Hồi còn là tù nhân Ở Việt Nam Connor đã thiết lập một hệ thống đếm từng ngày kể từ khi bị bắt.
Nhưng nằm trên giường trong căn xà lim không có cửa sổ này, thậm chí Connor không thể thiết lập được một hệ thống như vậy để biết mình đã Ở đây bao nhiêu lâu Chỉ huy trưởng Cảnh sát đã đến gặp gã hai lần và lần nào cũng tay không ra về. Connor bắt đầu tự hỏi không biết bao giờ thì ông ta hết kiên nhẫn trước cái điệp khúc của gã, chỉ xưng tên, quốc tịch và đòi gặp Ðại sứ. Gã không phải chờ lâu. Chỉ mấy phút sau khi Bolchenkov rời khỏi xà lim lần thứ hai, ba người đã tiếp đón gã hôm gã mới bị đưa đến đây đã xuất hiện.
Hai người trong số họ lôi gã ra khỏi giường và quẳng lên chiếc ghế mà Chỉ huy trưởng Cảnh sát vừa ngồi. HỌ quặt tay gã ra sau và còng lại.
Connor nhớ lại những lời Chỉ huy trưởng nói khi đến đây lần đầu tiên: “Tôi không tin Ở phương pháp tra tấn ÐÓ không phải kiểu của tôi”. Nhưng đó là trước khi Zerimski trở thành Tổng thống.
Cuối cùng gã ngủ thiếp đi, nhưng không biết mình đã ngủ được bao nhiêu lâu. Gã chỉ biết là mình bị lôi lên khỏi sàn nhà và một lần nữa bị tống lên chiếc ghế đó.
HỌ trở lại lần thứ ba. Lần này họ lôi gã lên khỏi sàn và đẩy gã khỏi xà lim ra một hành lang dài hun hút.
Chính những lúc như thế này đây gã chỉ ước gì mình đừng có chút trí tưởng tượng nào. Gã cố không nghĩ đến những gì có thể xảy ra. Trong khi tuyên dương để tặng cho Trung úy Connor Fitzgerald Huân chương Danh dự, người ta đã miêu tả gã là một người đã không hề biết sợ là gì khi dẫn đầu quân xung trận, đã cứu sống một sĩ .
quan khác. Nhưng Connor biết mình chưa bao giờ gặp một ai không hề biết sợ là gì. Hồi đó gã đã bị giam trong một năm, năm tháng và hai ngày. Nhưng hồi đó gã mới có hai mươi hai tuổi, và Ở tuổi hai mươi hai người ta tin rằng mình sẽ không thể chết được.
Khi họ đẩy gã từ hành lang ra khoảng sân có ánh sáng trời, gã nhìn thấy một nhóm tù nhân đang dựng một giá treo cổ. Giờ đây gã đã năm mốt tuổi, và chẳng cần ai bảo cho mới biết rằng mình không hề bất tử.
Hôm thứ Hai đó, khi Joan Bennett đãng ký vào làm việc Ở Langley thì chị biết rõ mình đã chịu bản án mười tám tháng được bao nhiêu ngày rồi, bởi vì mỗi buổi tối trước khi đi làm chị lại cho con mèo ăn và gạch chéo thêm một ngày trên cuốn lịch treo trên tường phòng bếp.
Joan đậu xe trong bãi đậu xe phía Tây và đi thẳng về phía thư viện. Vào đến bên trong tòa nhà chị đi xuống chiếc cầu thang bằng kim loại để đi xuống phòng tra cứu Trong chín tiếng đồng hồ tiếp đó – chỉ trừ một lúc nghỉ để ăn lót dạ vào lúc nửa đêm – chị sẽ phải ngồi đọc các mẩu tin tức trích từ các báo chí Ở Trung Ðông gửi về qua đường e- mail. Nhiệm vụ chính của chị là tìm xem có gì nhắc đến Mỹ không, và nếu đáng chú ý thì coppy lại trên máy tính và gởi bằng e-mail cho sếp của mình ngồi Ở tầng ba, người sẽ cân nhắc và xử lý tiếp theo trong buổi sáng hôm sau – vào giờ làm việc giống với người bình thường hơn. ÐÓ là một công việc chán ngắt, tẻ nhạt và làm chết dần đầu óc cua người ta. Ðã nhiều lần chị nghĩ đến chuyện xin thôi việc, nhưng sau đó lại quyết định không để cho Gutenburg thỏa mãn vì đã đạt được mục đích.
