

“Thế em định nói cái gì?”

“Cocoanut Grove. Họ đã đốt nó thành tro khi anh ở ngoài đó.”

“Phải, em yêu, anh có nghe nói.”

“Ở ngoài đó,” cô khẽ hát để cố cải thiện tâm trạng. “Ở ngoài đó…”

Cô vẫn luôn có giọng hát tuyệt vời nhất. Cái đêm anh trở về từ mặt trận, họ được ưu tiên một phòng tại khách sạn Parker House. Đó là lần đầu tiên anh nghe thấy cô hát. Sau khi làm tình, anh nằm trên giường còn cô hát bài ‘Buffalo Girls’ trong buồng tắm, hơi nước bay lên từ dưới khe cửa. 

“Này,” cô nói.

“Ừ?” Anh bắt gặp nửa thân hình bên trái của cô phản chiếu trong gương. Hầu hết xà phòng đã khô lại trên da cô và điều đó không hiểu sao khiến anh khó chịu. Chúng có một vẻ báng bổ nào đó khiến anh không muốn chạm vào.

“Anh có người khác à?”

“Gì cơ?”

“Đúng không?”

“Em đang nói linh tinh gì thế hả Dolores? Anh phải làm việc.”

“Em sờ vào… của anh trong…”

“Đừng nói cái từ đó. Ôi Chúa ơi!”

“… trong lúc tắm mà anh thậm chí không hề cương cứng?”

“Dolores.” Anh rời mắt khỏi chiếc gương, “Lúc đó em đang nói về bom đạn. Về tận thế.”

Cô nhún vai như thể những lời anh nói chẳng có gì liên quan tới cuộc đối thoại này. Cô áp một gót chân vào tường rồi dùng một ngón tay gạt nước khỏi háng mình. “Anh không còn làm tình với em nữa.”

“Dolores, anh nghiêm túc đấy, em không nên nói năng như thế trong nhà này.”

“Nên em cho rằng anh làm tình với cô ta.”

“Anh không làm tình với ai cả, và em có thể đừng nhắc tới cái từ đó nữa được không?”

“Từ gì?” Cô đặt bàn tay lên đám lông sẫm màu của mình. “Làm tình á?”

“Đúng thế.” Anh giơ một tay lên rồi quay trở lại việc cạo râu với tay kia.

“Vậy ra nó là một từ xấu cơ đấy?”

“Em biết thế mà.” Anh đưa lưỡi dao từ cổ lên cằm, tiếng râu bị cắt kêu xoèn xoẹt. 

“Thế từ nào mới là tốt?”

“Hử?” Anh nhúng dao cạo vào nước rồi vẩy mạnh.

“Từ nào về cơ thể em mới khiến anh không phải giơ nắm đấm?”

“Anh không hề giơ nắm đấm.”

“Anh có.”

Anh cạo xong phần cổ, lau dao cạo vào một chiếc khăn mặt. Anh áp lưỡi dao xuống phía dưới tai trái. “Không, em yêu. Anh không hề.” Anh bắt gặp mắt trái của cô trong gương.

“Em nên nói gì đây?” Một tay cô vuốt tóc, còn tay kia chạm vào đám lông nơi chỗ kín. “Ý em là anh có thể liếm nó, anh có thể hôn hít nó, và anh có thể làm tình với nó. Anh có thể nhìn thấy một đứa trẻ chui ra từ đó. Nhưng anh không thể nói nó ra thành lời sao?”

“Dolores.” 

“Cứt thật!” cô nói.

Lưỡi dao cắt sâu vào da Teddy tới mức anh nghĩ nó đã chạm tới xương hàm anh. Nó khiến mắt anh lồi ra, cả phía mặt trái như bị điện giật, rồi một ít bọt kem cạo râu rơi vào vết thương khiến đầu anh như muốn nổ tung và máu bắt đầu chảy ròng ròng xuống đám bọt trắng và nước trong bồn rửa. 

CÔ LẠI GẦN ANH với một chiếc khăn bông nhưng anh đẩy cô ra và rít qua kẽ răng, cảm thấy cơn đau đang túa vào mắt, thiêu đốt trong đầu, máu anh tuôn xuống bồn rửa và anh cảm thấy muốn khóc. Không phải vì đau. Không phải vì cơn ngây ngất. Mà bởi anh không biết chuyện gì đang xảy ra với vợ mình, với cô gái lần đầu khiêu vũ cùng anh tại Cocoanut Grove. Anh không biết cô đang biến thành cái gì, thế giới này đang biến thành cái gì với những thương tổn từ các cuộc chiến tranh vặt vãnh, bẩn thỉu, những thù hận điên cuồng, những trò gián điệp ở Washington và Hollywood, những mặt nạ chống hơi độc ở trường học, những hầm trú bom bằng xi măng dưới gầm nhà. Và tất cả những thứ ấy, vì một lý do nào đó đều liên quan tới nhau, tới vợ anh, thế giới này, sự nghiện rượu của anh, cuộc chiến mà anh tham dự chỉ bởi anh thực lòng tin rằng nó sẽ giúp chấm dứt tất cả chuyện này…

Máu anh tiếp tục chảy ròng ròng xuống bồn rửa và Dolores nói, “Em xin lỗi, em xin lỗi, em xin lỗi.” Anh cầm lấy chiếc khăn bông khi cô chìa ra lần thứ hai nhưng anh không thể chạm vào cô, không thể nhìn cô. Anh có thể nghe thấy nước mắt trong giọng nói cô và anh biết còn có cả nước mắt trong mắt cô, trên mặt cô; anh thấy căm giận sự suy đồi và hỗn loạn đang bao trùm lên mọi thứ và lên cái thế giới này.

TRÊN BÁO CHÍ, người ta trích câu nói cuối cùng của anh với vợ mình rằng anh yêu cô.

Một lời dối trá.

Điều cuối cùng mà anh thực sự đã nói là gì?

Khi anh với tay chạm vào nắm đấm cửa thì chiếc khăn bông thứ ba áp vào má anh, và mắt cô dõi lên khuôn mặt anh.

“Chúa ơi, Dolores, em phải bình tâm trở lại. Em cũng có một số trách nhiệm. Thỉnh thoảng nghĩ tới chúng một tí, được không? Và chỉnh đốn lại cái đầu óc quái gở của em nữa.”

Đó là những từ cuối cùng vợ anh nghe thấy từ miệng anh. Anh đóng cửa và bước xuống cầu thang, dừng lại ở bậc cuối cùng. Anh nghĩ tới việc quay trở lại. Anh nghĩ tới việc leo lên cầu thang, trở về căn hộ và bằng cách nào đó sửa chữa mọi chuyện. Hoặc, nếu không sửa chữa được, ít nhất cũng nhẹ nhàng hơn.

Nhẹ nhàng hơn. Như thế hẳn sẽ tốt đẹp. 

MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ có vết sẹo lớn màu đỏ lằn ngang cổ lạch bạch tiến về phía họ trong hành lang, cổ tay và cổ chân bà ta bị xích, hai lộ lý đi kèm hai bên. Trông bà ta có vẻ hân hoan, bà bắt chước tiếng vịt kêu và cố vỗ vỗ hai cùi tay vào nhau.

“Bà ta đã làm gì?” Chuck hỏi.

“Bà này hả?” một hộ lý lên tiếng. “Đây là Old Maggie. Chúng tôi gọi bà ta là Maggie Bánh Trung thu. Bà ta phải đi tới phòng Thủy liệu bây giờ. Mà dù sao thì cũng chẳng moi được cái gì từ bà ta đâu.”

Maggie đứng sững lại trước mặt họ, hai người hộ lý miễn cưỡng cố gắng kéo bà ta đi nhưng bà ta vùng ra và đứng chôn chân xuống đất. Một người hộ lý khẽ thở dài, mắt đảo lên trời.

“Bà ta lại chuẩn bị lên cơn đấy, nghe này.”

Maggie nhìn vào mặt họ, đầu nghẹo sang phải và chuyển động giống như một con rùa đang cố thò đầu ra khỏi mai.

“Ta là con đường,” bà ta nói. “Ta là ánh sáng. Và ta sẽ không nướng những cái bánh khốn kiếp của các người. Ta sẽ không làm đâu. Hiểu chưa?”

“Rồi,” Chuck nói.

“Theo ý bà thôi,” Teddy nói. “Không bánh trái gì cả.”

“Anh đã và đang ở đây. Anh sẽ còn ở đây.” Maggie hít một hơi. “Đó là tương lai của anh và quá khứ của anh, chúng quay theo chu kỳ giống như mặt trăng quay quanh trái đất.”

“Vâng, thưa bà.”

Bà ta cúi về phía họ và hít hít từng người một. Đầu tiên là Teddy, sau đó là Chuck.

“Họ có những bí mật. Đó là cách duy trì cái địa ngục này.”

“Bí mật và những cái bánh trung thu.”

Bà ta cười với anh và trong giây lát dường như có một người tỉnh táo nhập vào cơ thể bà ta, khiến mắt bà ta sáng lên.

“Cười lên,” bà ta nói với Chuck. “Điều đó tốt cho tâm hồn.”

“Được thôi,” Chuck nói. “Tôi sẽ làm thế, thưa bà.”

Bà ta chạm vào mũi Chuck bằng một ngón tay cong cong. “Ta muốn nhớ về anh như thế – tươi cười.”

Và rồi bà ta quay lưng và bỏ đi. Hai người hộ lý lẽo đẽo theo sau rồi cả ba người bọn họ biến mất sau một cánh cửa bên dẫn vào bệnh viện.

Chuck nói, “Một cô gái vui tính.”

“Kiểu con gái cậu sẽ mang về giới thiệu với mẹ.”

“Và rồi cô ta sẽ giết mẹ sau đó chôn ở nhà kho, nhưng mà vẫn…” Chuck châm một điếu thuốc. “Còn Leaddis?”

“Hắn giết vợ tôi.”

“Sếp nói rồi. Nhưng như thế nào?”

“Hắn là kẻ phóng hỏa.”

“Cái này cũng nói rồi.”

“Hắn là nhân viên bảo trì trong tòa nhà chúng tôi ở. Hắn cãi nhau với chủ tòa nhà. Chủ nhà đuổi việc hắn. Hồi đó, tất cả chúng tôi đều biết đám cháy không phải là một tai nạn. Có người đã phóng hỏa đốt nhà. Laeddis có trong danh sách bị tình nghi nhưng họ mất khá nhiều thời gian để tìm ra hắn và khi họ tìm ra thì hắn lại xoay xở được một bằng chứng ngoại phạm. Mẹ kiếp, lúc đó, ngay cả tôi cũng không dám chắc đó là hắn.”

“Thế cái gì đã khiến anh thay đổi suy nghĩ?”

“Một năm trước, tôi thấy hắn trên báo. Hắn đốt một trường học nơi hắn từng làm việc. Vẫn vở xưa, tích cũ – bị sa thải, quay lại, phóng lửa dưới tầng hầm, kích nhiệt khiến bể nước nóng nổ tung. Cách thức hoàn toàn giống như vụ trước. Y hệt. Không có đứa trẻ nào trong trường, chỉ có bà hiệu trưởng hôm đó ở lại làm muộn. Bà ta chết. Laeddis ra tòa, nói rằng hắn nghe thấy những giọng nói lạ hay các triệu chứng tương tự, vì thế họ tống hắn vào trại tâm thần ở Shattuck. Rồi ở đó xảy ra chuyện, tôi không rõ là chuyện gì nhưng kết quả là hắn bị thuyên chuyển về đây sáu tháng trước.”

“Nhưng không ai nhìn thấy hắn.”

“Không ai ở Khu A hay B.”

“Nghĩa là hắn ở Khu C.”

“Đúng thế.”

“Hoặc đã chết.”

“Cũng có thể. Thêm một lý do để phải tìm ra cái nghĩa địa.”

“Nhưng cứ cho là hắn ta chưa chết đi.”

“Ừ…”

“Thế nếu tìm thấy hắn, Teddy, sếp sẽ làm gì?”

“Tôi cũng chẳng biết nữa.”

“Đừng có giả vờ, sếp.”

Hai cô y tá xuất hiện, đi về phía họ, gót giày kêu lách cách, vừa đi vừa nép vào tường để tránh nước mưa. 

“Các anh ướt rồi,” một cô nói.

“Ướt nhẵn à?” Chuck nói và cô gái đi phía trong, một cô gái nhỏ nhắn tóc đen cắt ngắn, bật cười.

Khi đã đi qua chỗ họ, cô y tá tóc đen quay đầu lại nhìn hai người bọn họ và nói thêm, “Đặc vụ các anh luôn thích tán gái vậy sao?”

“Còn tùy,” Chuck nói.

“Vào cái gì?”

“Chất lượng nhân sự.”

Câu trả lời khiến hai cô y tá sững lại một thoáng, và khi hiểu ra thì cô gái tóc đen rúc mặt vào vai cô bạn gái rồi cả hai phá lên cười trước khi tiếp tục đi về phía cửa bệnh viện.

Chúa ơi, Teddy cảm thấy ghen tị với Chuck biết bao. Với việc cậu ta luôn tin vào những gì mình nói. Với những trò tán tỉnh ngu ngốc của cậu ta. Với khả năng đối đáp lanh lẹ những câu vô thưởng vô phạt kiểu nhà binh của cậu ta. Nhưng hơn cả là với sự quyến rũ trời sinh của cậu ta.

Sự quyến rũ chưa bao giờ dễ dàng tìm tới Teddy. Sau chiến tranh thì lại càng khó. Và sau Dolores thì hết hẳn.

Sự quyến rũ là một phẩm chất xa xỉ chỉ có ở những người vẫn còn tin vào tính bản thiện của vạn vật. Vào sự trong sạch và sự kiên định.

“Cậu biết không,” anh nói với Chuck, “buổi sáng cuối cùng bên vợ tôi, cô ấy nói với tôi về đám cháy ở Cocoanut Grove(2).” 

“Vậy sao?”

“Đó là nơi chúng tôi gặp nhau. Câu lạc bộ Grove. Cô ấy có cô bạn cùng phòng là con nhà giàu và tôi lọt được vào đó vì họ có một suất giảm giá cho nhân viên phục vụ. Ngay trước hôm tôi lên tàu đi tham chiến. Khiêu vũ với cô ấy suốt đêm. Thậm chí nhảy cả điệu foxtrot.”

Chuck thò đầu ra nhìn vào mặt Teddy. “Sếp nhảy điệu foxtrot hả? Tôi đang cố hình dung, nhưng…”

“Này cậu,” Teddy nói, “nếu cậu nhìn thấy vợ tôi đêm đó? Cậu sẽ sẵn lòng nhảy lò cò quanh sàn như một con thỏ, nếu cô ấy yêu cầu.”

“Thế ra sếp gặp cô ấy ở Cocoanut Grove.”

Teddy gật đầu. “Và nó bị thiêu trụi khi tôi đang ở – Ý thì phải? Ừ đúng thế, lúc đó tôi đang ở Ý – và cô ấy cho rằng chuyện đó, tôi không biết nữa, có một ý nghĩa nào đấy, tôi đoán thế. Cô ấy đâm ra sợ lửa.”

“Và cô ấy đã thiệt mạng trong một đám cháy,” Chuck nhẹ nhàng nói.

“Rối tung tất cả, đúng không?” Teddy cố nhớ lại hình ảnh cô sáng hôm đó, gác chân lên bức tường buồng tắm, trần truồng, toàn thân loang lổ vệt xà phòng màu trắng chết chóc.

“Teddy?”

Teddy nhìn anh ta.

Chuck xòe hai tay ra. “Tôi ủng hộ sếp trong chuyện này. Cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Sếp muốn tìm Laeddis và giết hắn? Tôi chiều sếp luôn.”

“Chiều?” Teddy cười. “Tôi chưa hề nghe thấy từ này kể từ khi…”

“Nhưng sếp, tôi cần biết sếp định làm gì? Tôi nghiêm túc đấy. Chúng ta phải thu xếp mọi việc ổn thỏa nếu không chúng ta sẽ lại kết thúc ở một Phiên tòa Kefauver(2) kiểu mới hay cái gì đó tương tự. Những ngày này ai cũng nhòm ngó, sếp biết không? Nhòm ngó tất cả những gì chúng ta làm. Trông chừng chúng ta. Thế giới này nhỏ đi từng phút.”

Chuck đưa tay gạt một lọn tóc xòa xuống trán. “Tôi nghĩ sếp biết rõ cái chỗ này. Tôi nghĩ sếp biết những thứ sếp chưa nói với tôi. Tôi nghĩ sếp tới đây để gây chuyện.”

Teddy vỗ vỗ một tay lên trái tim.

“Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, sếp.”

“Chúng ta ướt hết rồi,” Teddy nói.

“Thì sao?”

“Ý tôi là cậu có ngại nếu ướt thêm tí nữa không?”

HỌ BƯỚC RA NGOÀI CỔNG và đi về phía bờ biển. Mưa bao trùm mọi vật. Những con sóng lớn bằng cả tòa nhà chồm lên các mỏm đá. Chúng dâng cao rồi tan ra để nhường đường cho những đợt sóng mới. 

“Tôi không muốn giết hắn,” Teddy hét lên át tiếng sóng gầm.

“Không ư?”

“Không.”

“Không chắc là tôi có thể tin sếp.”

Teddy nhún vai.

“Nếu đó là vợ tôi ư?” Chuck nói. “Tôi sẽ giết hắn hai lần.”

“Tôi đã mệt mỏi với chém giết,” Teddy nói. “Trong chiến tranh ư? Tôi không nhớ nổi bao nhiêu nữa. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra hả Chuck? Ấy thế mà nó đã xảy ra.”

“Dù sao đi nữa. Đó là vợ sếp, Teddy.”

Họ nhìn thấy một đám đá đen, lởm chởm, trồi lên trên bãi cát dẫn về phía rặng cây, họ trèo lên đó và đi sâu vào trong đảo.

“Nhìn xem,” Teddy nói khi họ tới một mô đất nhỏ, bao bọc bởi một đám cây cao có thể chắn mưa. “Tôi vẫn đặt công việc lên đầu. Chúng ta phải tìm xem chuyện gì đã xảy ra với Rachel Solando. Và nếu tôi bắt gặp Laeddis trong khi làm việc ư? Tuyệt. Tôi sẽ nói với hắn là tôi biết hắn giết vợ tôi. Tôi sẽ nói với hắn là tôi đợi hắn trên đất liền khi hắn được trả tự do. Tôi sẽ nói với hắn là chừng nào tôi còn sống thì hắn đừng hòng có không khí tự do để thở.”

“Tất cả chỉ có thế?” Chuck nói.

“Chỉ có thế.”

Chuck dùng tay áo quệt mắt và gạt mớ tóc xõa xuống trán. “Tôi không tin sếp. Tôi thật sự không tin.”

Teddy nhìn về phía Nam rặng cây, nhìn thấy nóc bệnh viện Ashecliffe, những ô cửa sổ dùng để quan sát trên đó. 

“Sếp không nghĩ là Cawley biết thực sự tại sao sếp tới đây chứ?”

“Tôi thực sự tới đây vì Rachel Solando.”

“Nhưng mẹ khỉ, Teddy, nếu cái gã giết vợ sếp bị quản thúc ở đây thì…” 

“Hắn không bị kết án vì chuyện đó. Không có mối liên hệ nào giữa tôi và hắn. Không gì cả.”

Chuck ngồi xuống một hòn đá trồi lên trên mặt đất và cúi đầu xuống nghe mưa. “Thế đi tìm cái nghĩa địa vậy. Sao chúng ta không tính tới chuyện tìm nó một khi đã ra tới ngoài này? Chúng ta chỉ cần nhìn thấy một cái bia đề tên Laeddis thì coi như nửa trận chiến đã kết thúc.”

Teddy tiếp tục nhìn về phía rặng cây và bóng tối sâu thẳm nơi đó. “Được thôi.”

