Hỏa Ngục

Chương 90



Mưa bắt đầu giăng khi tiến sĩ Sinskey bắt đầu lao vội ra khỏi Hagia Sophia cùng với Langdon, Brüder và anh chàng hướng dẫn viên Mirsat đang choáng váng của họ.

Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm, Sinskey nghĩ.

Địa điểm bể chứa nước của thành phố – Yerebatan Sayari – rõ ràng ở phía sau Giáo Đường Xanh và hơi chếch về phía bắc.

Mirsat dẫn đường.

Sinskey không còn lựa chọn nào khác là nói cho Mirsat biết họ là ai và rằng họ đang phải chạy đua để ngăn cản một cuộc khủng hoảng y tế có thể nổ ra ngay trong cung điện chìm đó.

“Lối này!”, Mirsat gọi, dẫn họ chạy men theo công viên tối om. Giờ Hagia Sophia đồ sộ như trái núi đã ở phía sau họ, và những ngọn tháp như trong truyện cổ tích của Giáo Đường Xanh lấp lánh phía trước.

Bên cạnh Sinskey, đặc vụ Brüder nói như quát vào điện thoại, cập nhật tình hình cho đội SRS và ra lệnh cho họ gặp nhau tại lối vào bể chứa nước. “Xem ra Zobrist nhắm vào nguồn cấp nước của thành phố”, Brüder nói, thở không ra hơi. “Tôi cần giản đồ của tất cả đường ống ra-vào bể chứa. Chúng ta sẽ thực hiện quy trình ngăn chặn và cách ly hoàn toàn. Chúng ta cần các rào chắn hóa học và vật lý với chân không…”

“Đợi đã”, Mirsat gọi anh ta. “Anh hiểu nhầm tôi rồi. Bể chứa không phải là nguồn cấp nước của thành phố. Không còn chức năng ấy nữa!”

Brüder hạ điện thoại, nhìn sững người hướng dẫn. “Sao cơ?”

“Thời xưa thì bể nước là nguồn cấp nước”, Mirsat nói rõ. “Nhưng không còn thế nữa rồi. Chúng tôi đã hiện đại hóa rồi.”

Brüder dừng phắt lại bên dưới tán cây, và tất cả mọi người cũng dừng lại theo.

“Mirsat”, Sinskey nói, “anh có chắc rằng không còn ai uống nước từ bể chứa không?”.

“Hoàn toàn không”, Mirsat nói. “Nước nằm nguyên dưới đó… cuối cùng tự thẩm thấu vào trong đất.”

Sinskey, Langdon và Brüder cùng nhìn nhau vẻ không chắc chắn. Sinskey không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm hay thêm hoảng. Nếu không ai thường xuyên tiếp xúc với nước thì tại sao Zobrist lại chọn đầu độc nơi đó?

“Khi chúng tôi hiện đại hóa nguồn cấp nước từ nhiều thập kỷ trước”, Mirsat giải thích, “bể chứa không còn được sử dụng nữa và trở thành một cái bể lớn trong một gian phòng ngầm dưới đất”. Anh ta nhún vai. “Còn bây giờ thì chỉ là một điểm du lịch thôi.”

Sinskey xoay người về phía Mirsat. Một điểm du lịch ư? “Khoan đã… mọi người có thể đi xuống đó à? Xuống bể nước ấy?”

“Dĩ nhiên rồi”, anh ta nói. “Có đến hàng nghìn người tham quan mỗi ngày. Hang ngầm khá ấn tượng. Có các lối đi lót ván phía trên mặt nước… và thậm chí còn có một quán cà phê nhỏ. Thông khí hơi hạn chế nên không khí khá ngột ngạt và ẩm thấp, nhưng nơi đó vẫn rất nổi tiếng.”

Sinskey nhìn sững Brüder, và bà có thể khẳng định rằng cả bà và anh chàng đặc vụ SRS được huấn luyện kỹ càng đều cùng hình dung ra một điều – một hang ngầm ẩm thấp, tối tăm toàn nước đọng trong đó có ủ một thứ mầm bệnh. Cơn ác mộng thêm hoàn chỉnh với sự hiện diện của những lối đi lót ván nơi khách du lịch qua lại suốt ngày, ngay phía trên mặt nước.