Ðúng trước giờ nghỉ giải lao nửa đêm Joan chợt nhìn thấy đầu đề bài báo in trên tờ Istanbul News: “1 Tên Mafya giết người bị đưa ra tòa ” Chị vẫn nghĩ Mafia là bọn Italia, nhưng rồi rất ngạc nhiên khi thấy bài báo nhắc đến một tên khủng bố người Nam Phi đã phải ra tòa vì đã định ám sát Tổng thống mới của Nga. CÓ lẽ chị đã chẳng chú ý thêm nữa làm gì, nếu như không nhìn thấy bức ký họa kẻ bị buộc tội.
Tim Joan bắt đầu đập nhanh dần trong lúc chị cẩn thận đọc lại bài báo dài lê thê của Fatima Kusmann, phóng viên Ở Ðông âu của tờ lstanbul News. Trong bài báo nữ phóng viên này tuyên bố rằng cô ta đã ngồi cạnh tên giết người lành nghề này trong một cuộc họp của đám đông quần chúng Ở Moscow mà Zenmski đã tới diễn thuyết.
Nửa đêm đã qua từ lâu, nhưng Joan vẫn còn ngồi lại bàn mình.
Connor đang đứng Ở sân nhà tù nhìn đoạn đầu đài đang dựng dở thì một chiếc xe cảnh sát ập đến và một trong mấy người đang giải gã đi đẩy dúi gã vào ghế sau.
Gã ngạc nhiên khi thấy Chỉ huy trưởng Cảnh sát đang chờ mình. Bolchenkov không tài nào nhận ra gã Ở cái người hốc hác, đầu trọc lốc này.
Trong khi chiếc xe lao qua cổng và ra khỏi nhà tù, cả hai không ai nói câu nào. Người lái xe rẽ phải rồi chạy dọc bờ sông Neva với tốc độ đúng 50 ki lô mét một giờ.
HỌ đi qua ba chiếc cầu, rẽ trái, rồi qua chiếc cầu thứ tư để vào khu trung tâm thành phố. Trong khi xe chạy ngang qua sông, Connor nhìn qua cửa sổ và thấy cung điện Hermitage màu xanh lá cây nhạt. NÓ thật vô cùng tương phản với cái nhà tù mà gã vừa ra khỏi. Gã ngước nhìn bầu trời xanh trong sáng, rồi nhìn những người dân thường đang đi lại ngược xuôi trên phố. Tự do mới đáng giá làm sao. Sang đến bờ nam chiếc xe rẽ trái rồi chạy thêm vài trăm mét trước khi dừng lại trước Cung Công lý Một cảnh sát đứng chờ sẵn chạy đến mở cửa xe. Nếu Connor có tí ý định nào chạy trốn thì chỉ cần nhìn năm mươi cảnh sát khác đứng dọc hè phố cũng khiến gã phải nghĩ lại. HỌ đứng thành một vòng cung trong khi gã leo lên bậc thềm để đi vào tòa nhà vĩ đại bằng đá.
Gã bị dẫn đến trước một chiếc bàn, một sĩ quan giơ tay cầm lấy cổ tay gã đọc rồi ghi vào sổ hàng chữ số “12995”. Sau đó gã bị giải đi dọc hành lang lát đá cẩm thạch và đến trước hai cánh cửa khổng lồ bằng gỗ sồi.
Còn cách mấy bước nữa thì cánh cửa đã bật mở, và gã bước vào một phòng xử án đã chật cứng.