Chuck đứng dậy. “À nhân tiện hỏi luôn, cô ta nói gì với sếp vậy?”

“Ai cơ?”

“Nữ bệnh nhân ấy.” Chuck bẻ các đốt ngón tay. “Bridget. Cô ta bảo tôi đi lấy nước. Cô ta nói gì đó với sếp, tôi biết mà.”

“Cô ta không nói gì cả.”

“Cô ta không nói gì cả? Sếp nói điêu. Tôi biết là cô ta…”

“Cô ấy đã viết,” Teddy nói và sờ vào túi áo khoác để tìm quyển sổ ghi chép. Cuối cùng anh tìm thấy nó ở túi áo bên trong và giở ra. 

Chuck bắt đầu huýt sáo và bước lọc cọc trên nền đất mềm bắt chước dáng đi của lũ ngỗng. 

Khi giở tới trang cần tìm, Teddy gọi Chuck, “Đủ rồi đấy chàng trai.”

Chuck lại gần. “Sếp tìm thấy rồi à?”

Teddy gật đầu, quay quyển sổ ra để Chuck có thể nhìn thấy trên trang giấy một từ duy nhất được viết xin xít, nguệch ngoạc, đang bắt đầu nhòe dưới trời mưa: chạy đi.

HỌ TÌM THẤY ĐÁM ĐÁ ĐÓ khi đi được khoảng năm trăm mét vào sâu trong đảo, bầu trời tối sập lại dưới những đám mây xám xịt. Họ di chuyển qua những vách đá sũng nước phủ đầy cỏ biển rũ rượi và trơn nhẫy dưới mưa, cả hai người đều lấm bùn từ đầu tới chân do phải bám chặt đường đi và vấp lên vấp xuống.

Dưới chân họ là một cách đồng, phẳng như nền trời dưới những đám mây, hoàn toàn trơ trụi ngoại trừ vài bụi cây nằm rải rác, mấy chiếc lá to do bão thổi tới và vô số viên đá nhỏ mà ban đầu Teddy tưởng chúng đã cưỡi gió đến cùng những chiếc lá. Anh dừng lại giữa đường, leo xuống bên kia vách đá để nhìn chúng cho kỹ. Những viên đá xếp thành từng chồng nhỏ, gọn ghẽ trên cánh đồng, mỗi chồng cách nhau chừng mười lăm phân. Teddy đặt tay lên vai Chuck và chỉ vào chúng.

“Cậu đếm được bao nhiêu chồng tất cả?”

“Gì cơ?”

“Đống đá kia kìa. Cậu thấy không?”

“Có.”

“Chúng chất thành từng chồng riêng biệt. Cậu đếm được bao nhiêu chồng?”

Chuck nhìn Teddy như thể một cơn bão vừa đánh trúng đầu anh ta. “Chúng là đá mà.”

“Tôi nghiêm túc đấy.”

Chuck lại nhìn anh với một vẻ y hệt như lúc trước rồi quay về phía cánh đồng. Một phút sau, anh ta nói: “Tôi đếm được mười.”

“Tôi cũng vậy.”

Chuck giẫm phải một đám bùn và trượt chân, chới với một tay ra phía sau, Teddy túm được, giữ chặt cho tới khi Chuck lấy lại thăng bằng. 

“Chúng ta có thể đi xuống tiếp được không?” Chuck nói và hơi nhăn mặt cau có nhìn Teddy.

Họ tìm đường xuống, Teddy tới bên các đống đá và nhận ra chúng được xếp thành hai hàng song song. Một số chồng đá có kích thước nhỏ hơn chỉ gồm ba hay bốn viên đá trong khi những chồng khác có tới mười, thậm chí hai mươi viên.

Teddy đi giữa hai hàng đá rồi dừng lại nhìn Chuck và nói, “Chúng ta đếm nhầm rồi.”

“Sao?”

“Ở giữa hai chồng đá này?” Teddy đợi Chuck đến bên cạnh anh rồi cả hai cùng nhìn xuống. “Có một hòn đá ở ngay đó. Tạo thành cụm thứ ba.”

“Gió mạnh thế này. Không. Chắc là nó rơi từ trên chồng nào đó xuống.”

“Nhưng nó cách đều hai chồng bên cạnh. Mười lăm phân đến chồng bên trái và mười lăm phân đến chồng bên phải. Và ở hàng tiếp theo, hai lần nữa hiện tượng y hệt lại xảy ra. Ba viên đá lẻ.”

“Thì sao?” 

“Vậy, ở đây có tới mười ba chồng đá, Chuck.”

“Sếp nghĩ là cô ta đã tạo ra chúng. Sếp nghĩ vậy thật sao?”

“Tôi chỉ nghĩ ai đó đã cố tình làm thế.”

“Lại một mật mã nữa.”

Teddy ngồi xổm xuống bên cạnh đám đá. Anh kéo chiếc áo choàng qua đầu và lấy vạt áo che quyển sổ khỏi nước mưa. Anh di chuyển theo chiều ngang như một con cua và dừng lại ở từng chồng đá để đếm số viên rồi ghi lại. Khi viết xong, anh có mười ba con số: 

18-1-4-9-5-4-23-1-12-4-19-14-5.

“Chắc đây là mật mã để mở chiếc khóa lớn nhất thế giới,” Chuck nói. 

Teddy đóng quyển sổ lại và nhét vào trong túi. “Nghe được đấy.”

“Cảm ơn sếp, cảm ơn,” Chuck nói. “Tôi diễn hài ở khu giải trí Catskills hai lần mỗi đêm. Sếp sẽ tới chứ?”

Teddy kéo áo choàng ra khỏi đầu và đứng dậy, mưa lại quất mạnh trên người anh và gió rít lên từng chập. Họ đi tiếp về phía Bắc, những vách đá lùi dần sang bên phải còn bệnh viện Ashecliffe thì nằm đâu đó ở bên trái họ giữa màn mưa gió mịt mùng. Cơn bão trở nên tồi tệ hơn trong vòng ba mươi phút trở lại đây, hai người đi sát vào nhau để có thể tiếp tục nói chuyện, dáng xiên xiên như những kẻ say rượu. 

“Cawley hỏi có phải sếp đã làm cho Tình báo Quân đội. Sếp đã nói dối ông ta à?”

“Có và không,” Teddy nói. “Tôi giải ngũ từ đơn vị quân đội chính quy.”

“Thế sếp gia nhập quân đội như thế nào?”

“Sau đào tạo cơ bản, họ gửi tôi tới trường thông tin.”

“Sau đó?”

“Thêm một khóa học chuyên sâu tại Đại học Chiến tranh và rồi đến, phải, bộ phận tình báo.”

“Thế sao cuối cùng sếp lại ra quân dưới dạng chính quy?”

“Phạm sai lầm,” Teddy phải hét lên để át tiếng gió. “Tôi giải sai một mật mã. Về vị trí tọa độ của quân địch.” 

“Nghiêm trọng không?”

Teddy vẫn còn có thể nghe thấy tiếng động vọng lại từ radio lúc đó. Những tiếng la hét, tiếng sóng nhiễu, tiếng gào khóc, tiếng sóng nhiễu, tiếng súng máy rền vang, rồi lại tiếp tục những tiếng la hét, tiếng gào khóc và tiếng sóng nhiễu. Rồi giọng một cậu trai trẻ vang lên giữa tất cả những tiếng động đó, nói rằng, “Anh có nhìn thấy phần còn lại của tôi đâu không?”

“Khoảng nửa tiểu đoàn,” Teddy hét lên trong gió. “Tựa như bánh mì kẹp thịt dâng lên miệng vậy.”

Trong giây lát Chuck không nghe thấy gì ngoài tiếng gào thét của cơn bão. Cuối cùng anh hét lên, “Tôi xin lỗi. Chuyện đó thật khủng khiếp.”

Họ trèo lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ, gió như muốn thổi bật họ đi. Teddy phải tóm lấy khuỷu tay Chuck và cả hai phăm phăm tiến về phía trước, đầu cúi gằm. Họ cứ bước đi như thế khá lâu, đầu và người gập xuống trong gió nên lúc đầu không hề để ý tới những chiếc bia đá. Họ cứ bước lầm lũi, mắt nhòe đi bởi nước mưa, và rồi Teddy va vào một phiến đá màu ghi xám bị gió thổi lật ngửa ra sau, bật ra khỏi hố chôn, những chữ khắc trên đó đập vào mắt anh.

JACOB PLUGH

PHỤ TÀU

1832-1858

Phía trái họ một cái cây bị gió quật gẫy gập, nghe như tiếng rìu chém vào mái tôn. “Chúa ơi!” Chuck kêu lên. Thân cây và cành cây bị gió cuốn vèo đi ngay trước mắt họ.

Họ tiến vào khu nghĩa địa, tay che mặt, rác rưởi, lá cây, cành cây di chuyển và cử động như những vật thể sống, quật vào người rát như điện giật khiến họ ngã chúi xuống đất nhiều lần, mắt gần như không nhìn thấy gì nữa. Và rồi Teddy thấy ở đằng trước một vật sẫm màu to lù lù. Anh hét lên và chỉ tay về phía đó nhưng tiếng anh bị át trong tiếng gió. 

Một khúc cây hay một cái gì đó bay sượt ngang qua đầu anh, gần tới mức anh có thể cảm thấy nó hôn phớt lên mái tóc. Họ chạy về phía đó, gió quật mạnh vào chân, và mặt đất như trồi lên, vít lấy đầu gối họ.

Một nhà mồ. Cánh cửa bằng thép đã sút khỏi bản lề, cỏ dại mọc khắp nơi. Teddy kéo cửa, gió thốc vào mặt anh, thổi bật anh sang bên trái cùng với cánh cửa khiến anh ngã chúi xuống đất, còn cánh cửa trượt khỏi cái bản lề cuối cùng, rít lên một tiếng rồi va mạnh vào tường. Teddy trượt trên bùn rồi từ từ đứng dậy, gió xối vào vai anh, anh quỳ một bên gối xuống, nhìn khung cửa đen sì trước mặt rồi chồm về phía trước, xuyên qua đám bùn nhầy nhụa, trườn vào bên trong.

“Sếp đã bao giờ nhìn thấy cái gì như thế này chưa?” Chuck nói khi họ đã đứng yên ổn sau khung cửa và nhìn hòn đảo quay cuồng trong cơn thịnh nộ. Gió như chiếc vòi rồng cuốn theo nó mọi thứ rác rưởi, lá cây, cành cây, đất đá, nước mưa, gào thét như một bầy lợn rừng cào xới mặt đất.

“Chưa từng,” Teddy nói rồi cả hai bước lùi vào sâu bên trong. Chuck tìm thấy một bao diêm vẫn còn khô ở túi trong áo khoác, cố xoay người chắn gió và quẹt ba que diêm một lúc. Họ nhìn thấy phiến xi măng ở giữa nhà mồ trống không, không có quan tài hay linh cữu, nó đã bị chuyển đi hoặc bị đánh cắp từ nhiều năm trước sau khi mai táng. Chôn sát vào tường, phía sau tấm xi măng là một chiếc ghế băng bằng đá, họ tiến về phía đó khi diêm tắt. Họ ngồi xuống trong khi gió vẫn tiếp tục ào qua khung cửa trống và dằn mạnh cánh cửa vào tường. 

“Thật ra thì cũng đẹp đấy chứ?” Chuck nói. “Thiên nhiên trở nên điên dại, sắc màu của bầu trời… Sếp cũng nhìn thấy tấm bia đá ngoài kia bị thổi lật ra sau thế nào chứ?”

“Tôi đã xô vào nó, nhưng quả cũng ấn tượng thật.”

“Oao.” Chuck cúi xuống vắt hai ống quần cho tới khi nước đọng thành vũng dưới chân và lay lay chiếc áo sơ mi đang dính vào ngực ướt sũng. “Đáng lẽ chúng ta nên ở gần khu bệnh viện. Có thể chúng ta sẽ phải chờ cho đến khi cơn bão tan. Ở đây.”

Teddy gật đầu. “Tôi không biết nhiều lắm về các cơn bão, nhưng tôi có cảm giác là nó mới chỉ bắt đầu.”

“Nếu gió đổi hướng? Cả cái bãi tha ma kia sẽ chuyển vào trong này đấy.”

“Tôi vẫn thà ngồi trong này hơn là ở ngoài kia.”

“Chắc rồi. Nhưng tìm một mô đất cao để trú bão? Chúng ta thông minh chừng nào đây?”

“Không nhiều lắm.”

“Nhanh khủng khiếp. Một giây trước trời mới chỉ mưa to mà một giây sau chúng ta đã giống như Dorothy lạc vào xứ sở thần tiên.”

“Đó là một cơn lốc xoáy.”

“Cơn lốc xoáy nào?”

“Ở Kansas.”

“À.”

Gió rít thành từng cơn chói tai và Teddy có thể nghe thấy chúng đang thúc vào bức tường đá dày phía sau cho tới khi anh cảm nhận được những cơn chấn động nhỏ ở lưng mình. 

“Mới chỉ bắt đầu thôi,” anh nhắc lại.

“Sếp có biết lúc này tất cả những kẻ điên đó đang làm gì không?”

“Gào thét đáp lại,” anh nói.

Họ ngồi yên lặng một lát, mỗi người một điếu thuốc. Cơn bão gợi Teddy nhớ đến cái ngày anh ở trên con thuyền của cha, đến lần đầu tiên anh nhận ra thiên nhiên với sự thờ ơ cũng như quyền lực vô biên của nó. Anh hình dung ra gió giống một cái gì đấy có bộ mặt của diều hâu mỏ quặp khi chúng ập vào trong nhà mồ và rít lên từng chập. Giống một cơn thịnh nộ biến con sóng thành những tầng tháp, nghiến nhà cửa thành những mẩu gỗ vụn, và có thể nhấc bổng anh lên trong vòng xoáy của nó rồi ném anh sang tận Trung Quốc. 

“Tôi đã ở Bắc Phi vào năm bốn hai,” Chuck nói. “Trải qua vài cơn bão cát. Nhưng không có gì giống thế này. Mà cũng có thể bởi thời gian, bạn đã quên mất. Rất có thể chúng cũng kinh khủng tương tự.”

“Tôi có thể chịu được,” Teddy nói. “Ý tôi là tất nhiên tôi sẽ không nhảy ra đi loanh quanh ngoài trời lúc này, nhưng nó vẫn còn đỡ hơn là bị lạnh. Ở Ardennes, Chúa ơi, hơi thở đông lại ngay khi thở ra. Tới giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác đó. Những ngón tay tôi lạnh tới mức cảm giác như đang bốc cháy. Cậu có tưởng tượng ra không?”

“Ở Bắc Phi, chúng tôi phải chống chọi với cái nóng. Nhiều người gục ngã vì nó. Chỉ một phút trước còn đứng đấy, phút sau đã ngã xuống. Nhiều người nghẽn động mạch vành vì nóng. Tôi bắn vào một gã như thế, cái nóng làm da hắn mềm nhũn ra. Hắn thực sự đã quay đầu lại và nhìn viên đạn bay xuyên qua người mình.” Chuck vừa nói vừa gõ tay lên ghế. “Nhìn nó bay qua,” anh ta nói khẽ. “Tôi thề có Chúa.”

“Người duy nhất mà cậu đã giết?”

“Gần như thế. Còn sếp?”

“Tôi thì ngược lại. Giết rất nhiều và chứng kiến cái chết của hầu hết bọn họ.” Teddy dựa đầu vào tường, ngước nhìn lên trần. “Nếu tôi có con trai, tôi không biết liệu tôi có thể để nó ra trận. Cho dù có giống cuộc chiến ấy, khi mà chúng ta chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Tôi cũng không chắc rằng nên yêu cầu bất cứ ai việc đó.”

“Việc gì?”

“Giết người.”

Chuck co một đầu gối lên. “Bố mẹ tôi, bạn gái tôi, và một số bạn bè tôi, những người không vượt qua kỳ kiểm tra sức khỏe nghĩa vụ, tất cả họ đều hỏi tôi, sếp biết không?”

“Ừ.”

“Nó như thế nào. Đó là điều họ muốn biết. Và anh chỉ muốn nói rằng, ‘Tôi cũng chả biết nó như thế nào. Cứ như nó xảy ra với một người khác. Tôi chỉ đứng từ phía trên mà quan sát hay gì đó.’ ” Anh ta chìa tay ra và nói tiếp, “Tôi không tài nào giải thích rõ hơn. Sếp hiểu chứ?”

Teddy nói, “Ở Dachau, bọn lính SS ra quy hàng chúng tôi. Năm trăm tên cả thảy. Lúc đó còn có cả các phóng viên, họ cũng nhìn thấy cảnh xác người chất thành đống tại sân ga. Họ cũng ngửi thấy cái mùi chúng tôi đang ngửi. Họ nhìn chúng tôi và họ đồng tình với cái việc chúng tôi đã làm. Còn chúng tôi thì khỏi phải nói, đều muốn làm điều ấy. Vậy là chúng tôi hành quyết tất cả lũ chó quốc xã đó, không sót tên nào. Tước vũ khí của chúng, bắt chúng đứng úp mặt vào tường rồi hành quyết. Súng máy bắn liền một lúc ba trăm thằng. Đi dọc theo hàng nã đạn vào đầu bất cứ tên nào còn thở. Tội ác chiến tranh, nếu có, thì hẳn đây là một ví dụ điển hình. Đúng không? Nhưng, Chuck, đó là cái chết ít đau đớn nhất mà chúng tôi có thể làm cho bọn họ. Đám phóng viên thậm chí còn vỗ tay. Những tù nhân trong trại thì sung sướng tới phát khóc. Thế là chúng tôi trao cho họ vài tên lính đặc nhiệm. Họ xé chúng thành trăm mảnh. Tới cuối ngày hôm đó, chúng tôi đã siêu thoát năm trăm linh hồn khỏi dương gian. Giết sạch. Không gì có thể biện hộ cho việc làm đó kể cả đổ lỗi cho chiến tranh. Đó là hành động giết người. Nhưng không ai cảm thấy áy náy về chuyện đó. Vì bọn chúng còn đáng bị trừng phạt thảm khốc hơn. Đồng ý là như vậy nhưng làm sao anh có thể đối diện với việc đó suốt đời mình? Làm sao anh có thể kể với vợ, bố mẹ, và con cái anh rằng anh đã làm chuyện đó? Anh đã hành quyết những người không có vũ khí? Anh đã giết những đứa trẻ? Những đứa trẻ mặc quân phục và mang súng, nhưng vẫn chỉ là trẻ con. Câu trả lời là: Anh không thể làm sao mở miệng nói với họ được. Vì họ sẽ không bao giờ hiểu nổi. Vì cái việc anh làm thì phục vụ chính nghĩa, nhưng bản chất cái việc anh làm thì sai trái. Và anh sẽ không bao giờ gột sạch được nó.” 

Chuck im lặng một lúc rồi nói, “Ít nhất nó cũng vì chính nghĩa. Sếp có bao giờ nhìn thấy một trong số những kẻ đáng thương trở về từ Triều Tiên không? Họ thậm chí vẫn chưa biết tại sao họ lại tới đó. Chúng ta chặn đứng Adolf Hitler. Chúng ta cứu sống hàng triệu sinh mạng. Đúng không? Chúng ta đã làm được cái gì đó, Teddy.”

“Ừ, đúng là chúng ta đã làm được,” Teddy thừa nhận. “Đôi khi chỉ cần nghĩ thế cũng đủ rồi.” 

“Phải nghĩ như thế chứ. Đúng không?”

Cả một cái cây bay vèo qua cửa, lộn ngược, rễ cây chĩa lên như gai nhọn. 

“Cậu có nhìn thấy cái cây đó không?”

