Đảo kinh hoàng

Ngày Thứ Tư



Người thủy thủ tồi

TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT hoặc có thể đã chết đang lấy áo khoác. 

Bọn họ đang ở trong bếp và áo khoác của họ treo trên móc. Bố của Teddy lấy một chiếc áo khoác đi biển cũ, so vai chui vào trong đó rồi giúp Dolores mặc áo của cô và nói với Teddy, “Con có biết ta muốn quà gì cho Giáng sinh không?”

“Không, bố.”

“Một cái kèn túi.” 

Và Teddy hiểu ý ông định nói gì, ông muốn tham gia câu lạc bộ đánh gôn và có một cái túi chơi gôn.

“Giống như Ike,” anh nói.

“Chính thế,” bố anh trả lời rồi đưa cho Chuck áo khoác của anh ta.

Chuck mặc nó vào người. Đó là một chiếc áo đẹp. Bằng loại vải cashmere thời kỳ trước chiến tranh. Vết sẹo của Chuck đã biến mất nhưng đôi bàn tay thanh tú như đi mượn của anh ta vẫn còn đó và anh ta giơ chúng ra trước mặt Teddy, những ngón tay ngọ nguậy.

“Cậu đi lại với nữ bác sĩ đó đấy à?” Teddy hỏi.

Chuck lắc đầu. “Tôi được giáo dục quá mức. Tán gái cũng có bài bản.”

“Thành công chứ?”

“Đại bại thì có.”

“Thật đáng tiếc!”

“Hôn tạm biệt vợ anh hộ tôi. Vào má nhé!”

Teddy nghiêng người qua mẹ anh và Tootie Vicelli miệng đầy máu lúc này đang mỉm cười với anh, hôn lên má Dolores và nói, “Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?”

“Con khô như ngói ấy chứ,” cô nói với bố Teddy.

“Nếu bố trẻ đi một nửa số tuổi,” bố anh nói. “Bố sẽ cưới con, con gái ạ.”

Tất cả bọn họ đều ướt sũng, thậm chí cả mẹ anh và Chuck. Áo khoác của họ rỏ nước tong tỏng xuống sàn nhà.

Chuck đưa cho anh ba đẵn củi và nói, “Để cho vào lò sưởi.”

“Cảm ơn,” Teddy cầm lấy chỗ củi rồi lập tức quên mất phải đặt chúng ở đâu.

Dolores xoa bụng và nói, “Cái lũ thỏ khốn kiếp ấy. Bọn chúng thì được cái tích sự gì nhỉ?”

Laeddis và Rachel Solando bước vào trong phòng. Hai người họ không mặc áo khoác. Họ chẳng mặc bất cứ cái gì. Laeddis đưa một chai rượu yến mạch qua đầu mẹ anh rồi kéo Dolores vào lòng, đáng lẽ Teddy phải cảm thấy ghen tuông nhưng Rachel đã lập tức quỳ gối trước mặt anh, kéo khóa quần anh xuống. Cha anh, mẹ anh, Chuck và Tootie Vicelli vẫy tay bỏ đi còn Dolores và Laeddis rút lui vào phòng ngủ, Teddy có thể nghe thấy tiếng họ trên giường, cởi bỏ quần áo, thở dồn dập vì khoái lạc, và mọi chuyện có vẻ như rất hoàn hảo, rất tuyệt vời. Khi anh đỡ Dolores đứng dậy và nghe thấy tiếng Rachel và Leaddis trong cơn mây mưa điên cuồng của họ, anh hôn vợ anh, đặt một tay lên chỗ kín dưới bụng cô và cô nói, “Cảm ơn anh,” và rồi anh đi vào cô từ phía sau, hất đổ những thanh củi ra khỏi tủ bếp. Viên giám đốc trại giam và người của ông ta cùng uống chai rượu yến mạch của Laeddis. Viên giám đốc trại giam nháy mắt tán thành với những kỹ thuật làm tình của Teddy, giơ một ly rượu lên trước mặt anh rồi nói với người của mình:

“Đây là một tên mọi da trắng bám trụ rất khá. Các anh nhìn thấy hắn thì phải bắn ngay. Nghe rõ chưa? Không nghĩ ngợi gì cả. Nếu gã này ra khỏi hòn đảo thì tất cả chúng ta sẽ khốn đốn đấy, thưa các quý ông.”

Teddy hất chiếc áo vest ra khỏi ngực và bò ra gần miệng hang. 

Viên giám đốc trại giam và người của ông ta đang đứng trên mỏm đá phía trên đầu anh. Mặt trời đã lên. Những con mòng biển bắt đầu kêu keng kéc.

Teddy nhìn đồng hồ đeo tay. Đã tám giờ sáng.

“Các anh không được mạo hiểm,” viên giám đốc trại giam nói. “Gã đàn ông này được đào tạo, thử thách và tôi luyện trong chiến trận. Hắn đã được tặng thưởng huân chương Purple Heart và một loạt huy chương Oak Leaf. Hắn đã giết hai người đàn ông ở Sicily bằng tay không.”

Những thông tin này nằm trong hồ sơ cá nhân của anh, Teddy biết. Nhưng làm thế quái nào mà họ lại có được chúng?

“Hắn dùng dao hay đánh nhau tay đôi đều rất thiện nghệ. Chớ có lại gần hắn quá. Có cơ hội thì phải hạ hắn ngay như một con chó-hai-chân.”

Teddy thấy mình mỉm cười bất chấp tình thế của anh lúc này. Không hiểu những người dưới quyền giám đốc trại giam đã phải nghe cái kiểu so sánh chó-hai-chân này biết bao nhiêu lần?

Ba lính gác dùng dây thừng tụt xuống từ đỉnh vách đá nhỏ nhất, Teddy lánh khỏi miệng hang, quan sát họ leo xuống tới dải bờ biển hẹp dưới chân vực. Vài phút sau họ leo trở lên và Teddy nghe thấy một trong số họ nói, “Anh ta không có ở dưới này thưa sếp.”

Anh nghe thấy họ lùng sục thêm một lúc ở phía trên, gần mũi đất và con đường mòn dẫn về bệnh viện, rồi họ bỏ đi khi không tìm thấy gì. Teddy đợi thêm một tiếng đồng hồ nữa rồi mới rời khỏi hang sau khi đã chắc chắn không còn nghe thấy xe ô tô chạy và đã cho nhóm tìm kiếm đủ thời gian lục soát chán chê để khỏi chạm trán ai trong số họ. 

Khi anh ra tới được con đường mòn thì đã chín giờ hai mươi. Anh đi theo con đường về phía Tây, cố đi thật nhanh nhưng tai vẫn dỏng lên nghe ngóng đề phòng có ai đó đang di chuyển ở phía trước hay đằng sau lưng mình. 

Trey đã dự báo thời tiết chính xác. Trời nóng như điên, Teddy cởi áo vest vắt lên tay. Anh cũng nới lỏng nút cà vạt rồi lôi nó qua đầu và cất vào trong túi. Miệng anh khô như ngói còn mắt anh thì ngứa ngáy vì mồ hôi túa ra.

Anh vừa thấy Chuck trong giấc mơ của mình, đang mặc áo khoác và hình ảnh đó còn khiến anh cảm thấy nhức nhối hơn cả cái cảnh Laeddis nô giỡn với Dolores. Trước khi Rachel và Laeddis xuất hiện thì tất cả những người trong giấc mơ đó đều là người chết. Trừ Chuck. Nhưng cậu ta đã lấy áo khoác từ cùng một cái móc áo và đi theo họ ra cửa. Teddy ghét cái tính biểu tượng của hình ảnh đó. Nếu họ túm được Chuck ở trên mỏm đất, họ hẳn phải lôi anh ta đi chỗ khác trong khi Teddy đang băng qua đồng cỏ để trở về. Và cho dù cái kẻ rình rập Chuck là ai đi nữa thì hắn hẳn phải là một tay xuất sắc vì Chuck đã không kịp kêu lên lấy một tiếng. 

Phải quyền lực tới đâu để có thể làm biến mất không chỉ một mà những hai đặc vụ Mỹ?

Quyền lực tối cao. 

Và nếu như kế hoạch của bọn họ là biến Teddy thành kẻ điên thì kế hoạch dành cho Chuck hẳn phải khác đi. Vì sẽ không ai tin việc hai đặc vụ cùng bị mất trí một lúc trong vòng bốn ngày. Nên kế hoạch dành cho Chuck hẳn sẽ gắn liền với một tai nạn. Trong cơn bão dữ chẳng hạn. Trên thực tế, nếu như họ thật sự thông minh – và có vẻ như thế thật – thì có lẽ cái chết của Chuck sẽ được sử dụng như một cái cớ để lý giải việc Teddy bị đẩy quá giới hạn của mình đến phát điên.

Không thể chối cãi được rằng đây là một giả thuyết vô cùng hợp lý.

Nhưng nếu Teddy không ra khỏi đây được thì văn phòng liên bang cũng sẽ không bao giờ chấp nhận câu chuyện đó cho dù nó có hợp lý thế nào đi chăng nữa mà không gửi các đặc vụ khác tới để điều tra.

Và họ sẽ tìm thấy cái gì?

Teddy nhìn xuống cổ tay và ngón tay của anh đang run lên. Ngày càng trầm trọng. Đầu óc anh không hề nhẹ đi chút nào sau một giấc ngủ đêm. Một cảm giác u mê, lưỡi như tắc lại trong cổ họng. Tới lúc văn phòng liên bang gửi nhân viên tới đây thì hẳn thuốc đã phát huy tác dụng, họ sẽ thấy Teddy đang mặc áo ngủ, mũi dãi lòng thòng, ị đái bừa bãi ngay chỗ đang ngồi. Và thế là phiên bản sự thật của bệnh viện Ashecliffe sẽ được hợp thức hóa. 

Anh nghe thấy tiềng còi ủ từ bến phà và trèo lên một con dốc đúng lúc con phà quay đầu xong, đang tiến giật lùi về phía cầu cảng. Anh rảo bước và chỉ mười phút sau anh đã có thể nhìn thấy nó xuyên qua rừng cây phía sau ngôi nhà kiến trúc kiểu Tudor của Cawley. 

Anh bỏ đường chính rẽ vào rừng và nghe tiếng mọi người lục tục dỡ hàng, tiếng những chiếc thùng các tông bị ném phịch lên cầu cảng, tiếng xe kéo hai bánh bằng sắt kêu leng keng, tiếng chân người bước rầm rập trên những ván cầu bằng gỗ. Anh bước tới gần rặng cây cuối cùng và nhìn thấy mấy người hộ lý trên cầu cảng, hai người lái phà đang ngồi dựa lưng vào đuôi phà, và rất nhiều lính gác, súng đeo bên hông, người quay về phía khu rừng, mắt sục sạo trên đám cây cối và những khoảnh đất phía trước bệnh viện Ashecliffe. 

Khi những người hộ lý đã dỡ hàng xong và kéo xe đi thì đám lính gác vẫn đứng tại chỗ. Teddy hiểu rằng công việc duy nhất của họ trong buổi sáng hôm nay là ngăn cản anh lên chuyến phà đó bằng mọi cách.

Anh rón rén quay trở lại, đi xuyên qua khu rừng về phía nhà Cawley. Anh nghe thấy tiếng người ở trên lầu và nhìn thấy một hộ lý ở trên mái nhà chỗ bị thủng, lưng xoay về phía Teddy. 

Anh tìm thấy chiếc xe ô tô trong chỗ đỗ xe ở phía Tây ngôi nhà. Một chiếc Buick Roadmaster 47. Màu nâu sẫm, nội thất da màu trắng. Vừa được lau chùi và đánh bóng sau cơn bão. Một chiếc xe mà chủ nhân nó rất yêu quý.

Anh mở cửa xe chỗ tài xế ngồi và ngửi thấy mùi da còn gây gây, như thể mới được đưa vào sử dụng ngày hôm qua. Anh mở hộp để găng và tìm thấy mấy bao diêm, anh bèn lấy hết đi.

Anh lôi chiếc cà vạt ra khỏi túi, tìm thấy một hòn đá nhỏ trên mặt đất và buộc nó lại bằng cái đuôi cà vạt. Anh nhấc biển số xe ra, mở nắp xăng, ròng chiếc cà vạt và viên đá vào trong cho tới khi chỉ còn một mẩu cà vạt hoa lủng lẳng phía bên ngoài.

Teddy nhớ Dolores đã tặng anh chiếc cà vạt này, cô vắt nó ngang qua mắt anh khi đang ngồi trong lòng anh.

“Anh xin lỗi, em yêu,” anh thì thầm. “Anh yêu chiếc cà vạt này vì em đã tặng cho anh. Nhưng nói thật, nó là một chiếc cà vạt xấu khủng khiếp.”

Và anh ngẩng mặt lên trời mỉm cười xin lỗi cô rồi dùng một que diêm châm vào bao diêm và dùng cả bao diêm để đốt chiếc cà vạt. Rồi anh vắt chân lên cổ chạy.

Anh chạy được tới giữa khu rừng thì chiếc xe nổ tung. Anh nghe có tiếng người la hét liền quay lại nhìn thì thấy khói bốc lên từng cuộn, rồi tiếp theo là một loạt vụ nổ nhỏ, giống như pháo hoa, kính từ các cửa sổ vỡ tung tóe. Khi tới bìa rừng, anh cuộn chiếc áo vest lại và giấu nó dưới mấy viên đá. Anh nhìn thấy những người lính gác và hai người lái phà chạy về phía nhà của Cawley, anh biết nếu anh muốn lên được chuyến phà đó thì phải hành động tức thì, không nghĩ ngợi gì cả, và như thế cũng tốt vì nếu cứ suy tính quá nhiều thì thường cuối cùng anh sẽ chẳng làm gì cả.

Anh ra khỏi khu rừng, chạy dọc theo bờ biển, ngay trước khi tới được cầu cảng và có nguy cơ lộ diện nếu ai đó xuất hiện, anh bèn ngoặt sang trái và lao xuống nước. 

Chúa ơi, nước biển lạnh như đá. Teddy cứ hy vọng nhiệt độ ban ngày sẽ làm nó ấm lên một chút thế mà cái lạnh xuyên khắp người anh như điện giật và đẩy bật không khí ra khỏi ngực anh. Nhưng Teddy tiếp tục lao người về phía trước, cố không nghĩ tới những thứ đang ở trong nước cùng anh – lươn, sứa, cua và có thể là cả cá mập nữa. Nghe có vẻ nực cười nhưng Teddy biết cá mập thường tấn công con người ở độ sâu chừng một mét như độ sâu của anh lúc này đây. Nước mấp mé bên sườn anh rồi dâng cao dần và anh nghe thấy những tiếng la hét từ phía ngôi nhà của Cawley, bất chấp trái tim đang phản đối dữ dội trong lồng ngực, anh chìm đầu xuống nước. 

Anh nhìn thấy đứa bé gái trong giấc mơ của anh, trôi nổi ngay phía dưới, mắt con bé mở to vô vọng. 

Anh lắc đầu và con bé biến mất. Rồi anh nhìn thấy thân phà ở phía trước mặt, một thanh kim loại dày màu đen dập dờn trong sóng nước màu xanh lục, anh bơi lại gần, bám vào đó. Anh di chuyển về phía mũi phà để vòng sang mạn phà phía bên kia, nơi anh từ từ nhô đầu khỏi mặt nước. Anh cảm thấy ánh mặt trời mơn man trên mặt khi anh thở ra rồi hít lấy hít để oxy vào trong phổi, cố không nghĩ đến hình ảnh hai chân của anh vẫn lơ lửng dưới nước, những sinh vật biển bơi ngang qua, dừng lại quan sát, không hiểu là vật gì bèn tiến lại gần để đánh hơi…

Chiếc thang vẫn ở đúng chỗ cũ, ngay trước mặt anh và anh bám một tay lên nấc thang thứ ba. Anh có thể nghe thấy tiếng chân người quay trở lại phía cầu cảng, chạy rầm rập trên những mảnh ván gỗ. Và rồi anh nghe tiếng của giám đốc trại giam:

“Lục soát con phà đó.”

“Sếp, chúng tôi mới chỉ vừa đi khỏi có…”

“Các anh tự động rời bỏ vị trí của mình, giờ các anh lại còn muốn tranh cãi nữa sao?”

“Không thưa ngài. Xin lỗi ngài.”

Chiếc cầu thang dập dềnh khi đám lính gác tràn lên phà và Teddy có thể nghe thấy tiếng họ đi lại trên đó, mở tung các cánh cửa và di chuyển đồ đạc.

