Hỏa Ngục

Chương 61



Langdon sẽ tới Geneva à?

Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy càng lúc càng mệt khi bà ngồi nghiêng ngả như đảo đồng ở băng ghế sau chiếc xe thùng, lúc này đang phóng như bay ra khỏi Florence, nhắm thẳng hướng tây về phía sân bay tư nhân bên ngoài thành phố.

Geneva không có nghĩa gì rồi, Sinskey tự nhủ.

Mối liên hệ tương thích duy nhất đến Geneva là: Đây chính là địa điểm đặt tổng hành dinh của WHO.

Langdon đang tìm mình ở đó chăng? Dường như chuyện đó không hợp lý tí nào bởi lẽ Langdon biết bà đang ở Florence này.

Giờ một ý nghĩ khác vụt đến với bà.

Chúa ơi… hay Zobrist đang nhắm vào Geneva?

Zobrist là người mê các biểu tượng, và phải thừa nhận rằng việc tạo ra một “điểm không bề mặt” [29] tại tổng hành dinh Tổ chức Y tế Thế giới là khá hợp lý, nếu xét đến cuộc chiến kéo dài giữa hắn với Sinskey. Thế nhưng, nếu Zobrist tìm kiếm một điểm bùng phát dễ dàng cho một đại dịch thì Geneva không phái là lựa chọn hay. So với các đô thị khác, thành phố này cách biệt về mặt địa lý và khá lạnh vào thời điểm này trong năm. Hầu hết các đại dịch đều bắt rễ trong những môi trường ầm áp và đông dân cư hơn. Geneva ở trên mực nước biển hơn ba trăm mét, và khó có thế là một địa điểm thích hợp để bắt đầu một đại dịch. Cho dù Zobrist cố khinh thường ta đến đâu chăng nữa.

(29) Nguyên văn: “ground zero”: Điểm trên mặt đất gần với một vụ nổ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nổ hạt nhân hay nổ bom lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những thảm họa khác để đánh dấu thiệt hại nặng nhất.

Cho nên câu hỏi vẫn còn đó – tại sao Langdon lại đến đó? Đích đến kỳ lạ của vị giáo sư người Mỹ lại là một điểm khác nữa trong bản danh sách càng lúc càng dài liệt kê những hành vi không thế lý giải được của anh ta bắt đầu từ tối qua, và bất chấp những nỗ lực hết công suất, Sinskey thấy rất khó đi đến một lời giải thích thỏa đáng nào cho những việc làm ấy.

Anh ta đứng về phe ai?

Phải thừa nhận, Sinskey mới chỉ biết Langdon có vài ngày, nhưng bà thường đánh giá nhân cách rất chính xác, và bà không tin một người như Robert Langdon lại có thể bị tiền bạc mua chuộc. Thế mà anh ta lại phá vỡ hợp đồng với chúng ta tối qua. Bây giờ có vẻ như anh ta đang chạy quanh như một gã ma cà bông lên cơn. Hay anh ta bị thuyết phục bằng cách nào đó nên tin rằng những hành động của Zobrist có ý nghĩa kép?

Ý nghĩ ấy khiến bà rùng mình ớn lạnh.

Không, bà tự trấn an mình. Ta biết tiếng tăm của anh ta quá rõ, anh ta hơn thế nhiều.

Lần đầu Sinskey gặp Robert Langdon là bốn đêm trước trong khoang một chiếc máy bay vận tải C-130 được trưng dụng làm trung tâm điều phối di động của Tổ chức Y tế Thế giới,

Mới chỉ hơn 7 giờ lúc máy bay đáp xuống Hanscom Field, chưa đầy mười lăm dặm từ Cambridge, bang Massachusetts. Sinskey không chắc mình trông đợi gì ở vị học giả lừng danh mà bà đã liên lạc qua điện thoại, nhưng bà vui sướng đến ngạc nhiên khi anh bước tự tin lên ván cầu để chui vào khoang sau máy bay và chào bà bằng một nụ cười vô tư.