“Có. Chắc nó sẽ tỉnh dậy ở giữa biển khơi và nói, ‘Chờ một lát. Có gì không ổn.’ ”

“ ‘Đáng lẽ mình phải ở kia chứ.’ ”

“ ‘Mất bao nhiêu năm để khiến ngọn đồi trông giống như thứ mình muốn.’ ”

Nói tới đây cả hai bật cười nhẹ nhõm trong bóng tối, cùng ngắm hòn đảo đang đua sức với cơn bão như một giấc mơ điên dại.

“Thế sếp thực sự biết được bao nhiêu về nơi này?”

Teddy nhún vai. “Biết được vài thứ. Chưa gọi là đủ. Nhưng đủ làm tôi sợ.”

“Ồ, tuyệt thật! Sếp sợ. Thế thì không hiểu người bình thường sẽ thấy sao?”

Teddy mỉm cười. “Khiếp sợ à?”

“Được. Coi như tôi đang khiếp sợ.”

“Nó được biết tới như một cơ sở thí nghiệm. Tôi đã nói với cậu rồi – các phương pháp chữa bệnh cấp tiến. Ngân quỹ của nó một phần đến từ Khối Thịnh vượng chung, một phần đến từ Cục Trại giam Liên bang nhưng đa phần là từ một quỹ đặc biệt của HUAC(4).” 

“Ối,” Chuck nói. “Kinh. Chống Cộng từ một hòn đảo ở cảng Boston. Làm sao mà người ta lại có được cái ý tưởng đó không biết?”

“Họ thí nghiệm trên trí não con người. Là tôi đoán thế. Ghi lại những gì họ tìm ra rồi đưa cho các đồng nghiệp tình báo cũ của Cawley hiện đang làm cho CIA chẳng hạn. Tôi cũng không biết nữa. Cậu có bao giờ nghe nói tới phencyclidine?”

Chuck lắc đầu.

“LSD? Hay Mescaline?”

“Chưa hề và chưa hề.”

“Đó đều là các loại thuốc gây ảo giác,” Teddy nói. “Chúng làm cho cậu có ảo giác.”

“Hiểu rồi.”

“Chỉ cần một lượng rất nhỏ cũng đủ khiến những người cực kỳ tỉnh táo – như cậu hay tôi – bắt đầu nhìn thấy những thứ kỳ quặc.”

“Như những cái cây lộn ngược bay qua cửa hả?”

“À, vấn đề là chỗ đó. Nếu cả hai chúng ta đều nhìn thấy nó thì đó không phải là một ảo giác. Mỗi người nhìn thấy một thứ. Chẳng hạn lúc này cậu nhìn xuống và thấy hai cánh tay cậu biến thành những con rắn hổ mang đang ngóc đầu dậy, há miệng ra chực nuốt lấy đầu cậu?”

“Tôi sẽ nói rằng hôm nay đúng là một ngày tồi tệ.”

“Hay những hạt mưa này biến thành những ngọn lửa? Một bụi cây biến thành một con hổ đang rình mồi?”

“Một ngày còn tệ hơn nữa. Đáng lẽ tôi không nên rời khỏi giường. Nhưng mà sếp này, cái loại thuốc có thể khiến người ta có những ý nghĩ khủng khiếp mà sếp đang nói là có thật hả?”

“Không phải ‘có thể’. Mà là sẽ. Uống đúng liều lượng, cậu sẽ bắt đầu có các ảo giác.” 

“Chúng hẳn là những loại thuốc đặc biệt.”

“Đúng vậy. Những loại thuốc này đã được sử dụng rất nhiều. Tác động mà chúng gây ra có thể nói giống y như biểu hiện của bệnh tâm thần phân liệt mức độ nặng. Tên hắn ta là gì nhỉ, Ken, cái gã đó. Bị lạnh chân. Hắn ta tin vào điều đó. Leonora Grant, cô ta không nhìn thấy cậu. Cô ta đang nói chuyện với Douglas Fairbanks.”

“Đừng quên – cả Charlie Chaplin nữa, anh bạn.”

“Tôi có thể bắt chước được ông ấy nhưng tôi không biết giọng thật của ông ấy nghe thế nào.”

“Hey, không tệ, sếp. Sếp có thể mở màn cho buổi trình diễn của tôi ở Catskills được đấy.”

“Có nhiều hồ sơ về những trường hợp bệnh nhân tâm thần phân liệt tự rạch mặt vì họ tin rằng tay họ là một vật khác, thú vật hay gì đó. Họ nhìn thấy những điều không có thực, nghe thấy những giọng nói không ai nghe thấy, nhảy xuống từ trên những mái nhà cao ngất vì tin rằng tòa nhà đang cháy, v.v và v.v. Những loại thuốc đó gây ra những ảo giác tương tự.”

Chuck chỉ một ngón tay vào Teddy. “Sếp tự dưng nói chuyện uyên bác hơn hẳn mọi ngày.”

“Tôi có thể nói gì với cậu đây? Tôi có nghiên cứu qua một chút. Cậu nghĩ sao Chuck, nếu các loại thuốc gây ảo giác đó được dùng để điều trị cho những người đã mắc sẵn bệnh tâm thần phân liệt rất nặng?”

“Chẳng ai lại làm thế.”

“Họ đang làm thế và chuyện đó được coi là hợp pháp. Chỉ có con người mới mắc chứng tâm thần phần liệt. Bệnh này không có ở chuột, thỏ hay trâu bò. Vậy thì cậu sẽ thực hành thí nghiệm loại thuốc chữa bệnh này ở đâu?”

“Trên con người.”

“Cho anh chàng này một điếu xì gà.”

“Một điếu xì gà đúng là xì gà, không phải cái gì tưởng tượng ra, được chứ?”

“Nếu cậu muốn,” Teddy nói.

Chuck đứng dậy, đặt tay lên phiến đá trước mặt và nhìn ra cơn bão bên ngoài. “Nên họ cho các bệnh nhân tâm thần phân liệt những loại thuốc khiến họ thậm chí còn bị tâm thần phân liệt nặng hơn?”

“Đấy là một nhóm thí nghiệm.”

“Còn nhóm khác?”

“Những người không bị bệnh tâm thần phân liệt, cho họ uống thuốc gây ảo giác để xem não phản ứng như thế nào?”

“Vớ vẩn.”

“Chuyện này ai chẳng biết, anh bạn trẻ. Hôm nào đó hãy tham dự một hội thảo của các nhà tâm thần học. Tôi đã từng làm thế.”

“Nhưng sếp bảo chuyện đó là hợp pháp.”

“Nó hợp pháp mà.” Teddy nói. “Giống như những nghiên cứu về thuyết ưu sinh ấy.”

“Nhưng nếu nó hợp pháp thì chúng ta chẳng thể làm gì được.”

Teddy dựa lưng vào phiến đá. “Đúng vậy. Tôi không tới đây để bắt ai cả. Tôi được cử tới đây để thu thập thông tin. Tất cả chỉ có vậy.”

“Chờ một tí – được cử tới đây? Mẹ kiếp, Teddy, chúng ta dính sâu vào vụ này tới mức nào?”

Teddy nhìn Chuck thở dài. “Sâu đấy.”

“Trở lại.” Chuck nói và giơ một tay lên. “Từ đầu nào. Sếp đã dính vào chuyện này ra sao?”

“Mọi chuyện bắt đầu với Laeddis. Một năm trước,” Teddy nói. “Tôi tới Shattuck với lý do muốn được thẩm vấn hắn. Tôi dựng lên một câu chuyện vớ vẩn về một đồng phạm của hắn có trong danh sách tội phạm bị truy nã và rằng Laeddis có thể giúp tìm ra chỗ gã đó ẩn náu. Vấn đề là Laeddis không có ở đấy. Hắn đã bị chuyển tới Ashecliffe. Tôi gọi điện tới đây nhưng họ nói họ không hề biết gì về hắn.”

“Và?”

“Và điều đó khiến tôi tò mò. Tôi gọi điện thoại tới một số bệnh viện tâm thần trong vùng và tất cả mọi người đều biết Ashecliffe nhưng không ai muốn nói về nó. Tôi có nói chuyện với giám đốc Bệnh viện Renton dành cho tội phạm tâm thần. Tôi đã gặp ông ấy vài lần trước đây. Tôi bảo với ông ấy rằng, ‘Bobby, chuyện gì mà quan trọng thế? Đó cũng là một bệnh viện và một nhà tù, đâu có gì khác với chỗ ông.’ Thế nhưng ông ấy lắc đầu và nói, ‘Teddy, đó là một chỗ hoàn toàn khác. Một cái gì đó tuyệt mật. Cực kỳ bí ẩn. Đừng tới đó.’ ”

“Nhưng sếp vẫn cứ đi,” Chuck nói. “Và kéo theo tôi đi cùng với sếp.”

“Chuyện đó không nằm trong kế hoạch,” Teddy nói. “Nhân viên phụ trách bảo tôi phải có đồng sự đi cùng, tôi đành phải chọn một người.”

“Thế là sếp chỉ chờ để có cớ được điều ra đây?”

“Có thể nói vậy,” Teddy nói. “Nhưng tôi không thể chắc được chuyện đó sẽ xảy ra hay không. Ý tôi là nếu có xảy ra một vụ mất tích chăng nữa, tôi cũng chẳng biết liệu tôi có thể có mặt ở đó đúng lúc không? Hay nếu người ta lại cử người khác tới đó thì sao? Hay là, ối trời, hàng triệu cái ‘nếu’. Tôi chỉ gặp may thôi.”

“May hả? Mẹ kiếp.”

“Gì cơ?”

“Chẳng may đâu, sếp ơi. May mắn không tới theo cách đó. Cái thế giới này không hoạt động theo cách đó. Sếp nghĩ là sếp chỉ tình cờ được phân tới đây sao?”

“Ừ, nghe có vẻ hơi điên rồ, nhưng…”

“Lần đầu tiên sếp gọi điện tới Ashecliffe để hỏi về Laeddis, sếp có xưng danh không?”

“Tất nhiên có.”

“Vậy thì…”

“Chuck, đó là từ một năm về trước.”

“Thì sao? Sếp không nghĩ họ giữ lại biên bản sao? Nhất là trong trường hợp một bệnh nhân mà họ tuyên bố họ không có liên hệ gì?”

“Nhắc lại nhé – mười hai tháng rồi.”

“Teddy, Chúa ơi.” Chuck hạ thấp giọng, áp lòng bàn tay lên phiến đá, hít một hơi dài rồi nói, “Cứ cho là họ đang làm những việc mờ ám ở đây. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chính họ đã theo dõi sếp từ khi sếp đặt chân lên hòn đảo này? Nếu như chính họ đã mang sếp tới đây thì sao?”

“Ối dào, vớ vẩn.”

“Vớ vẩn à? Thế Rachel Solando đâu? Có một mẩu chứng cớ nào cho thấy là cô ta tồn tại thật không? Họ cho chúng ta xem bức ảnh của một phụ nữ và bộ hồ sơ mà ai cũng có thể bịa ra.”

“Nhưng, Chuck, cứ cho là họ bịa ra cô ta, hay dựng lên mọi chuyện thì họ cũng không thể nào đoán trước tôi sẽ là người được giao điều tra vụ này.”

“Sếp tiến hành điều tra, Teddy. Sếp nhòm ngó chỗ này, hỏi han khắp nơi. Ở đây, họ có một hàng rào điện xung quanh khu xử lý rác thải tự hoại. Họ có một khu chữa bệnh nằm bên trong pháo đài. Họ có chưa đầy một trăm bệnh nhân ở một nơi có thể chứa tới ba trăm người. Cái chỗ này đúng là đáng sợ chết đi được, Teddy. Không một bệnh viện nào khác muốn bàn luận về nó và điều đó không nói với sếp điều gì sao? Sếp có một ông bác sĩ trưởng có liên hệ với OSS, tài chính thì đến từ một quỹ đen của HUAC. Mọi thứ ở đây đều toát lên bốn chữ: “việc của chính phủ”. Thế mà sếp lại ngạc nhiên trước cái khả năng là không phải sếp theo dõi họ suốt năm qua mà chính là họ theo dõi sếp ư?”

“Tôi phải nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần hả Chuck? Làm sao họ có thể biết tôi sẽ là người được giao điều tra vụ Rachel Solando?” 

“Sếp có chậm hiểu không vậy?” 

Teddy đứng thẳng người lên và nhìn xuống Chuck.

Chuck giơ một tay lên, “Xin lỗi, xin lỗi. Là do tôi quá căng thẳng, được chưa?”

“Thôi được.”

“Tất cả những gì tôi muốn nói, sếp, là họ biết sếp sẽ tóm lấy bất kỳ cơ hội nào để tới đây. Kẻ giết vợ sếp đang ở đây. Tất cả những gì họ phải làm là vờ như có ai đó bỏ trốn. Vì họ biết thừa nếu có phải cắm sào nhảy qua cảng để tới đây thì sếp cũng sẽ làm.”

Cánh cửa bật tung ra khỏi cái bản lề cuối cùng, đập mạnh vào ô cửa. Họ nhìn nó bị đập thình thịch lên đá rồi bay vút lên không trung, lao ra ngoài nghĩa địa, tiếp tục mất hút trên bầu trời. 

Cả hai bọn họ nhìn chằm chằm ra phía cửa rồi Chuck lên tiếng, “Cả hai chúng ta đều nhìn thấy nó, đúng không?”

“Họ sử dụng con người làm vật thí nghiệm như lũ lợn guinea,” Teddy nói. “Chuyện đó không làm cậu phiền lòng à?”

“Nó làm tôi kinh hãi Teddy. Nhưng làm sao sếp biết được chuyện đó? Sếp nói sếp được cử đi thu thập thông tin. Ai đã cử sếp đi?”

“Trong lần đầu gặp Cawley, cậu có nghe ông ta hỏi về ngài Thượng nghị sĩ không?”

“Có.”

“Thượng nghị sĩ Hurly của đảng Dân chủ ở New Hamsphire. Đứng đầu một tiểu ban của nhà nước về các vấn đề về sức khỏe tâm thần. Ông ấy nhìn thấy số tiền được chi cho chỗ này và ông ấy rất không hài lòng. Giờ thì tôi sẽ kể cho cậu nghe về một gã có tên là George Noyce. Noyce đã bị nhốt ở đây một thời gian. Ở Khu C. Khi mới rời hòn đảo được hai tuần, anh ta bước vào một quán bar ở Attleboro và đâm chém mọi người. Những người lạ. Ở trong tù, anh ta bắt đầu nói về những con rồng ở Khu C. Luật sư của anh ta muốn khẳng định là do bệnh điên. Nếu có trường hợp nào như vậy, thì đó chính là Noyce. Anh ta hoàn toàn mất trí. Nhưng Noyce sa thải vị luật sư, tự đứng ra trước mặt quan tòa nhận tội, và gần như van xin được đi tù, ở đâu cũng được miễn không phải bệnh viện. Ở trong tù được khoảng một năm, anh ta bắt đầu kể các câu chuyện về Ashecliffe. Những câu chuyện nghe có vẻ điên rồ nhưng ngài Thượng nghị sĩ lại cho rằng chúng có thể không điên rồ như mọi người vẫn tưởng.”

Chuck ngồi lên phiến đá, châm một điếu thuốc, hít vài hơi và quan sát Teddy. 

“Nhưng làm sao mà ngài Thượng nghị sĩ lại tìm được sếp và làm sao hai người lại có thể tìm được Noyce?” 

Trong phút chốc Teddy nghĩ rằng anh vừa nhìn thấy những tia sáng điện hình vòng cung lóe lên giữa cơn bão bên ngoài.

“Thật ra là ngược lại. Noyce tìm được tôi và tôi tìm được ngài Thượng nghị sĩ. Đó là nhờ Bobby Farris, giám đốc Renton. Một buổi sáng ông ấy gọi điện và hỏi xem tôi có còn quan tâm tới Ashecliffe không? Khi tôi bảo có thì ông ấy kể cho tôi nghe về vụ một phạm nhân ở Dedham đang làm ầm ĩ lên về những chuyện xung quanh Ashecliffe. Thế là tôi tới Dedham vài lần, nói chuyện với Noyce. Noyce cho biết khi anh ta là sinh viên, có một năm anh ta trở nên khá căng thẳng khi tới gần các kỳ thi. Quát tháo một giáo viên, đấm vỡ cửa sổ trong phòng nội trú. Kết quả là anh ta phải đi gặp chuyên gia ở khoa tâm thần. Sau đó anh ta đồng ý tham gia vào một cuộc thí nghiệm để kiếm ít tiền tiêu vặt. Một năm sau, anh ta bị đuổi khỏi trường với đầy đủ các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt, lê la khắp các góc phố nói năng lảm nhảm, nhìn thấy những điều kỳ quặc, hoàn toàn trở nên điên loạn.”

“Đây là trường hợp một thanh niên khởi đầu bình thường…”

Teddy lại nhìn thấy những tia sáng lóe lên trong cơn bão nên bước lại gần cánh cửa và nhìn ra ngoài. Chớp chăng? Nghe cũng có lý, anh nghĩ, nhưng anh chưa từng nhìn thấy ánh chớp nào như vậy. 

“Bình thường như bất cứ ai. Có thể anh ta có một số vấn đề – ở đây họ gọi là gì nhỉ? ‘những vấn đề về kiềm chế giận dữ,’ nhưng nhìn chung thì anh ta hoàn toàn tỉnh táo. Chỉ một năm sau bỗng trở thành kẻ mất trí. Rồi một hôm, khi anh ta nhìn thấy cái gã đó ở Park Square, anh ta liền tưởng đó là vị giáo sư đã khuyên anh ta đi gặp chuyên gia tâm lý. Tóm lại là không phải tay giáo sư đó nhưng Noyce cũng đã ra tay rất nặng. Do đó, họ gửi anh ta tới Ashecliffe. Khu A. Nhưng mà anh ta không ở đó lâu. Tình trạng bạo lực của anh ta lúc đó khá nghiêm trọng nên họ chuyển anh ta sang Khu C. Họ nhồi cho anh ta đủ các loại thuốc gây ảo giác rồi đứng đó, quan sát lũ rồng tới ăn thịt anh ta và anh ta trở nên điên loạn. Điên hơn một chút so với dự đoán của họ, chắc thế, vì cuối cùng, để xoa dịu anh ta, họ tiến hành phẫu thuật.”

“Phẫu thuật?” Chuck hỏi.

Teddy gật đầu. “Một phương pháp phẫu thuật thùy não qua ổ mắt. Dạng phẫu thuật này buồn cười lắm Chuck ạ. Họ cho điện giật cậu tới tấp rồi, đoán xem, họ lấy một cái que chọc đá chọc xuyên qua mắt cậu. Tôi không đùa đâu. Chẳng hề có thuốc gây mê. Họ chọc lấy chọc để khắp chỗ này chỗ kia rồi lấy ra khỏi não cậu vài sợi dây thần kinh, và thế là xong. Dễ như trở bàn tay.”

“Nhưng Luật Nuremberg có cấm…”

“… thí nghiệm trên người dù vì mục đích khoa học, đúng vậy. Chính vì thế tôi nghĩ là chúng tôi đang có trong tay một trường hợp vi phạm Luật Nuremberg. Ngài Thượng nghị sĩ cũng nghĩ vậy. Nhưng không phải. Những thí nghiệm kiểu này được cho phép nếu được sử dụng để trực tiếp điều trị bệnh nhân điên. Cho nên chừng nào bác sĩ còn có thể nói, ‘Chúng tôi chỉ cố gắng giúp đỡ anh chàng khốn khổ đó, xem liệu các loại thuốc này có thể làm giảm chứng tâm thần phân liệt hoặc các loại thuốc kia có thể chấm dứt bệnh tình anh ta không,’ thì việc làm của họ hoàn toàn được coi là hợp pháp.”

“Đợi chút, đợi chút,” Chuck nói. “Sếp nói là Noyce có trải qua một phẫu thuật xuyên, gì ấy nhỉ?”