Có cái gì đó trườn qua háng anh giống như một bàn tay, anh nghiến chặt răng, tay bám chắc vào nấc thang và cố giữ cho đầu óc trống rỗng vì không muốn tưởng tượng ra đó là vật gì. Nhưng may mắn là nó tiếp tục chuyển động ra khỏi chân anh và Teddy khẽ thở phào. 

“Xe ô tô của tôi. Anh ta cho cả cái xe nổ tung,” Cawley nói giọng rời rạc như sắp hụt hơi.

“Chuyện này đã đi đủ xa rồi đấy bác sĩ,” viên giám đốc trại giam nói.

“Chúng ta đã nhất trí rằng tôi là người đưa ra quyết định.”

“Nếu gã đó trốn khỏi hòn đảo…”

“Anh ta sẽ không rời khỏi cái hòn đảo này.”

“Tôi chắc là ông cũng không nghĩ anh ta sẽ biến cục cưng của ông thành một đám cháy đúng không? Chúng ta phải chấm dứt vụ này ngay thôi để cắt giảm thiệt hại.”

“Tôi đã mất quá nhiều công sức để có thể bỏ ngang như thế!”

Viên giám đốc trại giam lên giọng, “Nếu gã đó trốn khỏi hòn đảo thì chúng ta đi đời.”

Cawley đáp cũng gay gắt không kém, “Anh ta sẽ không rời khỏi cái hòn đảo chết tiệt này!”

Thế rồi không ai nói gì trong một lát. Teddy có thể nghe thấy tiếng chân họ di chuyển trên cầu cảng. 

“Thôi được, bác sĩ. Nhưng con phà này sẽ ở lại đây. Nó sẽ không đi đâu cả cho đến khi gã đó được tìm thấy.”

Teddy vẫn cố bám trụ, cái lạnh bắt đầu liếm vào chân anh khiến chúng tê buốt và nhức nhối.

“Ở Boston người ta sẽ thắc mắc về chuyện này,” Cawley nói.

“Rồi sẽ có câu trả lời cho họ. Nhưng con phà sẽ ở lại đây.”

Có cái gì đó thúc vào bắp chân trái của Teddy. 

“Thôi được, giám đốc.”

Vật gì đó lại thúc vào chân anh lần nữa, Teddy đạp mạnh chân ra đằng sau khiến nước kêu ùng ục nghe như tiếng súng.

Tiếng bước chân dồn về phía đuôi phà.

“Anh ta không có ở đây, sếp. Chúng tôi đã kiểm tra khắp nơi.”

“Thế hắn đi đâu mới được?” Viên giám đốc trại giam nói. “Có ai có ý kiến gì không?”

“Tệ thật!”

“Gì vậy, bác sĩ?”

“Chắc anh ta đi về phía ngọn hải đăng.”

“Tôi cũng có nghĩ tới khả năng đó.”

“Tôi sẽ lo liệu chuyện này.”

“Hãy mang theo một số người.”

“Tôi đã nói là tôi sẽ lo liệu. Chúng tôi có người ở đó.”

“Không đủ.”

“Tôi sẽ lo liệu được, tôi đã bảo thế mà.”

Teddy nghe thấy tiếng giày của Cawley đi về phía cầu phà rồi nhỏ dần khi tiếng ông ta giẫm lên cát.

“Hải đăng hay không hải đăng,” viên giám đốc trại giam nói với người của ông ta, “thì con phà này cũng sẽ không đi đâu cả. Hãy bảo lái phà đưa chìa khóa động cơ và mang lại đây cho tôi.” 

ANH ĐÃ BƠI ĐƯỢC PHẦN LỚN đoạn đường. 

Anh rời khỏi chiếc phà, bơi về phía bờ cho tới khi anh có thể chống tay xuống cát và bò dọc theo bãi biển. Khi đã cách con phà khá xa, anh mạo hiểm nhô đầu lên khỏi mặt nước và nhìn lại phía sau. Anh đã cách họ vài trăm mét, đám lính gác lúc này đang đứng thành một vành đai xung quanh cầu cảng. 

Anh lại chui đầu xuống dưới nước và tiếp tục bò, không dám mạo hiểm bơi sải hay thậm chí là bơi chó vì sợ gây ra tiếng động. Bò thêm một đoạn nữa thì anh tới một khúc quành. Anh vòng theo nó rồi leo lên bờ, ngồi sưởi ấm dưới ánh mặt trời, người anh run lên vì lạnh. Anh tiếp tục men theo bờ biển cho tới khi đụng phải một vỉa đá nhô ra ngoài khiến anh lại phải xuống nước và bơi vòng qua nó. Anh buộc hai chiếc giày lại với nhau, đeo quanh cổ rồi vừa bơi qua vỉa đá vừa mường tượng đến những nắm xương của cha anh đang nằm đâu đó dưới thềm của chính đại dương này, mường tượng đến những con cá mập có vây lớn, đuôi quật vun vút trên mặt nước, và cả những con cá nhồng với hàm răng trắng nhởn. Nhưng anh biết là anh sẽ vượt qua chuyện này vì anh bắt buộc phải thế, nước lạnh khiến cả người tê tái nhưng anh không có sự lựa chọn nào khác là phải hành động, và anh sẽ còn phải làm thế nhiều lần trong những ngày tới, cho đến khi chiếc tàu Betsy Ross thả neo xuống mũi phía Nam hòn đảo. Và anh cũng biết cách duy nhất để chinh phục nỗi sợ hãi là đối diện với nó, anh đã học được điều ấy trong chiến tranh, nhưng kể cả như thế, nếu được chọn thì anh sẽ không bao giờ, không bao giờ ra biển nữa. Anh có thể cảm thấy nó quan sát anh, chạm vào anh. Anh có thể cảm thấy tuổi tác của nó, già cỗi hơn cả các vị thần và cũng hãnh diện hơn với số thi thể nạn nhân trong lòng nó. 

Anh nhìn thấy ngọn hải đăng vào khoảng một giờ trưa. Anh cũng không thể nói chắc chắn vì đồng hồ đeo tay của anh đã nằm trong túi áo vest nhưng mặt trời gần như đứng bóng. Anh leo lên bờ, ngay dưới dốc đá tại chân ngọn hải đăng. Anh nằm dựa vào một tảng đá và phơi mình dưới ánh mặt trời cho tới khi người không còn run nữa và da bớt tím tái.

Nếu Chuck đang ở trên ngọn hải đăng thì dù tình trạng của cậu ấy có ra sao đi nữa anh cũng sẽ mang cậu ấy ra khỏi chỗ này. Sống hay đã chết, anh cũng sẽ không để cậu ấy lại phía sau.

Thế thì anh sẽ chết mất.

Đó là giọng nói của Dolores và anh biết là cô đúng. Nếu anh phải đợi hai ngày cho tới khi tàu Betsy Ross xuất hiện, và Chuck không tỉnh táo lành lặn thì họ sẽ không thể thành công. Họ sẽ bị rượt đuổi và tóm gọn… Teddy mỉm cười… như những con chó-hai-chân.

Anh không thể để cậu ấy lại đây, anh nói với Dolores. Anh không thể làm vậy. Nếu anh không tìm thấy cậu ấy thì đã đi một lẽ. Nhưng cậu ấy là đồng sự của anh.

Anh mới chỉ gặp anh ta thôi mà.

Vẫn là đồng sự của anh. Và nếu cậu ấy đang ở trên kia, nếu họ đang làm hại cậu ấy, giam giữ cậu ấy trái với ý nguyện của cậu thì anh phải mang cậu ấy ra khỏi đó. 

Ngay cả nếu như anh phải chết? 

Ngay cả nếu như anh phải chết.

Vậy thì em hy vọng anh ta không có ở trên đó.

Anh trèo xuống khỏi vách đá, đi theo một con đường mòn bằng cát và vỏ sò uốn lượn giữa đám tảo biển, anh chợt nghĩ rằng nhận xét của Cawley về việc anh là một người có thiên hướng tự sát thật ra không hoàn toàn chính xác. Nó còn hơn cả mong muốn được chết. Đúng là trong nhiều năm, anh đã không thể tìm ra một lý do tốt đẹp nào để tiếp tục sống. Nhưng anh cũng không tìm ra một lý do tốt đẹp nào để chết. Bằng chính tay mình? Thậm chí trong những đêm sầu não nhất của đời mình, thì đó dường như cũng là một lựa chọn thảm hại. Đáng hổ thẹn. Yếu đuối. 

Nhưng giờ…

Một người lính gác bỗng từ đâu xuất hiện lù lù trước mặt anh, sửng sốt không kém gì anh trước sự hiện diện của đối phương, khóa quần của anh ta vẫn đang mở, một khẩu súng trường khoác trên lưng. Anh ta định thò tay kéo khóa quần trước rồi lại thay đổi ý định nhưng Teddy đã kịp thúc một cùi tay vào yết hầu của anh ta. Anh ta ôm lấy cổ họng và Teddy cong người giơ chân đạp vào phía sau người lính gác khiến anh ta mất thăng bằng ngã xuống. Teddy đứng thẳng dậy bồi cho anh ta một cú đá mạnh nữa vào tai khiến hai mắt anh ta trợn ngược lên, miệng há hốc.

Teddy cúi xuống tụt quai súng từ vai và lôi khẩu súng ra khỏi người anh ta. Anh nghe thấy anh ta vẫn thở. Như vậy là anh không giết anh ta.

Và giờ anh đã có một khẩu súng.

ANH DÙNG NÓ để đe dọa người lính gác thứ hai, đang đứng trước hàng rào bảo vệ. Anh tước vũ khí của cậu ta, một chàng thanh niên, một cậu bé thì đúng hơn và cậu ta nói, “Anh sẽ giết tôi chứ?”

“Chúa ơi, không, nhóc,” Teddy nói và nện báng súng vào thái dương cậu ta. 

BÊN TRONG HÀNG RÀO có một ngôi nhà nhỏ, Teddy kiểm tra nó trước tiên, chỉ thấy mấy chiếc giường đơn, vài quyển tạp chí tươi mát, một bình cà phê cũ, vài bộ đồng phục lính gác treo trên chiếc mắc áo sau cánh cửa.

Anh trở ra bên ngoài và đi về phía ngọn hải đăng, dùng súng mở cửa và không tìm thấy gì ở tầng trệt ngoài một căn phòng bằng xi măng thô, trống trơn, tường đá mốc meo, và một cầu thang hình xoắn ốc cũng bằng đá.

Anh leo lên cầu thang tới phòng thứ hai, cũng trống trơn như tầng dưới nhưng anh biết hẳn phải có một tầng hầm ở đâu đó, rất rộng, nối liền với phần còn lại của khu bệnh viện bởi những hành lang bí ẩn vì cho tới lúc này thì anh chưa tìm thấy gì cả ngoại trừ, tất nhiên, một ngọn hải đăng. 

Anh nghe thấy một âm thanh như tiếng cạo giấy ở phía trên, anh quay lại chỗ cầu thang, leo lên một tầng nữa và thấy mình đứng trước một cánh cửa sắt nặng nề, anh tì mũi súng vào đó và thấy nó khẽ nhúc nhích. 

Anh lại nghe thấy tiếng cạo giấy một lần nữa và anh có thể ngửi thấy mùi khói thuốc, nghe thấy tiếng đại dương vỗ ộp oạp và tiếng gió, và anh biết nếu viên giám đốc trại giam đủ thông minh để bố trí lính gác phía sau cánh cửa này thì Teddy hẳn sẽ toi mạng ngay khi đẩy nó ra.

Chạy đi, cưng.

Không thể.

Tại sao không?

Bởi vì tất cả đều sẽ dẫn tới kết cục này.

Cái gì cơ?

Tất cả mọi chuyện. Tất cả.

Em không thấy bằng cách nào mà…

Em. Anh. Laeddis. Chuck. Noyce, anh chàng đáng thương ấy. Tất cả đều dẫn tới kết cục này. Hoặc là nó dừng lại ngay tại đây. Hoặc là anh sẽ dừng nó lại.

Là đôi bàn tay của anh ta. Đôi bàn tay của Chuck. Anh không thấy gì sao?

Không. Cái gì cơ?

Bàn tay của anh ta ấy, Teddy. Chúng không phù hợp với anh ta.

Teddy hiểu ý cô nói gì. Anh cũng biết có cái gì đó rất quan trọng về đôi bàn tay của Chuck nhưng nó không quan trọng tới mức khiến anh phải lãng phí thời gian để nghĩ đến lúc này.

Anh sẽ phải đi qua cánh cửa này, em yêu.

Được rồi. Hãy cẩn thận nhé.

Teddy nấp sang phía bên trái cánh cửa. Anh tì báng súng vào sườn trái và đặt tay phải lên sàn nhà để giữ thăng bằng rồi giơ chân trái đạp mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa mở tung, anh lao tới, quỳ xuống, súng đặt trên vai, nòng súng chĩa vào trong.

Vào Cawley. Đang ngồi sau một chiếc bàn, trước một ô cửa sổ nhỏ, hình vuông, đại dương trải dài xanh ngắt với những con sóng bạc đầu sau lưng ông ta. Mùi của biển cả lấp đầy căn phòng, gió vờn trên tóc ông ta. 

Cawley không có vẻ gì là sửng sốt. Hay sợ hãi. Ông ta gõ gõ điếu thuốc vào chiếc gạt tàn ở trước mặt và nói với Teddy:

“Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?”

CÁC BỨC TƯỜNG SAU LƯNG Cawley được phủ kín bằng những tấm ga giường màu hồng, các góc được dán lại bằng những dải băng dính nhăn nheo. Trên chiếc bàn trước mặt ông ta ngổn ngang những chồng tài liệu, một chiếc máy bộ đàm quân sự, giấy nhập viện của Laeddis, quyển sổ ghi chép và chiếc áo vest của Teddy. Một chiếc máy thu băng được đặt chễm chệ ở góc phòng trên một chiếc ghế, băng vẫn đang chạy. Trên đầu máy thu có một chiếc micro nhỏ chĩa xuống. Ngay trước mặt Cawley là một quyển sổ ghi chép bìa da màu đen. Ông ta hí hoáy ghi chép gì đó vào trong sổ và nói, “Ngồi xuống đi.”

“Ông bảo gì cơ?”

“Tôi bảo anh ngồi xuống.”

“Trước đó cơ?”

“Anh biết rõ tôi nói gì mà.”

Teddy hạ khẩu súng trường xuống khỏi vai nhưng vẫn chĩa mũi súng về phía Cawley và bước vào trong phòng.

Cawley quay lại với việc ghi chép của ông ta. “Súng không có đạn đâu.”

“Gì cơ?”

“Khẩu súng trường của anh ấy. Chẳng có viên đạn nào. Với tất cả những kinh nghiệm của anh về súng đạn sao anh lại có thể không phát hiện ra điều đó chứ?”

Teddy kéo khóa nòng và kiểm tra hộp đạn. Nó rỗng không. Để cho chắc anh nhằm vào bức tường phía bên tay trái của anh và nổ súng nhưng không có gì xảy ra ngoài tiếng cò súng kêu lách cách.

“Hãy đặt nó vào góc phòng,” Cawley nói.

Teddy đặt khẩu súng xuống đất, kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn nhưng chưa ngồi xuống ngay.

“Sau những tấm ga kia là cái gì?”

“Chúng ta sẽ bàn tới chúng sau. Ngồi xuống. Xả hơi đi đã. Này, cầm lấy.” Cawley thò tay xuống sàn nhấc lên một chiếc khăn bông dày và ném qua bàn về phía Teddy. “Lau khô người đi. Anh sẽ bị cảm mất.”

Teddy lau khô đầu trước rồi tụt chiếc áo sơ mi ra khỏi người. Anh cuộn nó lại và ném vào góc phòng rồi lau người. Lau xong anh với tay lấy chiếc áo vest trên bàn. “Ông không ngại chứ?”

Cawley ngẩng lên. “Không, không. Cứ tự nhiên.”

Teddy khoác chiếc áo vest lên người rồi ngồi xuống ghế.

Cawley viết thêm một lúc, chiếc bút chì kêu loẹt xoẹt trên giấy. “Anh có làm lính gác bị thương nặng không?”

“Không đến nỗi,” Teddy nói.

Cawley gật đầu, bỏ bút chì xuống quyển sổ, cầm lấy máy bộ đàm và bắt đầu quay máy. Rồi ông ta nhấc chiếc ống nghe lên, ấn nút đàm thoại và nói, “Đúng, anh ta đang ở đây. Hãy để bác sĩ Sheehan ngó qua người của anh trước khi lên đây.”

Ông ta đặt ống nghe xuống.

“À, vị bác sĩ Sheehan bí ẩn,” Teddy nói.

