Hồng Ngọc
Chương 11 – Phần 2
Một ánh mắt nhìn xuyên thấu tôi.
… frustrate their knavish tricks, on Thee our hopes we fix, God save us all…
Tôi lảng tránh ánh mắt tăm tối bằng cách nhìn sang hai người còn lại. Huân tước Brompton có vẻ như còn có nhiều lỗ hổng từ vựng hơn tôi (miệng ông ta hơi há trên vô số ngấn cằm, trông có chút ngu ngơ), còn người kia, Rakoczy, đang chăm chú nhìn móng tay mình.
Người này khá trẻ, trạc ba mươi, tóc đen, mặt thuôn dài. Có thể trông hắn bảnh bao hơn nếu miệng hắn không méo xệch như vừa nếm phải thứ gì đó kinh tởm, và da hắn không mai mái bệnh hoạn.
Tôi đang nghĩ xem liệu có phải trên mặt hắn thoa một lớp phấn mỏng màu xám trắng không thì đột nhiên, hắn ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mắt hắn đen như than, tôi không tài nào phân biệt nổi ranh giới giữa đồng tử và con ngươi, và cũng không rõ vì sao trông chúng như chết rồi.
Trong đầu tôi lại tự động cất tiếng “God save the Queen” hùng tráng. Trong khi đó, bá tước bẻ dấu xi gắn phong bì, mở thư ra. Ông thở dài rồi đọc, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn tôi. Tôi vẫn không hề nhúc nhích.
Not in this land alone, but be God’s mercies known…
Thư viết gì? Ai viết? Huân tước Brompton và Rakoczy có vẻ cũng muốn biết. Huân tước Brompton vươn cái cổ béo ú cố liếc sang trang giấy, trong khi Rakoczy tập trung quan sát nét mặt bá tước. Nhất định cái khóe miệng tỏ vẻ kinh tởm kia là tật bẩm sinh của hắn.
Rồi hắn lại quay sang nhìn tôi, khiến tôi lạnh suốt sống lưng. Đôi mắt ấy như hai hố sâu đen ngòm, và giờ tôi mới nhận ra lý do vì sao trông chúng lại như chết rồi. Chúng thiếu những ánh phản quang, những vệt lấp lánh khiến mắt mang nét sống động. Điều này không chỉ kỳ dị mà còn thực sự rùng rợn. Tôi thấy mừng vì giữa mình và đôi mắt kia ít nhất có tới năm mét khoảng cách.
“Mẹ cháu có vẻ là một người cứng đầu cứng cổ hiếm có, phải không?” Bá tước đã đọc xong và gấp thư lại. “Ta chỉ có thể phỏng đoán về động cơ của mẹ cháu.” Ông ta tiến thêm vài bước lại gần, dưới ánh nhìn như xuyên thủng, tôi thậm chí quên phắt cả lời quốc ca.
Nhưng rồi tôi nhận ra một điều mà tôi đã không trông thấy, vì quá sợ và đứng quá xa: Bá tước đã già. Ngay cả khi đôi mắt vẫn còn đầy nhiệt huyết, dáng đi vẫn thẳng và giọng nói nghe vẫn trẻ trung sôi nổi, nhưng dấu vết tuổi già vẫn không thể che lấp. Làn da nơi khóe mắt và đôi tay nhăn nheo như giấy da thuộc, những mạch máu xanh hằn rõ, mọi nếp nhăn cũng hiện lên mồn một sau lớp phấn. Tuổi già khiến ông ta mang vẻ yếu ớt mong manh, khiến tôi gần như thương cảm.
Và đột nhiên tôi không hề còn thấy sợ. Đây chỉ là một cụ già, già hơn cả bà ngoại.
“Gwendolyn không biết gì về động cơ của mẹ cô ấy cũng như những sự kiện dẫn đến tình huống này,” Gideon nói. “Cô ấy hoàn toàn không biết gì.”
“Kỳ lạ, kỳ lạ thật.” Bá tước chậm chạp đi một vòng quanh tôi. “Chúng ta thực chưa từng gặp nhau.”
Dĩ nhiên là chúng ta chưa từng gặp nhau, gặp làm sao được cơ chứ?
“Nhưng nếu không phải là hồng ngọc thì cháu đã không có mặt ở đây. Hồng ngọc sở hữu phép thuật của loài quạ, dùng cung Sol trưởng kết lại vòng tròn Hội Thập Nhị.” Ông ta đã đi xong một vòng, đứng lại ngay trước mặt và nhìn thẳng vào mắt tôi. “Phép thuật của cháu là gì, cháu bé?”