“Phẫu thuật thùy não xuyên qua ổ mắt, phải.”

“Nhưng nếu mục đích của việc đó, cho dù bằng phương tiện gì đi nữa, là để xoa dịu bệnh tình, vậy tại sao sau đó anh ta lại vẫn tiếp tục giở trò tấn công người lạ ở Park Square?”

“Thì rõ ràng là nó không hề hiệu quả.”

“Chuyện đó thường xuyên không?”

Teddy lại nhìn thấy những tia sáng điện, và lần này thì anh dám chắc anh còn nghe thấy cả tiếng động cơ rền rĩ lẫn vào tất cả hòa âm. “Đặc vụ!” Tiếng gọi nghe rất yếu ớt trong gió nhưng cả hai người đều nghe thấy.

Chuck đu chân lại cuối phiến xi măng rồi nhảy xuống, tới cạnh Teddy đang ở gần ô cửa, và cả hai đều nhìn thấy ánh đèn pha ô tô ở xa xa phía cuối nghĩa địa. Họ cũng nghe thấy tiếng quàng quạc phát ra từ một chiếc loa cùng tiếng rin rít phản hồi, và rồi: “Đặc vụ! Nếu các anh ở ngoài này thì hãy phát tín hiệu cho chúng tôi biết. Trại phó McPherson đây. Đặc vụ!”

“Chuyện này là thế nào? Họ tìm ra chúng ta cơ đấy!” Teddy nói.

“Đây là một hòn đảo mà sếp. Sớm muộn họ cũng sẽ tìm thấy chúng ta.”

Teddy bắt gặp ánh mắt Chuck và gật đầu. Lần đầu tiên kể từ khi hai người gặp nhau, anh có thể đọc thấy sự sợ hãi trong mắt Chuck, hàm anh ta đanh lại như cố kiềm chế nó.

“Mọi chuyện sẽ ổn thôi, đồng sự”

“Đặc vụ! Các anh có ở đó không?”

“Tôi cũng chẳng biết nữa,” Chuck nói. 

“Tôi biết mà,” Teddy nói mặc dù anh cũng chẳng biết phải làm gì. “Bám chặt lấy tôi. Chúng ta sẽ cùng ra khỏi cái chỗ khốn kiếp này, Chuck. Đừng phạm sai lầm nào nhé.”

Và rồi hai người bước ra bên ngoài nghĩa địa. Gió quật vào người họ như hai ống sậy nhưng họ vẫn vững bước, tay trong tay, vai sát vai tiến về phía có ánh sáng. 

“CÁC ANH ĐIÊN mẹ nó hết rồi à?”

McPherson hét lên trong gió khi chiếc xe jeep lọc cọc xuống con đường mòn dọc theo rìa Tây khu nghĩa địa. 

Ông ta ngồi ở chiếc ghế cạnh lái xe nhìn xuống phía họ với đôi mắt đỏ ngầu, mọi dấu vết quyến rũ của một chàng cao bồi Texas đã bị cơn bão gột sạch. Ông ta cũng chẳng buồn giới thiệu người lái xe với họ. Một gương mặt trẻ trung, rắn rỏi với cái cằm nhọn là tất cả những gì Teddy có thể thấy dưới chiếc mũ áo mưa. Thế nhưng anh ta lái chiếc xe jeep một cách rất chuyên nghiệp, băng qua những bụi cây và chướng ngại vật mà cơn bão bày ra trên đường cứ như chúng chẳng hề tồn tại.

“Cơn bão đã tăng cường, mạnh trên cấp tám. Gió giật, di chuyển với vận tốc một trăm sáu mươi kilomet giờ. Họ dự báo sẽ tăng lên hai trăm bốn mươi kilomet giờ vào đêm nay. Và các anh thì lại ra ngoài đi dạo?”

“Sao mà các anh biết được cơn bão đã tăng cường?”

“Radio dự phòng, đặc vụ. Chúng tôi e là nó cũng sẽ mất tín hiệu nốt trong vài giờ nữa.”

“Tất nhiên rồi,” Teddy nói.

“Đáng lẽ lúc này chúng tôi phải có mặt để giúp đỡ bệnh viện, thay vào đó chúng tôi lại đi tìm các anh.” Ông ta đập tay vào phía sau ghế mình rồi quay về trước, ra hiệu chẳng còn gì để nói với họ.

Chiếc jeep nảy bật khi trèo lên một con dốc và trong giây lát Teddy chỉ nhìn thấy mỗi bầu trời, dường như chẳng còn gì dưới bánh xe. Lốp xe chạm phải một mô đất khiến chiếc xe cua gấp, rẽ sang một đoạn đường cheo leo trơn nhẫy và Teddy có thể nhìn thấy đại dương ở bên trái họ, sùng sục những con sóng khổng lồ vỡ ra như những đám mây trắng hình nấm. 

Chiếc xe jeep bắt đầu lao xuống con dốc nằm giữa những ngọn đồi nhỏ rồi đi xuyên qua một rặng cây, Teddy và Chuck bám chặt lấy chỗ ngồi khi chiếc xe nảy lên vì xóc khiến hai người va vào nhau. Rồi rặng cây lùi lại phía sau họ và trước mắt họ hiện ra mảnh đất phía sau khu dinh thự của Cawley. Họ băng qua một khoảnh đất chất đầy củi và gỗ thông trước khi leo lên con đường chính dẫn vào nhà. Người lái xe bắt đầu giảm tốc độ và tiến về phía cổng. 

“Chúng ta sẽ tới gặp bác sĩ Cawley.” McPherson lên tiếng và quay lại nhìn họ. “Ông ấy đang nóng lòng nói chuyện với các anh.”

“Chuyện này khiến tôi nghĩ tới cảnh mẹ tôi trở về nhà ở Seattle,” Chuck nói. 

Họ được dẫn vào tầng hầm khu tập thể của nhân viên và đưa cho hai bộ đồng phục sạch của hộ lý. Quần áo của họ được đưa tới phòng giặt là của bệnh viện. Chuck vừa chải đầu trong buồng tắm vừa nhìn xuống bộ đồ áo sơ mi và quần trắng đang mặc và nói, “Ông có muốn xem một danh sách các loại rượu không? Thực đơn đặc biệt tối nay của chúng tôi là món bò Wellington. Ngon tuyệt!”

Trey Washington thò đầu vào buồng tắm. Anh ta có vẻ như đang cắn môi để khỏi bật cười khi trông thấy họ trong bộ quần áo mới. Anh ta nói, “Tôi tới đưa các anh đi gặp bác sĩ Cawley.”

“Chúng tôi có gặp phiền phức không?”

“Ồ, một chút, tôi nghĩ thế.”

“CÁC QUÝ ÔNG,” CAWLEY NÓI khi họ bước vào phòng. “Rất vui được gặp lại.”

Ông ta tỏ ra đang trong tâm trạng vui vẻ, ánh mắt sáng ngời. Teddy và Chuck để Trey ở ngoài cửa rồi bước vào căn phòng họp trên tầng thượng của bệnh viện.

Trong phòng đầy các bác sĩ, người mặc áo blu của phòng thí nghiệm, người mặc vest, tất cả ngồi quanh một cái bàn dài bằng gỗ tếch với những chiếc đèn văn phòng màu xanh phía trước ghế ngồi và những chiếc gạt tàn màu đen đã đầy ứ tàn thuốc, chiếc ống tẩu duy nhất thuộc về Naehring, đang ngồi ở đầu bàn.

“Các bác sĩ, đây là các đặc vụ liên bang chúng ta vừa nhắc tới. Đặc vụ Daniels và đặc vụ Aule.”

“Quần áo của các vị đâu rồi?” một người hỏi.

“Câu hỏi hay,” Cawley nói; trông có vẻ rất khoái trá, Teddy cho là vậy.

“Chúng tôi ở ngoài trời bão,” Teddy nói.

“Ở ngoài đó hả?” Viên bác sĩ vừa nói vừa chỉ về phía những chiếc cửa sổ dài. Chúng được dán băng dính chằng chịt và dường như đang thở khẽ, nhả không khí vào trong phòng. Mưa gõ rầm rập như trống đánh lên những ô cửa và cả tòa nhà kêu cót két dưới sức mạnh của gió.

“E là thế,” Chuck nói.

“Các anh có thể ngồi xuống,” Naehring lên tiếng. “Chúng tôi cũng sắp xong rồi.”

“John,” Naehring nói với Cawley. “Chúng ta cần nhất trí về vấn đề đó.”

“Anh đã rõ quan điểm của tôi rồi đấy.”

“Và tôi cũng biết rằng tất cả chúng tôi ở đây đều tôn trọng ý kiến đó của anh, nhưng nếu thuốc an thần có khả năng làm giảm tới mức cần thiết hội chứng mất cân bằng serotonin 5-HT thì tôi nghĩ rằng chúng ta không có nhiều sự lựa chọn. Chúng ta phải tiếp tục công trình nghiên cứu. Bệnh nhân thí nghiệm đầu tiên, ừm, Doris Walsh, có đầy đủ tiêu chí phù hợp. Tôi không thấy có vấn đề gì ở đây cả.”

“Tôi chỉ băn khoăn về cái giá của nó.”

“Rẻ hơn nhiều so với phẫu thuật và anh biết rõ điều đó.”

“Tôi đang nói đến các tác động nguy hiểm có thể gây nên đối với hạch trung ương và vỏ não. Tôi đang nói đến chuyện các nghiên cứu trước đây ở châu Âu đã cho thấy sự nguy hiểm của việc ngừng điều trị bằng thuốc an thần giữa chừng cũng nghiêm trọng như sự nguy hiểm của bệnh viêm não và chứng đột quỵ.”

Naehring bác bỏ sự phản đối của Cawley bằng một cái giơ tay và nói: “Những ai ủng hộ đề nghị của bác sĩ Brotigan làm ơn giơ tay lên.”

Teddy nhìn thấy tất cả các cánh tay xung quanh bàn đều giơ lên trừ Cawley và một người nữa.

“Tôi thấy rằng chúng ta đã nhất trí,” Naehring nói. “Sau đây, chúng tôi sẽ đề nghị ban giám đốc tài trợ cho nghiên cứu của bác sĩ Brotigan.”

Một anh chàng trẻ tuổi, hẳn là bác sĩ Brotigan gật đầu cảm ơn mọi người ở hai phía bàn. Cằm bạnh, má nhẵn, vẻ mặt rất Mỹ. Anh ta gây cho Teddy cảm giác về loại người luôn thích gây chú ý, quá tự mãn vì đã biến những giấc mơ xa vời nhất của bố mẹ anh ta thành hiện thực. 

“Được rồi, giờ thì,” Naehring nói và đóng tập hồ sơ trước mặt lại rồi nhìn về phía cuối bàn nơi Teddy và Chuck đang ngồi, “tình hình thế nào, các đặc vụ?”

Cawley đứng dậy đi pha cho mình một tách cà phê tại chiếc tủ ly. “Nghe nói các anh được tìm thấy trong nhà mồ.”

Một vài tiếng khúc khích khẽ vang lên trong phòng, các bác sĩ lấy tay bưng miệng cười.

“Ông có biết chỗ nào tốt hơn để tránh bão không?” Chuck nói.

“Ở đây. Mà nhất là trong tầng hầm,” Cawley nói. 

“Chúng tôi nghe nói nó có thể sẽ tấn công đất liền với vận tốc hai trăm bốn mươi cây số giờ.”

Cawley gật đầu, lưng vẫn quay lại với mọi người ở trong phòng. “Sáng nay, ba mươi phần trăm nhà cửa ở Newport, Rhode Island bị thổi bay.”

“Cầu là không phải ở khu đại học y Vanderbilts,” Chuck nói. 

Cawley quay trở lại chỗ ngồi. “Provincetown và Truro bị tấn công chiều nay. Không ai biết thiệt hại lên tới mức nào vì đường sá bị cắt và thông tin liên lạc cũng vậy. Nhưng có vẻ như cơn bão đang tiến thẳng tới chúng ta.”

“Cơn bão tồi tệ nhất trong vòng ba mươi năm trở lại đây ở vùng bờ biển phía Đông,” một bác sĩ nói.

“Ngay cả không khí cũng hoàn toàn tĩnh điện,” Cawley nói. “Đó là lý do tại sao tổng đài không thể hoạt động được đêm qua. Đó là lý do tại sao radio lại là phương tiện tạm thời hữu hiệu nhất. Nếu cơn bão tấn công chúng ta trực diện, tôi cũng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa.”

“Đó cũng là lý do tại sao,” Naehring nói, “tôi muốn nhắc lại lập trường không thay đổi của mình về việc khóa tất cả bệnh nhân ở Vùng Xanh vào giường họ.”

“Vùng Xanh?” Teddy nói. 

“Khu C,” Cawley trả lời. “Những bệnh nhân có khả năng gây nguy hiểm cho chính bản thân họ, cho bệnh viện, và cho cộng đồng nói chung.” Ông ta quay sang Naehring. “Chúng ta không thể làm vậy. Nếu khu đó bị ngập nước, họ sẽ chết đuối. Anh biết rõ điều đó mà.”

“Lũ rất mạnh mới có thể ngập được.”

“Chúng ta đang ở giữa biển. Sắp bị một cơn bão mạnh trên cấp tám với vận tốc gió hai trăm bốn mươi kilomet giờ tấn công. ‘Lũ rất mạnh’ chắc chắn có thể xảy ra. Chúng ta tăng gấp đôi lính gác. Chúng ta hủy hoại các bệnh nhân ở Vùng Xanh trong mọi lúc. Không loại trừ ai. Nhưng chúng ta không thể nào khóa họ vào giường. Họ đã bị nhốt trong phòng giam rồi, lạy Chúa tôi. Như thế còn tệ hơn là giết họ.”

“Đây là một canh bạc, John.” Đó là giọng nói khẽ khàng của một người đàn ông tóc nâu ngồi giữa bàn. Ngoài Cawley ra, ông ta là người duy nhất bỏ phiếu chống lại những gì mà họ đang thảo luận khi Teddy và Chuck bước vào. Ông ta bật liên hồi chiếc bút bi bấm và nhìn hướng lên phía đầu bàn, nhưng qua giọng nói của ông ta Teddy có thể thấy ông ta là bạn của Cawley. “Đây là một canh bạc thực sự. Thử nghĩ tới trường hợp bị cắt điện xem?”

“Còn có máy phát điện dự phòng.”

“Và nếu nó không chạy? Các phòng giam sẽ tự động mở ra.”

“Đây là một hòn đảo,” Cawley nói. “Ai có thể đi đâu được? Không phải là họ có thể đón một chuyến phà, rồi đi tới Boston và gây hại ở đó chứ. Nếu họ bị trói chặt vào giường và khu nhà lao ngập nước thì thưa các vị, tất cả bọn họ sẽ chết. Hai mươi tư con người. Xin Chúa tha tội, nếu có gì xảy ra với khu điều trị chính thì sao? Với bốn mươi hai người còn lại? Ý tôi là, có Chúa chứng giám. Các vị có thể đối mặt với chuyện đó không? Tôi thì không thể.”

Cawley nói rồi nhìn quanh bàn, Teddy chợt thấy lòng trắc ẩn dâng lên, một thứ cảm giác mà anh rất hiếm khi trải qua. Anh không biết tại sao Cawley cho phép hai người họ tham dự cuộc họp, nhưng anh bắt đầu nghĩ rằng ông ta không có nhiều bè bạn trong căn phòng này. 

“Bác sĩ,” Teddy nói. “Tôi không có ý chen ngang.”

“Không sao, đặc vụ. Là chúng tôi mời các anh tới đây mà.”

Teddy suýt buột miệng: không đùa đấy chứ? Anh nói, “Sáng nay, khi chúng ta nói chuyện về những mật mã của Rachel Solando…”

“Mọi người đều biết đặc vụ đang nói về cái gì chứ?” Cawley ngắt lời anh.

“Luật của bốn,” Brotigan nói với một nụ cười khiến Teddy chỉ muốn lấy kìm vặn răng anh ta ra. “Chỉ là tôi thấy rất thú vị.”

“Sáng nay khi nói chuyện ông bảo ông không có giả thuyết nào cho con số cuối cùng?” Teddy nói.

“Ai là sáu mươi bảy hả?” Naehring nói. “Thì sao?”

Teddy gật đầu rồi ngồi dựa lưng vào ghế và chờ đợi. 

Anh thấy tất cả mọi người trong phòng đều nhìn anh vẻ bối rối.

“Các ông thật sự không thấy sao?” Teddy nói. 

“Thấy gì cơ, đặc vụ?” Câu hỏi đó là từ người bạn của Cawley, Teddy nhìn vào chiếc áo blu của ông ta và thấy tên ông ta là Miller.

“Các ông có sáu mươi sáu bệnh nhân ở đây.”

Họ nhìn anh chằm chằm như những đứa trẻ dự tiệc sinh nhật đang chờ trò ảo thuật tiếp theo của chú hề.

“Bốn mươi hai bệnh nhân ở Khu A và Khu B. Cộng với hai mươi tư bệnh nhân ở Khu C. Tổng cộng là sáu mươi sáu bệnh nhân.”

Teddy có thể nhìn thấy vài khuôn mặt đã bắt đầu hiểu ra nhưng đa số trông còn ngơ ngác.

“Sáu mươi sáu bệnh nhân,” Teddy nói. “Dẫn tới gợi ý trả lời cho câu hỏi ‘ai là sáu mươi bảy?’ là phải chăng thực ra ở đây có sáu mươi bảy bệnh nhân?” 

Im lặng. Một vài bác sĩ nhìn nhau. 

“Tôi vẫn chưa hiểu,” cuối cùng Naehring lên tiếng. 

“Ông chưa hiểu gì? Rachel Solando cho rằng ở đây có sáu mươi bảy bệnh nhân.”

“Nhưng không phải thế,” Cawley nói, hai tay giơ ra trước mặt. “Đó là một ý hay, đặc vụ à, và hẳn là sẽ giúp giải được mật mã nếu nó chính xác. Nhưng dù anh có muốn thế nào đi nữa thì hai cộng hai cũng chẳng bao giờ có thể bằng năm. Nếu chỉ có sáu mươi sáu bệnh nhân trên đảo thì cái vấn đề liên quan tới bệnh nhân thứ sáu mươi bảy chỉ để tranh luận mà thôi. Anh hiểu ý tôi chứ?”

“Không,” Teddy nói, cố giữ cho giọng bình tĩnh. “Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông về vấn đề này.”

Cawley dường như lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận trước khi lên tiếng, như thể cố nhặt ra những từ đơn giản nhất, “Giả sử cơn bão không mạnh lên, chúng tôi sẽ nhận thêm hai bệnh nhân mới vào sáng nay. Như vậy chúng ta sẽ có tổng cộng sáu mươi tám bệnh nhân. Nếu một bệnh nhân, xin Chúa tha tội, qua đời trong giấc ngủ đêm qua thì chúng tôi chỉ còn có sáu mươi lăm bệnh nhân. Con số đó có thể thay đổi mỗi ngày, mỗi tuần, nó là một biến số.”

“Nhưng,” Teddy nói, “vào cái đêm mà cô Solando viết mật mã đó…”

“Thì có sáu mươi sáu bệnh nhân, kể cả cô ấy. Tôi đồng ý với anh điểm này, đặc vụ. Nhưng vẫn thiếu bệnh nhân thứ sáu mươi bảy, đúng không nào? Anh đang cố nồi tròn úp vung méo rồi?”

“Nhưng đó là ý của cô ta chứ đâu phải ý tôi.”

“Tôi cũng biết thế. Nhưng đó là một suy nghĩ ảo tưởng. Không hề có bệnh nhân thứ sáu mươi bảy ở đây.”

“Thế các ông có thể cho phép tôi và đồng sự của mình tra cứu hồ sơ bệnh nhân không?”

