Hạnh phúc lối nào
Hết mê trần tục
Cô Hưởng cảm động cực điểm. Cô suy nghĩ một hồi rồi cô nói không thể đi được, vì cô đi té ra cô muốn tranh gia tài với mẹ con cô Thậm hay sao. Cô cứ chối từ. Ông Đốc Thắng cứ nài nỉ hết sức không được, túng thế ông mới cậy cô đưa ông qua chùa đặng ông giáp mặt với Càn là lập thế rước Càn đi. Cô Hưởng chịu.
Ông Đốc Thắng mới hẹn với cô đúng 3 giờ chiều ông sẽ ngồi xe lại rước cô đi Chí Hòa, rồi ông cáo từ mà về.
Nói chuyện với cô Hưởng một buổi sớm mơi, ông Đốc Thắng cảm thấy cô là người biết nâng cao tiết hạnh, biết cư xử đúng đắn, chớ không phải như đàn bà thường. Sẵn có một ngàn đồng bạc của bà Xã Cầm trao để làm lộ phí, ông muốn tỏ lòng ông yêu quí trọng cô, trước dụ cô đặng rước cô về Cần Giuộc cho cô giáp mặt với bà Xã Cầm, sau cậy cô giúp nói với Càn theo cô mà về cho bà Xã nhìn cháu. Tưởng phải đi đâu xa xôi tốn hao bao nhiêu, chẳng dè mới bước ra may gặp mẹ, rồi lại biết con ở gần nữa, thế thì khỏi lặn lội kiếm tìm nên phải tiện tặn.
Buổi chiều ông mướn một chiếc xe lô-ca-xông rồi đúng 3 giờ, là giờ hẹn, ông ngồi xe lại đậu trước cửa tiệm may Tân Hưng. Cô Hưởng cũng không quên lời hẹn, đúng 3 giờ cô thay áo quần sửa soạn xong rồi. Thấy xe lại tới, cô lật đật xuống lầu mà ra xe đặng đi với ông Đốc. Ông Đốc mở cửa xe bước ra chào cô, mời cô lên xe, ông ngồi một bên và biểu cô nói cho sớp-phơ biết đi đâu đặng ảnh chạy. Cô Hưởng biểu qua chùa Nhơn Hòa bên Chí Hòa. Anh sớp-phơ nói anh biết, vì anh có đưa khách qua chùa thường.
Xe phát chạy, thì ông Đốc nói với cô Hưởng : “Qua đó kiếm thế nói mà rước Càn xuống Cần Giuộc cho bà nội với cháu nội gặp nhau. Hễ tôi nói thì xin cô nói tiếp giùm, rồi cô cũng đi luôn cho vui. Tôi rước được hai mẹ con cô về đủ thì bà Xã mừng lắm”.
Cô Hưởng chúm chím cười nói: “Em xin rước nó ra nhà em ở gần đây, mà nó còn không chịu ra, thầy rước đi xa em sợ khó nói”.
Ông Đốc nói:
– Ấy! mà tôi có thể nói được. Mẹ trẻ tuổi mà lại ở gần, mẹ có nhớ thì qua chùa mà thăm được. Còn bà nội già lại ở xa, bà nội đi thăm sao được. Tôi giao với cô hễ tôi nói Càn chịu đi, thì cô phải đi với con nghe hôn.
– Em thưa thiệt với ông Đốc, em vẫn biết em đi là phải đi một công hai ba chuyện, đi đặng thăm bà Đốc luôn thể. Ngặt vì em ngại quá nên em không muốn đi.
– Tôi biết cô sợ thiên hạ không hiểu bụng cô, họ sắp cô theo hạng với cô Oanh, vì gia tài nên lết tới. Tôi sẽ chứng minh cho cô là người biết trọng tình nghĩa chớ không kể ruộng kể tiền. Mà bà Xã Cầm đưa bạc cho tôi mà cậy đi kiếm đặng rước cô, chớ phải tự nhiên cô đến hay sao mà ngại tiếng thị phi. Huống chi dân Cần Giuộc là dân biết điều, biết phân biệt kẻ phải với người quấy, đến anh đánh xe ngựa ngày trước ảnh cũng dám binh người hiền lành cô thế mà hạng người giàu có hoành hành, việc đó cô mục kích rõ ràng, có lẽ cô còn nhớ chớ.