Gã nhìn quanh cả một biển những khuôn mặt, rõ ràng họ đang chờ gã.
Joan đánh mấy chữ vào máy tính: tấn công tính mạng Zerilnski. Tất cả các bài báo về vấn đề này đều có vẻ thống nhất Ở một điểm: đó là người bị bắt Ở quảng trường Tự do tên là Piet de Villier, một tên giết người thuê người Nam Phi đã được Mafya Nga thuê để ám sát Zerimski. Trong đồ đạc của người này người ta nhận ra khẩu súng đã được sử dụng để ám sát ứng cử viên Tổng thống Colombia Ricardo Guzman hai tháng trước đây.
Joan quét bức ký họa trên tờ báo Thổ Nhĩ Kỳ vẽ Piet de Villier vào máy tính rồi phóng to đến mức nó choán hết màn hình. Sau đó chị quét riêng đôi mắt, đặt nó về tỷ lệ mắt thật. Giờ đây chị có thể biết chắc ai là người sắp bị đưa ra xử trong phiên tòa Ở Si. Petersburg.
Joan nhìn đồng hồ. Hai giờ hơn vài phút. Chị nhấc điện thoại bên bàn lên và quay một số máy chị đã thuộc lòng. Chuông reo một lúc mới có người nhấc máy, một giọng ngái ngủ trả lời:
– Ai đấy?
Joan chỉ nói:
– CÓ một điều rất quan trọng tôi cần phải gặp chị.
Khoảng một giờ nữa tôi sẽ đến chỗ chị – Nói rồi chị đặt máy.
Mấy giây sau, một người khác cũng bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Hắn lắng nghe thật kỹ rồi mới nói:
– Chúng ta chỉ cần đẩy tiến độ đã định sớm lên vài ngày thôi.
Connor đứng trước vành móng ngựa và nhìn quanh gian phòng xử án. Mắt gã dừng lại trước tiên Ở đoàn hội thẩm. ÐÓ có phải là mười hai người tốt và trung thực không? Không một ai trong số đó liếc mắt về phía gã.
Gã đoán là họ chẳng mất thì giờ để tuyên thệ mấy, và sẽ không có một yêu cầu thay thế người nào.
Tất cả mọi người trong phòng đứng dậy khi một người mặc áo thụng đen bước vào từ cửa bên. ông ta ngồi xuống chiếc ghế da lớn nhất kê giữa bục chủ tọa, ngay bên dưới bức chân dung Tổng thống Zerimski. Thư ký tòa đứng dậy và đọc lời buộc tội gã trên đất Nga, và dĩ nhiên là hắn không được phép xin bào chữa. Thư ký tòa ngồi xuống, một người đàn ông trung niên cao lớn và ảm ~ đạm ngồi ngay dưới bục hội thẩm đứng lên và phát biểu với chủ tọa phiên tòa.
Suốt phần còn lại của buổi sáng người đại diện cho bên nguyên nắm chặt ve áo và miêu tả những sự kiện dẫn đến việc bắt giữ bị cáo. ông ta kể lại việc de Villier đã bám theo Zerimski trong nhiều ngày ra sao trước khi bị bắt tại quảng trường Tự do và người ta đã phát hiện ra trong đống đồ đạc của bị cáo khẩu súng trường mà gã đã dự định dùng để ám sát Tổng thống yêu quý của chúng ta như thế nào. Người đại diện cho bên nguyên nói:
– ÐỒ đạc của hắn còn tố cáo rõ hơn. Trên chiếc vali đựng vũ khí có in rõ mấy chữ đầu tên hắn.
quan tòa cho phép đoàn hội thẩm kiểm tra khẩu súng và chiếc vai.