Đề nghị đó khiến nhiều người trong phòng nhíu mày tỏ vẻ khó chịu. 

“Không thể được,” Naehring nói. “Chúng tôi không thể làm vậy, đặc vụ. Tôi rất lấy làm tiếc.”

Teddy cúi đầu xuống trong giây lát nhìn chiếc áo sơ mi trắng ngớ ngẩn và chiếc quần đồng bộ. Trông anh giống như một gã dở hơi bán soda. Mà có thể lại trông hơi hách dịch. Có lẽ nên phục vụ kem cho mọi người trong phòng xem ra còn tiếp cận họ dễ hơn. 

“Chúng tôi không thể truy cập hồ sơ nhân viên. Chúng tôi cũng không thể truy cập hồ sơ bệnh nhân. Chúng tôi phải tìm kiếm bệnh nhân mất tích của các ông như thế nào đây, thưa quý ngài?” 

Naehring ngồi sâu vào trong ghế, đầu nghếch lên. Cánh tay của Cawley dường như hóa đá, điếu thuốc đang đưa lên miệng bỗng dừng lại giữa chừng. 

Vài bác sĩ quay sang thì thầm với nhau.

Teddy nhìn sang Chuck.

Chuck thì thào, “Đừng nhìn tôi. Tôi cũng đang ớ ra đây.”

“Thế giám đốc trại giam không nói gì với các vị à?” Cawley nói.

“Chúng tôi chưa bao giờ có dịp nói chuyện với giám đốc trại giam. Tới đón chúng tôi là ông McPherson.” 

“Ôi,” Cawley nói. “Ối giời ơi.”

“Gì vậy?”

Cawley nhìn sang các bác sĩ khác, mắt trợn lên.

“Gì vậy?” Teddy nhắc lại.

Cawley thở phù ra một cái rồi nhìn về phía họ ở cuối bàn.

“Chúng tôi đã tìm thấy cô ấy.”

“Các ông nói gì cơ?”

Cawley gật đầu và rít một hơi từ điếu thuốc. “Rachel Solando. Chúng tôi tìm thấy cô ấy chiều nay. Cô ấy đang ở đây, quý vị. Ngay bên ngoài cánh cửa này, dưới sảnh chính.”

Teddy và Chuck cùng ngoái đầu lại nhìn ra phía cửa.

“Các anh có thể nghỉ ngơi được rồi, đặc vụ. Cuộc điều tra của các anh đã kết thúc.”

CAWLEY VÀ NAEHRING dẫn họ xuống một hành lang lát gạch đen trắng, qua một cánh cửa đôi vào khu điều trị chính của bệnh viện. Họ đi qua một phòng y tá phía bên tay trái rồi rẽ phải vào một phòng lớn với những chiếc đèn tuýp dài và những khung treo ri đô hình chữ U gắn vào những cái móc trên trần, và cô ta ngồi đó trên giường, trong một chiếc áo ngủ màu xanh nhạt ngắn trên đầu gối, mái tóc sẫm màu vừa được gội sạch và chải ngược ra sau. 

“Rachel,” Cawley nói, “chúng tôi tới đây cùng với mấy người bạn. Hy vọng cô không phiền lòng.”

Cô ta vuốt nhẹ mép áo dưới đùi rồi nhìn Teddy và Chuck với vẻ chờ đợi rất trẻ con. 

Không có một dấu vết gì trên người cô ta. Da cô ta có màu của sa thạch. Mặt mũi, tay chân cô ta không hề thương tích. Chân cô ta để trần, da không có lấy một vết xước do bị cành cây, gai nhọn hay đá sắc cứa.

“Tôi có thể giúp gì được cho anh?” cô ta hỏi Teddy.

“Cô Solando, chúng tôi tới đây để…” 

“Bán gì à?”

“Gì cơ thưa cô?”

“Tôi hy vọng là không phải anh tới đây để bán chác cái gì. Tôi không muốn tỏ ra thô lỗ nhưng chồng tôi mới là người đưa ra các quyết định trong việc này.”

“Không, thưa cô, chúng tôi không tới đây để bán hàng.”

“Thế thì được. Thế tôi có thể giúp gì cho anh?”

“Cô có thể cho tôi biết cô đã ở đâu ngày hôm qua không?”

“Tôi ở đây. Tôi ở nhà.” Cô ta nói rồi nhìn sang Cawley. “Những người này là ai vậy?”

“Họ là các nhân viên cảnh sát, Rachel,” Cawley nói.

“Có chuyện gì xảy ra với Jim à?” 

“Không,” Cawley nói. “Không, không. Jim vẫn ổn.”

“Không phải là bọn trẻ chứ?” Cô ta nhìn ra xung quanh. “Chúng đang ở trong sân đấy. Chúng không làm chuyện gì dại dột chứ?”

“Không, cô Solando. Các con cô không sao. Chồng cô cũng vậy,” Teddy nói và nhìn sang Cawley, ông ta gật đầu đồng ý để anh tiếp tục.

“Chúng tôi, ừm, chúng tôi nghe nói hôm qua có một phần tử phá hoại có tiếng xuất hiện trong khu vực quanh đây. Người ta nhìn thấy hắn đứng phát truyền đơn trên con phố nơi cô sống.”

“Ôi, lạy Chúa tôi, không. Phát cho trẻ con à?”

“Theo chúng tôi biết thì không.”

“Nhưng mà ở xung quanh đây? Trên chính con phố này?”

Teddy nói, “Tôi e là vậy, thưa cô. Tôi hy vọng cô có thể cho chúng tôi biết cô đã ở đâu ngày hôm qua, liệu cô có chạm trán gã đàn ông kia không?”

“Anh đang buộc tội tôi là phản động đấy à?” Cô ta ngồi thẳng dậy và nắm chặt lấy tấm ga giường. 

Cawley nhìn Teddy như muốn nói: Anh đào lỗ cho mình thì tự mà tìm đường ra.

“Là phản động à, thưa cô? Cô ư? Có người đàn ông bình thường nào lại dám nghĩ thế? Cô là một công dân Mỹ như Betty Grable. Chỉ có ai mù mới không nhận thấy điều đó.”

Cô ta thả lỏng một nắm tay ra và xoa xoa đầu gối. “Nhưng tôi trông đâu có giống Betty Grable.”

“Đó chỉ là so sánh về tinh thần yêu nước khảng khái của cô. Mà không, tôi phải nói là trông cô giống Teresa Wright hơn, thưa cô. Cái phim mà cô ấy đóng chung với Joseph Cotton khoảng mươi, mười hai năm trước ấy, phim gì nhỉ?”

“Phim ‘Bóng tối của Ngờ vực’. Tôi có nghe nói đến.” Cô ta vừa nói vừa mỉm cười với vẻ duyên dáng và gợi cảm. “Jim đã tham gia cuộc chiến tranh đó. Anh ấy trở về nhà và nói rằng thế giới đã được tự do bởi người Mỹ chiến đấu vì nó và cả thế giới nhận ra rằng con đường Mỹ là con đường duy nhất.”

“Amen,” Teddy nói. “Tôi cũng tham chiến tại đó.”

“Anh có biết anh Jim nhà tôi không?”

“E là không, thưa cô. Tôi chắc rằng anh ấy là một người tốt. Anh ấy là quân nhân?”

“Thủy quân lục chiến.” Cô ta khẽ chun mũi khi nói những từ này. 

“Semper fi(5),” Teddy nói. “Cô Solando, chúng tôi cần biết mọi hoạt động kẻ phá hoại thực hiện hôm qua, chuyện đó rất quan trọng. Có thể cô không nhìn thấy hắn ta. Hắn hoạt động rất lén lút. Do đó, chúng tôi cần phải biết cô đã ở đâu để đối chiếu với những nơi mà hắn đã tới. Hai người có thể đã đi ngang qua mặt nhau mà không biết.” 

“Giống như hai chuyến tàu đêm?”

“Chính xác. Giờ thì cô hiểu rồi chứ?”

“Có. Tôi hiểu.”

Cô ta ngồi thẳng người dậy trên giường, khoanh chân vòng tròn, và Teddy có thể cảm nhận mỗi cử động của cô ta, chúng khiến cổ và bụng anh như quặn lại.

“Vậy cô có thể dẫn tôi về lại cái ngày hôm đó?” anh nói.

“Được rồi, để xem nào. Tôi chuẩn bị bữa sáng cho Jim và bọn trẻ rồi gói bữa trưa cho Jim đi làm. Tôi đưa bọn trẻ tới trường rồi quyết định đi bơi một vòng quanh hồ.”

“Cô có thường xuyên bơi vậy không?”

“Không,” cô ta nói, hơi cúi người ra phía trước và cười như thể anh vừa chạm vào người cô ta. 

“Tôi chỉ, tôi không biết nữa, chỉ là tôi cảm thấy trong người là lạ. Đôi khi anh cũng vậy đúng không? Anh cảm thấy trong người có gì đó hơi khác thường?”

“Đúng thế.”

“Đấy, chính là cảm giác của tôi lúc đó. Thế là tôi cởi quần áo và bơi vòng quay hồ cho tới khi tay chân tôi cứng đơ, nặng trĩu. Tôi lên bờ, hong khô, mặc quần áo vào và đi dạo dọc theo bờ hồ. Tôi nhặt đá ném xuống mặt nước và xây mấy tòa lâu đài cát nhỏ. Nho nhỏ thôi.”

“Cô có nhớ là bao nhiêu không?”

Teddy hỏi và cảm thấy Cawley đang nhìn anh trừng trừng.

Cô ta có vẻ suy nghĩ một lúc, mắt xoáy lên trần nhà. “Tôi có nhớ.”

“Bao nhiêu?”

“Mười ba.”

“Cũng nhiều đấy chứ.”

“Có vài lâu đài rất nhỏ,” cô ta nói. “Chỉ to bằng cái chén uống trà.”

“Rồi sau đó cô làm gì?”

“Em nghĩ tới anh,” cô ta nói.

Teddy thấy Naehring liếc về phía Cawley từ phía đầu kia giường. Teddy bắt gặp ánh mắt của Naehring và ông ta giơ tay lên tỏ vẻ ngạc nhiên như mọi người.

“Sao lại là tôi?” Teddy hỏi.

Cô ta mỉm cười để lộ hai hàm răng trắng, khít lại với nhau, chỉ hở một chút đầu lưỡi đỏ hồng. “Bởi vì mình là Jim của em, ngốc ạ. Mình là người lính của em.” Cô ta vươn dậy, quỳ trên hai đầu gối và cầm lấy tay Teddy vuốt ve. “Chúng mới thô ráp làm sao. Em thích những vệt chai trên tay mình. Em thích cảm giác gồ ghề của chúng trên da thịt em. Em nhớ mình, Jim ạ. Mình chẳng bao giờ ở nhà cả.”

“Anh có rất nhiều việc,” Teddy nói.

“Ngồi xuống.” Cô ta túm lấy tay anh.

Cawley ra hiệu tán thành bằng một cái liếc mắt. Thế là anh để cho cô ta kéo lại bên giường. Anh ngồi xuống cạnh cô ta. Cái nhìn đau đớn và điên dại trong bức ảnh đã biến đâu mất, ít nhất là trong lúc này. Và cô ngồi gần như thế khiến anh không cách nào làm ngơ được trước vẻ đẹp lồ lộ của cô ta. Ấn tượng lớn nhất cô ta tạo ra là đôi mắt ướt, sẫm màu, ánh mắt long lanh, trong vắt như nước hồ thu, là thân hình duỗi ra với vẻ trễ nải như thể chân tay đang chới với trong không khí, là khuôn mặt với làn môi và chiếc cằm hơi mọng.

“Mình làm việc quá nhiều,” cô ta nói, những ngón tay chạy xuống phía dưới cổ họng anh như thể cô ta đang cố vuốt phẳng một nếp phồng trên nút thắt cà vạt. 

“Phải kiếm gạo về nhà chứ,” Teddy nói.

“Ôi chúng mình có đủ mà,” cô ta nói và anh có thể cảm thấy hơi thở của cô ta phả trên gáy. “Chúng mình vẫn đủ sống mà.” 

“Trước mắt thôi,” Teddy nói. “Anh còn nghĩ đến tương lai.”

“Em chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. Có nhớ bố em thường nói gì không?”

“Anh không nhớ.”

Cô vuốt những sợi tóc bên thái dương anh. “ ‘Tương lai là cái gì đó con mua bằng thẻ tín dụng,’ ông luôn nói vậy. ‘Còn bố thì trả tiền mặt.’ ” Cô cười khúc khích và dựa vào người anh gần tới mức anh có thể cảm thấy ngực cô chạm vào bả vai anh. “Không anh yêu ạ, chúng ta phải sống cho ngày hôm nay. Tại đây và bây giờ.”

Đó là điều mà Dolores vẫn thường hay nói. Đôi môi và mái tóc của hai người họ rất giống nhau, tới mức nếu khuôn mặt của Rachel ở gần anh thêm một chút nữa, chắc Chúa cũng tha tội cho anh nếu anh có trót nghĩ mình đang trò chuyện với Dolores. Họ thậm chí còn có cùng một vẻ gợi tình mãnh liệt nhưng Teddy không bao giờ chắc – dù sau bằng ấy năm sống cùng nhau – rằng liệu vợ anh có biết cái thế mạnh đó không.

Anh cố nhớ ra anh định hỏi cô ta chuyện gì. Anh biết anh cần phải đưa cô ta trở lại hướng điều tra. Để cô ta kể cho anh về ngày hôm qua, cô ta đã làm gì sau khi đi dạo và xây các lâu đài bằng cát, đúng vậy.

“Thế em làm gì sau khi đi dạo quanh hồ?” anh nói.

“Mình biết em làm gì mà.”

“Không.”

“Ôi, anh muốn em nói chuyện đó ra ư? Đúng thế không?”

Cô hơi nhoài người ra trước khiến mặt của cô ở sát dưới mặt anh, đôi mắt sẫm màu ngước lên nhìn anh, làn hơi toát ra từ miệng cô len vào miệng anh.

“Anh không nhớ sao?”

“Không mà.”

“Dối trá.”

“Anh nói thật mà!”

“Anh không nói thật. Vì nếu anh quên chuyện đó thì James Solando, anh hẳn đang có vấn đề.”

“Vậy, nói cho anh biết đi,” Teddy thì thầm.

“Anh thật muốn nghe chuyện đó?”

“Anh thật muốn nghe mà.”

Cô lấy lòng bàn tay vuốt nhẹ má anh, dọc theo cằm anh, giọng cô khàn lại khi nói: “Em về tới nhà vẫn còn ướt và anh đã liếm em tới khô.”

Teddy đặt tay lên mặt cô ta trước khi cô ta kịp khép nốt khoảng cách còn sót lại giữa hai người. Những ngón tay anh vuốt dọc hai bên thái dương cô ta và anh có thể cảm thấy sự ẩm ướt trên những sợi tóc cô thấm vào ngón tay cái anh, anh nhìn thẳng vào mắt cô và nói:

“Hãy kể cho anh thêm về những gì em đã làm hôm qua,” anh thì thào, và anh nhìn thấy có cái gì đó đang tấn công sự trong trẻo trong đôi mắt cô ta. Nỗi sợ hãi, anh dám chắc thế. Và rồi nó bắt đầu xuất hiện ở môi trên và khoảng da giữa hai đầu mày cô ta. Anh có thể cảm thấy sự run rẩy đang xâm chiếm thân thể cô ta. Ánh mắt cô ta dò xét khắp khuôn mặt anh, đôi mắt ngày càng mở to, phập phồng.

“Em đã chôn anh,” cô ta nói.

“Không, anh vẫn đang ở đây mà.”

“Em đã chôn anh. Trong một cái quan tài rỗng vì thân thể anh đã bị nổ tung hết trên Bắc Đại Tây Dương. Em đã chôn cái thẻ lính của anh vì đó là tất cả những gì họ có thể tìm thấy. Thân thể anh, cái thân thể đẹp đẽ của anh đã bị thiêu cháy và bị lũ cá mập ăn hết.”

“Rachel,” Cawley nói.

“Như thịt,” cô nói.

“Không,” Teddy nói.

“Như thịt thui, cháy trụi không còn độ mềm.”

“Không, đó không phải là anh.”

“Chúng đã giết Jim. Anh Jim của tôi đã chết. Vậy anh là tên khốn kiếp nào?”

Cô ta vùng ra khỏi vòng tay anh, bò vào sát tường rồi quay ra nhìn anh. 

“Tên khốn này là ai?” Cô ta chỉ tay vào Teddy và nhổ nước bọt về phía anh.

Teddy không thể cử động nổi. Anh nhìn chằm chằm vào cô ta, vào cơn thịnh nộ đang trào lên trong mắt cô ta như một con sóng dữ.

“Ngươi định giở trò đồi bại với ta đúng không, gã thủy thủ kia? Thế chứ gì? Nhét cái đó của ngươi vào người ta khi con ta đang chơi trong sân? Đó là kế hoạch của ngươi chứ gì? Ngươi cút khỏi đây mau! Có nghe thấy ta nói gì không? Cút ngay khỏi…”

Cô ta lao về phía anh, một tay giơ lên đỉnh đầu, Teddy nhảy ra khỏi giường. Hai người hộ lý nhào qua mặt anh với những chiếc dây đai bằng da dày cộp vắt trên vai. Họ tóm lấy khuỷu tay Rachel và đè cô ta ra giường.

Teddy có thể cảm thấy cả người anh chấn động, mồ hôi túa ra từ các lỗ chân lông, và tiếng la hét của Rachel vang lên khắp nơi:

“Đồ hiếp dâm! Đồ hiếp dâm thối tha! Chồng tao sẽ tới và cắt cổ mày! Mày có nghe tao nói không? Anh ấy sẽ cắt cái đầu khốn kiếp của mày xuống và chúng ta sẽ uống máu mày! Chúng ta sẽ tắm trong máu của mày, tên thối tha bệnh hoạn!”

Một hộ lý đè ngang người cô ta xuống trong khi người kia tóm lấy hai cổ chân cô ta trong đôi bàn tay lực sĩ của mình. Họ gài dây đai vào những rãnh sắt bên thành giường, vắt ngang ngực và mắt cá chân Rachel, siết chặt rồi cài khóa đánh tách một tiếng, rồi hai lộ lý bước lùi lại phía sau.

“Rachel,” Cawley nói, giọng ông ta nhẹ nhàng, đầy tình cha con.

“Tất cả các ngươi là lũ hiếp dâm khốn kiếp. Các con của ta đâu? Các con của ta đâu? Các ngươi trả lại con cho ta, lũ thối tha bệnh hoạn kia! Các ngươi trả lại con cho ta!”

Cô ta kêu thét lên một tiếng khiến Teddy cảm thấy như có viên đạn xuyên qua sống lưng mình và rồi cô ta tiếp tục lồng lên để thoát ra khiến những chiếc đai đập vào thành giường kêu loảng xoảng. “Chúng tôi sẽ tới kiểm tra cô sau vậy, Rachel.” Cawley nói với cô ta.

Cô ta nhổ nước miếng về phía ông, Teddy nghe thấy tiếng nó rớt xuống sàn nhà, rồi cô ta lại tiếp tục hét lên, môi cô ta rướm máu do tự cắn. Cawley gật đầu với họ rồi rảo bước, bọn họ cũng bước đi theo sau. Teddy quay đầu lại thấy Rachel đang nhìn anh, nhìn thẳng vào mắt anh khi cô ta cố nhấc hai vai khỏi giường, gân cổ phồng lên, đôi môi nhẫy máu và nước bọt khi cô ta rít lên về phía anh, rít lên như thể cô ta nhìn thấy cái chết thế kỷ đang trèo qua cửa sổ và tiến đến bên giường cô ta. 