“Hắn tạo ra một dạng thuốc phun sinh học”, Brüder tuyên bố. “Nghĩa là sao?”, Langdon hỏi.
“Nghĩa là”, Brüder đáp, “nó có thể lan truyền trong không khí”.

Langdon im bặt, và Sinskey thấy rõ lúc này anh đang hình dung mức độ ghê gớm của cuộc khủng hoảng này.

Đã có lúc trong đầu Sinskey nghĩ đến kịch bản một thứ mầm bệnh lan truyền trong không khí, nhưng khi bà tin rằng bể chứa nước chính là nguồn cung cấp nước của thành phố, bà hy vọng có lẽ Zobrist chọn một dạng bệnh lây lan theo nước. Các vi khuẩn sống trong nước rất mạnh và chống chịu được thời tiết, nhưng chúng cũng chậm phát tán.

Các mầm bệnh dựa vào không khí lại lan truyền nhanh. Rất nhanh.
“Nếu nó tồn tại trong không khí”, Brüder nói, “thì có khả năng là vi rút”.

Một loại vi rút, Sinskey đồng ý. Thứ mầm bệnh lây lan nhanh nhất mà Zobrist có thể lựa chọn.

Phải thừa nhận việc giải phóng một loại vi rút tồn tại trong không khí xuống nước là điều lạ thường, nhưng có điều dạng sống sinh trưởng trong chất lỏng và sau đó nở trong không khí – muỗi, bào tử nấm mốc, những loại vi khuẩn gây bệnh viêm phổi khuẩn, độc tố nấm, thủy triều đỏ [59], và thậm chí cả con người. Sinskey hình dung ra thứ vi rút tỏa ra khắp đầm nước trong bể chứa, và sau đó những giọt nước siêu nhỏ bị lây nhiễm bay lên trong không khí ẩm thấp.

Lúc này Mirsat trân trân nhìn một đường phố ùn tắc với vẻ lo sợ hiện rõ trên mặt. Sinskey nhìn theo ánh mắt của anh ta tới một tòa nhà thấp lát gạch trắng-đỏ có một cánh cửa mở, để lộ ra thứ trông như cầu thang. Một nhóm người ăn mặc chỉnh tề đang đứng dưới những chiếc ô che bên ngoài trong khi một nhân viên gác cửa đang kiểm tra dòng khách khứa theo lối cầu thang đi xuống dưới.

Một sàn nhảy dưới lòng đất thì phải?

Sinskey nhìn dòng chữ vàng khắc trên tòa nhà và cảm thấy ngực đột nhiên thắt lại. Sàn nhảy này được gọi là Bể chứa và được xây dựng vào năm 523 sau công nguyên, cho nên bà nhận ra tại sao Mirsat trông lo lắng như vậy.

“Cung điện chìm”, Mirsat lẩm bẩm. “Dường như… có một buổi hòa nhạc tối nay.” Sinskey có vẻ hoài nghi. “Hòa nhạc trong một cái bể chứa à?”
“Đó là một không gian trong nhà rất rộng”, anh ta đáp lại. “Nó thường được sử dụng như một trung tâm văn hóa.”

Rõ ràng Brüder cũng đã nghe được đầy đủ. Anh ta lao vội về phía tòa nhà, lách qua dòng xe cộ lộn xộn trên Đại lộ Alemdar. Sinskey và những người khác cũng vội chạy theo, bám sát gót anh chàng đặc vụ.

Khi họ đến lối vào bể chứa, khuôn cửa bị chặn bởi một nhóm người dự hòa nhạc đang đợi đến lượt vào trong – một nhóm ba phụ nữ mặc áo choàng che kín mặt, hai du khách tay nắm tay, một người đàn ông vận lễ phục. Tất cả đều túm tụm bên dưới khung cửa, cố gắng tránh nước mưa.

Sinskey nghe rõ những giai điệu du dương của một tác phẩm âm nhạc cổ điển vang lên từ bên dưới. Berlioz, bà phỏng đoán căn cứ theo cách phối âm rất đặc trưng, nhưng cho dù đó là bản gì thì cũng có cảm giác nó không thích hợp lắm trong khung cảnh những đường phố tại Istanbul này.

Khi họ đến gần cửa hơn, bà cảm nhận được một luồng hơi ấm thổi ngược lên cầu thang, từ tít sâu trong lòng đất và thoát ra từ cái hang kín mít. Luồng hơi mang theo lên mặt đất không chỉ tiếng vĩ cầm, mà cả mùi hơi ấm và mùi đám đông người không lẫn đi đâu được.