“Tiến sĩ Sinskey phải không ạ?”, Langdon bắt tay bà khá chặt “Chào giáo sư, rất vinh dự được gặp anh.”
“Tôi cũng rất hân hạnh. Cảm ơn vì tất cả những gì bà đã làm”

Langdon là một người đàn ông khá cao, có diện mạo tươi tắn của cư dân thành phố và giọng nói trầm.

Sinskey bất ngờ khi thấy quần áo anh mặc lúc đó lại chính là trang phục lên lớp – áo khoác vải tuýt, quần ka-ki, và giày lười đế mềm – dễ khiến người khác có ấn tượng rằng anh đã nhiều lần phải rời khỏi trường mà không được báo trước. Trông anh cũng trẻ và có dáng gọn hơn so với bà tưởng tượng, điều đó chỉ càng khiến Elizabeth nhớ tới tuổi tác của chính mình.

Mình gần bằng tuổi mẹ anh ta.

Bà mỉm cười mỏi mệt nhìn anh. “Cảm ơn vì anh đã tới, giáo sư.”

Langdon ra hiệu về phía người cộng sự chẳng lấy gì làm hài hước mà Sinskey đã phái đi đón mình. “Người bạn của bà đây chưa cho tôi nhiều cơ hội cân nhắc mọi việc.”

“Không sao. Tôi trả tiền cho anh ta làm việc đó mà.”

“Cái bùa đẹp quá”, Langdon nói, mắt nhìn chiếc vòng cổ của bà. “Lam ngọc thạch thì phải?”

Sinskey gật đầu và cúi nhìn cái bùa bằng chất đá màu da trời của mình, được tạo tác thành biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy dựng đứng. “Biểu tượng hiện đại cho ngành y khoa. Và tôi tin chắc anh có biết nó được gọi là ‘y hiệu’ – ‘thương thần trượng’ [30].”

(30) biểu tượng của ngành y

Langdon đột ngột ngước lên, như thế có gì đó muốn nói. Bà chờ đợi. “Vâng?”
Rõ ràng nhận ra mình có phần bốc đồng, anh mỉm cười nhã nhặn và đổi chủ đề. “Vậy tại sao tôi lại có mặt ở đây?”

Elizabeth ra hiệu về phía khu vực thảo luận tạm thời chỗ một chiếc bàn thép không rỉ. “Mời anh ngồi. Tôi có việc cần anh xem xét.”

Langdon thong thả đi tới chỗ bàn, và Elizabeth nhận thấy mặc dù vị giáo sư có vẻ tò mò với cuộc gặp bí mật này nhưng anh không hề bốì rối. Đây là một người luôn thấy thoải mái với chính mình. Bà tự hỏi liệu anh có còn thấy thảnh thơi một khi anh biết lý do được mời tới đấy.

Elizabeth mời Langdon ngồi ổn định rồi không cần mào đầu, lấy ra cái vật mà bà cùng nhóm của mình đã tịch thu được từ một hộc tủ an toàn ở Florence chưa đầy mười hai tiếng trước.

Chờ Langdon nghiên cứu cái ống hình trụ có chạm khắc nhỏ xíu một lúc lâu, Elizabeth mới nói vắn tắt những gì bà đã biết. Vật này là một trụ triện cổ có thể dùng để in. Nó mang theo một hình ảnh đặc biệt kinh khủng – một gã quỷ Satan ba đầu cùng với một chữ duy nhất: Saligia.

“Saligia”, Langdon nói, “là cách nói tiếng Latin để nhắc ta nhớ tới…”. “Bảy Trọng tội”, Elizabeth nói. “Vâng, chúng tôi đã tìm hiểu về nó.”
“Vâng…” Giọng Langdon có vẻ lúng túng. “Có lý do gì bà muốn tôi xem xét thứ này không?”