Cawley nhướng mày. 

“Để tôi đoán xem – anh ta vừa tới trên chuyến phà sáng nay.”

Cawley lắc đầu. “Anh ấy vẫn ở trên đảo suốt thời gian qua.”

“Và trốn tránh tất cả mọi người,” Teddy nói.

Cawley khẽ nhún vai, hai tay chìa ra trước.

“Anh ấy là một nhà tâm thần học xuất sắc. Trẻ tuổi nhưng đầy hứa hẹn. Đây chính là kế hoạch của tôi và anh ấy.”

Teddy cảm thấy có cái gì đó đập thình thịch trong cổ anh ngay phía dưới tai trái. “Kết quả ra sao rồi?”

Cawley nhấc một trang giấy trong cuốn sổ ghi chép của ông ta lên để đọc trang phía dưới rồi thả tay ra. “Không được tốt lắm. Tôi đã kỳ vọng nhiều hơn vào nó.”

Ông ta nhìn Teddy qua chiếc bàn làm việc và Teddy có thể thấy trên nét mặt ông ta cái biểu hiện mà anh bắt gặp ở chỗ cầu thang hôm nọ và trong buổi họp nhân sự trước cơn bão, một biểu hiện không phù hợp với chân dung của con người này, hòn đảo này, ngọn hải đăng này, và trò chơi kinh hoàng mà họ đang tham dự. 

Lòng trắc ẩn. 

Nếu Teddy không phải là một người từng trải, anh hẳn tin là thế.

Teddy nhìn đi chỗ khác, nhìn xung quanh phòng, lên những tấm ga giường trên tường. 

“Vậy nó là đây?”

“Phải đấy,” Cawley đồng ý. “Đây là ngọn hải đăng. Chiếc Chén Thánh. Sự thật vĩ đại mà anh đang tìm kiếm. Đây có phải là tất cả những gì mà anh hy vọng và hơn thế không?”

“Tôi vẫn chưa nhìn thấy tầng hầm.”

“Ở đây không có tầng hầm. Đây là một ngọn hải đăng.”

Teddy nhìn quyển sổ tay của anh đang nằm trên bàn giữa hai người họ. 

“Quyển sổ ghi chép của anh, đúng vậy. Chúng tôi tìm thấy nó cùng với chiếc áo vest của anh ở trong rừng gần nhà tôi. Anh đã cho nổ tung cả chiếc ô tô của tôi.”

Teddy nhún vai. “Xin lỗi.”

“Tôi rất thích chiếc xe đó.”

“Tôi rất hiểu cảm giác đó.”

“Tôi đứng trong phòng trưng bày xe hơi mùa xuân năm bốn mươi bảy và tôi còn nhớ khi nhìn thấy chiếc xe ấy tôi đã nghĩ gì, rồi, John, thế là số phận của chiếc xe này đã được định đoạt. Anh sẽ không phải nghĩ tới chuyện mua một chiếc xe khác trong vòng ít nhất mười lăm năm nữa.” Ông ta thở dài. “Và tôi đã rất hài lòng.” 

Teddy giơ hai tay lên. “Một lần nữa, tôi xin lỗi.”

Cawley lắc đầu. “Chẳng lẽ anh nghĩ chúng tôi sẽ để anh lên chuyến phà đó sao? Cho dù anh có làm nổ tung cả hòn đảo để đánh lạc hướng thì anh nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra?”

Teddy nhún vai.

“Anh chỉ có một mình,” Cawley nói, “mà việc duy nhất của tất cả mọi người sáng nay là ngăn cản anh leo lên con phà đó. Nên tôi không hiểu được tại sao anh lại tính toán như thế?”

“Đó là cách duy nhất để đi khỏi đây nên tôi cứ phải thử thôi,” Teddy nói.

Cawley nhìn anh vẻ bối rối và lẩm bẩm, “Chúa ơi, tôi rất thích cái xe đó,” và nhìn xuống vạt áo.

“Ông có nước không?” Teddy hỏi.

Cawley có vẻ cân nhắc yêu cầu của anh nên phải mất một lúc ông ta mới xoay chiếc ghế để lộ ra một bình đựng nước và hai chiếc ly đặt trên khung cửa sổ phía sau lưng. Ông ta rót nước rồi đưa cho Teddy một ly. 

Teddy một hơi uống cạn ly nước.

“Khô miệng hả?” Cawley nói. “Từ trong lưỡi anh như có một cơn ngứa mà anh không thể nào gãi hết được dù uống bao nhiêu nước đi chăng nữa?” Ông ta đẩy bình nước ngang qua bàn về phía Teddy và nhìn anh rót thêm một ly nữa. “Tay anh bắt đầu run lên từng chập. Càng lúc càng tồi tệ. Đầu anh thế nào rồi?”

Khi ông ta nói về những triệu chứng đó, Teddy cảm thấy một cơn đau nóng rẫy xuyên suốt từ phía sau mắt trái của anh sang thái dương rồi lên phía trên tới đỉnh sọ và xuống phía dưới tới quai hàm. 

“Cũng không tệ lắm,” anh nói. 

“Rồi nó sẽ trở nên tệ hơn đấy.”

Teddy lại uống thêm nước. “Tôi biết. Nữ bác sĩ đó cũng bảo tôi thế.”

Cawley xoay người lại, mỉm cười, và gõ gõ chiếc bút chì lên quyển sổ tay của mình. “Lại ai nữa đây?”

“Tôi không hỏi được tên của cô ta. Nhưng cô ta từng làm việc với ông.”

“Ồ. Thế cô ta nói gì?”

“Cô ta nói các loại thuốc an thần sẽ kích hoạt trong máu và phát huy tác dụng sau bốn ngày. Cô ta cũng dự đoán các triệu chứng như khô miệng, đau đầu và run rẩy.”

“Một phụ nữ thông minh.”

“Đúng thế.”

“Nhưng không phải do thuốc an thần đâu.”

“Không?”

“Không.”

“Thế thì là do cái gì?”

“Ngừng dùng thuốc,” Cawley nói.

“Ngừng dùng cái gì cơ?”

Cawley lại mỉm cười, ánh mắt ông ta trở nên xa xăm. Rồi ông ta mở quyển sổ tay của Teddy lật tới trang cuối cùng có chữ viết và đẩy nó về phía anh.

“Đây là chữ viết tay của anh, đúng không?”

Teddy liếc qua rồi nói, “Đúng.”

“Đây là mật mã cuối cùng?”

“Đúng vậy.”

“Sao anh không giải nó?”

“Tôi không có thời gian. Mọi chuyện bỗng trở nên bấn loạn, xin nhắc lại thế nếu ông đã quên.”

“Đúng vậy, đúng vậy.” Cawley gõ gõ lên trang giấy. “Anh muốn giải nó bây giờ không?”

Teddy nhìn xuống chín con số và chữ cái:

13(M)-21(U)-25(Y)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I)

Anh cảm thấy cơn đau bỏng rát đang thọc vào sâu mắt trái.

“Tôi không cảm thấy đủ minh mẫn lúc này.”

“Nhưng mật mã này đơn giản mà,” Cawley nói. “Chỉ có chín chữ cái thôi.”

“Hãy để cho đầu tôi nghỉ một tí được không?”

“Được thôi.”

“Mà ngừng dùng cái gì cơ?” Teddy nói. “Ông đã cho tôi uống thuốc gì vậy?”

Cawley bẻ các khớp tay rồi ngả lưng vào ghế ngáp một cái rõ to. “Chlorpromazine. Nó có các tác dụng phụ. Khá nhiều. Tôi e là thế. Tôi cũng không thích loại thuốc này lắm. Trước khi xảy ra một loạt những sự kiện như vừa rồi, tôi vẫn hy vọng bắt đầu điều trị anh bằng imipramine nhưng giờ thì chắc không được nữa rồi.” Ông ta nhoài người ra phía trước. “Thường thì tôi cũng không phải là người ủng hộ các phương pháp dược lý, nhưng trong trường hợp của anh thì tôi thấy đúng là cần thiết.”

“Imipramine là gì?”

“Nó còn có một tên gọi khác là Tofranil.”

Teddy mỉm cười. “Thế còn chlorpro… ”

“… mazine,” Cawley gật gù. “Chlorpromazine. Đó là loại thuốc đã gây ra các triệu chứng nói trên do anh ngừng uống thuốc trong suốt mấy ngày vừa rồi. Loại thuốc mà chúng tôi đã đưa cho anh dùng suốt hai năm qua.”

“Hai gì cơ?”

“Hai năm.”

Teddy cười. “Nghe này, tôi biết là các ông rất có thế lực. Nhưng cũng không cần phải phóng đại thế chứ.”

“Tôi không phóng đại chút nào.”

“Các ông đã đánh thuốc tôi suốt hai năm qua?”

“Tôi thích dùng thuật ngữ ‘điều trị’ hơn.”

“Và, sao nhỉ, các ông có một người làm việc tại văn phòng tầm nã liên bang. Nhiệm vụ của anh ta là pha thuốc vào đồ uống của tôi mỗi buổi sáng? À không, đợi đã, anh ta làm việc ở chỗ quầy báo nơi tôi thường hay mua cà phê trên đường đi làm. Như thế nghe hợp lý hơn. Và như vậy, trong suốt hai năm, các ông có một người ở Boston chuyên bỏ thuốc vào cà phê của tôi.”

“Không phải ở Boston,” Cawley khẽ khàng nói. “Mà là ở đây.”

“Ở đây?”

Ông ta gật đầu. “Anh đã ở đây suốt hai năm qua. Một bệnh nhân của bệnh viện này.”

Teddy có thể nghe thấy tiếng thủy triều đang lên, giận dữ xô vào vách đá. Anh nắm chặt hai tay lại để kiềm chế những cơn run rẩy và cố phớt lờ cơn đau đang phập phồng trong mắt trái càng lúc càng trở nên nóng rẫy và quyết liệt. 

“Tôi là một đặc vụ Mỹ,” Teddy nói.

“Từng là một đặc vụ Mỹ,” Cawley đáp.

“Đang là,” Teddy nói. “Tôi là một đặc vụ liên bang làm việc cho chính phủ Mỹ. Tôi rời khỏi Boston sáng ngày thứ Hai, ngày hai mươi hai, tháng Chín, năm 1954.”

“Vậy sao?” Cawley nói. “Hãy nói cho tôi biết anh đã tới con phà bằng cách nào? Tự lái xe? Thế anh đỗ xe ở đâu?”

“Tôi đi tàu điện ngầm.”

“Tàu điện ngầm không có tuyến đi ra tận đó.”

“Sau đó tôi đổi sang xe buýt.”

“Thế sao anh không tự lái xe?”

“Xe đang nằm trong gara.”

“Thế còn ngày Chủ nhật trước đó. Anh có nhớ gì về ngày Chủ nhật trước đó không. Anh có thể kể cho tôi anh đã làm gì không? Anh có thể thành thật mà kể cho tôi về cái ngày trước khi anh thức dậy trong buồng tắm của con phà?”

Teddy có thể, hoàn toàn có thể kể lại cho ông ta nghe mọi chuyện nhưng cái cơn đau đầu chết tiệt đang khoan sâu vào mắt và ống xoang của anh. 

Thôi được. Nào thì nhớ lại. Kể cho ông ta nghe anh đã làm gì ngày Chủ nhật. Trở về nhà từ chỗ làm. Đi về căn hộ của anh ở Buttonwood. Không, không, không phải Buttonwood. Căn hộ ở Buttonwood đã bị cháy thành tro khi Laeddis phóng hỏa. Không, không phải. Thế thì anh sống ở đâu mới được chứ? Mẹ kiếp. Anh có thể hình dung ra cái chỗ đó. Đúng thế, đúng thế. Cái chỗ… cái chỗ… ở Castlemont. Đúng vậy. Trên đại lộ Castlemont. Ở gần hồ. 

Được rồi, được rồi. Hãy thong thả. Anh quay trở về nhà anh trên đại lộ Castlemont, ăn tối và uống một chút sữa rồi đi ngủ. Đúng không nhỉ? Đúng thế.

Cawley nói, “Thế còn cái này thì sao? Anh đã có lúc nào ngó qua nó chưa?”

Ông ta đẩy tờ giấy nhập viện của Laeddis ra trước mặt anh.

“Chưa.”

“Chưa hả?” Ông ta nói rồi huýt sáo. “Anh tới đây vì nó. Nếu anh có được mảnh giấy này để đưa cho Thượng nghị sĩ Hurly – bằng chứng về bệnh nhân thứ sáu mươi bảy mà chúng tôi vẫn tuyên bố là không hề có – thì anh có thể lật tẩy bộ mặt của bệnh viện này.”

“Đúng thế.”

“Đúng quá còn gì. Thế mà suốt hai mươi tư tiếng vừa rồi anh không kịp liếc qua lấy một cái?”

“Lại nữa, mọi chuyện bỗng trở nên…”

“Bấn loạn, đúng vậy, tôi hiểu. Vậy thì bây giờ hãy đọc nó đi.”

Teddy liếc xuống tờ giấy, nhìn thấy các thông tin rõ ràng về ngày, tháng, tên tuổi nhập viện của Laeddis. Ở mục nhận xét có viết:

Bệnh nhân rất thông minh và mắc chứng hoang tưởng cực độ. Có tiền sử khuynh hướng bạo lực. Rất dễ bị kích động. Không hề ăn năn hối hận về tội ác của mình do không thừa nhận rằng nó đã xảy ra. Bệnh nhân dựng lên một loạt câu chuyện hư cấu có tính hệ thống và điều đó ngăn cản anh ta đối diện với sự thật về những hành động của mình. 

Chữ ký phía bên dưới là của bác sĩ L. Sheehan.

“Nghe có vẻ đúng,” Teddy nói.

“Có vẻ đúng?”

Teddy gật đầu.

“Ám chỉ ai?”

“Laeddis.”

Cawley đứng dậy. Ông ta đi tới gần bức tường và kéo một tấm ga xuống. Bốn tên người được viết hoa cỡ chữ dài mười lăm centimet: 

EDWARD DANIELS – ANDREW LAEDDIS

RACHEL SOLANDO – DOLORES CHANAL

Teddy chờ Cawley giải thích tiếp trong khi Cawley dường như lại đợi phản ứng của Teddy nên cả hai người cùng không nói gì trong một lát. 

Cuối cùng Teddy lên tiếng, “Tôi đoán là ông đã có một giả thiết về chuyện này.”

“Hãy nhìn vào những cái tên đó.”

“Tôi đang nhìn đấy thôi.”

“Tên của anh, tên của bệnh nhân thứ sáu mươi bảy, tên của bệnh nhân mất tích và tên của vợ anh.”

“Cái đó thì rõ rồi, tôi có bị mù đâu.”

“Đó chính là cái gọi là luật của bốn của anh đấy,” Cawley nói.

“Thế là thế nào?” Teddy lấy tay chà mạnh lên thái dương, cố làm giảm cơn đau nhức nhối.

“Anh là thiên tài về mật mã cơ mà. Anh thử nói xem.”

“Nói gì cơ?”

“Hai cái tên Edward Daniels và Andrew Laeddis có điểm gì chung?”

Teddy nhìn vào tên của anh và Laeddis một lúc. “Chúng đều có mười ba chữ cái.”

“Đúng thế,” Cawley nói. “Đúng là như thế, còn gì nữa?” 

Teddy nhìn chằm chằm và chằm chằm rồi nói, “Không còn gì nữa.”

“Nào, cố lên.” Cawley cởi chiếc áo blu mặc trong phòng thí nghiệm ra và vắt lên thành ghế.

Teddy cố gắng tập trung tư tưởng nhưng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với trò chơi dền dứ này.

“Anh cứ từ từ mà đoán.”

Teddy tiếp tục nhìn cho tới khi các chữ cái bắt đầu trở nên xiên xẹo trong mắt anh.

“Có thấy gì không?” Cawley hỏi.

“Không. Tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ giống mỗi chỗ đều có mười ba chữ cái thôi.”

“Cố lên nào,” Cawley nói rồi trở bàn tay đập đập lên những dòng chữ đó.

Teddy lắc đầu và cảm thấy buồn nôn. Các chữ cái bắt đầu nhảy nhót trước mắt anh.

“Hãy tập trung vào.”

“Tôi đang tập trung đấy thôi.”

“Những cái tên này còn có gì giống nhau?” 

“Tôi không… Chúng đều có mười ba chữ cái. Mười ba.”

“Còn gì nữa?”

Teddy nhìn chòng chọc vào các dòng chữ cho tới khi chúng bắt đầu trở nên nhòe nhoẹt.