Nó còn mang tới cho Sinskey một linh tính vô cùng bất an.

Một nhóm du khách từ dưới cầu thang xuất hiện, vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ trong lúc ra khỏi tòa nhà, nhân viên gác cửa liền cho nhóm tiếp theo đi xuống.

Brüder lập tức tiến vào, nhưng nhân viên gác cửa chặn anh ta lại bằng một cái vẫy tay vui vẻ. “Một lát thôi, thưa ông. Bể chứa kín người rồi. Chưa đến một phút nữa là du khách tiếp theo ra thôi. Cảm ơn ông.”

Nhìn Brüder có vẻ sẵn sàng cố chen vào, nhưng Sinskey vẫn đặt một tay lên vai anh ta và kéo sang một bên.

“Đợi đi”, bà ra lệnh. “Nhóm của anh đang trên đường và anh không thể lùng sục ở nơi thế này một mình đâu.” Bà ra hiệu về phía tấm biển trên tường bên cạnh cửa. “Bể chứa rất rộng.”

Tấm biển thông tin nói rõ về một gian phòng dưới lòng đất có kích thước bằng cả một thánh đường – gần chín nghìn ba trăm mét vuông và được chống đỡ bằng cả một khu rừng ba trăm ba mươi sáu cây cột đá cẩm thạch.

“Nhìn xem”, Langdon nói, đứng cách đó vài thước. “Các vị sẽ không tin nổi đâu.” Sinskey quay lại. Langdon ra hiệu về phía một tấm áp phích hòa nhạc trên tường. Ôi, lạy Chúa lòng lành.
Giám đốc WHO đã đúng khi xác định phong cách âm nhạc là lãng mạn, nhưng tác phẩm đang được biểu diễn không phải do Berlioz biên soạn. Nó là của một nhà soạn nhạc phong cách lãng mạn khác – Franz Liszt.

Tối nay, sâu trong lòng đất, dàn nhạc Giao hưởng Bang Istanbul biểu diễn một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Liszt – Giao hưởng Dante – một tác phẩm hoàn toàn lấy cảm hứng từ cuộc du hành xuống địa ngục rồi trở về của Dante.

“Nó được trình diễn ở đây một tuần liền”, Langdon nói trong lúc chăm chú đọc tấm áp phích. “Một buổi hòa nhạc mở cửa tự do. Bên dưới ký tên một nhà tài trợ giấu tên.”

Sinskey nghĩ mình có thể đoán ra ai là nhà tài trợ giấu tên đó. Niềm đam mê kịch của Bertrand Zobrist dường như cũng là một chiến lược rất thiết thực nhưng nhẫn tâm. So với bình thường, tuần biểu diễn hòa nhạc miễn phí này sẽ thu hút thêm hàng nghìn du khách kéo xuống bể chứa và nhét họ vào một khu vực chật cứng, nơi họ sẽ hít thở thứ không khí bị nhiễm bệnh, sau đó quay về nhà mình cả ở đây lẫn ở nước ngoài.

“Thưa ông?”, nhân viên gác cửa gọi Brüder. “Chúng tôi có chỗ cho hai người nữa.”

Brüder quay sang Sinskey. “Gọi cho chính quyền địa phương. Cho dù tìm ra thứ gì dưới đó, chúng ta cũng vẫn cần hỗ trợ. Khi nhóm của tôi đến, bảo họ liên lạc với tôi để cập nhật tình hình. Tôi sẽ xuống dưới và xem xem liệu tôi có thể nhận ra Zobrist ém thứ này ở đâu không.”

“Không dùng mặt nạ phòng độc à?”, Sinskey hỏi. “Anh không biết chắc cái túi Solublon còn nguyên vẹn không.”

Brüder cau mày, tay giơ lên luồng khí ấm nóng phả ra khỏi cửa. “Tôi phải nói điều này, nếu thứ bệnh lây này thoát ra thì tôi đoán có lẽ tất cả mọi người trong thành phố này đều bị nhiễm rồi.”

Sinskey cũng đang nghĩ đến chính điều ấy nhưng không muốn nói ra trước mặt Langdon và Mirsat.

“Thêm nữa”, Brüder nói thêm, “tôi đã nhìn thấy chuyện gì sẽ xảy ra với đám đông khi nhóm của tôi tiến vào cùng với trang phục phòng độc. Chúng ta sẽ gặp cảnh hoảng loạn và giẫm đạp lên nhau”.