– Tệ hại hơn nữa, người ta tìm thấy một mẩu giấy giấu dưới đáy chiếc túi vải thô của bị cáo khẳng định đã chuyển một triệu đô la Mỹ vào một tài khoản đánh số Ở Geneva” Một lần nữa đoàn hội thẩm lại có dịp xem xét mẩu giấy chứng cứ đó. Kẻ đại diện cho bên nguyên lại nói tiếp với những lời ca ngợi sự chuyên cần và hùng mạnh của lực lượng cảnh sát St. Petersburg trong việc ngăn chặn hành động ghê tởm này, cũng như chuyên môn rất cao của họ thể hiện trong khi bắt giữ tên tội phạm. ông ta nói thêm rằng tổ quốc mắc một món nợ lớn đối với Vladimir Bolchenkov, Chỉ huy trưởng Cảnh sát St.Petersburg. Nhiều người trong đoàn hội thẩm gật đầu tán thành.
Người đại diện cho bên nguyên kết thúc bài độc thoại dài lê thê của mình bằng cách thông báo với đoàn hội thẩm rằng bị cáo sẽ luôn luôn từ chối trả lời mỗi khi bị hỏi có phải đã được thuê để tiến hành vụ giết người thay mặt Mafya không. ông ta nói:
– Với sự im lặng của hắn các vị cần quyết định theo ý muốn của mình. Ðối với tôi, với những chứng cứ đó thì chỉ có một phán quyết duy nhất, và một bản án duy nhất mà thôi.
ông ta mỉm cười nhạt nhẽo với chủ tọa phiên tòa và ngồi xuống.
Connor nhìn quanh phòng để tìm xem người được chỉ định để bào chữa cho mình. Gã tự hỏi luật sư của mình làm thế nào có thể thi hành được nhiệm vụ của mình một khi họ chưa bao giờ gặp nhau.
Chủ tọa phiên tòa gật đầu về phía cuối dãy ghế. Một thanh niên trẻ măng tựa như vừa rời ghế trường luật mới vài ngày đứng dậy. Anh ta không nắm ve áo trong lúc nhìn về phía đoàn hội thẩm, không mỉm cười với chủ tọa phiên tòa, thậm chí không quay về phía thẩm phán. Anh ta chỉ nói mỗi một câu:
– Thân chủ của tôi không phản đối điều gì.
Nói rồi anh ta ngồi xuống ngay.
Chủ tọa phiên tòa gật đầu rồi quay sang Chủ tịch đoàn hội thẩm, một người có vẻ mặt đau khổ và có lẽ biết rõ người ta chờ đợi gì Ở mình. ông ta đứng dậy:
– ông Chủ tịch đoàn hội thẩm, sau khi đã lắng nghe các chi tiết chứng cứ trong vụ này, ông có thấy bị cáo có tội không?
– CÓ tội – ông ta nói, không cần bàn bạc hay nói năng gì với bất cứ thành viên khác nào trong đoàn hội thẩm.
Lần đầu tiên chủ tọa phiên tòa nhìn ngó đến Connor:
– Vì đoàn hội thẩm đã có được phán quyết thống nhất, cho nên đã ủy quyền cho tôi tuyên bố bản án này. Và theo luật thì chỉ có một hình phạt duy nhất cho tội ác của hắn – ông ta dừng lại và nhìn trừng !rừng vào mặt Connor, nói – Ta xử anh tội chết bằng cách treo cổ – Rồi ông ta quay sang luật sư của bị cáo – Anh có muốn xin kháng án không?
Câu trả lời bật ra ngay lập tức:
– Không, thưa ngài.
– việc hành quyết sẽ tiến hành vào hồi tám giờ thứ Sáu tới Connor chỉ ngạc nhiên một điều là tại sao bọn họ lại chờ đến tận thứ Sáu mới treo cổ gã.
Trước khi đi Joan xem đi xem lại bài báo. Ngày tháng trùng khớp với thời gian Connor đi vắng. Ðầu tiên là chuyến đi Colombia, sau đó đến chuyến đi St.Petersburg. Ở đó – đúng như câu nói ưa thích của Connor – có quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên.
Ba giờ đêm, Joan cảm thấy kiệt sức. Chị không muốn phải nói cho Maggie biết kết quả việc điều tra của mình.