CAWLEY CÓ MỘT QUẦY BAR trong văn phòng của mình. Ông ta đi tới đó ngay khi họ bước vào phòng, rẽ sang phải rồi biến khỏi tầm mắt của Teddy trong giây lát. Ông ta biến mất sau một màn sương trắng mỏng và Teddy tự nhủ: Không, không phải lúc này. Không phải bây giờ, vì Chúa!

“Các ông tìm thấy cô ta ở đâu?” Teddy hỏi.

“Trên bờ biển gần ngọn hải đăng. Đang chơi trò ném đá ra biển.”

Cawley xuất hiện trở lại, nhưng là do Teddy cố tình quay đầu sang trái khi thấy Cawley tiếp tục di chuyển sang phía bên phải anh. Khi Teddy quay đầu, màn sương mờ cũng di chuyển, che phủ một giá sách đồ sộ và rồi cả cửa sổ. Anh lấy tay dụi mắt bên phải hy vọng là mình nhầm, nhưng không có tác dụng gì và rồi anh bắt đầu cảm thấy nó ở dọc theo nửa đầu bên trái – một hẻm núi chứa đầy nham thạch cắt xuyên qua sọ anh ngay phía dưới đường ngôi tóc. Anh nghĩ tới những tiếng la hét của Rachel đang nằm trong đó, những tiếng động giận dữ, nhưng còn hơn cả thế, cơn đau bùng nổ như có hàng chục con dao găm chậm rãi xoáy vào sọ khiến anh phải nhăn mặt và ghì tay lên thái dương.

“Đặc vụ?” Anh nhìn lên và thấy Cawley phía bên kia bàn, bên trái ông ta là một cái bóng lờ mờ. 

“Gì cơ?” Teddy cố lên tiếng.

“Trông anh tái nhợt như xác chết.”

“Sếp ổn chứ sếp?” Chuck bỗng từ đâu hiện ra bên cạnh anh.

“Không sao,” Teddy nói một cách khó nhọc. Cawley đặt ly rượu scotch xuống bàn gây nên một tiếng động nghe như tiếng súng nổ. 

“Ngồi xuống đi,” Cawley nói.

“Tôi ổn mà,” Teddy nói nhưng từ ngữ từ não truyền xuống miệng mà như thể đi qua những bậc thang rải đầy đinh. 

Các khớp xương trên người Cawley kêu răng rắc như củi trong lò khi ông ta cúi xuống cái bàn trước mặt Teddy. “Lại chứng đau nửa đầu à?”

Teddy nhìn vào cái bóng mờ mờ của ông ta. Anh chỉ cần gật đầu nhưng những kinh nghiệm trước đây đã dạy anh không bao giờ được gật đầu trong những tình huống thế này. “Đúng thế,” anh cố lên tiếng đáp lại.

“Tôi có thể đoán được qua cái cách anh day day thái dương.”

“Ồ.”

“Anh có thường xuyên bị thế không?”

“Sáu, bảy…” Miệng Teddy chợt khô cứng lại và phải mất vài giây lưỡi anh mới bớt khô trước khi nói tiếp, “… lần gần nhất cách đây một năm.”

“Anh may mắn đấy,” Cawley nói. “Xét về một mặt nào đó.”

“May mắn thế nào?”

“Rất nhiều người bị bệnh đau nửa đầu thường phải chịu các cơn đau với mật độ dày đặc, tuần một lần hay khoảng thế.” Người Cawley lại phát ra những tiếng kêu răng rắc như tiếng củi reo khi ông ta rời khỏi bàn và Teddy nghe thấy tiếng ông ta mở tủ. 

“Anh có những triệu chứng gì?” ông ta hỏi Teddy. “Mất thị giác cục bộ, khô miệng, trong đầu như có lửa đốt.”

“Chính xác.”

“Chúng tôi nghiên cứu bộ não con người suốt cả thế kỷ nay nhưng không ai tìm thấy chút manh mối nào về nguyên nhân căn bệnh này. Anh có thể tin được không? Chúng tôi biết nó thường tấn công vào đỉnh thùy não, gây ra hiện tượng đông máu. Đây là những tác động vi phân, nhưng khi chúng xảy ra ở một cơ quan nhỏ và dễ bị tổn thương như não, anh sẽ phải chịu đựng những cơn bùng nổ. Suốt bằng ấy thời gian, bằng ấy nghiên cứu, chúng tôi vẫn không biết gì hơn về nguyên nhân hay tác động lâu dài của căn bệnh này ngoài việc điều trị như với chứng cảm thông thường.”

Cawley đưa cho anh một ly nước và đặt hai viên thuốc màu vàng vào tay anh. “Những viên thuốc này rất hiệu quả. Khiến anh lơ mơ trong một vài tiếng đồng hồ nhưng sau đó thì anh sẽ khỏe hơn. Tỉnh táo như chuông.”

Teddy nhìn xuống những viên thuốc màu vàng và ly nước đang bồng bềnh trong tay anh. Anh nhìn lên Cawley, cố tập trung vào bên mắt còn tỏ vì lúc này vị bác sĩ đã tắm trong màn ánh sáng trắng xóa và chói lòa chẳng thấy vai và hai cánh tay đâu nữa.

“Anh có làm gì đi nữa thì,” một giọng nói bắt đầu vang lên trong đầu Teddy… Những vuốt móng tay cạy mảng sọ trái của anh ra và thả vào đó một nắm đinh bấm. Teddy rít lên một tiếng đau đớn khi hít không khí vào trong.

“Lạy Chúa tôi, sếp ơi!”

“Anh ấy sẽ ổn thôi, đặc vụ.”

Cái giọng nói trong đầu anh lại vang lên: “Anh có làm gì đi nữa, Teddy…”

Ai đó đang dùng búa đóng một cái cọc thép xuyên qua bãi đinh bấm, Teddy ấn cùi tay vào bên mắt còn tỏ để chặn những dòng nước mắt bắt đầu tuôn ra từ đó. Bụng anh cồn cào. “… thì cũng đừng uống những viên thuốc đó.” 

Dạ dày anh như tụt xuống dưới, trượt về phía hông phải khi những ngọn lửa bắt đầu liếm lên những kẽ nứt trong đầu anh, và nếu mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn thì anh chắc mình sẽ phải cắn lưỡi mà chết cho xong.

Đừng có uống những viên thuốc khốn kiếp đó, giọng nói tiếp tục gào thét, tung hoành ngang dọc trong cái hẻm núi đang cháy đó, phất cờ và chiêu hồi binh lính.

Teddy cúi đầu xuống và nôn ra sàn. 

“Sếp, sếp. Sếp không sao chứ?”

“Anh bạn ơi,” Cawley nói. “Anh bị nặng đấy.”

Teddy ngẩng đầu lên.

Đừng…

Má anh ướt nhoèn nước mắt.

… uống…

Lại có ai đó thọc nguyên một lưỡi dao vào hẻm núi. 

… những…

Lưỡi dao bắt đầu xoay tới xoay lui.

… viên thuốc đó.

Teddy nghiến chặt răng, cảm thấy dạ dày lại cồn lên. Anh cố gắng tập trung vào ly nước trong tay, cảm thấy cái gì đó bất thường ở ngón tay cái nhưng anh lờ đi, cho rằng đó lại là một trò chơi khăm của cơn đau nửa đầu.

Đừng uống những viên thuốc đó.

Lại một lưỡi cưa được kéo chậm chạp qua những nếp gấp màu hồng trong não anh, và Teddy phải cắn chặt răng để khỏi thét lên. Anh nghe thấy những tiếng la hét của Rachel trong đầu cùng với ngọn lửa, thấy cô nhìn vào mắt anh, thấy hơi thở cô phả trên môi anh, khuôn mặt cô trong tay anh, ngón tay anh vuốt ve thái dương cô. Và cái lưỡi cưa khốn kiếp di chuyển ngang dọc trong đầu anh…

Đừng uống những viên thuốc khốn kiếp đó.

… và anh áp lòng bàn tay vào miệng, những viên thuốc bay vào trong, anh uống một ngụm nước và nuốt ực, cảm thấy chúng đang trôi xuống thực quản, anh tiếp tục uống nước cho tới khi chiếc ly cạn sạch.

“Anh sẽ phải cảm ơn tôi vì chúng,” Cawley nói.

Chuck lại xuất hiện bên cạnh anh và đưa cho Teddy một chiếc khăn mùi soa. Teddy lau trán và miệng rồi vứt nó xuống sàn.

“Giúp tôi khiêng anh ấy lên nào, đặc vụ,” Cawley nói. 

Họ nhấc Teddy ra khỏi ghế và xoay anh về phía một cánh cửa màu đen trước mặt.

“Đừng nói với ai nhé,” Cawley nói, “có một phòng ở đằng sau cánh cửa này nơi tôi thỉnh thoảng tranh thủ chợp mắt. Ừm, phải, ngày một lần. Chúng tôi sẽ đặt anh vào đó, đặc vụ, và anh sẽ ngủ một giấc. Hai giờ sau anh sẽ lại khỏe như vâm.”

Teddy nhìn thấy tay anh quàng lên vai họ. Trông chúng thật buồn cười, cả hai treo lơ lửng ngay trên xương ức. Và hai ngón tay cái, chúng đều có cái ảo giác đó. Là cái quái gì không biết? Anh mong anh có thể cạy cái mảng da đó ra, nhưng Cawley đã bắt đầu mở cửa và Teddy nhìn lại lần cuối những vệt màu trên hai ngón tay cái của anh.

Những vệt màu đen. 

Xi giày, anh nghĩ khi họ đưa anh vào trong căn phòng tối.

Nhưng làm thế quái nào mà anh lại có những vệt xi giày trên ngón tay cái chứ?

ĐÓ LÀ NHỮNG GIẤC MƠ tồi tệ nhất mà anh từng có.

Chúng bắt đầu bằng việc Teddy dạo bước trên những con phố ở Hull, những con phố anh đã đi qua không biết bao lần suốt thời thơ ấu cho tới lúc trưởng thành. Anh đi qua ngôi trường làng. Đi qua cái cửa hàng bách hóa nhỏ nơi anh thường mua kẹo cao su và nước soda kem. Anh đi qua nhà Dickerson, nhà Pakaski, nhà Murrays, nhà Boyds, nhà Vernons, và nhà Constantines. Nhưng không có ai ở nhà. Khắp nơi không có lấy một bóng người. Cả thị trấn trống không. Và lặng im như chết. Anh không thể nghe thấy đại dương, người ta vẫn luôn nghe thấy đại dương trên mỗi nẻo đường ở Hull.

Thật là khủng khiếp – thị trấn của anh, cùng tất cả mọi người đều biến mất. Anh ngồi xuống bờ kè đá dọc phố Ocean, nhìn ra bãi biển không người. Anh cứ ngồi đó chờ đợi nhưng không một ai xuất hiện. Tất cả bọn họ đều đã chết, anh chợt nhận ra, đã chết từ lâu, đã biến mất từ lâu. Anh là một hồn ma, xuyên qua hàng thế kỷ để trở lại với thị trấn ma của mình. Nó đã không còn ở nơi đây nữa. Anh cũng không còn ở nơi đây nữa. Và cũng không còn nơi đây nữa.

Rồi anh thấy mình trong một tòa nhà lớn bằng cẩm thạch chật ních người với những chiếc băng ca, những túi truyền tĩnh mạch màu đỏ, và anh lập tức cảm thấy thoải mái hơn. Dù đây là nơi nào đi nữa, anh cũng không phải ở một mình. Ba đứa trẻ con, hai trai và một gái, đi ngang qua trước mặt anh. Cả ba đều mặc áo ngủ của bệnh viện và đứa bé gái có vẻ sợ hãi. Nó túm lấy tay hai anh trai. Nó nói, “Bà ấy ở đây. Bà ấy sẽ tìm thấy chúng ta.”

Andrew Laeddis cúi xuống châm thuốc cho Teddy và nói, “Này, không còn thấy oán thù gì nữa, đúng không, ông bạn?”

Laeddis là một chủng đáng xấu hổ của loài người – thân hình giống như một đoạn dây chão xù xì, một cái đầu ngoặt ngoẹo, cằm dài ngoẵng gấp đôi bình thường, răng vẹo vọ, những nhúm tóc vàng hoe mọc lên trên cái sọ hồng ghẻ chóc – nhưng Teddy vẫn cảm thấy vui khi nhìn thấy hắn. Hắn là người duy nhất ở trong phòng mà anh biết.

“Tôi kiếm được một chai rượu,” Laeddis nói. “Nếu tí nữa anh muốn làm một hớp.” Hắn nháy mắt với Teddy, vỗ vỗ vào lưng anh rồi quay sang nhìn Chuck, mọi chuyện có vẻ hoàn toàn bình thường. 

“Chúng ta phải đi thôi,” Chuck nói. “Ở đây thời gian trôi vùn vụt.”

“Thị trấn của tôi trống không. Chẳng có lấy một bóng người,” Teddy nói.

Và anh lao tới khi bỗng thấy cô ta xuất hiện, Rachel Solando, vừa la hét vừa băng qua căn phòng với một con dao phay. Nhưng trước khi Teddy giữ được cô ta thì cô ta đã túm lấy ba đứa trẻ, con dao phay chém lên chém xuống, và Teddy sững lại, choáng váng kinh hoàng vì biết rằng anh không còn có thể làm gì nữa, những đứa trẻ đã chết. 

Rachel nhìn anh. Mặt và cổ cô ta vấy máu. “Đưa tay cho em,” cô ta nói.

“Gì cơ? Tôi có thể gặp rắc rối vì chuyện đó,” Teddy nói.

“Đưa tay cho em và em sẽ là Dolores. Em sẽ là vợ anh. Cô ấy sẽ trở lại với anh,” cô ta nói.

“Được thôi, cứ làm theo ý cô,” anh nói và giúp cô ta. Họ xoay xở nhấc được cả ba đứa trẻ lên một lúc và đem chúng ra ngoài bằng cửa hậu, đi tới hồ, rồi thả chúng xuống dưới nước. Họ không ném chúng. Họ làm rất nhẹ nhàng. Họ đặt chúng xuống nước và lũ trẻ chìm dần. Một đứa con trai cố ngoi lên, tay nó đập đập trên mặt nước, Rachel nói, “Không sao đâu. Nó không biết bơi.” 

Họ đứng ở trên bờ nhìn thằng bé chìm dần, cô ta choàng tay qua người anh và nói, “Anh sẽ là Jim của em. Em sẽ là Dolores của anh. Chúng ta sẽ sinh ra những đứa con khác.”

Đó có vẻ là một giải pháp hoàn hảo, và Teddy tự hỏi sao anh không hề nghĩ tới điều đó trước đây.

Anh đi theo cô ta về lại bệnh viện Ashecliffe và gặp Chuck ở đó. Ba người bọn họ đi dọc theo một hành lang trải dài như vô tận. Teddy nói với Chuck, “Cô ấy sẽ đưa tôi tới với Dolores. Tôi về nhà thôi, anh bạn.”

“Tuyệt quá!” Chuck nói. “Tôi mừng cho sếp. Còn tôi sẽ không bao giờ đi khỏi hòn đảo này.”

“Không ư?”

“Không, nhưng chẳng sao, sếp ạ. Thật đấy. Tôi thuộc về nơi này. Đây là nhà của tôi.”

“Còn nhà của tôi là Rachel,” Teddy nói.

“Ý sếp là Dolores.”

“Đúng, đúng vậy. Tôi vừa nói gì à?”

“Sếp nói là Rachel.”

“Ôi, xin lỗi. Cậu thực sự nghĩ là cậu thuộc về nơi này ư?”

Chuck gật đầu. “Tôi chưa từng rời bỏ nó. Và tôi sẽ không bao giờ rời bỏ nó. Ý tôi là, sếp hãy nhìn xuống hai bàn tay tôi mà xem.” 

Teddy nhìn xuống hai bàn tay Chuck. Chúng trông hoàn toàn bình thường. Và anh cũng bảo với Chuck thế.

Nhưng Chuck lắc đầu. “Chúng có vấn đề. Đôi khi những ngón tay biến thành những con chuột.”

“Vậy thì tôi rất vui vì cậu đang ở nhà mình rồi.”

“Cảm ơn sếp.” Anh ta vỗ vỗ vào lưng Teddy rồi quay về phía Cawley và Rachel không hiểu bằng cách nào mà lúc này đã vượt họ khá xa. Teddy bắt đầu tăng tốc gấp đôi để đuổi kịp họ.

Cawley bảo anh, “Anh không thể yêu một người phụ nữ đã giết con cô ta.”

“Tôi có thể chứ,” Teddy nói và rảo bước nhanh hơn. “Chỉ là ông không hiểu được thôi.”

“Cái gì?” Cawley không hề nhấc chân, nhưng ông ta đang trôi đi bên cạnh anh. “Tôi không hiểu cái gì cơ?”

“Tôi không thể sống một mình. Tôi không thể chịu được điều đó. Nhất là trong cái thế giới thối tha này. Tôi cần cô ấy. Cô ấy là Dolores của tôi.”

“Cô ta là Rachel.”

“Tôi biết thế. Nhưng chúng tôi có một thỏa thuận. Cô ấy sẽ là Dolores của tôi và tôi sẽ là Jim của cô ấy. Một thỏa thuận rất hợp lý.”

“Ừ, ừm,” Cawley nói.

Có ba đứa trẻ chạy trong hành lang ngược về phía họ. Người chúng sũng nước và chúng kêu gào thảm thiết. 

“Nhưng loại mẹ gì mà lại có thể làm được điều đó?” Cawley nói.

Teddy nhìn lũ trẻ lúc này đang chạy tại chỗ. Chúng đã vượt qua chỗ Teddy và Cawley, nhưng rồi không khí thay đổi hay gì đó đã khiến lũ trẻ tiếp tục chạy và chạy nhưng không hề tiến được bước nào.

“Giết chính con mình?” Cawley nói.

“Cô ấy không định thế,” Teddy nói. “Chỉ là do cô ấy sợ hãi.”

“Giống như tôi hả?” Cawley nói nhưng ông ta không còn là Cawley nữa. Ông ta đã biến thành Peter Breene. “Cô ta sợ nên cô ta giết lũ trẻ và lý do đó có thể chấp nhận được à?”

“Không. Mà phải, ý tôi là thế. Nhưng tôi không ưa anh, Peter.” 

“Thế thì anh định làm gì tôi?”

Teddy gí mũi súng công vụ của anh vào thái dương Peter. “Mày có biết tao đã từng hành quyết bao nhiêu người không?” Teddy nói và nước mắt trào ra trên mặt anh. 

“Ôi, đừng,” Peter nói. “Xin đừng.”

Teddy bóp cò và nhìn viên đạn chui ra từ phía bên kia đầu Breene. Ba đứa trẻ chứng kiến mọi chuyện và bắt đầu la hét như điên. “Mẹ kiếp!” Peter Breene nói và dựa vào tường, lấy tay che lên lỗ thủng. “Ngay trước mặt bọn trẻ con sao?”

Và họ nghe thấy tiếng cô ta. Một tiếng rít xuất hiện đâu đó trong bóng tối đằng trước họ. Tiếng rít của cô ta. Cô ta đang đến. Cô ta đang ở đâu đó trong bóng tối và cô ta đang chạy hết tốc lực về phía họ. Đứa bé gái nói với Teddy, “Hãy giúp chúng cháu.”

“Ta không phải là bố cháu. Ta không làm gì được.”

“Cháu sẽ gọi chú là cha.”

“Thôi được,” Teddy nói và thở dài rồi cầm lấy tay đứa bé.

Họ đi qua những vách đá sừng sững trên bãi biển của đảo Shutter và tiến vào khu nghĩa địa. Trong nhà mồ, Teddy tìm thấy một ổ bánh mì, một ít mứt và bơ đậu phộng để làm bánh sandwich, đứa bé gái hớn hở ngồi trong lòng anh gặm bánh. Rồi anh dẫn nó ra ngoài bãi tha ma và chỉ vào bia mộ của bố mẹ anh và của chính mình.