“Thực tế là có.” Sinskey lấy lại cái ống trụ và bắt đầu lắc mạnh, làm viên bi chạy lạo xạo.

Langdon ngơ ngác trước hành động của bà, nhưng anh chưa kịp hỏi bà đang làm gì thì đầu mút cái ống trụ bắt đầu sáng lên, về bà chĩa nó vào một tấm cách nhiệt trên vách chiếc máy bay đã được dọn sạch nội thất.

Langdon huýt sáo nhẹ và tiến lại phía hình ảnh được chiếu

“Bức Vực Địa ngục của Botticelli”, Langdon nói. “Dựa theo Hỏa ngục của Dante. Mặc dù tôi đoán có lẽ bà cũng đã biết rồi.”

Elizabeth gật đầu. Bà và đồng nghiệp đã xác định danh tính bức vẽ qua Internet, và rất ngạc nhiên khi biết đó là tác phẩm cúa Botticelli, một họa sĩ nổi danh với những kiệt tác sáng tạo, lý tưởng hóa như Thần Vệ nữ chào đời và Câu chuyện mùa xuân. Sinskey yêu cả hai tác phẩm mặc dù chúng đều mô tả sự sinh sôi nảy nở và sức sáng tạo của cuộc sống – điều chỉ càng khiến bà nhớ đến bi kịch không thể mang thai của mình – tâm sự hối tiếc duy nhất trong cuộc đời đầy ý nghĩa của bà.

“Tôi hy vọng”, Sinskey nói, “rằng anh có thể nói cho tôi biết vẽ những biểu tượng ẩn giấu trong bức vẽ này”.

Lần đầu tiên trong buổi tối hôm nay, trông Langdon tỏ ra bồn chồn “Có phải đó là lý do bà gọi tôi đến đây không? Tôi nghĩ bà đã nói đó là một chuyện khẩn cấp.”

“Xin làm ơn!”

Langdon thở dài kiên nhẫn. “Tiến sĩ Sinskey, nói chung, nếu bà muốn biết về một bức tranh cụ thể thì bà nên liên hệ với bảo tàng nơi lưu giữ tác phẩm gốc. Trong trường hợp này, đó phải là Thư viện Tông đồ của Vatican. Tòa thánh có rất nhiều chuyên gia siêu hạng ngành thánh tượng có khả năng…”

“Tòa thánh rất ghét tôi.”

Langdon nhìn bà thảng thốt: “Ghét bà ư? Tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất.”

Bà mỉm cười buồn bã. “WHO thấy rõ rằng việc có sẵn các biện pháp tránh thai là một trong những chìa khóa giải quyết vấn đề sức khỏe toàn cầu – vừa để ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS và cũng để kiểm soát dân số tổng thể.”

“Nhưng Tòa thánh lại cảm thấy hoàn toàn khác”

“Đúng vậy. Họ bỏ ra rất nhiều công sức và tiền bạc truyền bá cho các nước thế giới thứ ba tin rằng phòng tránh thai là xấu xa.”

“À, vâng”, Langdon nói kèm theo một nụ cười ranh mãnh.

“Còn ai nói với thế giới về chuyện quan hệ tình dục tốt hơn một đám những cụ ông độc thân tuổi bát tuần nữa chứ?”

Sinskey càng lúc càng thấy thích vị giáo sư này.

Bà lắc lắc cái ống trụ để nạp lại năng lượng cho nó và sau đó chiếu hình ảnh lên tường lần nữa. “Giáo sư, hãy nhìn kỹ hơn xem.”

Langdon bước lại phía hình ảnh, chăm chú xem xét nó, trong lúc vẫn tiến lại càng lúc càng gần hơn. Đột nhiên, anh dừng phắt lại. “Thật lạ lùng. Nó đã bị thay đổi.”

Không làm anh ta mất nhiều thời gian, “Phải, và tôi muốn anh cho tôi biết những chỗ thay đổi mang ý nghĩa gì.”