Và nếu thật sự Connor là người phải hầu tòa Ở St.Petersburg thì không được bỏ phí thêm một giây nào nữa, bởi vì tờ báo Thổ Nhĩ Kỳ đó đã ra hai ngày nay rồi.
Joan tắt máy tính, khóa bàn và hy vọng sếp sẽ không nhận thấy hộp thư e-mail hầu như rỗng không. Chị đi xuống cầu thang cũ kỹ để đi xuống tầng trệt, nhét chìa khóa điện vào cửa kiểm soát ra rồi len vào dòng người đi làm ca sáng.
Joan bật đèn rồi lái chiếc xe mới tinh ra khỏi bãi đỗ, qua cổng chính rồi rẽ về hướng đông chạy về phía Georgetown Washington Parkway. Mặt đường vẫn còn phủ lớp băng mỏng từ cơn bão tối qua, đội công nhân trên đường cao tốc đang dọn dẹp để chuẩn bị cho giờ cao điểm buổi sáng. Thường thường chị rất thích lái xe trên đường phố Washington vào buổi sớm vắng vẻ, lướt qua những tượng đài kỳ vĩ luôn nhắc nhở về lịch sử dân tộc.
Hồi còn học Ở trường Si. Paul chị vẫn thường hay ngồi im lặng Ở hàng đầu lắng nghe thầy giáo kể những câu chuyện về Washington, Jefferson, Lincoln và Roosevelt.
Chính sự ngưỡng mộ đối với các vị anh hùng dân tộc đó đã đốt cháy trong chị ham muốn được làm những công việc phục vụ quần chúng.
Sau khi tốt nghiệp Trường Ðại học Tổng hợp Minnesota, Joan đã nộp đơn xin vào làm việc cho FBI và CIA. Cả hai cơ quan đều yêu cầu chị đến để phỏng vấn, nhưng sau khi gặp Connor Fitzgerald chị đã hủy cuộc hẹn với FBI. ÐÓ là người đàn ông đã trở về từ một cuộc chiến tranh vô dụng với một tấm huân chương mà anh chẳng bao giờ nhắc đến, và tiếp tục phục vụ đất nước mình không hề cần đến khoa trương thanh thế. Nếu có bao giờ chị bày tỏ những ý nghĩ ấy với Connor thì anh chỉ cười to và bảo là chị quá nhạy cảm. Nhưng Tom Lawrence có lý khi gọi anh là một trong những anh hùng chưa được ca ngợi. Joan sẽ đề nghị Maggie liên lạc với Nhà Trắng ngay lập tức, bởi vì chính Lawrence là người đã yêu cầu Connor thực hiện nhiệm vụ này kia mà.
Joan đang cố gắng sắp xếp các ý nghĩ theo một trật tự logic thì một chiếc xe tải màu xanh lá cây từ làn bên ngoài vượt qua và bắt đầu tạt vào trong ngay trước mũi xe chị. Chị nháy đèn pha nhưng chiếc xe vẫn không tránh sang bên. Chị nhìn gương sau rồi chạy sang làn đường giữa. Ngay lập tức chiếc xe lại chèn sang đường của chị, buộc chị phải đánh mạnh tay lái sang bên trái.
Trong một tích tắc Joan phải quyết định nên đạp mạnh phanh hoặc tăng tốc vọt lên để vượt qua tên lái xe điên khùng này. Một lần nữa chị lại nhìn vào gương sau nhưng lần này kinh hoàng nhận thấy một chiếc xe Mercedes lớn màu đen đang chạy rất nhanh tới. Chị đạp ga hết mức, chiếc Passat nhỏ đáp ứng ngay lập tức, nhưng chiếc xe tải chở cát cũng tăng tốc, và chị không thể đạt nổi tốc độ để có thể vượt xa được nó.