EDWARD DANIELS

THỦY THỦ TỒI

1920 -1957

“Tại sao bố lại là một thủy thủ tồi?” đứa bé gái hỏi.

“Vì bố không thích nước.”

“Con cũng không thích nước. Điều đó khiến chúng ta thành bạn của nhau.”

“Bố cũng đoán thế.”

“Bố là người chết. Bố có một cái gọi là cái gì ấy nhỉ?”

“Cái bia đá.”

“Đúng vậy.”

“Bố cũng đoán thế. Vì chẳng còn ai trong thị trấn của bố nữa.”

“Con cũng là người chết.”

“Bố biết. Bố rất lấy làm tiếc.”

“Bố đã không ngăn bà ấy lại.”

“Bố có thể làm gì chứ? Khi bố tới được chỗ bà ấy thì bà ấy đã, con biết không…”

“Ôi, không!”

“Gì vậy?”

“Bà ta lại tới nữa kìa.”

Và rồi anh nhìn thấy Rachel đi vào khu nghĩa địa tới bên tấm bia mà anh đã quệt đổ trong cơn bão. Cô ta bước đi thong thả. Cô ta mới xinh đẹp làm sao, mái tóc ướt và chảy nước tong tỏng dưới trời mưa, cô ta đã đổi con dao phay lấy một chiếc rìu có cán dài, kéo lê bên cạnh. Cô ta nói với Teddy, “Teddy, thôi nào, chúng là của em.”

“Anh biết. Nhưng anh không thể trao chúng cho em được.”

“Lần này mọi chuyện sẽ khác.”

“Khác như thế nào?”

“Giờ em đã khỏe. Em biết trách nhiệm của mình. Đầu óc em rất tỉnh táo.”

“Anh yêu em biết bao.” Teddy bật khóc.

“Em cũng yêu anh, cưng ạ, rất yêu.” Cô lại gần và hôn anh, hôn anh cuồng nhiệt, tay cô ôm lấy mặt anh, lưỡi cô trượt trên lưỡi anh, một tiếng rên khẽ dâng lên trong cổ họng cô rồi len vào miệng anh. Cô hôn anh, ngày càng mãnh liệt, ngày càng say đắm và anh cảm thấy yêu cô biết bao.

“Giờ thì đưa cho em đứa con gái,” cô nói.

Anh đưa cho cô đứa bé gái, cô giữ lấy nó bằng một tay, tay kia nhặt chiếc rìu lên và nói, “Em sẽ trở lại ngay. Được không?”

“Đồng ý,” Teddy nói.

Anh vẫy chào đứa bé gái, biết rằng nó sẽ không hiểu nổi. Nhưng anh chỉ muốn tốt cho nó. Anh biết thế. Là người lớn, anh phải đưa ra những quyết định cứng rắn, những quyết định mà trẻ con không thể nào hiểu được. Nhưng những quyết định đó là vì lợi ích của chúng. Và Teddy tiếp tục vẫy tay, dù đứa bé không hề vẫy lại khi mẹ nó mang nó về phía ngôi nhà mồ. Nó nhìn Teddy chằm chằm, đôi mắt đã chẳng còn chút hy vọng được cứu thoát nào, nó đã đầu hàng cái thế giới này, sự hiến tế này, miệng nó vẫn còn dính đầy mứt và kem đậu phộng. 

“ÔI CHÚA ƠI!” Teddy bật dậy. Anh vừa khóc. Anh cảm thấy anh vừa cố vùng thức dậy, kéo tâm trí anh trở về với hiện thực, để thoát khỏi giấc mơ. Anh có thể cảm thấy nó vẫn còn đó, trong trí não anh, chờ đợi với một cánh cửa mở toang. Tất cả những gì anh phải làm là nhắm mắt lại, đặt đầu xuống gối và anh sẽ lập tức quay trở lại đó. 

“Anh sao rồi, đặc vụ?”

Anh chớp mắt nhiều lần trong bóng tối. “Ai đó?”

Cawley bật ngọn đèn nhỏ bên cạnh chiếc ghế của ông ta trong góc phòng. “Xin lỗi, tôi không định làm anh giật mình.”

Teddy ngồi dậy trên giường. “Tôi ở đây bao lâu rồi?”

Cawley nở một nụ cười xin lỗi. “Những viên thuốc đó hơi mạnh hơn tôi nghĩ. Anh đã ngủ bốn tiếng rồi.”

“Khỉ thật.” Teddy lấy cườm tay dụi mắt.

“Anh có những ác mộng, đặc vụ. Những ác mộng nặng nề.”

“Tôi đang ở trong một bệnh viện tâm thần trên một hòn đảo trong một cơn bão dữ,“ Teddy nói.

“Phải,” Cawley nói. “Tôi cũng mất một tháng mới bắt đầu ngủ ngon được ở đây đấy. Dolores là ai vậy?”

“Gì cơ?” Teddy nói và thò chân xuống đất.

“Anh cứ gọi tên cô ấy suốt.”

“Miệng tôi khô rát.”

Cawley gật đầu và quay lại lấy một ly nước trên chiếc bàn bên cạnh. Ông ta đưa cho Teddy và nói: “Tôi e rằng đó là một tác dụng phụ của thuốc. Nước đây.”

Teddy cầm lấy ly nước và uống vài hơi hết sạch.

“Đầu anh thế nào?”

Giờ Teddy mới nhớ ra tại sao anh lại ở trong căn phòng này và phải mất thêm một lúc để kiểm tra lại tình trạng của mình. Thị giác tốt. Không còn đinh bấm trong đầu. Bụng vẫn hơi nôn nao nhưng không tệ lắm. Một cơn đau nhè nhẹ bên nửa đầu phải giống như một vết bầm ba ngày tuổi.

“Tôi không sao,” anh nói. “Đúng là thuốc tốt thật.”

“Mục đích của chúng tôi là làm khách hàng hài lòng. Thế ai là Dolores?”

“Vợ tôi,” Teddy nói. “Cô ấy đã chết. Và đúng vậy, bác sĩ, tôi vẫn đang tìm cách để chấp nhận nó. Điều đó bình thường chứ?”

“Hoàn toàn bình thường, đặc vụ. Tôi rất lấy làm tiếc về sự mất mát của anh. Cô ấy đột ngột qua đời à?”

Teddy nhìn ông ta và cười phá lên.

“Sao cơ?”

“Tôi thật sự không có tâm trạng để được phân tích tâm lý, bác sĩ.”

Cawley vắt tréo hai ống chân, châm một điếu thuốc. “Và tôi cũng chẳng cố chui vào đầu anh làm gì, đặc vụ. Tin hay không tùy anh. Nhưng có gì đấy đã xảy ra với Rachel tối nay trong căn phòng đó. Mà không chỉ có cô ấy. Với tư cách là bác sĩ điều trị cho cô ấy, tôi sẽ là người thiếu trách nhiệm nếu không tự hỏi anh đang định giở trò gì?”

“Chuyện gì đã xảy ra trong căn phòng đó ư?” Teddy nói. “Tôi chỉ đóng giả cái vai mà cô ta muốn tôi đóng.”

Cawley cười tủm tỉm. “Anh biết mình mà, đặc vụ. Xin anh. Nếu chúng tôi để hai người lại với nhau, anh có dám chắc là khi chúng tôi trở lại hai người vẫn còn nguyên quần áo không?”

Teddy đáp, “Tôi là một nhân viên thực thi luật pháp, bác sĩ. Những gì mà ông nghĩ là ông nhìn thấy ở đó đều không phải sự thật.”

Cawley giơ một tay lên, “Thôi được, như anh nói.”

“Như tôi nói,” Teddy nhắc lại.

Ông ta lại ngồi xuống hút thuốc, Teddy có thể nghe thấy cơn bão bên ngoài, có thể cảm nhận được sức mạnh của nó dội vào những bức tường, xuyên qua những kẽ hở dưới mái nhà. Cawley vẫn im lặng quan sát anh. Cuối cùng Teddy lên tiếng:

“Cô ấy chết trong một đám cháy. Tôi nhớ cô ấy như là ông… Nếu tôi ở dưới nước tôi cũng không thèm oxy đến thế.” Nói đến đây anh nhướng mày nhìn Cawley, “Ông thỏa mãn chưa?”

Cawley nhoài người ra phía trước, đưa cho Teddy một điếu thuốc và châm lửa cho anh. “Tôi từng yêu một phụ nữ ở Pháp,” ông ta nói. “Đừng nói lại với vợ tôi được không?”

“Chắc chắn rồi.”

“Tôi yêu người phụ nữ đó giống như cái cách anh yêu… mà thôi, không có gì.” Ông ta nói, giọng pha chút ngỡ ngàng. “Anh không thể nào so sánh tình yêu đó với bất cứ cái gì đúng không?”

Teddy lắc đầu.

“Đó là quà tặng có một không hai của chính nó.” Mắt Cawley dõi theo làn khói thuốc, ánh mắt ông ta phiêu diêu ra khỏi căn phòng, ra ngoài đại dương. 

“Lúc đó ông làm gì ở Pháp?”

Ông ta mỉm cười, lúc lắc một ngón tay vẻ khôi hài về phía Teddy.

“À,” Teddy nói.

“Một đêm, người phụ nữ ấy tới gặp tôi. Cô ấy đang vội, tôi đoán thế. Đó là một đêm mưa Paris. Cô ấy trượt chân. Chuyện là thế!”

“Cô ta làm sao cơ?”

“Cô ấy trượt chân.”

“Và?” Teddy nhìn ông ta chằm chằm.

“Chẳng có gì cả. Cô ấy trượt chân. Ngã về phía trước. Ngã đập đầu xuống. Và chết. Anh tin được không? Giữa một cuộc chiến. Với tất cả những khả năng có thể dẫn một người tới chỗ chết. Cô ấy chỉ trượt chân.” 

Teddy có thể nhìn thấy nỗi đau trên gương mặt ông ta, thậm chí sau bằng ấy năm, cái vẻ sững sờ khó tin khi trở thành nạn nhân của một trò đùa thảm khốc.

“Đôi khi,” Cawley nói khẽ. “Tôi cố để không nghĩ tới cô ấy trong ba tiếng liền. Đôi khi tôi có thể sống qua vài tuần mà không nhớ tới mùi hương của cô ấy, cái nhìn mà cô ấy trao tôi khi biết rằng chúng tôi sẽ tìm ra thời gian để được ở bên nhau vào một đêm nào đó, mái tóc cô ấy – cái cách cô ấy nghịch chúng khi đọc sách. Đôi khi…” Cawley dụi tắt điếu thuốc. “Cho dù linh hồn cô ấy có đi đâu – nếu như có một cánh cửa ở đó, dưới thân thể cô ấy chẳng hạn, mở ra khi cô ấy chết và đó là nơi cô ấy tới? Tôi sẽ quay trở lại Paris ngay ngày mai nếu tôi biết cánh cửa ấy sẽ mở ra và tôi có thể chui vào đó theo cô ấy.”

“Tên cô ấy là gì?”

“Marie,” Cawley trả lời và chỉ thốt ra cái tên ấy thôi cũng khiến ông ta đờ đẫn cả người.

Teddy hít một hơi dài, để khói thuốc lười biếng bay ra khỏi miệng. 

“Dolores,” anh nói. “Cô ấy hay xoay trở người khi ngủ, và tay cô ấy, mười lần thì có đến bảy, tôi không nói đùa đâu nhé, phạng ngay vào mặt tôi. Giữa mũi và miệng. Bụp một cái, rồi nằm chình ình ra đấy. Tôi nhấc nó ra, ông biết không? Đôi khi khá mạnh tay. Tôi đang ngủ ngon và rồi bang một cái, giờ thì tôi tỉnh như sáo. Cảm ơn, em yêu. Mặc dù vậy, đôi khi tôi cứ kệ nó ở đó. Hôn nó, cảm nhận hương thơm của nó, ông bảo tôi còn biết làm gì nữa. Hít trọn cô ấy vào lồng ngực. Nếu tôi lại có được bàn tay cô ấy trên mặt tôi, bác sĩ? Tôi sẽ bán cả thế giới này.”

Các bức tường rung chuyển, cơn bão xé tan màn đêm.

Cawley nhìn Teddy theo cái kiểu người ta trông chừng bọn trẻ con trên góc phố đông người. “Tôi khá thành công với những gì tôi làm, đặc vụ. Tôi là một người tự cao, phải thừa nhận thế. Chỉ số thông minh của tôi vượt mức thông thường, thậm chí khi còn bé, tôi đã có thể đọc được ý nghĩ của người khác. Vậy nên điều tôi sắp nói đây không có ý xúc phạm anh đâu, anh có bao giờ nghĩ tới việc tự sát không?”

“Ừm, tôi mừng là ông không có ý định xúc phạm tôi,” Teddy nói.

“Nhưng anh có bao giờ nghĩ tới chuyện đó không?”

“Có,” Teddy đáp. “Đó là lý do tại sao tôi không uống rượu nữa, bác sĩ.”

“Bởi vì anh biết rằng…”

“… Nếu uống rượu thì tôi đã tọng súng vào họng từ lâu.”

Cawley gật gù. “Ít nhất thì anh cũng không tự dối mình.”

“Đúng vậy,” Teddy nói. “Ít nhất tôi còn tránh được chuyện đó.”

“Khi anh rời khỏi chỗ này,” Cawley nói. “Tôi có thể cho anh vài cái tên. Toàn những bác sĩ cực giỏi. Họ có thể giúp anh.”

Teddy lắc đầu. “Đặc vụ Mỹ không tìm tới bác sĩ tâm thần. Xin lỗi ông. Nhưng nếu thông tin này lọt ra ngoài, sự nghiệp của tôi kể như hết.”

“Thôi được, thôi được. Cũng có lý. Nhưng đặc vụ này?”

Teddy ngước lên nhìn ông ta.

“Nếu bệnh tình của anh tiếp tục như vậy thì vấn đề không ở chỗ nếu nữa. Mà ở chỗ khi nào.”

“Ông làm sao mà biết được.”

“Có chứ, có chứ. Tôi biết chứ. Tôi là chuyên gia về chấn thương tâm lý của nỗi đau mất người thân và cảm giác có tội của người còn sống. Tôi cũng trải qua tình cảnh tương tự, nên tôi đặc biệt nghiên cứu chúng. Khi thấy anh nhìn vào mắt Rachel Solando vài giờ trước đây, tôi thấy một người đàn ông đang muốn chết. Sếp của anh, người phụ trách văn phòng liên bang sở tại ấy? Ông ấy bảo với tôi rằng anh là người có nhiều huy chương nhất trong số nhân viên của ông ấy. Và nói anh trở về từ cuộc chiến với số huy chương nhiều tới mức có thể nhét đầy một rương. Có đúng không?”

Teddy nhún vai.

“Ông ấy còn nói rằng anh đã từng ở Ardennes và vùng của lực lượng giải phóng ở Dachau.”

Thêm một cái nhún vai.

“Và rồi vợ anh bị giết? Theo anh, đặc vụ, một người có thể đối diện với bao nhiêu hành động bạo lực trước khi quỵ ngã?”

“Tôi không biết, bác sĩ. Tôi cũng tự hỏi mình thế,” Teddy nói.

Cawley nhoài người về phía Teddy, vỗ vỗ vào đầu gối anh và nói: “Hãy ghi lại mấy cái tên đó trước khi rời khỏi đây. Được không? Tôi muốn được ngồi đây trong năm năm tới, đặc vụ, và biết rằng anh vẫn còn trên thế giới này.”

Teddy nhìn xuống bàn tay trên đầu gối anh rồi nhìn lên Cawley.

“Tôi cũng muốn thế,” anh nói khẽ.

ANH TÌM THẤY CHUCK trong tầng hầm khu nội trú nam nơi người ta tập hợp những chiếc giường đơn cho tất cả mọi người nằm trú bão. Để tới được chỗ này, Teddy phải đi qua một loạt hành lang ngầm dưới đất nối liền các tòa nhà trong khuôn viên bệnh viện. Anh được một hộ lý tên Ben, một núi thịt trắng nung núc, đồ sộ dẫn qua bốn lần cửa khóa và ba trạm kiểm soát. Ở dưới này người ta gần như không cảm nhận được cơn bão của thế giới trên kia. Các hành lang dài, xám xịt, tối lờ mờ và Teddy không thích thú gì khi thấy chúng giống hệt như những hành lang vừa xuất hiện trong giấc mơ của anh. Không dài bằng, không có những dải bóng tối chập chờn, nhưng cũng cùng một màu xám ngoét và lạnh lẽo.

Anh cảm thấy ngượng khi gặp Chuck. Trước đây, anh chưa từng bị đau đầu dữ dội như thế ở nơi công cộng, điều đó khiến anh càng xấu hổ khi nhớ lại cái cảnh nôn ọe trên boong tàu lúc trước. Anh mới vô dụng làm sao, giống như một đứa con nít cần người lớn nhấc khỏi ghế.

Nhưng khi nghe thấy tiếng Chuck gọi “Sếp ơi!” từ phía bên kia phòng thì anh ngạc nhiên nhận ra rằng anh thật sự cảm thấy vui khi gặp lại Chuck. Anh yêu cầu được tiến hành điều tra vụ này một mình nhưng bị cấp trên từ chối. Lúc đó anh cảm thấy vô cùng khó chịu, nhưng hiện giờ, sau hai ngày ở đây, sau chuyện trong nhà mồ, sau khi hơi thở của Rachel phả vào miệng anh, và sau những giấc mơ quái gở đó, anh phải thừa nhận rằng anh cảm thấy may mắn khi không chỉ có một mình.

Họ bắt tay nhau, anh nhớ lại những gì Chuck nói với anh trong giấc mơ – “Tôi sẽ không bao giờ rời khỏi hòn đảo này” – và Teddy cảm thấy bóng ma của một con chim sẻ bay qua giữa ngực anh rồi vỗ cánh. 

“Sếp thế nào?” Chuck vỗ vai anh hỏi.

Teddy nở một nụ cười ngượng ngập. “Tôi đỡ hơn rồi. Vẫn hơi rùng mình một chút, nhưng nói chung là ổn.” 

“Tệ thật đấy,” Chuck nói, hạ thấp giọng và bước ra khỏi chỗ hai người hộ lý đang dựa vào một chiếc cột trụ hút thuốc. “Sếp làm tôi sợ chết đi được. Tôi cứ nghĩ là sếp bị đau tim, đột quỵ hay gì đó chứ.”

“Chỉ là một cơn đau nửa đầu thôi.”

“Chỉ là?” Chuck nói. Anh ta hạ thấp giọng hơn nữa và hai người họ đi về phía bức tường xi măng màu be ở phía Nam căn phòng, tách riêng khỏi mọi người. “Đầu tiên tôi cứ nghĩ là sếp giả vờ, sếp biết đấy, như kiểu sếp đã lên sẵn kế hoạch để tìm cách tiếp cận đống hồ sơ hay gì đó.”

“Tôi cũng mong mình mưu mô được thế.”

Chuck nhìn vào mắt Teddy, mắt hấp háy vẻ gợi ý. “Nhưng nó cũng khiến tôi suy nghĩ.”

“Cậu không làm thế chứ?”

“Tôi có.”

“Thế cậu đã làm gì?”

“Tôi bảo với Cawley tôi muốn ngồi lại với sếp. Và tôi ngồi đó. Một lúc sau ông ta có điện thoại và rời khỏi phòng.”

“Cậu lục hồ sơ của ông ta à?”

Chuck gật đầu.

“Thế cậu tìm thấy cái gì?”

Mặt Chuck xị xuống. “Thật ra cũng chẳng có gì nhiều. Tôi không thể mở được các tủ hồ sơ. Ông ta có những kiểu khóa tôi chưa thấy bao giờ. Tôi đã từng cạy rất nhiều ổ khóa. Tôi cũng có thể cạy được chúng, nhưng tôi sẽ để lại dấu vết. Sếp biết đấy?”