Sinskey quyết định chiều theo Brüder vì nói cho cùng, anh ta là một chuyên gia và đã ở trong những tình huống như thế này trước đó rồi.

“Lựa chọn thực tiễn duy nhất của chúng ta”, Brüder nói với bà, “là giả định rằng nó vẫn còn an toàn dưới đó, và cố gắng ngăn chặn việc này”.

“Được rồi”, Sinskey nói. “Làm đi.”

“Còn một vấn đề nữa”, Langdon xen vào. “Sienna thì sao?” “Cô ta sao chứ?”, Brüder hỏi.
“Cho dù ý định của cô ta ở Istanbul này là gì thì cô ta cũng rất giỏi ngôn ngữ và có thể nói chuyện với một số người Thổ Nhĩ Kỳ.”

“Vậy thì sao?”

“Sienna biết bài thơ nói đến ‘cung điện bị chìm’”, Langdon nói. “Và trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ‘cung điện bị chìm’ theo nghĩa đen chính là…” Anh chỉ về phía tấm biển YEREBATAN SAYARI phía trên khung cửa. “… đây.”

“Đúng vậy”, Sinskey mệt mỏi đồng ý. “Cô ta có thể đoán ra nơi này và đã bỏ qua Hagia Sophia.”

Brüder nhìn khuôn cửa hiu quạnh và lầm bầm rất khẽ. “Được thôi, nếu cô ta xuống đó và tìm cách phá vỡ cái túi Solublon trước khi chúng ta kịp bao nó lại thì ít nhất cô ta cũng chưa ở đó được lâu. Đó là một khu vực rất rộng, và có lẽ cô ta chưa biết tìm đến chỗ nào. Và có rất nhiều người ở xung quanh, nên cô ta không thể nhảy ùm xuống nước mà không bị chú ý.”

“Thưa ông?”, nhân viên canh cửa lại gọi Brüder. “Ông có muốn vào bây giờ không?”

Brüder nhìn thấy một nhóm người đi dự hòa nhạc nữa đang từ bên kia phố tiến sang, nên gật đầu với nhân viên canh cửa ra ý rằng anh ta đến ngay.

“Tôi sẽ đi cùng anh”, Langdon nói và đi theo.

Brüder xoay lại và đối diện với anh. “Chẳng để làm gì đâu.”

Giọng Langdon rất cương quyết. “Đặc vụ Brüder, một trong những lý do chúng ta ở trong tình thế này là vì Sienna Brooks đã dắt mũi tôi suốt cả ngày nay. Và như anh nói, có thể tất cả chúng ta đều đã bị nhiễm bệnh rồi. Tôi sẽ giúp anh cho dù anh có thích hay không.”

Brüder nhìn anh một lúc rồi dịu lại.

Khi vượt qua ngưỡng cửa và bắt đầu đi xuống cầu thang khá dốc theo sau Brüder, Langdon cảm thấy luồng hơi ấm thổi qua họ từ rất sâu dưới bể chứa. Luồng khí ẩm thấp mang theo nó những giai điệu bản Giao hưởng Dante của Liszt cũng như một thứ mùi quen thuộc nhưng khó tả – thứ mùi của rất nhiều người chen chúc nhau trong một không gian kín mít.

Langdon bỗng cảm thấy có một tấm màn ma quái vây phủ lấy mình, như thể những ngón tay rất dài của một bàn tay vô hình đang vươn lên từ mặt đất và sờn nắn da thịt anh.

Âm nhạc.

Dàn hợp xướng giao hưởng – với một trăm giọng hát – lúc này đang trình bày một đoạn nổi tiếng, đọc rành rẽ từng âm tiết trong lời văn u sầu của Dante.

“Lasciate ogne speranza”, họ cất tiếng hát vang, “voi ch’entrate”.

Sáu từ này – chính là dòng thơ nổi tiếng nhất trong toàn bộ phần Hỏa ngục của Dante – vang lên từ tít phía dưới cầu thang chẳng khác gì mùi tử khí đáng sợ.

Kèm theo tiếng kèn cùng tù và vút cao, dàn hợp xướng lại ngân nga lời cảnh báo ấy. “Lasciate ogne speranza voi ch’entrate!”

Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây!


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.