Joan không còn cách nào khác là tiếp tục lái sang bên trái, hầu như vào đến vạch phân cách. Chị nhìn gương sau và thấy chiếc Mercedes cũng đuổi theo, lúc này đã gần như sắp đâm vào thanh chắn phía sau của xe chị. Chị cảm thấy tim đập rất mạnh. Phải chăng chiếc xe tải và chiếc Mercedes đang phối hợp với nhau? Chị chạy chậm lại một chút nhưng chiếc Mercedes chỉ càng sát đến mỗi lúc một gần thanh chắn phía sau của chị hơn. Joan lại đạp ga, xe chị vọt lên. MỒ hôi chảy ưót trán, chảy cả vào mắt, chị đã tiến lên được ngang hàng với chiếc xe chở cát, nhưng dù chân đã đạp ga hết mức chị vẫn không thể nào vượt qua nó. Chị nhìn thẳng vào ca bin và cố gắng thu hút sự chú ý của tên lái xe nhưng hắn phớt lờ cái vẫy tay của chị và vẫn tiến đến sát sạt vào bên trái buộc chị phải chạy chậm lại và rớt lại đàng sau. Joan lại nhìn vào gương sau: chiếc Mercedes vẫn còn đó, có chăng là gần sát thanh chắn phía sau của xe chị hơn chút nữa.
Trong khi chị nhìn thẳng về phía trước thì nắp sau thùng chiếc xe chở cát nhấc lên, hắn bắt đầu đổ cát xuống đường. Joan đạp phanh nhưng xe chị đã bị mất lái nó trượt qua vạch phân cách, trượt qua thảm cỏ về phía bờ sông. NÓ lia xuống nước như một viên đá dẹt, sau khi bồng bềnh một giây nổ biến mất. Tất cả những gì còn lại chỉ là một vết trượt dài trên bờ sông và vài cái bong bóng nổi lên trên mặt nước. Chiếc xe chở cát trở lại làn đường giữa và tiếp tục chạy về phía Washington. Một phút sau chiếc Mercedes nháy pha rồi tăng tốc chạy đi.
Hai chiếc xe con đang chạy về hướng sân bay Dulles dừng lại bên lề đường. Một trong hai người lái xe nhảy ra và chạy về phía bờ sông, hy vọng có thể giúp gì được, nhưng khi anh ta đến được bờ sông thì không còn thấy bóng dáng chiếc xe đâu nữa. Chỉ còn lại vết trượt dài trên bờ sông tuyết phủ và mấy cái bong bóng sủi lên trên mặt nước. Người lái xe nguệch ngoạc ghi lại số chiếc xe tải Anh ta đưa mẩu giấy cho viên cảnh sát đầu tiên tới chỗ xảy ra sự việc. Viên cảnh sát đánh dòng chữ số lên máy tính. Mấy giây sau anh ta ngẩng lên, nhăn mặt:
– ông có chắc là đã ghi lại đúng số chiếc xe ấy không? Phòng quản lý Giao thông Washington không hề có hồ sơ nào về một chiếc xe tải có số đăng ký như vậy cả.
Khi Connor bị đẩy vào sau xe, gã thấy Chỉ huy trưởng Cảnh sát đang chờ sẵn mình. Trong khi người lái xe bắt đầu lái xe trở lại Crucifflx, Connor không thể không hỏi Bolchenkov một câu:
Tôi rất muốn biết tại sao họ lại phải chờ đến tận thứ Sáu mới treo cổ tôi?
Chỉ huy trưởng đáp:
– Một chút may mắn đấy, thật sự là như vậy. Hình như Tổng thống yêu dấu của chúng ta khăng khăng muốn chứng kiến cuộc hành hình – Bolchenkov hít một hơi thuốc – Và phải đến sáng thứ Sáu ông ta mới có mười lăm phút trống.
Connor mỉm cười nhăn nhúm.
Chỉ huy trưởng nói tiếp:
ông Fitzgerald, tôi rất hài lòng là cuối cùng cũng làm cho ông mở miệng được. Bởi vì tôi nghĩ là đã đến lúc nói cho ông biết vẫn còn một phương án thứ hai để lựa chọn.