“Chẳng thấy gì.”

“Chẳng thấy gì ư?”

“Chẳng thấy gì, ông muốn tôi nói gì đây? Tôi không thể nói cho ông cái mà tôi không biết. Tôi không thể…”

“Chúng có những chữ cái giống hệt nhau!” Cawley hét lên. 

Teddy chúi đầu về phía trước cố định hình lại các chữ cái đang chập chờn trước mắt.

“Cái gì cơ?”

“Chúng có những chữ cái giống hệt nhau.”

“Không thể.”

“Những cái tên này chỉ hoán đổi vị trí các chữ cái mà thôi.”

“Không thể.”

“Không ư?” Cawley nhíu mày và di chuyển bàn tay giữa các dòng chữ. “Những cái tên này có cùng các chữ cái. Nhìn đi. Edward Daniels và Andrew Laeddis. Các chữ cái giống hệt nhau. Anh vốn có năng khiếu về giải mã, thậm chí còn suýt trở thành người giải mã trong quân đội, không đúng sao? Hãy cho tôi biết tại sao anh lại không thể nhìn thấy hai cái tên này có cùng mười ba chữ cái giống hệt nhau chứ?”

“Không thể!” Teddy lấy cườm tay dụi mắt, để nhìn rõ hơn hay để che ánh sáng lại thì chính anh cũng không rõ nữa.

“Không thể, nghĩa là chúng không thể có cùng các chữ cái hay không thể nghĩa là anh không muốn thừa nhận sự thật?”

“Chúng không thể có cùng các chữ cái.”

“Chúng có cùng các chữ cái giống hệt nhau. Mở mắt ra và nhìn chúng mà xem.”

Teddy mở mắt ra nhưng tiếp tục lắc đầu và những chữ cái bắt đầu rơi rụng lả tả trước mắt anh.

Cawley lại đập đập bàn tay vào dòng chữ tiếp theo. “Thế thử cái này vậy, ‘Dolores Chanal và Rachel Solando.’ Cả hai cũng cùng có mười ba chữ cái. Và anh có muốn nói cho tôi biết chúng còn có điểm chung nào nữa hay không?”

Teddy biết anh đang nhìn thấy gì nhưng anh cũng biết là chuyện này rất vô lý.

“Không thể? Lần này cũng không thể đúng không?”

“Nó không thể nào…”

“Nhưng mà đúng thế đấy. Lại cùng những chữ cái giống hệt nhau. Lại là sự hoán đổi vị trí của các chữ cái. Anh tới đây để tìm hiểu sự thật đúng không? Đây chính là sự thật của anh, Andrew.”

“Teddy chứ,” Teddy nói.

Cawley nhìn anh, khuôn mặt ông ta lại một lần nữa tràn ngập một vẻ thấu cảm sâu sắc.

“Tên anh là Andrew Laeddis. Anh là bệnh nhân thứ sáu mươi bảy của bệnh viện Ashecliffe. Hắn ta chính là anh, Andrew,” Cawley nói.

“THẬT NHỐ NHĂNG!” Teddy hét lên, tiếng hét dội lại trong đầu anh.

“Tên anh là Andrew Laeddis,” Cawley nhắc lại. “Hai mươi hai tháng trước, anh được đưa tới đây theo lệnh của tòa án.”

Teddy vung hai tay phản đối. “Chuyện này thật dưới tầm ngay cả những kẻ như các ông.”

“Hãy nhìn vào bằng chứng. Andrew, làm ơn. Anh…”

“Đừng có gọi tôi như thế.”

“… tới đây hai năm trước vì anh đã phạm một tội ác khủng khiếp. Một tội ác mà xã hội không thể tha thứ nhưng tôi thì có thể. Andrew, hãy nhìn tôi.”

Teddy rời mắt khỏi bàn tay của Cawley, nhìn lên cánh tay, lên ngực rồi nhìn vào khuôn mặt của ông ta. Đôi mắt Cawley lúc này lại ánh lên cái vẻ trắc ẩn giả tạo, cái lòng tốt vay mượn. 

“Tên tôi là Edward Daniels.”

“Không phải.” Cawley lắc đầu với vẻ mệt mỏi của một kẻ bại trận. “Tên anh là Andrew Laeddis. Anh đã làm một việc khủng khiếp và anh không thể tha thứ cho mình, không thể, dù với bất cứ lý do nào, nên anh phải đóng kịch. Anh đã tạo ra một câu chuyện có kết cấu hoàn chỉnh, dày đặc tình tiết, trong đó anh đóng vai một người hùng, Andrew. Anh tự thuyết phục bản thân mình rằng anh vẫn là một đặc vụ Mỹ và anh có mặt ở đây là để điều tra. Và rằng anh đang bóc trần một âm mưu, thế nên tất cả những gì chúng tôi nói ngược lại với ý anh đều biến thành những âm mưu đen tối trong vở kịch tưởng tượng của anh. Và có lẽ chúng tôi nên để mặc nó, để mặc anh sống trong thế giới tưởng tượng của anh. Tôi cũng muốn thế. Nếu như anh là một người vô hại, thì tôi thật sự rất muốn được làm thế. Nhưng anh là một kẻ bạo lực, rất bạo lực. Cộng thêm với việc anh được đào tạo chính quy trong quân ngũ và trong lực lượng hành pháp nên anh rất biết cách tàn bạo. Anh là bệnh nhân nguy hiểm nhất của chúng tôi ở đây. Chúng tôi không tài nào kiểm soát được anh. Nên mọi chuyện đã được quyết định, hãy nhìn vào tôi.”

Teddy nhìn lên, thấy Cawley gần như nhoài người qua bàn, ánh mắt đầy vẻ van lơn.

“Mọi chuyện đã được quyết định rằng nếu chúng tôi không thể khiến anh tỉnh táo trở lại – ngay bây giờ, ngay lúc này đây – thì những biện pháp lâu dài sẽ được áp dụng, để đảm bảo rằng anh sẽ không bao giờ có thể làm hại ai nữa. Anh có hiểu tôi đang nói gì với anh không?”

Trong một giây, có lẽ còn chưa tới một giây, một phần mười giây thì đúng hơn, Teddy gần như tin vào những gì ông ta nói. 

Rồi anh mỉm cười. 

“Ông diễn vai tốt rất tuyệt, bác sĩ. Thế còn ai là người vào vai xấu – Sheehan à?” Anh nói và ngoái nhìn ra phía cửa. “Sắp tới lượt anh ta rồi phải không?”

“Hãy nhìn tôi,” Cawley nói. “Hãy nhìn thẳng vào mắt tôi.”

Teddy làm theo. Mắt ông ta đỏ ngầu và đờ đẫn vì thiếu ngủ. Và còn nữa. Là cái gì vậy? Teddy giữ lấy ánh mắt của Cawley và cố đọc chúng. Rồi nó trở nên rõ ràng – nếu như anh không biết tỏng mưu đồ của ông ta – thì anh dám thề rằng ánh mắt của Cawley cho thấy ông ta đang rất đau khổ.

“Nghe này,” Cawley nói. “Tôi là tất cả những gì anh có. Là tất cả những gì anh từng có. Tôi đã nghe câu chuyện tưởng tượng này của anh suốt hai năm qua. Tôi biết từng nguồn cơn, chi tiết, các mật mã, người đồng sự bị mất tích, cơn bão, người phụ nữ trong hang, những thí nghiệm ma quỷ ở ngọn hải đăng. Tôi biết những câu chuyện về Noyce và vị Thượng nghị sĩ tưởng tượng Hurly. Tôi biết anh luôn mơ về Dolores, về cái bụng bị thủng của cô ấy và người cô ấy lúc nào cũng sũng nước. Tôi cũng biết cả chi tiết về những khúc gỗ.”

“Ông toàn nói vớ vẩn,” Teddy tiếp.

“Thế làm sao tôi lại biết được những chuyện đó?”

Teddy tiếp tục cuộc tranh luận với những ngón tay bắt đầu run rẩy: 

“Tôi đã ăn thức ăn của ông, uống cà phê của ông, hút thuốc lá của ông. Tôi lại còn uống ba viên ‘aspirin’ mà ông đưa cho tôi buổi sáng tôi mới tới đây. Rồi thêm ba viên khác nữa tối hôm nọ. Ông ngồi đấy lúc tôi thức dậy. Kể từ lúc đó tôi không còn như trước nữa. Đó là lúc mọi chuyện bắt đầu. Đêm đó, khi tôi bị đau đầu ông đã cho tôi uống cái gì vậy?”

Cawley dựa lưng ra phía sau. Mặt ông ta nhăn lại như thể ông ta vừa phải uống axit, mắt ông ta nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ.

“Tôi không còn thời gian nữa,” ông ta thì thầm. 

“Gì cơ?”

“Thời gian,” ông ta nói khẽ. “Người ta cho tôi bốn ngày. Và tôi đã dùng sắp hết.”

“Vậy hãy để tôi đi. Tôi sẽ trở lại Boston, viết một đơn kiện lên văn phòng liên bang nhưng đừng lo – với tất cả những bạn bè có thế lực của mình, tôi chắc là ông sẽ không sao.”

“Không, Andrew, tôi gần như mất hết bạn bè. Tôi đã tham dự vào một cuộc chiến tại đây suốt tám năm qua và cán cân đang nghiêng dần về phía bên kia. Tôi sẽ thua cuộc. Sẽ mất vị trí của mình và các nguồn tài chính. Tôi đã hứa trước toàn thể ban giám đốc rằng tôi sẽ tiến hành một thí nghiệm tâm lý có một không hai bằng các vai diễn, và điều đó sẽ giúp được anh. Sẽ khiến anh trở lại bình thường. Nhưng nếu tôi sai?” Mắt ông ta giãn ra, tay ông ta bóp cằm như thể muốn cố định lại vị trí của hàm. Rồi ông ta thả tay xuống nhìn Teddy qua bàn và nói, “Anh không hiểu sao, Andrew? Nếu anh thất bại, tôi sẽ thất bại. Nếu tôi thất bại thì mọi chuyện sẽ chấm hết.”

“Tệ nhỉ. Tiếc nhỉ,” Teddy nói.

Bên ngoài, những con mòng biển đang kêu. Teddy có thể ngửi thấy mùi muối, mùi nắng và mùi cát ẩm mặn.

Cawley nói, “Hãy thử cách khác vậy – anh có cho rằng đó cũng là một sự trùng hợp hay không khi tên của Rachel Solando, mà dù sao thì cô này cũng là một nhân vật hư cấu trong trí tưởng tượng của anh, cũng lại có các chữ cái y hệt như tên người vợ quá cố của anh và cũng có cùng tiền sử giết con của mình?”

Teddy đứng bật dậy, tay anh bắt đầu run lên từ phía vai trở xuống. “Vợ tôi không giết con. Chúng tôi chưa bao giờ có con.”

“Anh chưa bao giờ có con hả?” Cawley đi về phía bức tường.

“Chúng tôi chưa bao giờ có con, ông ngớ ngẩn bỏ mẹ.”

“Thôi được,” ông ta nói và kéo một tấm ga nữa xuống.

Trên bức tường phía sau nó là một biểu đồ hiện trường tội ác, các bức ảnh của một cái hồ, của ba đứa trẻ con bị chết. Và tên chúng, viết cùng một cỡ:

EDWARD LAEDDIS

DANIEL LAEDDIS

RACHEL LAEDDIS

Teddy cụp mắt xuống, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay của mình, chúng đang run bần bật như thể không còn thuộc về anh nữa. Nếu như anh có thể làm chúng dừng lại bằng cách nào đó thì anh hẳn sẽ làm.

“Các con của anh, Andrew. Anh định đứng đó mà phủ nhận việc chúng đã từng sống trên đời này sao? Anh sẽ làm thế sao?” 

Teddy giơ bàn tay run rẩy của mình lên, chỉ về phía Cawley. “Đó là những đứa con của Rachel Solando. Đó là hiện trường tội ác ở ngôi nhà ven hồ của Rachel Solando.”

“Đó là nhà của anh. Anh dọn tới đó vì các bác sĩ khuyên anh làm thế cho sức khỏe của vợ anh. Anh có nhớ không? Sau khi cô ta đã bất cẩn phóng hỏa căn hộ trước đây của anh. Hãy đưa cô ấy ra khỏi thành phố, tới một chỗ điền viên nên thơ hơn. Có thể cô ấy sẽ khỏe dần lên.”

“Cô ấy đâu có bị ốm.”

“Cô ta bị điên, Andrew.”

“Đừng có gọi tôi như thế. Và vợ tôi, cô ấy không điên.”

“Vợ anh mắc chứng trầm cảm mãn tính. Cô ta bị điên do trầm cảm. Cô ta…”

“Cô ấy không bị điên,” Teddy cắt ngang.

“Cô ta là một người có khuynh hướng tự sát. Cô ta hành hạ các con mình. Anh không muốn thừa nhận điều đó. Anh nghĩ là do cô ấy ốm yếu. Anh tự bảo mình rằng tâm thần hay tỉnh táo là do mình chọn, tất cả những gì cô ấy phải làm chỉ là nhớ rõ các trách nhiệm của cô ấy. Với anh. Với các con. Anh uống rượu và càng ngày càng trở nên nghiện ngập. Anh bồng bềnh trong cái vỏ ốc của chính mình. Anh tránh xa nhà mình. Anh phớt lờ mọi dấu hiệu. Anh phớt lờ những gì thầy cô giáo ở trường, cha xứ ở xóm đạo, và gia đình của cô ta nói với anh.”

“Vợ tôi không bị điên.”

“Và tại sao? Tại vì anh xấu hổ.”

“Vợ tôi không…” 

“Lý do duy nhất khiến cô ta phải gặp bác sĩ tâm thần là lần cô ta nhập viện do tự tử không thành. Ngay cả anh cũng không thể kiểm soát được chuyện này. Và họ nói với anh rằng cô ta nguy hiểm đối với chính bản thân. Rằng…”

“Chúng tôi chưa bao giờ gặp bất cứ bác sĩ tâm thần nào.”

“… rằng cô ta nguy hiểm đối với lũ trẻ. Anh đã được cảnh báo hết lần này tới lần khác.”

“Chúng tôi chưa bao giờ có con. Chúng tôi có bàn tới chuyện đó. Nhưng cô ấy không thể thụ thai.”

“Chúa ơi!” Cawley kêu lên thất vọng, đầu ông ta gục xuống như thể có ai vừa cầm một cái chày lăn bột nện một cái ly thủy tinh thụt vào trong đó.

“Lại đây nào,” Cawley nói. “Thật đấy. Lại gần đây và nhìn những cái tên trên các bức ảnh hiện trường tội ác này. Anh sẽ cảm thấy thú vị khi biết rằng…”

“Ông có thể làm giả những bức ảnh này. Ông có thể dựng lên tất cả.”

“Anh mơ. Lúc nào anh cũng mơ. Anh không thể ngừng các giấc mơ của mình, Andrew. Anh kể cho tôi nghe về chúng. Gần đây anh có mơ gì về hai đứa con trai và một đứa con gái nhỏ nữa không? Con bé có dẫn anh tới bên chiếc bia đá nữa không? Anh là ‘một thủy thủ tồi,’ Andrew. Anh đã không cứu chúng. Anh có muốn nói về những khúc gỗ không? Tới đây mà nhìn chúng. Hãy nói rằng chúng không phải là những đứa trẻ trong các giấc mơ của anh?”

“Rác rưởi!”

“Vậy hãy nhìn xem. Hãy tới đây và nhìn.”

“Ông đánh thuốc tôi, ông giết người đồng sự của tôi và bảo rằng anh ta chưa bao giờ tồn tại. Ông sẽ nhốt tôi lại đây vì tôi biết ông đang làm gì. Tôi biết về những thí nghiệm đó. Tôi biết ông đang điều trị các bệnh nhân tâm thần phân liệt bằng cái gì, biết cả việc ông tự do tiến hành phẫu thuật thùy não, việc ông coi thường Luật Nuremberg. Tôi đã túm được gáy của ông, bác sĩ.”

“Anh hả?” Cawley đứng dựa vào tường và khoanh tay trước ngực. “Làm ơn, hãy mở mắt cho tôi nào. Anh đã làm mưa làm gió ở cái chỗ này suốt bốn ngày qua. Anh có thể ra vào bất cứ xó xỉnh nào trong cái bệnh viện này. Thế các bác sĩ kiểu quốc xã đang trốn ở chỗ nào? Những phòng phẫu thuật ma quỷ nằm ở chỗ nào?”

Ông ta bước lại phía bàn và tham khảo quyển sổ ghi chép của mình một lúc.