Langdon im lặng, nhìn khắp toàn bộ hình ảnh, dừng lại để ghi ra mười chữ cái đọc thành catrovacer, sau đó là chiếc mặt nạ dịch hạch, rồi cả câu trích dẫn lạ lùng ở quanh rìa nói về “đôi mắt chết chóc”.

“Ai đã làm việc này?”, Langdon hỏi. “Nó từ đâu mà ra?”

“Nói thật, lúc này anh biết càng ít càng tốt. Điều tôi hy vọng là anh có thể phân tích những thay đổi này và cho chúng tôi biết chúng mang ý nghĩa gì.” Bà ra hiệu về phía chiềc bàn ở góc.

“Ở đây ư? Ngay bây giờ ư?”

Bà gật đầu. “Tôi biết đó là một đòi hỏi có phần quá đáng, nhưng tôi không biết giải thích làm sao cho hết tầm quan trọng của chuyện này đối với chúng tôi,” bà ngừng lại. “Nó chính là vấn đề sinh tử.”

Langdon lo lắng nhìn bà. “Giải mã thứ này có thể phải mất một lúc, nhưng tôi cho rằng nếu nó quan trọng với bà đến thế.

“Cảm ơn anh”, Sinskey nói trước khi anh kịp thay đổi suy nghi “Anh có cần phải gọi ai khác không?” Langdon lắc đầu và bảo bà anh đang có kế hoạch về một kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh một mình,
Quá tốt, Sinskey để anh ở lại bàn làm việc cùng với cái máy chiếu, giấy, bút chì và một chiếc máy tính xách tay có kết nối vệ tinh bảo mật. Dù cực kỳ băn khoăn về lý do tại sao WHO lại quan tâm đến một bức vẽ đã bị cải biên của Botticelli, nhung Langdon vẫn nghiêm túc bắt tay vào việc.

Tiến sĩ Sinskey đinh ninh anh có thể kết thúc việc tìm hiểu hình ảnh kia chỉ trong vài tiếng mà không cần nghỉ, cho nên bà cũng tập trung giải quyết một số công việc của riêng mình. Thỉnh thoảng bà lại nghe thấy anh lắc lắc cái máy chiếu và viết loạt xoạt lên giấy. Gần mười phút trôi qua, Langdon buông bút và tuyên bố, “Cerca trova”.

Sinskey ngước nhìn lên. “Cái gì cơ?”

“Cerca trova”, anh nhắc lại. “Hãy tìm và sẽ thấy. Đó là những gì mật mã này muốn nói.”

Sinskey vội đi lại và ngồi xuống sát cạnh anh, lắng nghe một cách say sưa trong lúc Langdon giải thích xem các tầng địa ngục của Dante đã được thay đổi như thế nào, và rằng khi được đặt lại đúng thứ tự thì chúng sẽ tạo thành cụm từ tiếng Ý cerca trova.

Tim kiếm và sẽ thấy ư? Sinskey tự hỏi. Đó là thông điệp mà gã điên ấy gửi tới mình sao? Cụm từ nghe giống như một lời thách thức trực tiếp. Ký ức đang nhiễu loạn của bà về những lời cuối cùng của kẻ điên kia trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại lại trở lại trong tâm trí: Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt đầu.

“Trông bà tái nhợt kìa”, Langdon nói và chăm chú nhìn bà. “Tôi đoán đây không phải là thông điệp bà mong đợi phải không?”

Sinskey cố trấn tĩnh, vuốt vuốt chiếc bùa trên cổ mình. “Không hẳn. Cho tôi biết… anh có tin tấm bán đổ địa ngục này đang gợi ý tôi tìm kiếm thứ gì đó không?”

“Có, Cerca trova.”

“Và nó gợi ý tôi tìm ở chồ nào?”