Teddy gật đầu. “Cậu đã làm đúng.”

“Vâng, mà…” Chuck gật đầu chào một người hộ lý đi ngang qua và Teddy có cảm giác kỳ lạ rằng bọn họ đang ở trong một bộ phim cũ của Cagney, vai các tù nhân tụ tập ở sân trại giam bàn kế hoạch đào tẩu. “Tôi có mò được vào bàn làm việc của ông ta.”

“Cậu làm gì cơ?”

“Điên rồ, đúng không? Sau này, sếp có thể bẻ tay tôi cũng được.”

“Bẻ tay cậu à? Tặng cậu huy chương thì có.”

“Không tới mức huy chương. Tôi chẳng tìm được gì nhiều, sếp. Chỉ thấy mỗi cuốn lịch của ông ta. Nhưng có một điều – hôm qua, hôm nay, ngày mai, và ngày kia, tất cả đều bị khoanh lại. Sếp biết không? Ông ta khoanh chúng lại bằng mực đen.”

“Cơn bão,” Teddy nói. “Ông ta nghe nói nó sẽ xảy ra.”

Chuck lắc đầu. “Ông ta có viết ngang qua bốn cái cột đó. Sếp hiểu ý tôi không? Giống như kiểu sếp viết ‘Đi nghỉ ở Mũi Cod’ vậy. Sếp bắt kịp tôi chứ?”

“Ừ,” Teddy nói.

Trey Washington thong thả đi về phía họ, miệng ngậm một điếu xì gà rẻ tiền, đầu và quần áo ướt nhẹp nước mưa. “Các anh đang âm mưu gì ở đây hả các đặc vụ?”

“Anh thử đoán xem,” Chuck nói.

“Anh vừa ở ngoài kia về đấy à?” Teddy hỏi.

“Vâng, đúng vậy. Tàn bạo luôn, đặc vụ. Chúng tôi chất các túi cát xung quanh khuôn viên, đóng ván lên tất cả các cửa sổ. Mẹ nó! Bọn chúng cứ ngã chồng lên nhau ở ngoài kia, không đứng vững được ấy chứ!” Trey châm lại điếu xì gà bằng một chiếc bật lửa Zippo rồi quay sang Teddy. “Anh ổn chứ, đặc vụ? Tin tức lan như lửa trại rằng anh bị tấn công gì đó.” 

“Tấn công như thế nào?”

“Ôi trời, nếu kể lại tất cả các phiên bản xung quanh vụ này thì có mà hết đêm.”

Teddy mỉm cười. “Tôi bị đau nửa đầu. Những cơn đau nửa đầu rất khó chịu.”

“Tôi có một bà cô thường hay bị những cơn đau nửa đầu khủng khiếp như vậy. Bà ta khóa cửa lại trong phòng, tắt đèn, kéo rèm cửa, và không ai nhìn thấy bà ta trong vòng hai tư tiếng đồng hồ.”

“Tôi rất thông cảm với bà ấy.”

Trey hít một hơi thuốc rồi nói, “Giờ thì bà ấy đã chết lâu rồi, nhưng mà tôi sẽ chuyển lời của anh tới bà ấy khi tôi cầu nguyện đêm nay. Tuy nhiên bà ta là một người phụ nữ độc ác, kể cả lúc đau đầu lẫn lúc không đau đầu. Thường đánh tôi và em trai tôi bằng một cây gậy gỗ mại châu. Đôi khi chẳng vì lý do gì cả. Tôi nói, ‘Cô ơi, cháu đã làm gì?’ Bà ta bảo, ‘Tao không biết, nhưng mày đang nghĩ tới một cái gì đó khủng khiếp.’ Anh có thể làm gì với một người phụ nữ như thế chứ?”

Anh ta thực sự có vẻ như chờ một câu trả lời nên Chuck nói, “Chạy thật nhanh.”

“Hê hê hê,” Trey khẽ cười, điếu xì gà vẫn trong miệng. “Đúng thế, các vị, đúng thế.” Rồi anh ta thở dài. “Tôi phải đi hong khô người. Gặp lại các anh sau.”

“Hẹn gặp lại.”

Căn phòng đầy những người vừa trở về từ ngoài trời bão, rũ nước khỏi áo mưa và mũ kiểm lâm màu đen, ho khan, hút thuốc, công khai chuyền tay nhau những chai rượu bẹt.

Teddy và Chuck dựa lưng vào bức tường màu be, nhìn mọi người trong phòng và trò chuyện với giọng rất bình thường.

“Thế những chữ trên cuốn lịch…”

“À.”

“Không viết là ‘Đi nghỉ ở Mũi Cod’ chứ?”

“Không.”

“Thế là gì?”

“Bệnh nhân thứ sáu mươi bảy.”

“Chỉ có thế thôi?”

“Chỉ có thế thôi.”

“Nhưng thế là đủ rồi, đúng không?”

“Phải. Tôi cũng nghĩ vậy.”

ANH KHÔNG NGỦ ĐƯỢC. Anh nằm nghe tiếng mọi người ngáy, càu nhàu, hít thở, có người thỉnh thoảng lại rít lên khe khẽ, có người nói mớ trong lúc ngủ, và anh nghe thấy ai đó nói, “Anh phải nói với tôi chứ. Tất cả chỉ có thế. Chỉ cần nói cái từ đó ra…” Và một người khác nói, “Tôi mắc một hạt bỏng ngô trong họng.” Có người thì đạp chăn ra, người thì lăn tới lăn lui, người ngồi dậy vỗ gối một lúc khá lâu rồi lại lăn đùng ra đệm. Một lúc sau, các thứ âm thanh nhộn nhạo đó bắt đầu tìm được nhịp điệu chung khiến Teddy nghĩ tới một bản thánh ca không nghe rõ lời.

Bên ngoài, âm thanh cũng như bị nghẹt lại nhưng Teddy vẫn có thể nghe thấy cơn bão đang cào xới mặt đất, đập sầm sập lên móng nhà, và anh ước gì ở đây có cửa sổ, giá như anh có thể nhìn thấy những tia chớp trong cơn bão, thứ ánh sáng kỳ dị mà nó vẽ lên bầu trời. 

Anh nghĩ tới những điều Cawley vừa nói với anh.

Vấn đề không phải là nếu. Mà vấn đề là khi nào.

Anh đã từng nghĩ tới chuyện tự sát?

Anh nghĩ là có. Kể từ khi Dolores qua đời, không ngày nào anh không nghĩ tới chuyện đi theo cô ấy, thậm chí còn xa hơn thế. Đôi khi anh cảm thấy như thể việc anh tiếp tục sống trên đời là một hành động hèn nhát. Tất cả những việc mua bán, đổ xăng cho chiếc Chrysler, cạo râu, đi tất, đứng xếp hàng, chọn cà vạt, là áo sơ mi, rửa mặt, chải đầu, rút tiền mặt, đổi bằng lái, đọc báo, đi tiểu, ăn uống – một mình, lúc nào cũng chỉ có một mình – đi xem phim, mua đĩa hát, trả tiền hóa đơn, rồi lại cạo râu, lại tắm, lại ngủ, và lại thức dậy… có nghĩa gì đâu nếu chúng không mang anh tới gần với cô ấy hơn?

Anh biết là anh phải thay đổi. Phải gượng dậy. Để mọi thứ lại sau lưng. Mấy người bạn và mấy người thân hiếm hoi của anh đã nhiều lần bảo anh thế, và anh biết rằng nếu anh đứng ngoài nhìn vào thì anh cũng sẽ khuyên cái gã Teddy kia hãy phấn chấn lên, can đảm lên mà sống tiếp đời mình.

Nhưng để làm được vậy, anh phải tìm cách đặt Dolores lên giá, cho cô lẫn vào bụi bặm với hy vọng rằng thật nhiều bụi bặm sẽ chất chồng lên khiến bao ký ức của anh về cô nguôi ngoai. Khiến hình ảnh cô phai nhạt. Cho tới ngày kia cô chỉ còn là một giấc mơ hơn là một con người thực từng tồn tại. 

Họ nói, quên cô ta đi, anh phải quên cô ta đi, nhưng quên cô đi để được gì? Cuộc sống khốn nạn này ư? Làm sao anh có thể dứt bỏ hình ảnh em ra khỏi tâm trí? Cho tới giờ anh vẫn hoàn toàn thất bại, anh sẽ phải làm thế nào đây? Làm thế nào để em có thể ra đi, đó là tất cả những gì anh muốn hỏi. Anh muốn lại được ôm em, muốn được hít thở mùi hương của em, và, đúng là anh còn muốn cả điều đó nữa, anh muốn em nhạt phai dần trong tâm trí của anh. Xin em, xin em, hãy nhạt phai.

Anh ước gì anh chưa từng uống những viên thuốc đó. Ba giờ sáng mà anh vẫn thức chong chong. Thao thức lắng nghe giọng nói của cô, sự khàn khàn trong đó, cái âm điệu Boston nhẹ nhàng phát âm chữ a và chữ r không lộ bằng phát âm chữ e và chữ r vì thế Dolores vẫn thường nói yêu anh với tiếng thì thầm “fovera and eva”(6). Anh mỉm cười trong bóng tối, nghe tiếng cô, ngắm hàm răng cô, hàng lông mi, và những cái liếc nhìn trễ nải, đầy khoái cảm nhục dục của cô vào mỗi sáng Chủ nhật.

Đêm đó, anh gặp cô tại Cocoanut Grove. Ban nhạc đang chơi bộ nhạc cụ lớn bằng đồng, không khí mờ đục vì khói thuốc, tất cả mọi người đều ăn mặc rất chải chuốt – thủy thủ và quân nhân mặc những bộ quân phục màu trắng, xanh, xám đẹp nhất của họ, những người khác thì diện cà vạt hoa nhức nhối, áo vest đáp ngực với chiếc khăn mùi soa gấp hình tam giác tao nhã nơi túi ngực, mũ phớt đặt trên bàn, và phụ nữ, phụ nữ có mặt khắp nơi. Họ khiêu vũ ngay cả trên đường tới phòng trang điểm. Họ khiêu vũ từ bàn này sang bàn khác, họ xoay người nhún nhảy khi châm thuốc, mở túi trang điểm, lướt tới quầy bar, ngả đầu ra sau cười, tóc họ có màu lụa óng và lấp lánh ánh sáng khi họ cử động. 

Teddy tới đó với Frankie Gordon, một trung sĩ tình báo, và vài người khác, tất cả bọn họ đều sẽ lên tàu trong một tuần tới. Anh bỏ mặc Frankie ngay khi anh nhìn thấy cô, bỏ mặc anh ta chưa nói hết câu và tiến về phía sàn nhảy, mất hút cô giây lát trong đám đông vì mọi người đang giạt ra hai bên để dành chỗ cho một anh chàng thủy thủ và một cô gái tóc vàng mặc váy trắng khi anh này xoay cô gái trên lưng mình rồi nhấc bổng cô ấy qua đầu và xoay tròn trước khi hạ cô gái xuống, đầu gần chạm sàn. Đám đông vỗ tay ầm ĩ và rồi Teddy lại thấy chiếc váy tím của cô xoẹt qua.

Đó là một chiếc váy tuyệt đẹp và đập vào mắt anh trước hết là cái màu của nó. Nhưng đêm đó có rất nhiều váy đẹp, nhiều không đếm xuể, nên thu hút sự chú ý của anh không phải là chiếc váy mà chính là cái cách cô mặc nó. Lóng ngóng. Ngượng nghịu. Cô chạm vào chiếc váy của mình với một vẻ e dè. Chỉnh đi, chỉnh lại nó. Tay cứ vuốt mãi những cái đệm vai. 

Đó là một chiếc váy đi mượn. Hoặc là đi thuê. Cô chưa từng vận một chiếc váy như thế. Nó khiến cô sợ hãi. Tới mức cô không dám chắc cánh đàn ông cũng như phụ nữ trong phòng nhìn cô vì ham muốn, ghen tị hay vì thương hại nữa.

Cô bắt gặp Teddy đang quan sát mình nên vội vàng rụt ngón tay cái đang sửa quai áo lót lại. Cô cụp mắt xuống, da cô bắt đầu ửng hồng từ phía dưới cổ trở lên, rồi cô ngước nhìn anh. Teddy không rời mắt khỏi cô, mỉm cười và thầm nghĩ, tôi cũng đang cảm thấy hết sức ngớ ngẩn trong bộ lễ phục này và những muốn cô có thể nhận được thông điệp đó qua cái sàn nhảy kia. Và có thể cô nhận được nó thật vì cô mỉm cười lại với anh, một nụ cười mang vẻ biết ơn hơn là tán tỉnh khiến anh bỏ mặc Frankie Gordon đang thao thao bất tuyệt về những cửa hàng thức ăn vật nuôi ở Iowa hay cái gì đó để tới chỗ cô. Trong lúc băng qua đám đông nhễ nhại mồ hôi vì khiêu vũ anh mới nhớ ra rằng anh không biết phải nói gì với cô. Anh sẽ nói gì với cô? Váy rất đẹp? Tôi có thể mời cô uống gì đó? Cô có một đôi mắt tuyệt đẹp? 

Cô lên tiếng trước: “Lạc đường à?”

Đến lượt anh. Anh nhìn xuống cô. Cô nhỏ nhắn, không quá một mét sáu mươi cộng cả giày cao gót. Đẹp chết người. Không theo kiểu chuẩn mực như rất nhiều phụ nữ khác ở trong phòng với những cái mũi, miệng và mái tóc hoàn hảo. Có cái gì đó nổi loạn trên khuôn mặt cô, hai mắt cách nhau hơi xa, đôi môi quá dày có vẻ bề bộn trên khuôn mặt nhỏ, và một cái cằm không kiên định. 

“Cũng hơi,” anh nói.

“Thế anh đang định tìm cái gì?”

“Cô.” Anh buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ mà ngăn lại.

Mắt cô mở to và anh nhìn thấy một vết nhỏ, một đốm nâu bên đồng tử trái. Anh cảm thấy một cơn rùng mình chạy suốt người khi nghĩ rằng anh đã phá hỏng cơ hội của mình khi xuất hiện trong dáng vẻ một anh chàng Romeo miệng lưỡi ngọt ngào và quá tự tin vào bản thân. 

Cô.

Làm thế quái nào mà anh lại nghĩ ra cái từ đó cơ chứ? Làm thế quái nào mà anh…?

“Ừm,” cô nói…

Anh toan bỏ chạy. Anh không thể chịu được phải nhìn cô thêm một giây nữa. 

“… ít nhất thì anh đã không phải đi quá xa.”

Anh cảm thấy một nụ cười ngớ ngẩn đang nở trên mặt anh, thấy hình ảnh mình phản chiếu trong ánh mắt cô. Một tên ngốc. Một tên đần độn. Sung sướng tới nghẹt thở.

“Không, thưa cô, tôi đoán không phải vậy.”

“Chúa ơi,” cô nói, hơi ngả người ra sau để nhìn anh, ly rượu martini tì vào ngực. 

“Gì cơ?”

“Anh cũng cảm thấy lạc lõng ở nơi này giống như tôi, đúng không anh lính?”

Đứng dựa vào cửa xe taxi nơi cô ngồi ở băng sau với cô bạn gái Linda Cox lúc này đang nhoài người lên phía trên để nói địa chỉ cho lái xe, Teddy nói, “Dolores.”

“Edward.”

Anh bật cười.

“Gì vậy?”

Anh giơ một tay lên. “Không có gì.”

“Không ư. Là gì vậy?”

“Chưa có ai gọi anh là Edward ngoài mẹ anh.”

“Teddy, thế vậy.”

Anh thích nghe cô nói tên anh.

“Ừ.”

“Teddy,” cô thử lại lần nữa như thể cho quen miệng.

“Này, thế họ của em là gì?” anh nói.

“Chanal.”

Teddy nhướng một bên mày vẻ ngạc nhiên.

“Em biết. Nó không hợp với em tí nào. Nghe quá phô trương.”

“Anh có thể gọi cho em không?”

“Anh có giỏi nhớ các con số không?”

Teddy mỉm cười. “Thật ra…”

“Winter Hill sáu-bốn-ba-bốn-sáu,” cô nói.

Anh vẫn đứng trên hè phố khi chiếc taxi đi khỏi, hình ảnh gương mặt cô kề sát mặt anh – qua cửa kính ô tô, và cả lúc trên sàn nhảy – lóe lên trong đầu anh như điện giật, suýt làm anh quên cả tên và số điện thoại của cô. 

Anh nghĩ: vậy đó là cái cảm giác khi yêu. Thật vô lý, anh chẳng biết gì về cô cả. Nhưng đồng thời anh cũng có cảm giác là anh vừa gặp người phụ nữ mà vì lý do nào đó anh đã biết từ lâu, trước cả khi anh được sinh ra. Một điều anh chưa bao giờ dám mơ tới. 

Dolores. Cô hẳn cũng đang nghĩ tới anh trên băng ghế sau, cảm nhận được anh như anh đang cảm nhận cô.

Dolores.

Tất cả những gì anh từng khao khát giờ đã có một cái tên. 

TEDDY XOAY NGƯỜI và thò tay xuống đất quờ quạng tìm quyển sổ ghi chép của mình cùng một bao diêm. Anh chụm tay lại và châm một que diêm rồi giơ lên trang giấy mà anh ghi chép trong cơn bão. Anh đốt hết bốn que diêm trước khi tìm ra những chữ cái tương thích với các con số. 

18-1-4-9-5-4-19-1-12-4-23-14-5

R-A-D-I-E-D-S-A-L-D-W-N-E

Một khi đã tìm ra các chữ cái tương thích thì việc giải mã không tốn mấy thời gian. Hai que diêm nữa, và rồi Teddy nhìn chòng chọc vào cái tên hiện ra trước mắt anh khi ngọn lửa bắt đầu liếm gần hết que diêm về phía những ngón tay của anh.

Adrew Laeddis.

Khi que diêm cháy gần tới ngón tay, anh nhìn về phía Chuck, lúc này đang ngủ, chiếm tận hai cái giường, anh hy vọng sự nghiệp của Chuck sẽ không bị ảnh hưởng. Hẳn là không. Vì Teddy sẽ gánh mọi trách nhiệm. Chuck sẽ không có vấn đề gì. Anh ấy có một vầng hào quang xung quanh mình, cho dù có chuyện gì xảy ra thì Chuck cũng sẽ thoát ra được mà không hề hấn gì. 

Anh nhìn lại trang giấy, liếc xuống cái tên lần cuối cùng trước khi que diêm tắt phụt.

Hôm nay tao sẽ đi tìm mày, Andrew. Nếu tao không nợ Dolores đời mình thì ít nhất tao cũng nợ cô ấy điều đó. 

Sẽ tìm thấy mày. 

Sẽ giết mày chết tươi.

 

Chú thích 

2. Cocoanut Grove là một hộp đêm nổi tiếng ở Boston, nơi xảy ra một trong những vụ hỏa hoạn lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ vào ngày 28.11.1942 khiến 492 người thiệt mạng. 

3. Phiên tòa Kefauver: còn gọi là Ủy ban Kefauver, được thành lập những năm 1950-1951, do Thượng nghị sĩ Estes Kefauver đứng đầu, đã tiến hành nhiều cuộc điều tra trên khắp nước Mỹ, tấn công vào các nhóm tội phạm có tổ chức và nạn tham nhũng. 

4. HUAC: Ủy ban điều tra các hoạt động bài Mỹ, thành lập năm 1951. 

5. Semper fi: khẩu hiệu của thủy quân lục chiến Mỹ, có nghĩa là tuyệt đối trung thành. 

6. Forever and ever: mãi mãi và mãi mãi. 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.