“Anh vẫn tin là chúng tôi tẩy não bệnh nhân hả Andrew? Rằng chúng tôi đang tiến hành những thí nghiệm kéo dài hàng thập kỷ để tạo ra – cái mà có một lần anh gọi là gì nhỉ? À, đây rồi – những chiến binh ma quỷ? Những kẻ sát nhân?” Ông ta nói và cười khẽ. “Ý tôi là, tôi phải thừa nhận rằng thậm chí trong cái thời buổi đầy rẫy chuyện hoang tưởng này thì câu chuyện tưởng tượng của anh nghe rất có lý.”

Teddy chỉ một ngón tay run rẩy vào ông ta. “Đây là một bệnh viện thí nghiệm với những phương pháp cấp tiến…”

“Đúng thế.”

“Các ông chỉ nhận những bệnh nhân bạo lực nhất.”

“Lại đúng tiếp. Chỉ thêm một chút nữa thôi, những bệnh nhân bạo lực nhất và hoang tưởng nhất.”

“Và các ông…”

“Chúng tôi làm sao?”

“Các ông thí nghiệm.”

“Đúng!” Cawley vỗ hai tay và cúi rạp người xuống. “Thừa nhận có tội.”

“Các thí nghiệm về giải phẫu.”

Cawley giơ một ngón tay lên. “À không. Xin lỗi. Chúng tôi không lấy việc giải phẫu ra làm thí nghiệm. Đó chỉ là biện pháp cuối cùng và tôi vẫn luôn công khai chống lại phương thức này một cách quyết liệt nhất. Nhưng tôi chỉ là một cá nhân và không thể chỉ trong một đêm mà thay đổi được những phương thức chữa bệnh đã được chấp nhận suốt nhiều thập kỷ qua.”

“Ông nói dối.”

Cawley thở dài. “Hãy cho tôi bất kỳ bằng chứng nào mảy may cho thấy lý thuyết của anh có thể đứng vững. Chỉ một bằng chứng thôi cũng được.”

Teddy không nói gì.

“Và với tất cả những bằng chứng tôi đã đưa ra, anh đều từ chối không bình luận.”

“Bởi vì chúng không phải là bằng chứng. Chỉ toàn những điều bịa đặt.”

Cawley chụm các ngón tay lại với nhau và đưa lên môi như thể đang cầu nguyện. 

“Hãy để tôi đi khỏi hòn đảo này,” Teddy nói. “Với tư cách là một nhân viên luật pháp đang thi hành công vụ, tôi yêu cầu ông để tôi đi.”

Cawley nhắm mắt lại một lát. Khi ông ta mở mắt ra, ánh mắt của ông ta trở nên cứng rắn và quyết liệt. 

“Thôi được, thôi được. Anh đã thắng, đặc vụ. Đây, tôi sẽ làm cho mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn đối với anh.”

Ông ta lôi từ trên sàn lên một chiếc vali bằng da mềm, mở khóa rồi lôi khẩu súng của Teddy ra và ném nó lên bàn.

“Đây là súng của anh, đúng không?”

Teddy nhìn chằm chằm vào khẩu súng.

“Đây là những chữ cái đầu của tên anh khắc trên báng súng, đúng không?”

Teddy vẫn nhìn chằm chằm khẩu súng, mồ hôi rịn ra từ mắt anh.

“Đúng hay không, đặc vụ? Đây có phải là súng của anh không?”

Anh có thể nhìn thấy vết mẻ trên nòng súng từ cái ngày mà Phillip Stacks nhắm bắn anh nhưng lại bắn trượt vào khẩu súng và chính hắn cuối cùng lại trúng đạn do khẩu súng của hắn bị cướp cò. Anh có thể nhìn thấy hai chữ cái đầu E.D được khắc trên báng súng, một món quà của văn phòng liên bang sau vụ bắn nhau với Breck ở Maine. Và chỗ này nữa, phía dưới chốt an toàn, lớp vỏ kim loại hơi bị móp và tróc sơn do anh đánh rơi súng trong một cuộc rượt đuổi ở St. Louis vào mùa đông năm bốn mươi chín. 

“Đây có phải là súng của anh không?”

“Đúng vậy.”

“Cầm nó lên, đặc vụ. Hãy chắc là súng đã được nạp đạn.”

Teddy nhìn khẩu súng rồi nhìn sang Cawley.

“Cầm lấy, đặc vụ. Nhặt khẩu súng lên.”

Teddy nhấc khẩu súng khỏi bàn và nó rung lên trong tay anh.

“Nó đã được nạp đạn rồi chứ?” Cawley hỏi.

“Đúng vậy.”

“Anh chắc chứ?”

“Tôi có thể cảm thấy sức nặng của nó.”

Cawley gật đầu. “Vậy thì hãy nổ súng đi. Vì đó là cách duy nhất để anh có thể thoát ra khỏi hòn đảo này.”

Teddy đưa tay còn lại giữ chặt lấy báng súng nhưng tình trạng của nó cũng không khá gì hơn. Anh hít những hơi thật sâu rồi thở ra một cách chậm rãi, nhìn dọc theo nòng súng bằng đôi mắt ướt nhòe mồ hôi và những cơn run rẩy đang lan ra khắp người. Và anh nhìn thấy Cawley ở đầu bên kia của ống ngắm, cách anh nhiều nhất là sáu mươi phân nhưng anh vẫn ngắm lên ngắm xuống, sang trái sang phải như thể hai người họ đang đứng trên một con tàu lúc sóng lớn.

“Anh có năm giây, đặc vụ.”

Cawley nhấc ống nghe ra khỏi máy điện đàm và bắt đầu quay số. Teddy nhìn ông ta đưa chiếc ống điện thoại lên miệng.

“Giờ thì anh chỉ còn ba giây nữa thôi. Hãy bóp cò hoặc anh sẽ sống dở chết dở trên cái hòn đảo này.”

Teddy có thể cảm thấy sức nặng của khẩu súng. Ngay cả khi người anh đang run lên bần bật, anh vẫn có cơ hội bắn trúng nếu anh hành động ngay lúc này. Giết chết Cawley và bất cứ người nào đang đợi ở bên ngoài. 

Cawley nói, “Giám đốc, ông có thể cho anh ta lên đây.”

Tầm nhìn của Teddy bỗng trở nên rõ ràng, những cơn run đã giảm đi đáng kể. Anh nhìn xuống nòng súng khi Cawley đặt chiếc ống nghe về chỗ cũ.

Mặt Cawley toát lên một vẻ tò mò như thể ngay lúc này đây ông ta mới phát hiện ra rằng Teddy có thể vẫn còn đủ sức lực để thực hiện nốt công việc cuối cùng đó. 

Ông ta giơ một tay lên và nói, “Thôi được rồi, được rồi.”

Và Teddy bắn ông ta vào giữa ngực. Rồi anh nâng súng lên một chút, bồi thêm phát nữa vào giữa mặt. 

Từ khẩu súng bắn ra toàn là nước.

Cawley nhíu mày, chớp mắt nhiều lần rồi lôi từ trong túi ra một chiếc khăn mùi soa.

Cánh cửa bật mở sau lưng Teddy, anh xoay ghế lại và chĩa súng vào người đàn ông vừa bước vào phòng. 

“Đừng bắn,” Chuck nói. “Tôi quên không mặc áo mưa.”

CAWLEY LAU MẶT bằng chiếc khăn mùi soa rồi ngồi xuống ghế của mình trong khi Chuck đi vòng sang đầu bàn bên kia tới bên cạnh ông ta còn Teddy thì lật khẩu súng trong tay và nhìn nó chằm chằm. 

Rồi anh nhìn sang phía bên kia bàn thấy Chuck đã ngồi xuống một chiếc ghế và anh ta cũng mặc một chiếc áo blu dùng trong phòng thí nghiệm.

“Tôi cứ nghĩ là cậu đã chết rồi,” Teddy nói.

“Không,” Chuck trả lời.

Và rồi đột nhiên anh cảm thấy khó thốt nên lời. Như thể anh sắp nói lắp, đúng như nữ bác sĩ đó đã tiên đoán. “Tôi… tôi… đã… sẵn sàng hy sinh để mang cậu ra khỏi đây. Tôi…” Anh đánh rơi khẩu súng xuống bàn và cảm thấy mọi sức lực biến mất khỏi cơ thể. Anh đổ gục xuống ghế và không thể nào đứng dậy được. 

“Tôi thật tình xin lỗi về chuyện đó,” Chuck nói. “Bác sĩ Cawley và tôi đã trăn trở suốt nhiều tuần lễ trước khi quyết định thực hiện vở kịch này. Tôi không bao giờ muốn anh cảm thấy bị phản bội hay gây cho anh những nỗi phiền muộn không đáng có. Anh phải tin tôi. Và chúng tôi cũng không có sự lựa chọn nào khác.”

“Được ăn cả ngã về không,” Cawley nói. “Đây là nỗ lực cuối cùng của chúng tôi để khiến anh trở lại bình thường, Andrew. Đó là một ý tưởng cấp tiến, ngay cả đối với một nơi như thế này, nhưng tôi đã hy vọng là nó sẽ mang lại kết quả.”

Teddy quệt mồ hôi trên mắt nhưng lại chỉ làm chúng lem luốc thêm ra. Anh nhìn Chuck mờ mờ ảo ảo.

“Thế anh là ai?” anh hỏi.

Chuck chìa một tay qua bàn và nói, “Bác sĩ Lester Sheehan.”

Teddy mặc kệ bàn tay chìa ra trước mặt anh và Sheehan cuối cùng đành rút tay lại.

“Vậy là,” Teddy nói và hít vào mũi cái không khí ẩm ướt của biển, “anh để tôi nói lải nhải về việc chúng ta cần phải tìm Sheehan trong khi… trong khi anh chính là Sheehan.”

Sheehan gật đầu.

“Gọi tôi là sếp, kể chuyện cười cho tôi nghe, khiến tôi vui vẻ. Đồng thời theo dõi tôi luôn thể, có đúng không Lester?”

Anh nhìn thẳng vào anh ta qua chiếc bàn, Sheehan cố đáp trả cái nhìn đó nhưng không làm nổi, được một lát thì anh ta đành cụp mắt xuống, nhìn chiếc cà vạt của mình, đưa tay phe phẩy nó trước ngực. “Tôi phải để mắt đến anh để đảm bảo rằng anh được an toàn.”

“An toàn?” Teddy nói. “Và thế là mọi chuyện khác được xóa sổ. Rất đạo đức.”

Sheehan bỏ tay khỏi chiếc cà vạt. “Chúng ta đã quen biết nhau suốt hai năm qua, Andrew.”

“Đó không phải là tên của tôi.”

“Hai năm. Tôi là bác sĩ tâm thần chính của anh. Hai năm. Hãy nhìn tôi. Chẳng lẽ anh không nhận ra tôi sao?”

Teddy dùng tay áo quệt mồ hôi túa ra từ mắt anh, lần này thì có rõ hơn, và anh ngắm Chuck ở phía bên kia bàn. Là anh chàng Chuck của anh, vụng về khi đối diện với các loại vũ khí và đôi bàn tay không phù hợp với tính chất công việc của mình vì chúng không phải là đôi bàn tay của một cảnh sát. Đó là đôi bàn tay của một bác sĩ.

“Cậu đã từng là bạn tôi,” Teddy nói. “Tôi đã tin tưởng cậu. Tôi đã kể cho cậu nghe về vợ tôi. Tôi đã kể cho cậu nghe về cha tôi. Tôi đã leo xuống cái vách đá khốn kiếp ấy để đi tìm cậu. Trong khi đó thì cậu đang đứng nhìn? Để giữ cho tôi được an toàn sao? Cậu đã từng là bạn của tôi cơ đấy, Chuck. Ối, xin lỗi, phải nói là Lester chứ.”

Lester châm một điếu thuốc và Teddy hài lòng khi thấy tay anh ta cũng run lên. Không nhiều lắm. Không tệ như tay Teddy và chấm dứt ngay khi anh ta châm được điếu thuốc và vứt que diêm vào chiếc gạt tàn. Nhưng dù sao thì anh ta cũng đã run lên…

Cầu cho cậu cũng bị giống tôi, Teddy nghĩ. Cho dù nó là cái gì đi nữa.

“Đúng vậy,” Sheehan nói (và Teddy phải cố để không nghĩ anh ta là Chuck), “tôi đã giữ cho anh được an toàn. Việc tôi biến mất, đúng vậy, cũng là một phần trong trí tưởng tượng của anh. Nhưng đáng ra anh sẽ đọc đơn nhập viện của Laeddis trên đường đi chứ không phải là dưới vách đá. Tôi đã vô tình đánh rơi nó. Đang rút ra khỏi túi thì bị bay mất. Tôi cũng trèo xuống để lấy nó vì tôi biết nếu tôi không làm thế thì anh sẽ làm. Rồi cả người tôi cứng đờ ra, tê liệt, tôi không thể cử động được nữa. Ngay ở phía dưới mỏm đá. Hai mươi phút sau thì anh leo xuống, ngay trước mặt tôi. Chỉ cách tôi khoảng ba mươi phân thôi. Tôi gần như có thể thò tay ra và túm lấy anh.”

Cawley khẽ hắng giọng. “Chúng tôi suýt nữa thì cho ngừng lại khi thấy anh trèo xuống cái vực đá đó. Có lẽ chúng tôi nên làm vậy.”

“Ngừng lại.” Teddy lấy tay che miệng cố nén cười.

“Đúng thế.” Cawley nói. “Hoãn lại. Đó là một buổi biểu diễn ngoài trời, Andrew. Một…”

“Tên tôi là Teddy.”

“… một vở kịch. Anh là người viết kịch bản. Chúng tôi chỉ giúp anh dựng nó lên. Nhưng một vở kịch sẽ không hoàn thành nếu không có kết cục và kết cục luôn là anh tìm tới ngọn hải đăng này.”

“Tiện quá,” Teddy nói và nhìn quanh các bức tường.

“Anh đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này suốt gần hai năm nay. Về việc anh tới đây để tìm một bệnh nhân mất tích và vô tình phát hiện ra một khu vực bí mật, nơi tiến hành các thí nghiệm giải phẫu theo kiểu Đệ Tam Quốc xã hay những thí nghiệm về việc tẩy não kiểu Xô viết của chúng tôi. Về việc bệnh nhân Rachel Solando đã giết các con của cô ta y như cái cách vợ anh đã giết các con của anh. Rằng anh và người đồng sự của anh đã trở nên gần gũi với nhau như thế nào, và cái tên mà anh đặt cho anh ta – Chuck Aule(13) thật chả ra gì, anh cứ thử đọc liền và đọc nhanh xem sao. Đó chỉ là một trò đùa khác của anh mà thôi, Andrew. Rồi đồng sự của anh bị bắt, anh chỉ còn lại một mình và phải tự bảo vệ mình nhưng chúng tôi vẫn tóm được anh. Chúng tôi bắt anh uống thuốc và thuốc đã phát huy tác dụng trước khi anh kịp mang câu chuyện này kể cho vị Thượng nghị sĩ Hurly mà anh tự tưởng tượng ra. Nếu anh muốn biết tên của tất cả các Thượng nghị sĩ bang New Hampshire hiện nay thì Andrew, tôi có chúng ở đây.”

“Các ông đã làm giả tất cả?” Teddy nói.

“Đúng vậy.”

Teddy phá lên cười. Anh cười lớn như anh vẫn thường làm trước khi Dolores qua đời. Anh nghe thấy tiếng cười của mình rền vang, những thanh âm cuộn lại với nhau rồi tiếp tục hòa vào với dòng chảy âm thanh vẫn đang tuôn ra từ miệng anh, dâng lên phía trên đầu anh, bám vào các bức tường rồi tan dần vào tiếng sóng biển.

“Làm sao mà các ông làm giả cơn bão đó được?” anh nói và đập tay lên bàn. “Hãy nói cho tôi xem nào, bác sĩ?”

“Anh không thể nào làm giả một cơn bão,” Cawley thừa nhận.

“Không,” Teddy nói. “Các ông không thể.” Và lại đập bàn.

Cawley nhìn xuống tay anh trước rồi nhìn vào mắt anh. 

“Nhưng đôi khi anh vẫn có thể dự báo được, Andrew, nhất là trên hòn đảo này.”

Teddy lắc đầu, cảm thấy sự hiện diện của một nụ cười trên khuôn mặt mình, cho dù nó không còn rạng rỡ, cho dù nó có vẻ yếu đuối và xuẩn ngốc. “Các ông chẳng bao giờ bỏ cuộc đúng không?”