Langdon xoa xoa cằm mình trong khi các nhân viên WHO khác bắt đầu quây lại xung quanh, vẻ háo hức chờ nghe thông tin. “Không nói gì nhiều… không hề, mặc dù tôi có ý tưởng về chỗ bà nên bắt đầu.”

“Nói cho tôi biết đi”, Sinskey yêu cầu, có vẻ ép buộc hơn mức Langdon nghĩ. “Chà, bà cảm thấy Florence, ở Ý, thế nào?”
Sinskey đờ người, phải cố hết sức không thể hiện phản ứng gì. Nhưng các nhân viên của bà thì khả năng kiềm chế không bằng. Tất cả bọn họ cùng nhìn nhau thảng thốt. Một người vớ lấy điện thoại và bấm số. Một người khác vội vàng bước qua cửa tới phía trước máy bay.

Langdon ngơ ngác. “Tôi đã nói gì à?”

Chắc chắn rồi, Sinskey nghĩ. “Điều gì khiến anh nói đó là Florence?”

“Cerca trova”, anh đáp lại, nhanh nhẹn kể lại bí mật đã có từ lâu liên quan đến bức tranh tường của Vasari tại Cung điện Vecchio.

Đích thị là Florence, Sinskey nghĩ, cảm thấy đã nghe đủ. Rõ ràng, không thể là trùng hợp ngẫu nhiên khi kẻ thù của bà lại nhảy lầu tự sát cách Cung điện Vecchio ở Florence chưa đầy ba dãy nhà.

“Giáo sư”, bà nói, “khi tôi cho anh thấy lá bùa của tôi lúc trước và gọi đó là một thương thần trượng, anh sững lại, như thể anh muốn nói gì đó, nhưng khi đó anh do dự và dường như đã thay đổi suy nghĩ. Anh định nói điều gì?”.

Langdon lắc đầu. “Không có gì cả. Chuyện vớ vẩn thôi. Thỉnh thoảng thói quen nghề nghiệp làm tôi có chút độc đoán”.

Sinskey nhin xoáy vào mắt anh. “Tôi hỏi bởi vì tôi cần biết tôi có thể tín được anh không. Anh định nói gì nào?”

Langdon nuốt khan và hắng giọng. “Không liên quan lắm nhưng bà nói lá bùa của bà là một biểu tượng y học cổ, đúng là vậy. Nhưng khi bà gọi nó là thương thần trượng, bà đã mắc phải một nhầm lẫn rất phổ biến. Thương thần trượng có hai con rắn trên một cây gậy và có cánh ở trên đỉnh. Chiếc bùa của bà chỉ có một con rắn và không có cánh. Biếu tượng của bà gọi là…”

“Cây gậy Asclepius.”

Langdon nghiêng đầu ngạc nhiên. “Vâng. Rất chính xác.” “Tôi biết. Tôi chỉ kiếm tra mức độ thành thực của anh thôi.” “Sao cơ?”
“Tôi tò mò muốn biết liệu anh có nói cho tôi biết sự thật hay không, cho đù điều đó có thể khiến tôi khó chịu đến đâu.”

“Nghe có vẻ như tôi không qua được bài kiểm tra.”

“Đừng làm như vậy lần nữa. Hoàn toàn trung thực là cách duy nhất anh và tôi có thể làm việc với nhau trong vụ này.”

“Làm việc với nhau ư? Chúng ta vẫn chưa kết thúc ở đây à?”

“Chưa, thưa giáo sư, chúng ta chưa kết thúc. Tôi cần anh đến Florence đế giúp tôi tìm một thứ.” Langdon nhìn sững mà không tin nổi. “Tối nay sao?”
“Tôi e là như vậy. Tôi chưa nói với anh về bản chất nghiêm trọng thật sự của tình huống này.” Langdon lắc đầu. “Bà nói gì với tôi không thành vấn đề. Tôi không muốn bay đến Florence.” “Tôi cũng vậy”, bà đanh giọng. “Nhưng rất tiếc, thời gian của chúng ta đang cạn dần,”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.