– Thưa, em làm sao mà quên cho được. Em ngại nhứt là trở về chốn cũ em nhớ người xưa mà người không còn, chỉ thấy cái bàn thờ tiu hiu em đau lòng chịu không nổi.
Cô Hưởng khóc. Ông Đốc nói: “Cả hai người đều mang nặng một khối tình chung mà lại không được sum hiệp! Ông tơ bà nguyệt thiệt là trớ trêu quá!”
Thiệt anh sớp phơ biết chùa Nhơn Hòa, tới chợ Chí Hòa thì anh quanh tay mà chạy luôn vô đậu trước cửa chùa. Ông Đốc mở cửa xe cho cô Hưởng xuống. Cô mở bóp muốn trả tiền xe. Ông Đốc không cho; ông biểu sớp phơ ở chờ để có sẵn xe mà về, không biết chừng về luôn Cần Giuộc. Cô Hưởng cười, cô cười vì thấy ông lãnh cái nhiệm vụ đi tìm dâu tìm cháu nội cho bà Xã Cầm, ông nuôi một đức tin thành công mạnh mẽ quá.
Cô Hưởng biết chỗ ông Yết Ma trụ trì ở rồi, vì cô đã có vô hỏi thăm con hồi trước, bởi vậy cô dắt ông Đốc Thắng đi thẳng vô tịnh trai mà xin phép thăm Càn.
Ông Yết Ma cũng biết cô nên thấy cô bước vô ông hỏi phải cô muốn thăm huynh Huệ Minh hay không. Cô nói vì có người bà con bên nội của Càn muốn biết cháu nên cô xin phép thăm Càn một chút.
Thấy sư Huệ Tiên đi ngang ngoài sân. Ông Yết Ma kêu mà dạy rước khách đưa qua giảng đường rồi vô trong kêu huynh Huệ Minh qua đó đặng mẹ con nói chuyện cho thong thả.
Cô Hưởng với ông Đốc chào ông Yết Ma mà đi theo sư Huệ Tiên qua nhà khách. Sư kéo ghế mời khách ngồi tại bàn giữa, kêu một ni cô biểu chế một bình trà đãi khách, rồi sư trở qua phía sau tịnh trai kêu huynh Huệ Minh đương ngồi chép kinh.
Ông Đốc Thắng ngồi ngó kiểng vật, bàn ghế, khen cách chưng dọn tốt đẹp, lại có thứ tự, ngó mấy bức tranh thập điện treo hai bên tường ông khen vẽ khéo, màu tươi.
Huynh Huệ Minh là Nguyễn Văn Càn, con của cô Hưởng và cậu Đường, ở phía trong đi ra. Ông Đốc ngó trân trân. Càn lại tới, mới xá mẹ và xá ông Đốc, tưởng ông nầy là cha nên đứng ngó.
Cô Hưởng vừa kéo một cái ghế ra vừa nói:
– Con ngồi, ngồi một bên má đây đặng má nói chuyện nhà một chút. Ông đây là ông Đốc học, hồi trước làm hiệu trưởng trường Cần Giuộc bây giờ đã hưu trí rồi. Hôm trước má muốn rước con ra ngoài nhà đặng má bày tỏ nguồn gốc của con cho con biết cha mẹ ông bà là ai ở đâu, tại sao sanh con mà bỏ con xiêu lạc. Con không chịu đi với má. Hôm nay má phải trở vô chùa cho con hay là bà nội con ở dưới Cần Giuộc, vì già cả đi ông được, nên cậy ông Đốc đây lên kiếm má và kiếm con. Bà nội con muốn rước con xuống dưới đặng bà cháu biết nhau rồi bà nói việc nhà cho con hiểu.
Càn châu mày ngồi suy nghĩ.
Ông Đốc ngó cô Hưởng và nói nhỏ nhỏ:
– Giống quá! Thấy thì biết liền.
Càn mới hỏi:
– Còn cha của con là ai ở đâu?
Cô Hưởng nói:
– Cha con chết rồi, chết 4 năm rồi.