“Một cơn bão có ý nghĩa quyết định đối với câu chuyện tưởng tượng của anh,” Cawley nói. “Chúng tôi đã chờ một cơn bão như thế.” 

“Toàn những lời dối trá,” Teddy nói.

“Dối trá ư? Hãy giải thích sự hoán vị của các chữ cái. Hãy giải thích tại sao những đứa trẻ trong các tấm hình này – những đứa trẻ mà anh sẽ không hề biết mặt nếu chúng đúng là con của Rachel Solando – lại chính là những đứa trẻ trong các giấc mơ của anh. Hãy giải thích xem, Andrew, tại sao tôi lại biết mà nói với anh khi anh bước qua cánh cửa này rằng, ‘Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?’ Anh nghĩ tôi là người đọc được ý nghĩ của người khác hay sao?”

“Không,” Teddy nói. “Tôi chỉ nghĩ tại vì lúc đó tôi đang ướt.” 

Trong giây lát trông Cawley có vẻ như muốn nổ tung. Rồi ông ta hít một hơi thật sâu, ông ta khoanh tay lại và tì người lên bàn. “Súng của anh chỉ toàn là nước. Còn những mật mã của anh thì nói lên mọi chuyện, Andrew. Anh tự đùa cợt với chính mình. Hãy nhìn cái mật mã cuối cùng trong quyển sổ tay của anh. Chín chữ cái. Ba dòng. Giải chúng hẳn rất dễ. Hãy nhìn xem.”

Teddy nhìn xuống trang giấy. 

13(M)-21(U)-25(Y)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I)

“Chúng tôi không còn thời gian nữa,” Lester Sheehan nói. “Xin hãy hiểu rằng chuyện này sẽ thay đổi tất cả. Trong lĩnh vực tâm thần học. Một cuộc chiến đã nổ ra bấy lâu nay và chúng tôi đang thua.”

M-U-Y-R-A-E-H-O-I

“Vậy sao?” Teddy hỏi một cách thờ ơ. “Thế ‘chúng tôi’ ở đây là ai vậy?”

“Là những người tin rằng cái cách để đến được với tâm trí của một người không phải là dùng que đá chọc qua não hay sử dụng các loại thuốc nguy hiểm với liều lượng cao mà là sự thành thật thừa nhận bản thân.”

“Sự thành thật thừa nhận bản thân?” Teddy nhắc lại. “Nghe được đấy.”

Ba dòng, Cawley đã nói thế. Có thể là mỗi dòng ba chữ. 

“Hãy nghe tôi,” Sheehan nói. “Nếu chúng tôi thất bại ở đây, chúng tôi sẽ thua cuộc. Không chỉ riêng với trường hợp của anh. Ngay lúc này đây, cán cân quyền lực đang nghiêng về phía các nhà phẫu thuật nhưng mọi chuyện sẽ sớm thay đổi. Các nhà dược học sẽ lên nắm quyền, nhưng mọi chuyện sẽ không vì thế mà kém man rợ. Chắc chắn là thế. Họ sẽ tiếp tục tạo ra những thây ma sống lại và vứt chúng vào một khu riêng biệt, chỉ có điều là dưới một vỏ bọc dễ chấp nhận hơn trong con mắt công chúng. Và tại đây, trong cái bệnh viện này, tất cả chuyện đó có xảy ra hay không đều phụ thuộc vào anh, Andrew.”

“Tên tôi là Teddy, Teddy Daniels.”

Teddy đoán dòng đầu tiên có thể là “YOU”.

“Naehring đã dành sẵn cho anh một phòng mổ, Andrew.”

Teddy ngước mắt khỏi tờ giấy.

Cawley gật đầu. “Chúng ta có bốn ngày để thay đổi quyết định đó. Nếu chúng ta thất bại thì anh sẽ lên bàn mổ.”

“Mổ cái gì?”

Cawley nhìn sang Sheehan. Sheehan thì dán mắt vào điếu thuốc của mình.

“Mổ cái gì?” Teddy nhắc lại.

Cawley mở miệng toan nói thì Sheehan lên tiếng trước, giọng mệt mỏi:

“Phẫu thuật thùy não.”

Teddy khẽ chớp mắt khi nghe thấy từ đó rồi quay lại trang giấy trước mặt và phát hiện ra từ thứ hai là: “ARE”.

“Giống như Noyce,” anh nói. “Chắc ông lại định nói với tôi là cả anh ta nữa cũng không tồn tại chứ gì?”

“Anh ta ở đây,” Cawley nói. “Phần lớn câu chuyện anh kể cho bác sĩ Sheehan về anh ta là có thật, Andrew. Nhưng anh ta chưa bao giờ quay trở lại Boston. Anh chưa bao giờ gặp anh ta ở trong tù. Anh ta ở đây từ tháng Tám năm năm mươi lăm. Anh ta cũng có tiến bộ khi được chuyển từ Khu C sang Khu A. Nhưng rồi anh đã tấn công và hành hung anh ta.”

Teddy rời mắt khỏi ba chữ cái cuối cùng. “Tôi làm gì cơ?”

“Anh đã hành hung anh ta. Hai tuần trước. Suýt nữa thì giết chết anh ta.”

“Sao tôi lại làm thế?”

Cawley lại nhìn sang Sheehan.

“Vì anh ta gọi anh là Laeddis,” Sheehan nói.

“Không đúng. Anh ta không làm thế. Tôi vừa mới nhìn thấy anh ta ngày hôm qua và anh ta…”

“Anh ta làm sao?”

“Anh ta không gọi tôi là Laeddis, chắc chắn là thế.”

“Không ư?” Cawley mở quyển sổ ghi chép của ông ta ra. “Tôi có biên bản ghi chép lại cuộc trò truyện của anh. Tôi còn có cả băng nữa, ở trong phòng làm việc của tôi nhưng giờ hãy sử dụng bản ghi chép này cũng được. Hãy nói cho tôi biết nếu nghe chúng có vẻ quen nhé.” Ông ta chỉnh lại kính rồi cúi đầu xuống trang giấy. “Tôi trích nguyên văn nhé – ‘Đó là về anh. Và, Laeddis, đó là tất cả những gì mà câu chuyện này xoay quanh. Tôi chỉ là một thứ công cụ. Một phương tiện giúp anh đạt được mục đích.’ ”

Teddy lắc đầu. “Anh ta không gọi tôi là Laeddis. Ông đã đổi chỗ nhấn câu. Anh ta nói chuyện này là về anh – nghĩa là tôi – và về Laeddis.”

Cawley cười khẽ. “Anh đúng là một kẻ không tầm thường chút nào.”

Teddy mỉm cười. “Tôi cũng đang nghĩ về các ông như vậy.”

Cawley lại nhìn xuống bản ghi chép của ông ta. “Thế còn chỗ này thì sao – Anh có nhớ anh đã hỏi Noyce về chuyện gì đã xảy ra với khuôn mặt của anh ta không?”

“Có. Tôi hỏi anh ta ai đã làm chuyện đó.”

“Chính xác anh đã dùng từ ‘Ai đã gây ra chuyện này?’ Có đúng không?” 

Teddy gật đầu.

“Và Noyce trả lời – tôi lại trích nguyên văn nhé – ‘Anh chứ ai.’ ”

Teddy nói, “Đúng vậy, nhưng…”

Cawley quan sát anh như đang quan sát một con côn trùng dưới kính hiển vi. “Nhưng sao?”

“Anh ta đang nói như thể…”

“Tôi nghe đây.”

Teddy bắt đầu gặp khó khăn trong việc liên kết từ ngữ lại với nhau một cách mạch lạc giống như những toa xe lửa nối tiếp nhau. 

“Ý anh ta là,” – anh nói chậm rãi, một cách cố ý – “đó là lỗi của tôi đã khiến anh ta bị chuyển lại về đây, một cách gián tiếp đã dẫn đến việc anh ta bị đánh. Anh ta không nói là tôi đánh anh ta.”

“Anh ta nói, Anh chứ ai.”

Teddy nhún vai. “Anh ta nói thế nhưng chúng ta có quan điểm khác nhau trong việc truyền tải ý nghĩa phát ngôn của anh ta.”

Cawley lật sang một trang khác. “Còn đây nữa, Noyce lại nói – ‘Họ biết hết. Anh vẫn chưa hiểu ra à? Tất cả những gì anh đang mưu tính. Tất cả các kế hoạch của anh. Đây là một trò chơi. Một vở kịch được dàn dựng rất công phu. Tất cả những chuyện này đều là vì anh.’ ”

Teddy ngả lưng ra phía sau. “Còn các bệnh nhân, tất cả những người mà tôi được cho là đã quen biết suốt hai năm qua, sao không thấy một ai trong số họ nói gì với tôi khi tôi thực hiện, hừm, vai diễn của mình trong bốn ngày qua?”

Cawley gập quyển sổ ghi chép lại. “Họ đã quá quen với chuyện đó rồi. Anh đã phe phẩy cái thẻ công vụ bằng nhựa đó suốt một năm nay. Lúc đầu tôi nghĩ cũng đáng để thử một phen xem sao, đưa cho anh cái thẻ đó, xem anh phản ứng ra sao. Nhưng anh đã sử dụng nó theo cái cách mà tôi không bao giờ tính đến. Hãy mở ví của anh ra. Và nói cho tôi biết có phải nó bằng nhựa hay không, Andrew.”

“Để tôi giải nốt cái mật mã này đã.”

“Anh đã gần xong rồi. Chỉ còn ba chữ nữa thôi. Có muốn tôi giúp không, Andrew?”

“Teddy.”

Cawley quan sát anh sắp sếp các chữ cái trên tờ giấy.

“Nó nói gì vậy?”

Teddy cười. 

“Hãy nói cho chúng tôi biết xem nào.”

Teddy lắc đầu.

“Thôi nào, hãy cho chúng tôi biết với!”

Teddy nói. “Các ông đã dựng nên chuyện này. Các ông đã tạo ra các mật mã. Các ông đã tạo ra cái tên Rachel Solando dựa trên những chữ cái trong tên vợ tôi. Tất cả đều do các ông nghĩ ra.”

Cawley nói một cách chậm rãi, rành mạch. “Thế cái mật mã cuối cùng nói gì?”

Teddy xoay quyển sổ tay lại để họ có thể đọc được nó:

YOU

ARE

HIM(14)

“Thỏa mãn chưa?” Teddy nói.

Cawley đứng dậy. Trông ông ta có vẻ kiệt sức. Sức chịu đựng của ông ta đã tới giới hạn cuối cùng. Ông ta nói với vẻ đau buồn mà Teddy chưa từng thấy trước đây.

“Chúng tôi đã hy vọng. Chúng tôi đã hy vọng là chúng tôi có thể cứu được anh. Chúng tôi đã đặt cược tên tuổi của mình vào đó. Và bây giờ tin tức sẽ lan ra ngoài rằng chúng tôi đã cho phép một bệnh nhân vào cái vai tưởng tượng của mình và đổi lại, tất cả những gì chúng tôi thu được là một số lính gác bị thương và một chiếc xe ô tô bốc cháy. Tôi không quan trọng việc bị bẽ mặt vì lý do chuyên môn.” Ông ta nhìn ra bên ngoài ô cửa sổ nhỏ hình vuông. “Có thể chỗ này đã không còn phù hợp với tôi nữa. Hoặc có thể tôi đã không còn phù hợp với nó. Nhưng một ngày nào đó, đặc vụ, một ngày không xa, chúng ta sẽ chữa trị vấn đề tâm thần của con người bằng chính những kinh nghiệm của họ và những gì họ đã trải qua. Anh có hiểu điều đó không?”

“Không hiểu lắm.”

“Tôi cũng không nghĩ là anh sẽ hiểu.” Cawley gật đầu, khoanh tay lại trước ngực, căn phòng trở nên yên ắng trong giây lát, ngoại trừ tiếng gió và tiếng sóng vỗ phía bên ngoài. “Anh là một người lính được trao tặng nhiều huân chương với kinh nghiệm chiến đấu cừ khôi. Từ khi anh tới đây, anh đã làm bị thương tám lính gác, chưa kể hai người ngày hôm nay, bốn bệnh nhân và năm hộ lý. Bác sĩ Sheehan và tôi đã đấu tranh cho anh tới cùng. Nhưng giờ phần lớn nhân viên trong viện cũng như bên trại giam đang đòi hỏi kết quả hoặc là chúng tôi sẽ phải vô hiệu hóa anh.”

Ông ta rời khỏi cửa sổ, tới bên cạnh bàn và nhoài người về phía anh, nhìn anh bằng đôi mắt buồn bã và u tối của mình. “Đây là cơ hội cuối cùng của chúng tôi, Andrew. Nếu anh không thừa nhận anh là ai và những gì anh đã làm, nếu anh không nỗ lực vươn tới sự tỉnh táo thì chúng tôi sẽ không thể cứu được anh.”

Ông ta chìa tay ra cho Teddy.

“Hãy nắm lấy tay tôi,” ông ta nói, giọng khàn khàn. “Hãy để chúng tôi giúp anh, Andrew.”

Teddy lắc đầu. Một cách cương quyết. Anh siết lấy tay Cawley bằng cái siết tay chặt nhất và nhìn ông ta bằng ánh mắt trung thực nhất. Rồi anh mỉm cười và nói, “Đừng có gọi tôi là Andrew!”

HỌ DẪN ANH về Khu C, chân tay anh bị xiềng xích.

Khi đã vào tới bên trong họ dẫn anh đi dọc theo dãy xà lim nơi các tù nhân khác réo gọi anh từ trong buồng giam của họ. Những người này thề sẽ đánh đập, sẽ cưỡng hiếp anh, có người còn thề sẽ róc anh như róc một con cá trắm và ăn thịt anh tới từng ngón chân. 

Khi anh vẫn còn bị xích, người lính gác đứng bên cạnh anh để cho một nữ y tá tiêm cái gì đó vào cánh tay anh.

Cô ta có mái tóc màu dâu tây và thơm mùi xà phòng. Hơi thở của cô ta khẽ phả vào mặt anh khi cô ta cúi xuống tiêm, và anh nhận ra cô ta.

“Cô là người đóng giả Rachel,” anh nói.

“Giữ lấy anh ta,” cô ta nói.

Người lính gác giữ chặt lấy hai vai anh và duỗi thẳng tay anh ra. 

“Chính là cô. Cô đã nhuộm tóc. Cô là Rachel.”

“Đừng có động đậy,” cô ta nói và chọc kim tiêm vào tay anh.

Anh bắt gặp ánh mắt của cô ta. “Cô đúng là một diễn viên xuất sắc. Ý tôi là, cô thật sự đã lừa được tôi, với tất cả những câu chuyện về anh chàng Jim thân yêu xấu số của cô. Rất là thuyết phục, Rachel.”

Cô ta rời mắt khỏi anh. 

“Tôi là Emily,” cô ta nói và rút chiếc kim tiêm ra. “Giờ thì anh sẽ ngủ.”

“Làm ơn,” Teddy nói.

Cô ta dừng lại ở cửa buồng giam và quay lại nhìn anh.

“Đó chính là cô mà,” anh nói.

Nhưng cái gật đầu không tới từ chiếc cằm của cô. Nó tới từ đôi mắt, một cái chớp mắt nhìn xuống, rất nhanh và rồi cô mỉm cười với anh, một nụ cười rất đỗi buồn bã khiến anh những muốn hôn lên tóc cô.

“Ngủ ngon,” cô nói.

Anh không hề cảm thấy người lính gác tháo bỏ xiềng xích trên người anh, không hề nghe thấy họ bỏ đi. Tiếng động từ các buồng giam khác tắt ngấm và không khí trước mặt anh biến thành màu hổ phách và anh cảm thấy như thể anh đang nằm ngả lưng giữa một đám mây ướt và chân tay anh giống như bọt biển.

Và anh mơ.

Trong giấc mơ, anh và Dolores sống trong một ngôi nhà gần hồ.

Bởi vì họ phải rời khỏi thành phố.

Bởi vì thành phố xấu xa và đầy bạo lực.

Bởi vì cô đã phóng hỏa đốt căn hộ của họ trên đường Buttonwood.

Để cố thoát khỏi những bóng ma của nó.

Anh mơ tình yêu của họ bền như sắt thép, không ngại mưa gió, không ngại lửa hay những nhát búa dập vùi. 

Anh mơ thấy Dolores bị điên.

Và mơ thấy cái đêm con gái Rachel của anh nói với anh lúc anh đang say, nhưng không say tới mức bỏ qua việc kể chuyện đêm khuya cho con bé, rằng, “Bố ơi?”

“Gì cơ, con yêu?”

“Thỉnh thoảng mẹ lại nhìn con rất lạ.”