… from shore to shore, Lord make the nations see…
Hừm, tôi làm trò gì thế này? Đây chỉ là một cụ già. Tôi phải lễ phép và kính trọng ông ấy chứ không nên trân mắt ra như con thỏ bị hút hồn trước con rắn.
“Cháu không biết, thưa ngài.”
“Cháu có điều gì đặc biệt nào? Cho ta biết đi.”
Tôi có điều gì đặc biệt? Trừ khả năng quay về quá khứ từ hai hôm nay? Đột nhiên tôi lại nghe thấy tiếng bác Glenda văng vẳng trong tai: Từ hồi Charlotte còn bé xíu, người ta đã nhận thấy con bé là lá ngọc cành vàng. Không thể đem con bé ra so sánh với đám trẻ tầm thường được.
“Cháu nghĩ cháu không có gì đặc biệt, thưa ngài.”
Bá tước tặc lưỡi. “Cũng có thể cháu có lý. Nói cho cùng thì đó chỉ là một bài thơ. Một bài thơ với xuất xứ mù mờ.” Đột nhiên, có vẻ ông ta không còn quan tâm đến tôi và quay sang Gideon. “Cháu thân mến. Ta thực vô cùng ngưỡng mộ khi đọc thấy những gì cháu làm. Lần ra được dấu vết của Lancelot de Villiers ở Bỉ! William de Villiers, Cecilia Woodville – viên ngọc hải thủy tuyệt vời – và cả chuyện cặp song sinh mà ta chưa từng quen biết cũng đã hoàn tất. Ngài thử tưởng tượng xem, huân tước Brompton, chàng thanh niên này thậm chí còn tới Paris thăm cả Madame Jeanne d’Urfé, tên hồi con gái của Pontcarré, và còn thuyết phục được bà ấy hiến máu.”
“Ngài muốn nói đến Madame d’Urfé, người từng giúp cha tôi quen Pompadour và rốt cuộc cả với ngài?”
“Ta không biết một Madame d’Urfé nào khác,” bá tước nói.
“Nhưng Madame d’Urfé đã mất từ mười năm trước.”
“Chính xác là bảy năm,” bá tước nói. “Trong thời gian đó, ta đang ở triều đình của lãnh chúa Karl Alexander von Ansbach. Ôi, ta rất gắn bó với nước Đức. Thật đáng mừng là ở đó người ta rất quan tâm tới Hội Tam điểm và thuật giả kim. Theo như người ta nói với ta từ nhiều năm nay, ta cũng sẽ qua đời ở Đức.”
“Ngài lại đang đánh trống lảng,” huân tước Brompton nói. “Làm sao cậu này lại có thể tới thăm Madame d’Urfé ở Paris? Bảy năm trước cậu ấy vẫn còn là một đứa trẻ.”
“Tư duy của ngài vẫn đi sai luồng đấy, huân tước thân mến. Hãy hỏi Gideon xem cậu ấy diện kiến Madame d’Urfé và xin lấy máu khi nào?”
Huân tước nhìn Gideon dò hỏi.
“Vào tháng Năm năm 1759,” Gideon nói.
Huân tước cười rú lên. “Nhưng sao lại thế được. Bản thân cậu còn chưa tròn hai mươi.”
Cả bá tước cũng bật cười thích thú. “Năm 1759. Bà ấy không hề kể cho ta, mụ này tẩm ngẩm thật.”
“Cũng thời gian đó, ngài cũng đang ở Paris, nhưng cháu nhận được nghiêm lệnh không được chạm mặt ngài.”
“Vì tính liên hoàn, ta biết.” Bá tước thở dài. “Đôi khi ta ghét những luật lệ chính mình đặt ra… Nhưng lại nói về Jeanne đáng mến. Cháu có phải dùng vũ lực không? Bà ấy không muốn cộng tác với ta cho lắm.”
“Bà ấy có kể cho cháu,”Gideon bảo. “Cả việc ngài dụ dỗ và thuổng mất của bà ấy mấy cỗ đồng hồ.”