Ông Đốc Thắng mới tiếp mà nói:
– Câu chuyện ba với má cháu gặp nhau rồi sanh cháu là một chuyện dài lắm, lại thắc mắc lắm nữa. Ấy là một thiên tình sử éo le, phải nhiều thì giờ mới nói hết được. Cháu phải đi xuống Cần Giuộc cho bà nội cháu với má cháu kể chuyện lại cho cháu hiểu, đưa tờ di chúc của ba cháu với khai sanh của cháu cho cháu coi. Sẵn có xe hơi đậu ngoài trước. Đây xuống đó có vài chục cây số, xe hơi chạy nửa giờ thì tới. Xuống đó cháu ở chơi, chừng nào cháu muốn về thì xe đưa về.
Càn lắc đầu mà nói:
– Cháu không thể đi như vậy được.
– Sao vậy? Tu rồi bỏ hết ông bà cha mẹ hay sao?
– Thưa, không phải vậy. Cháu không thể đi được là gì thuở nay cháu không biết ông bà cha mẹ là ai hết. Bây giờ tình cờ gặp mẹ, gặp bà nội, cháu có biết chuyện chi đâu mà hỏi, bởi vậy gặp không ích gì. Gặp hay là không gặp cũng vậy.
– Cháu nói hơi cháu phiền mẹ với bà nội. Có má cháu ngồi đây, cháu chẳng nên nói như vậy má cháu buồn.
Cô Hưởng tủi phận nên chảy nước mắt.
Ông Đốc nói tiếp:
– Má cháu là một người đàn bà đúng đắn, cao thượng đời nay không dễ kiếm một người như vậy đâu cháu. Ba với má cháu vì hoàn cảnh trắc trở nên phải xa nhau mà cũng không được gần cháu. Chuyện ba với má cháu là một thiên tình sử bi ai, sầu thảm đến nỗi ba cháu chịu khong nổi phải mang bịnh mà chết, còn má cháu phải vùi thân trong cực khổ ở chốn rừng rậm non cao. Cháu biết được thiên tình sử đó rồi thì cháu sẽ kính yêu vong linh của ba cháu và quí trọng đức tính của má cháu.
Bà nội cháu cũng là một bà hiền đức thuở nay đất Cần Giuộc ai cũng biết danh, ai cũng kính phục. Thuở nay bà không dè có cháu, bà mới thấy tờ di chúc của ba cháu bà mới hiểu mà cậy qua đi tìm đây. Vậy cháu phải đi với qua xuống Cần Giuộc cho má cháu với bà nội cháu nói) rõ câu chuyện cho cháu nghe đặng cháu hết phiền cha mẹ ông bà nữa.
– Thưa, cháu đi không được. Từ khi cháu biết đi biết nói thì cháu không thấy cha mẹ chi hết chỉ có một bà nuôi dạy cháu cho đến tám chín tuổi. Bà đó bịnh mới giao cháu cho một cô khác nuôi. Cô nầy coi cháu như một đứa đầy tớ, không có tình chi hết. Chán buồn cháu bỏ cháu đi. Cháu vầy đoàn với đám nhà con hoang. Trót năm năm trường, cháu ăn bên lề đường, cháu ngủ dưới mái chợ, không nhà cửa, không mẹ cha. Sau vô chùa đây, cháu nghe kinh, cháu mộ phật, cháu mới cạo đầu xin ở mà tu. Cháu có lời nguyện hiến thân cho nhà Phật, không biết việc ngoài thế gian nữa. Cháu tu tập trót 4 năm nay cháu hết mê trần tục. Vậy cháu không cần biết nguồn gốc làm chi cho bận lòng. Cháu đã biết có một bà mẹ ở Saigon với một bà nội ở Cần Giuộc, biết bao nhiêu đó cũng đủ, không nên biết thêm nữa. Cháu tu cháu phải để cho trí tịnh tâm an, tiếp tục với thế gian rồi đầu óc lộn xộn tu làm sao cho đắc đạo được.
– Qua tỏ thiệt với cháu, kiếng họ Nguyễn của ba cháu khi ba cháu chết rồi thì tuyệt tộc. Bà nội cháu hay có cháu thì mà mừng lắm. Bà mong cậy cháu nối dòng đặng phụng tự tổ tiên.
– Thầy chùa mà nối dòng gì được.
– Thì cháu về ở trong nhà mà tu đặng cúng quẩy ông bà luôn thể.
– Cháu đã có lời nguyện hiến thân cho cửa Phật. Cháu không được phép bỏ lời nguyện.