“Lạ như thế nào?”

“Chỉ là rất lạ thôi ạ.”

“Nó làm con buồn cười à?”

Con bé lắc đầu.

“Không à?”

“Không ạ,” nó nói.

“Thế thì mẹ nhìn con như thế nào?”

“Giống như con đã làm mẹ rất buồn.”

Và anh đắp chăn cho con bé, hôn tạm biệt, dụi mũi vào cổ nó và nói con bé đã không làm ai buồn cả. Nó không thể làm ai buồn. Không từng, không thể. Mãi mãi là vậy.

MỘT ĐÊM KHÁC, lúc anh tới bên giường, Dolores xoa xoa những vết sẹo trên cổ tay cô rồi nhìn anh nói, “Khi anh tới những nơi khác, một phần nào đó của anh không quay trở lại nữa.”

“Những nơi khác là những nơi nào hả em?” Anh tháo đồng hồ đeo tay và đặt xuống cạnh giường. 

“Và cái phần quay trở lại của anh?” Cô cắn môi như thể sắp tự thụi vào mặt mình bằng cả hai nắm đấm. “Thì cũng không nên quay trở lại.”

CÔ NGHĨ NGƯỜI BÁN THỊT ở góc phố là một tên gián điệp. Cô nói ông ta cười với cô trong khi máu chảy ròng ròng từ con dao phay của ông ta và cô chắc rằng ông ta biết nói tiếng Nga. Cô nói đôi khi cô có thể cảm thấy cái con dao phay ấy nằm ở giữa ngực cô. 

TEDDY BÉ BỎNG trong một lần xem đấu bóng tại sân vận động Fenway Park đã nói với anh rằng, “Chúng ta có thể sống ở đây.” 

“Thì chúng ta đang sống ở đây mà.”

“Con muốn nói là trong sân vận động này cơ.”

“Thế chỗ chúng ta đang ở có vấn đề gì sao?”

“Có quá nhiều nước.”

Teddy nốc một ngụm rượu từ chiếc bình nhỏ mang theo người. Anh quan sát cậu con trai của mình. Đó là một thằng bé cao ráo và khỏe mạnh nhưng rất mau nước mắt so với một đứa con trai ở tuổi nó và cũng rất dễ bị kích động. Đó là cách bọn trẻ lớn lên trong thời buổi kinh tế phát đạt hiện nay, chúng có quá nhiều đặc quyền và trở nên mềm yếu, thụ động. Teddy cứ mong mẹ anh vẫn còn sống để có thể dạy dỗ các cháu mình nên người. Vì cái thế giới này chẳng cho ai cái gì bao giờ. Nó chẳng ban tặng mà chỉ tước đoạt. Những bài học như vậy dĩ nhiên phải được rao giảng bởi người đàn ông trong nhà nhưng để nó thấm dần vào bọn trẻ thì lại là công việc của một người phụ nữ. 

Dolores thì lại chỉ nhồi nhét vào đầu óc bọn trẻ những giấc mơ, những điều bay bổng diệu kỳ, và suốt ngày cho chúng đi xem phim, xem xiếc và các lễ hội hóa trang.

Anh tu một ngụm rượu nữa rồi nói với con trai mình, “Quá nhiều nước. Còn gì nữa không?”

“Không, thưa bố.”

ANH NÓI VỚI CÔ, “Có gì không đúng? Có cái gì mà anh không làm? Có cái gì mà anh đã không trao em? Anh phải làm thế nào em mới cảm thấy hạnh phúc?” 

Và cô sẽ nói là, “Em hạnh phúc mà.”

“Không, em không hề. Hãy nói cho anh biết anh cần phải làm gì. Anh sẽ làm.”

“Em ổn mà.”

“Em trở nên giận dữ đáng sợ. Nếu không giận dữ thì lại quá sung sướng hồ hởi, hai thái cực rất đối nghịch.”

“Thì sao?”

“Em khiến bọn trẻ sợ hãi, cả anh nữa. Em có vẻ không ổn.”

“Em ổn.”

“Lúc nào em cũng buồn.”

“Không,” cô nói. “Anh lúc nào cũng buồn thì có!”

ANH NÓI CHUYỆN với cha xứ và cha xứ tới thăm họ một vài lần. Anh nói chuyện với chị em của cô và chị gái cô, Delilah ở Virginia, tới chơi với họ suốt một tuần lễ, nhờ thế tình hình có vẻ khá hơn. Cả hai người họ đều bỏ qua những lời khuyên tới gặp bác sĩ. Chỉ những người điên mới cần tới bác sĩ. Dolores không bị điên. Cô chỉ hơi căng thẳng. Căng thẳng và buồn bã.

TEDDY MƠ THẤY MỘT ĐÊM cô đánh thức anh dậy và bảo anh đi lấy súng. Ông bán thịt đang ở trong nhà mình, cô nói. Dưới cầu thang trong bếp. Nói chuyện bằng điện thoại của họ.

ĐÊM ĐÓ, TRÊN VỈA HÈ trước câu lạc bộ Cocoanut Grove, đứng dựa vào cửa xe taxi, mặt anh chỉ cách mặt cô có vài phân…

Anh nhìn cô và nghĩ: Anh biết em. Anh đã biết em suốt cả đời mình. Anh đã chờ đợi. Chờ đợi sự xuất hiện của em. Suốt bấy nhiêu năm nay. Anh đã biết em. Từ khi còn trong bụng.

Chỉ đơn giản là vậy.

Anh đã không cảm thấy nỗi khao khát của một người lính muốn được làm tình với cô trước khi ra trận vì anh biết, ngay từ giây phút đó, anh đã biết là anh sẽ trở về. Anh sẽ trở về vì Chúa đã không sắp xếp các vì sao để anh có thể gặp một nửa linh hồn mình rồi Người lại mang cô ấy đi ngay.

Anh dựa vào cửa xe và nói với cô điều đó. Và anh nói, “Đừng lo. Anh sẽ trở về.”

Cô khẽ chạm những ngón tay lên khuôn mặt anh và nói, “Anh sẽ làm như thế, đúng không?”

ANH MƠ THẤY anh trở về ngôi nhà bên hồ nước.

Từ Oklahoma, nơi anh mất hai tuần để truy nã một gã suốt từ các bến cảng Nam Boston tới Tulsa với gần chục chặng dừng chân khác nhau. Teddy luôn chậm hơn hắn nửa bước cho tới khi anh đâm sầm vào đối tượng lúc hắn bước ra từ nhà vệ sinh nam ở một trạm đổ xăng. 

Anh về tới nhà vào lúc mười một giờ sáng, cảm thấy may mắn vì đây không phải là ngày cuối tuần, hai đứa con trai đang ở trường, xương cốt anh mỏi nhừ chỉ muốn lăn ra gối làm một giấc. Anh bước vào nhà, gọi Dolores và rót cho mình một ly đúp rượu scotch trong lúc chờ đợi. Cô đi từ sân sau vào và nói, “Vẫn chưa đủ.”

Anh xoay người lại với ly rượu trong tay và hỏi cô, “Gì vậy em yêu?” rồi anh để ý thấy cả người cô ướt sũng như thể vừa bước ra từ vòi hoa sen ngoại trừ việc cô vẫn đang bận một chiếc váy cũ sẫm màu in hình những bông hoa đã bạc phếch. Cô đi chân đất và nước rỏ tong tỏng từ tóc và váy của cô xuống sàn nhà.

“Cưng ơi,” anh nói, “sao em lại ướt hết cả thế này?”

Cô nói, “Vẫn chưa đủ,” và đặt một cái chai rỗng xuống bàn bếp. “Mình vẫn tỉnh.”

Và rồi cô lại bước ra ngoài.

Teddy nhìn cô bước về phía chòi ngắm cảnh ở giữa hồ, những bước dài, chòng chành, loạng choạng. Anh đặt ly rượu xuống, nhấc cái chai lên xem và phát hiện ra đó là chai cồn thuốc phiện mà bác sĩ đã kê đơn khi cô ra viện. Nếu Teddy phải đi xa, anh thường đong thuốc ra một cái lọ nhỏ, tính đủ liều lượng cho cô dùng trong lúc anh vắng nhà rồi đặt vào tủ thuốc của cô. Còn chai thuốc lớn thì anh khóa lại trong hầm rượu. 

Đó là chai thuốc để dùng trong sáu tháng vậy mà cô đã uống cạn. 

Anh nhìn thấy cô loạng choạng leo lên cầu thang, ngã quỵ xuống rồi lại đứng dậy. 

Làm sao mà cô lại tìm ra chai thuốc cơ chứ? Khóa hầm rượu đâu phải là khóa thường. Một người đàn ông khỏe mạnh dùng kìm bẻ khóa cũng không thể mở được nó. Cô ấy hẳn không thể làm được chuyện đó, mà chiếc chìa khóa duy nhất thì Teddy giữ mất rồi.

Anh nhìn cô ngồi trên chiếc ghế xích đu ở giữa chòi rồi nhìn xuống chai thuốc. Anh nhớ lại anh đã đứng đây cái đêm hôm đó, vừa dùng muỗng trút thuốc từ chai lớn sang lọ nhỏ vừa uống một vài ly whisky lúa mạch đen, nhìn ra ngoài hồ, đặt lọ thuốc nhỏ vào trong tủ thuốc, lên gác tạm biệt lũ trẻ, xuống nhà thì điện thoại reo, nhận tin của văn phòng, vớ lấy chiếc áo khoác và chiếc túi ngủ qua đêm, hôn Dolores ở cửa và tiến về phía chiếc ô tô của mình…

… và để quên chai thuốc lớn trên bàn bếp. 

Anh bước qua chiếc cửa chống muỗi, băng qua bãi cỏ và bước lên chòi. Cô nhìn anh lại gần, người cô vẫn ướt sũng, một chân co lên để đẩy chiếc ghế xích đu tới lui một cách uể oải.

“Em yêu, em uống hết cả thuốc khi nào vậy?” anh hỏi.

“Sáng nay.” Cô thè lưỡi về phía anh, nở một nụ cười mơ màng rồi ngước mắt nhìn lên vòm mái hình vòng cung. “Nhưng vẫn chưa đủ. Không ngủ được. Chỉ muốn ngủ thôi. Mệt quá.”

Anh nhìn thấy những khúc gỗ trôi bồng bềnh trên hồ phía sau lưng cô và anh biết rằng đó không phải là những khúc gỗ thật nhưng anh nhìn đi chỗ khác, anh nhìn sang vợ mình.

“Sao em lại mệt?”

Cô nhún vai rồi buông thõng hai tay xuống. 

“Mệt vì tất cả chuyện này. Mệt quá. Chỉ muốn về nhà thôi.”

“Em đang ở nhà đấy thôi.”

Cô chỉ lên trần. “Nhà-nhà,” cô nói.

Teddy lại nhìn về phía những khúc gỗ, lúc này đang khẽ xoay xoay theo dòng nước.

“Rachel đâu?”

“Ở trường.”

“Con bé chưa tới tuổi đến trường, em yêu.”

“Không phải là trường của tôi,” vợ anh nói và nhe răng ra. 

Teddy hét lên. Anh hét to tới mức Dolores ngã khỏi chiếc xích đu và anh nhảy qua người cô, nhảy qua cái lan can sau chòi và chạy, vừa chạy vừa hét, “Không, Chúa ơi, làm ơn, không phải là con của con, Chúa ơi, ôi không!” 

Và anh nhảy xuống nước. Anh ngã dúi dụi, chúi mặt xuống nước, chìm dưới nước, nước phủ lấy anh như một lớp dầu nhờn và anh bơi về phía trước cho đến khi tới được giữa chúng. Giữa ba khúc gỗ. Giữa thi thể ba đứa con của anh.

Edward và Daniel nằm sấp, nhưng Rachel thì nằm ngửa, mắt con bé mở to, nhìn lên trời, nỗi u sầu thừa hưởng từ mẹ nó hằn sâu trong đồng tử, cái nhìn của con bé đang phiêu diêu giữa những đám mây. 

Anh mang chúng lên bờ, từng đứa một. Thật thận trọng. Anh ôm chúng thật chặt nhưng dịu dàng. Anh có thể cảm thấy xương của chúng. Anh âu yếm vuốt má các con. Vai chúng, người chúng, chân chúng. Anh hôn đi hôn lại các con nhiều lần.

Rồi anh ngã quỵ xuống và nôn ọe cho tới khi ngực anh bỏng rát và bụng anh cồn cào. 

Anh quay lại, khoanh tay lũ trẻ lên ngực chúng và để ý thấy Daniel và Rachel có những vệt dây thừng lằn trên cổ tay và anh biết rằng Edward là đứa trẻ đầu tiên phải chết. Hai đứa bé kia đã phải chờ tới lượt mình, đã nghe thấy hết, và biết là cô ta sẽ quay lại để giết chúng.

Anh hôn các con mình lên má, lên trán và vuốt mắt cho Rachel.

Chúng có quẫy đạp khi cô ta mang chúng xuống nước không? Chúng có la hét không? Hay chúng hoàn toàn quy phục, chỉ rên rỉ và chấp nhận số phận của mình?

Anh thấy vợ anh trong chiếc váy màu tím cái đêm anh gặp cô, thấy vẻ mặt của cô trong cái giây phút đầu tiên anh trông thấy cô, cái vẻ mặt đã khiến anh phải lòng. Anh cứ nghĩ rằng đó là do chiếc váy, sự thấp thỏm của cô khi mặc một chiếc váy đẹp tới một hộp đêm có tiếng. Nhưng không phải vậy. Đó là sự kinh hãi, gần như không che đậy và luôn tồn tại. Sự kinh hãi đối với thế giới bên ngoài – với những đoàn tàu, những trái bom, những chiếc xe điện kêu lách cách, những đại lộ tối tăm, những chiếc tàu ngầm chật chội, những quán trọ đông nghẹt những người đàn ông giận dữ, đại dương với những con cá mập, những người châu Á một tay cầm những quyển sách màu đỏ, tay kia cầm súng.

Cô sợ tất cả những điều đó và nhiều thứ khác nữa nhưng cái mà cô kinh hãi nhất chính là cái trú ngụ ở bên trong cô, một thứ côn trùng có trí thông minh phi tự nhiên sống trong não của cô suốt cuộc đời, đùa giỡn với nó, nhấp nháy xung quanh nó và giật dây nó bằng những trò đùa tai hại.

Teddy để các con mình lại đó và ngồi trong chòi một lúc lâu, nhìn cô đong đưa trên chiếc xích đu và tệ nhất là anh đã yêu cô biết bao. Nếu anh có thể hy sinh trí não của mình để chữa cho cô thì anh sẽ làm. Bán chân tay của mình ư? Được thôi. Cô là tất cả tình yêu anh từng biết tới trong suốt một thời gian dài. Cô là động cơ giúp anh đi qua cuộc chiến và đối mặt với cái thế giới khủng khiếp này. Anh yêu cô hơn cả cuộc sống của chính mình, hơn cả linh hồn mình.

Nhưng anh đã phụ lòng cô. Phụ lòng các con anh. Đã phụ cuộc sống mà họ xây dựng với nhau vì anh từ chối nhìn thấy Dolores, thực sự nhìn thấy cô, thấy rằng bệnh điên của cô không phải lỗi của cô, không phải là một thứ cô có thể điều khiển, không phải là bằng chứng của sự suy nhược tinh thần hay thiếu lòng dũng cảm.

Anh từ chối nhìn thấy điều đó vì nếu cô thực sự là tình yêu đích thực của đời anh, là cái phần bất tử trong anh thì phải chăng đó cũng chính là sự suy nhược trí não, thần kinh, tinh thần của anh? 

Vì thế nên anh trốn tránh nó, trốn tránh cô. Anh để cô một mình, tình yêu duy nhất của anh, và để trí óc của cô tự hủy hoại.

Anh nhìn cô ngồi trên xích đu. Ôi Chúa ơi, anh mới yêu cô làm sao. Yêu cô (điều này khiến anh vô cùng hổ thẹn) hơn các con trai của mình. Nhưng hơn Rachel ư?

Có lẽ là không. Chắc là không. 

Anh nhìn thấy Rachel trong tay mẹ nó và mẹ nó mang nó xuống nước. Nhìn thấy đôi mắt con gái anh giãn ra khi con bé chìm dần xuống đáy hồ. Anh nhìn vợ mình, trong khi vẫn nhìn thấy con gái mình, và nghĩ: “Cô là một con mụ điên tàn bạo, vô cùng tàn bạo.”