“Dụ dỗ? Bà ấy thậm chí còn không biết mình đã được thừa hưởng báu vật gì từ bà nội. Cái máy tội nghiệp, nằm chỏng chơ hư hại không ai biết đến trong một cái hộp đầy bụi trên tầng áp mái. Sớm muộn gì nó cũng bị người ta quên lãng. Ta đã cứu và đưa nó về với đúng ý nghĩa ban đầu. Và nhờ các thiên tài sau này gia nhập hội kín của ta mà hôm nay nó mới hoạt động trở lại. Gọi là một phép màu cũng không quá lời.”
“Ngoài ra Madame còn cho rằng suýt nữa bị ngài bóp cổ chết, chỉ bởi bà ấy không nhớ ngày sinh và tên thời con gái của kỵ mình.”
Bóp cổ? Nghe ghê thế!
“Ừ, đúng. Những lỗ hổng trí nhớ kiểu như thế đã khiến ta mất không biết bao nhiêu thời gian nghiên cứu cổ thư của nhà thờ, thay vì làm những việc khác quan trọng hơn. Jeanne đúng là một người cực kỳ thù dai. Cũng vì thế nên ta càng khâm phục việc cháu khiến bà ấy chịu cộng tác.”
Gideon mỉm cười. “Cũng không dễ gì. Nhưng có lẽ cháu đã tạo được ấn tượng khả tín. Ngoài ra thì cháu còn nhảy điệu Gavotte với bà ấy. Và còn cực kỳ kiên nhẫn nghe bà ấy phàn nàn về ngài.”
“Thật bất công. Chả gì ta cũng đã mai mối cho bà ấy cuộc tình nồng thắm với Casanova. Và ngay cả khi hắn chỉ nhắm vào túi tiền của Jeanne thì vẫn có khối phụ nữ phát ghen lên với bà ấy. Ta cũng chia sẻ cỗ máy đồng hồ với bà ấy như người một nhà. Nếu không có ta thì…” Bá tước quay trở lại với tôi, khuôn mặt sáng bừng hào hứng. “Thật đúng là một mụ già vô ơn, cụ kỵ của cháu. Tiếc là không được trời phú cho nhiều trí tuệ. Ta nghĩ bà ấy chưa bao giờ hiểu được điều gì xảy ra với mình, mụ già đáng thương. Ngoài ra bà ấy còn hờn dỗi vì chỉ được làm ngọc hoàng yến trong Hội Thập Nhị. Vì sao ông là ngọc bích còn tôi chỉ là viên hoàng yến ngớ ngẩn, bà ấy bảo ta thế. Người danh giá thời nay đâu có đeo ngọc hoàng yến.” Ông ta cười khúc khích một mình. “Ta thực sự muốn biết bà ấy còn vượt thời gian bao nhiêu lần khi về già. Cũng có thể không thèm lần nào. Dù sao bà ấy cũng chưa bao giờ là một người vượt thời gian nổi trội. Có khi cả tháng trời bà ấy không biến đi lần nào. Ta nghĩ gien này ở phái nữ trì trệ hơn của chúng ta, hệt như trí tuệ phụ nữ kém nhanh nhạy so với nam giới. Cô bé đồng ý với ta chứ?”
Thật đúng là một lão già trọng nam khinh nữ, tôi nghĩ trong khi cụp mắt xuống, nói năng vớ vẩn lại còn ra vẻ nguy hiểm. Ôi trời! Tôi có điên không? Lẽ ra tôi không nên nghĩ gì hết!
Nhưng rõ ràng tài đọc ý nghĩ của bá tước không tốt lắm, bởi ông ta tiếp tục khoái chí cười rinh rích. “Cô bé này không thích nói chuyện thì phải?”
“Cô ấy chỉ hơi nhát thôi ạ,” Gideon bảo.
Bị làm cho nhát thì đúng hơn.
“Làm gì có đàn bà nhút nhát,” bá tước phản đối. “Đằng sau mỗi cái chớp mắt ra vẻ nhút nhát thực ra luôn ẩn giấu sự thiểu năng.”
Tôi càng lúc càng tiến tới kết luận không phải sợ người này. Ông ta chỉ là một lão già ngạo nghễ, khinh thường phụ nữ, thích nghe chính mình diễn thuyết.
“Xem ra ngài không trọng thị phụ nữ lắm,” huân tước Brompton lên tiếng.
“Đâu phải thế!” bá tước phản đối. “Ta rất yêu phụ nữ. Thật đấy! Ta chỉ không tin rằng dạng trí tuệ mà họ sở hữu có thể giúp nhân loại tiến xa hơn. Bởi vậy trong hội của ta không có chỗ cho họ.” Ông ta tặng vị huân tước một nụ cười rạng rỡ. “Cũng phải nói thêm, đối với nhiều quý ông thì đây chính là lý do quan trọng nhất khiến họ xin làm thành viên đấy, thưa huân tước Brompton.”