– Cháu không chịu về ở nhà rồi gia tài sự sản của bà nội cháu ai ăn? Nhiều lắm cháu à. Có nhà cửa tử tế, có 60 mẫu ruộng thượng hạng, mỗi năm huê lợi không dưới ba ngàn thùng lúa, chớ phải ít sao. Cháu bỏ cho thiên hạ ăn uổng quá.
– Cháu không ăn thì người khác ăn cũng vậy, chớ có bỏ đâu mà uổng, hay là bà nội cháu coi ai thiếu hụt lúa mà nuôi sống, thì kêu họ mà cho. Làm như vậy bà nội cháu sẽ được lành cũng như tu.
Ông Đốc Thắng bí lối hết cãi được nữa.
Cô Hưởng mới tiếp với ômg mà nói:
– Thôi thì con về ở nhà thờ nếu bà nội con có giao gia tài cho con, thì con liệu phải cúng quẩy ông bà mỗi năm tốn hao bao nhiêu con để dành mà cúng; còn dư bao nhiêu con liệu mà phân phát cho nhà nghèo.
– Thưa, không được. Có phải tiền hay lúa của con làm ra đâu mà con được phép sử dụng. Nếu con làm như vậy, té ra con ăn cắp tiền lúa của người mà mua phước riêng cho con hay sao? Đó là cách dùng gian dối cầu phước.
Cô Hưởng bí lối luôn nữa.
Ông Đốc Thắng ngó cô Hưởng và lắc đầu mà nói:
– Thôi, để tôi về tôi nói lại cho chị Xã nghe coi chị liệu lẽ nào rồi tôi sẽ trở lên. Còn cháu Càn, qua khuyên cháu nên suy nghĩ lại cho kỹ. Một bên thì tu niệm đặng cầu phước cho cháu, còn một bên là yêu mến gia đình phụng tự tổ khảo, trọn đạo hiếu nghĩa, nối nghiệp tông môn. Cháu Càn phân coi bên nào nặng bên nào nhẹ. Theo ý qua thì hy sinh hạnh phúc của mình để làm cho tông môn tồn tại, được vậy mới thiệt là cao thượng. Cháu xét cho kỹ cái điểm đó”.
Càn nói:
– Ông Đốc về, cháu xin ông tỏ lại với bà nội cháu rằng cháu hay cháu có bà nội thì cháu hoan hỉ lắm. Ngặt cháu đã xuất gia đầu Phật, cháu hết mê trần tục, cháu quyết dứt nợ đời, nên cháu không gần bà nội cháu được. Vậy cháu kính lời cầu nguyện trời Phật ban phước cho bà nội cháu sống dư trăm tuổi.
Ông Đốc với cô Hưởng đứng dậy đi qua tịnh trai cáo từ với ông Yết Ma mà ra. Càn đưa hai người ra tới xe. Ông Đốc nói về vài bữa rồi ông sẽ trở lên. Cô Hưởng từ biệt con và lên xe đi về với ông Đốc.
Xe vừa chạy thì ông Đốc nói:
– Thiệt nó giống cha nó quá. Sanh con mà mình không gần gũi với nó, không ra công nuôi dạy, thì nó lợt lạt như vậy đó. Bây giờ phải làm sao mà đem nó về cho chị Xã được! Tôi muốn cô đi luôn với tôi xuống Cần Giuộc đặng cô thăm chị Xã cho chị vui và đêm nay mình bàn tính với chị coi phải làm sao mà dụ nó trở về với gia đình.
Cô Hưởng nói:
– Em đã tỏ cho ông hết, em gặp bà Xã nhắc lại chuyện cũ như khêu đống tro tàn, em buồn lại chớ không ích gì. Em kính gởi lời cầu chúc cho bà khỏe mạnh, sống lâu, tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ. Em với anh Đường cẩn hiệp mà sanh đứa con tội lỗi đó nó có thể đắc dụng cho nhà họ nguyễn thì bà lập thế mà đem nó về với gia đình, chớ phận em đã bỏ rơi nó, em không thể nói cho nó xiêu lòng được. Xe đưa cô Hưởng về tiệm may. Ông Đốc nói sáng mai ông trở về Cần Giuộc; ông khuyên cô kiếm coi lý nào nói cho Càn bỏ tu mà về với bà nội được thì tính giùm rồi ít bữa ông sẽ trở lên.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.