Teddy ngồi bệt trong căn chòi và khóc. Anh không nhớ anh đã khóc như thế bao lâu. Anh khóc và anh lại thấy hình ảnh Dolores ngồi trên chiếc ghế băng khi anh mang bó hoa tới cho cô, khi Dolores quay lại nhìn anh trong tuần trăng mật, và Dolores trong chiếc váy màu tím, khi mang bầu Edward, khi nhặt một sợi lông mi rơi trên má anh, khi rời khỏi nụ hôn của anh và cuộn chặt trong vòng tay anh, gõ gõ lên cánh tay anh và bật cười, cái nụ cười buổi sáng Chủ nhật quen thuộc của cô và nhìn anh chằm chằm như thể phần còn lại của khuôn mặt cô chực vỡ ra quanh đôi mắt to ấy, khi cô sợ hãi, khi cô cô đơn, lúc nào cũng vậy, phần nào đó của cô, lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng cô đơn…

Anh đứng dậy, đầu gối anh run lên. 

Anh ngồi xuống cạnh vợ anh và cô nói, “Anh là người đàn ông tốt của em.”

“Không đúng,” anh nói. “Anh không được thế.”

“Đúng thế mà.” Cô cầm lấy tay anh. “Anh yêu em. Em biết thế. Em biết anh không phải là một người hoàn hảo.”

Bọn trẻ đã nghĩ gì – Daniel và Rachel – khi chúng thức dậy và thấy mẹ đã buộc dây thừng xung quanh cổ tay chúng? Chúng có nhìn vào mắt cô ta không?

“Ôi, Chúa ơi.”

“Em biết thế. Nhưng anh là của em. Và anh luôn cố gắng.”

“Ôi, em yêu,” anh nói, “xin em đừng nói nữa.”

Và Edward. Edward hẳn đã bỏ chạy. Và cô ta đã đuổi theo thằng bé khắp nhà.

Lúc này trông cô thật rạng rỡ, hạnh phúc. Cô nói, “Hãy đặt chúng trong bếp.”

“Gì cơ?”

Cô trèo lên người anh, cưỡi lên anh và ghì chặt lấy anh vào cơ thể ướt sũng của cô. “Hãy đặt chúng ngồi cạnh bàn, Andrew.” Cô hôn lên mí mắt anh.

Anh ôm lấy cô, người cô cọ xát vào anh và anh khóc trên vai cô.

Cô nói, “Chúng sẽ là những con búp bê sống của chúng ta. Chúng ta sẽ lau khô chúng.”

“Gì cơ?” Giọng anh như nghẹn lại trên vai cô.

“Chúng ta sẽ thay quần áo cho chúng.” Cô thì thầm vào tai anh.

Anh không thể hình dung ra con bé trong một cái hộp, một cái hộp bằng cao su trắng với một ô kính nhỏ bên trên nắp mở. 

“Chúng ta sẽ để chúng ngủ trên giường chúng ta đêm nay.”

“Xin em đừng nói nữa.”

“Chỉ một đêm thôi.”

“Xin em.”

“Và rồi ngày mai chúng ta có thể đưa chúng đi dạo.”

“Nếu như em đã từng yêu anh…” Teddy có thể nhìn thấy cái ngày họ cùng nằm dài trên bờ biển.

“Em vẫn luôn yêu anh, cưng ạ.”

“Nếu như em đã từng yêu anh thì làm ơn đừng nói gì nữa,” Teddy nói.

Anh muốn tới bên các con của mình, làm chúng sống lại và mang chúng ra khỏi đây, khỏi cô ta.

Dolores sờ vào báng súng của anh.

Anh chặn tay anh lên tay cô. 

“Em muốn anh yêu em,” cô nói. “Em muốn anh giải thoát em.”

Cô định tóm lấy khẩu súng của anh nhưng anh nhấc tay cô ra. Anh nhìn vào mắt cô. Chúng sáng quắc một cách đáng sợ. Đó không phải là mắt của một con người. Một con chó thì đúng hơn. Hay là một con sói. 

Sau chiến tranh, sau Dachau, anh đã thề anh sẽ không giết người nữa trừ phi anh không có sự lựa chọn nào khác. Trừ phi khẩu súng của người kia đang chĩa thẳng vào anh. Chỉ lúc đó thôi.

Anh không thể giết thêm một mạng người nữa. Anh không thể. 

Cô lại sờ vào súng của anh, mắt cô rực lên, anh lại gỡ tay cô ra. 

Anh nhìn ra phía bờ hồ và thấy bọn trẻ nằm ngay ngắn cạnh nhau, vai kề vai.

Anh rút khẩu súng ra khỏi bao. Anh giơ nó ra trước mặt cô.

Cô cắn môi khóc rồi gật đầu. Cô nhìn lên trên mái chòi và nói, “Chúng ta cứ giả vờ là chúng vẫn còn đây với chúng ta. Chúng ta sẽ tắm cho chúng, Andrew.”

Và rồi anh đặt súng vào bụng cô, tay anh lẩy bẩy, môi anh run lên và anh nói, “Anh yêu em, Dolores.”

Ngay cả lúc này, khi khẩu súng đã kề bên người cô, anh vẫn không dám chắc là anh có thể làm được điều đó. 

Cô nhìn xuống như thể ngạc nhiên là cô vẫn còn ở đây, rằng anh vẫn ngồi ở phía dưới cô, rằng anh vẫn còn yêu cô. “Em cũng yêu anh. Em yêu anh rất nhiều. Em yêu anh như…”

Và anh bóp cò. Tiếng súng bật ra từ đôi mắt của cô, không khí phụt ra từ miệng cô và cô đặt một tay lên lỗ hổng trên bụng, nhìn anh, còn tay kia túm chặt lấy tóc anh. Và rồi khi máu bắt đầu tuôn ra khỏi người cô, anh kéo cô lên, cơ thể mềm mại của cô dựa vào anh và anh ôm lấy cô, cứ ôm ghì lấy cô mà khóc cho tình yêu kinh hoàng của anh, khóc lên tấm váy đã phai màu của cô.

ANH NGỒI BẬT DẬY trong bóng đêm và ngửi thấy mùi khói thuốc trước khi nhìn thấy ánh sáng lom rom của điếu thuốc đang hút dở lóe lên khi Sheehan hít một hơi dài và quan sát anh. Anh ngồi trên giường và khóc. Anh không thể ngừng lại được. Anh nhắc tên con bé. Anh nói:

“Rachel, Rachel, Rachel.”

Và anh thấy đôi mắt con bé đang ngắm nhìn những đám mây và mái tóc trôi bồng bềnh xung quanh nó.

Khi cơn co giật chấm dứt, khi những giọt nước mắt đã khô, Sheehan nói, “Rachel là ai?”

“Rachel Laeddis,” anh nói.

“Và anh là?”

“Andrew,” anh nói. “Tên tôi là Andrew Laeddis.”

Sheehan vặn lên một ngọn đèn nhỏ, để lộ Cawley và một người lính gác ở phía bên kia song sắt. Người lính gác đứng xoay lưng về phía họ còn Cawley thì nhìn họ chằm chằm, hai tay đặt lên chấn song.

“Tại sao anh lại ở đây?”

Anh cầm lấy chiếc khăn mùi soa Sheehan đưa cho và lau mặt.

“Tại sao anh lại ở đây?” Cawley nhắc lại.

“Vì tôi đã giết vợ tôi.”

“Tại sao anh lại làm thế?”

“Vì cô ấy đã giết các con của tôi và cô ấy cần được yên nghỉ.”

“Có phải anh là một đặc vụ Mỹ?” Sheehan hỏi.

“Không. Tôi đã từng một lần. Giờ thì không còn nữa.”

“Anh đã làm việc ở đó trong bao lâu?”

“Từ mùng ba tháng Năm năm 1952.”

“Rachel Laeddis là ai?”

“Con gái tôi. Nó mới bốn tuổi.”

“Ai là Rachel Solando?”

“Cô ta không có thật. Tôi đã bịa ra cô ta.”

“Tại sao?” Cawley hỏi.

Teddy lắc đầu.

“Tại sao?” Cawley nhắc lại.

“Tôi không biết, Tôi không biết…”

“Có, anh có biết. Andrew. Hãy nói cho tôi tại sao.”

“Tôi không thể.”

“Anh có thể mà.”

Teddy ôm lấy đầu và giãy giụa.

“Đừng bắt tôi nói ra. Làm ơn, bác sĩ, hãy làm ơn?”

Cawley túm lấy song sắt. “Tôi cần phải nghe anh nói ra điều đó, Andrew.”

Anh nhìn Cawley sau song sắt, chỉ muốn lao về phía đó và cắn rụng mũi ông ta.

“Bởi vì,” anh nói rồi dừng lại. Anh hắng giọng, nhổ một bãi nước miếng xuống sàn. “Vì tôi không thể nào chấp nhận được việc tôi đã để vợ mình giết các con. Tôi đã phớt lờ mọi dấu hiệu. Tôi đã cố đẩy chúng ra khỏi suy nghĩ của mình. Tôi đã giết các con vì tôi không để người khác chữa trị cho cô ấy.”

“Và?”

“Và chấp nhận điều đó vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi không thể nào sống chung với điều đó.”

“Nhưng anh sẽ phải chấp nhận điều đó. Và anh biết thế.”

Anh gật đầu. Anh co hai gối lại trước ngực.

Sheehan quay đầu nhìn về phía Cawley. Cawley vẫn nhìn xuyên qua những song sắt. Ông ta châm một điếu thuốc và nhìn Teddy không rời.

“Giờ là cái mà tôi lo sợ, Andrew. Trước đây, chúng ta cũng đã tới được đoạn này. Chúng ta đã đạt được bước đột phá này chín tháng trước. Và rồi anh lại thoái lui. Một cách nhanh chóng.”

“Tôi xin lỗi.”

“Tôi đánh giá cao điều đó,” Cawley nói, “nhưng ngay lúc này đây tôi không cần một lời xin lỗi. Tôi cần phải biết anh đã chấp nhận thực tế. Không ai trong chúng ta có thể chấp nhận một sự thoái lui nào nữa.”

Teddy nhìn Cawley, cái người đàn ông còm cõi với hai hố mắt trũng sâu, thâm quầng đó, ông ta đã đến cứu anh. Ông ấy có thể là người bạn chân tình duy nhất mà anh từng có. 

Anh nhìn thấy tiếng súng của anh nhói lên trong mắt cô, anh cảm thấy cổ tay các con trai anh ướt đẫm khi anh khoanh chúng lại trước ngực và mái tóc con gái anh khi anh nhẹ nhàng gỡ những sợi tóc rối ra khỏi khuôn mặt con bé. Anh nói. “Tôi sẽ không thoái lui. Tên tôi là Andrew Laeddis. Tôi đã giết chết vợ mình, Dolores, vào mùa xuân năm năm mươi hai…”

ÁNH NẮNG ĐÃ Ở TRONG PHÒNG khi anh thức dậy.

Anh ngồi dậy và nhìn về phía song sắt nhưng chúng đã biến mất. Thay vào đó là một cửa sổ, thấp hơn cửa sổ trong buồng giam và rồi anh nhận ra rằng anh đang nằm trên một chiếc giường tầng hai trong căn phòng anh đã sử dụng với Trey và Bibby trước đây.

Không có ai ở trong phòng. Anh tụt khỏi giường và mở tủ quần áo, thấy quần áo của anh trong đó, còn thơm mùi giặt mới. Anh mặc quần áo rồi tới bên cửa sổ, gác một chân lên bậu cửa để buộc dây giày và nhìn ra bên ngoài thấy các bệnh nhân, hộ lý và lính gác đầy trong khuôn viên với quân số ngang nhau. Người thì tụ tập tán gẫu trước bệnh viện, người thì tiếp tục công việc quét dọn vệ sinh hay chăm chút những bụi hồng còn sót lại sau cơn bão.

Anh nhìn xuống hai bàn tay của mình trong lúc buộc dây giày. Cứng như thép. Mắt anh cũng vậy, nhìn mọi thứ rõ ràng như khi còn trẻ, và đầu anh thì rất tỉnh táo.

Anh rời khỏi phòng, xuống cầu thang và đi ra ngoài sân. Anh đi qua y tá Marino trong hành lang, cô nhìn anh cười và nói, “Chào buổi sáng.”

“Một buổi sáng đẹp trời,” anh nói.

“Tuyệt vời. Tôi nghĩ cơn bão thổi bay mùa hè cũng vì ý tốt.”

Anh đứng dựa lưng vào lan can, nhìn lên bầu trời xanh trong như mắt trẻ thơ và anh có thể ngửi thấy mùi không khí trong lành đã biến đâu mất từ hồi tháng Sáu. 

“Một ngày vui vẻ nhé!” Y tá Marino nói và anh ngắm cô ta bước dọc theo hành lang. Anh có thể cảm nhận thấy sự duyên dáng trong cái lắc hông của cô ta, một tín hiệu cho thấy sức khỏe của anh đang phục hồi. 

Anh bước vào khuôn viên, đi qua một số hộ lý trong ngày nghỉ đang chơi trò tung bóng. Họ vẫy tay chào anh và nói, “Chào buổi sáng.” Anh vẫy tay đáp lại và nói, “Chào buổi sáng.”

Anh nghe thấy tiếng còi tàu hú lên khi tới gần cầu cảng, anh nhìn thấy Cawley và giám đốc trại giam đang đứng nói chuyện ở giữa bãi cỏ đằng trước bệnh viện. Họ gật đầu ra hiệu nhận ra anh và anh cũng gật đầu đáp lại. 

Anh ngồi xuống một góc trên bậc tam cấp bệnh viện nhìn ra quang cảnh bên ngoài và cảm thấy vô cùng dễ chịu, một thứ cảm giác mà từ lâu anh đã không có được.

“Này.”

Anh cầm lấy điếu thuốc đút vào miệng và nhoài người ra phía trước để châm lửa, ngửi thấy mùi ga bốc lên từ chiếc bật lửa Zippo trước khi sập nắp lại.

“Sáng nay thế nào?” 

“Tốt. Còn cậu?” Anh nói và hít khói thuốc vào trong phổi.

“Không có gì để than phiền.”

Anh để ý thấy Cawley và giám đốc trại giam đang quan sát họ.

“Thế chúng ta có khi nào phát hiện ra được cái cuốn sách của ông giám đốc là sách gì không?”

“Không. Chắc xuống mồ vẫn chưa biết được.”

“Thật đáng tiếc.”

“Có lẽ chúng ta sinh ra trên đời này để không biết được một số thứ. Cứ nghĩ như thế đi.”

“Một quan điểm hết sức thú vị.”

“Cảm ơn.”

Anh rít một hơi thuốc nữa, để ý thấy vị thuốc mới ngọt làm sao. Nó dường như đậm hơn bao giờ hết, vẫn còn đọng lại ở cổ họng anh.

“Thế hành động tiếp theo của chúng ta là gì?”

“Sếp bảo tôi với!”

Anh mỉm cười với Chuck. Hai người họ đang ngồi dưới ánh nắng mặt trời buổi sớm, thoải mái, nhàn hạ như thể mọi chuyện đều tốt đẹp trên cái thế giới này. 

“Phải tìm cách ra khỏi cái hòn đảo này thôi,” Teddy nói. “Lê đít về nhà.”

Chuck gật đầu. “Tôi cũng đoán sếp sẽ nói vậy.”

“Cậu có ý tưởng gì không?”

Chuck nói, “Đợi tôi một phút.”

Teddy gật đầu và dựa lưng vào bậc cầu thang. Cậu ta có một phút. Thậm chí là vài phút. Anh nhìn Chuck giơ tay lên và lắc đầu rồi thấy Cawley gật đầu đáp lại, rồi Cawley nói gì đó với giám đốc trại giam và họ băng qua bãi cỏ về phía Teddy với bốn hộ lý đi theo sau, một người trong số họ vác một chiếc băng ca màu trắng, bọc vải mềm. Teddy nghĩ anh có thể thuổng ít kim loại từ chiếc băng ca đó khi người hộ lý rũ nó ra dưới ánh mặt trời.

Teddy nói. “Tôi không biết, Chuck. Cậu có nghĩ họ đang nhằm vào chúng ta không?”

“Không,” Chuck khẽ nghiêng đầu, mắt hơi nheo lại dưới ánh mặt trời và mỉm cười với Teddy. “Chúng ta quá thông minh mà.”

“Đúng vậy,” Teddy nói. “Chúng ta quá thông minh, không phải vậy sao?” 

Hết

 

Chú thích 

13. Chuck Aule, tiếng Anh nếu đọc liền thành ‘chuckle’ có nghĩa là cười tủm tỉm. 

14. You are him: Anh là hắn. 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.