“Nhưng phụ nữ lại mê ngài! Cha tôi luôn kể cho tôi nghe các chiến tích của ngài trên tình trường. Không chỉ ở London mà còn cả Paris, nghe nói các bà các cô đều luôn luôn sẵn sàng phủ phục dưới chân ngài.”
Bá tước lập tức sa vào ký ức mơ màng về thời còn là thần tượng của phái yếu. “Huân tước thân mến, không quá khó để làm phụ nữ mê muội và bảo gì nghe nấy. Đàn bà thì ai cũng như ai. Nếu không phải bận rộn với sự nghiệp cao cả thì có lẽ từ lâu ta đã soạn ra cẩm nang cho cánh đàn ông, khuyên họ ứng xử đúng cách với đàn bà.”
Rõ rồi. Tôi cũng đã nghĩ ngay ra một nhan đề phù hợp. Bóp cổ để thành công. Hoặc: Lảm nhảm cho đến khi phụ nữ quy phục.Suýt nữa tôi bật cười. Nhưng khi nhận thấy đang bị gã Rakoczy chăm chú quan sát, tâm trạng bỡn cợt của tôi ngay lập tức biến mất nhanh như lúc nó xuất hiện.
Tôi phát điên mất thôi! Cặp mắt đen của Rakoczy đóng đinh ánh nhìn của tôi trong một giây. Tôi cụp mắt nhìn xuống nền nhà khảm đá trước mặt, cố chống lại cảm giác kinh hoàng đang đe dọa chế ngự tôi. Chắc chắn bá tước không phải là người tôi phải dè chừng ở đây, nhưng không vì thế mà tôi được phép có cảm giác an toàn.
“Toàn là những chuyện kỳ thú,” huân tước Brompton nói, mấy ngấn cằm rung lên khoái trá. “Không nghi ngờ gì nữa, ngài và những người bạn đồng hành của ngài quả thực là những diễn viên xuất chúng. Như cha tôi vẫn nói, chuyện của các người khiến người ta há hốc mồm, bá tước Saint Germain kính mến. Nhưng tiếc là ngài không thể đưa ra một minh chứng nào. Cho tới bây tôi chưa được chứng kiến tài nghệ của ngài, dù chỉ một lần duy nhất.”
“Tài nghệ?” Bá tước kêu lên. “Ồ, huân tước thân mến, ngài quả là đa nghi. Lẽ ra ta đã hết kiên nhẫn với ngài từ lâu nếu không cảm thấy nợ cha ngài một nghĩa cử – Chúa phù hộ ông ấy! Và nếu ta không phải dựa vào tiền và ảnh hưởng của ngài đến thế.”
Huân tước cười hơi gượng gạo. “Chí ít thì ngài cũng thành thật.”
“Không có người đỡ đầu thì thuật giả kim làm sao tồn tại.” Bá tước quay phắt sang phía Rakoczy. “Chắc chúng ta sẽ còn phải cho ngài huân tước đáng kính chứng kiến chút tài nghệ của chúng ta, Miro. Ông ấy là người chỉ nhìn mới tin. Nhưng trước hết ta cần nói riêng vài lời với đứa cháu chút chít của ta và viết một lá thư gửi trưởng hội kín của ta ở tương lai đã.”
“Ngài cứ dùng phòng giấy sát vách,” huân tước chỉ vào cánh cửa phía sau lưng. “Còn tiết mục biểu diễn tài nghệ thì ta luôn nóng lòng chờ xem.”
“Đi nào, con trai.” Bá tước nắm lấy tay Gideon. “Còn một số chuyện ta cần hỏi cháu. Và một số chuyện cháu cần biết.”
“Bọn cháu chỉ còn độ nửa tiếng,” Gideon nhìn chiếc đồng hồ gắn vào túi áo vest bằng sợ dây chuyền vàng. “Chậm nhất tới lúc đó bọn cháu phải quay về Temple.”
“Nửa tiếng là đủ,” bá tước bảo. “Ta viết rất nhanh, và có thể đồng thời làm cả hai việc – vừa nói vừa viết.”
Gideon khẽ cười. Có vẻ như hắn thấy vị bá tước này thật vui nhộn, và hình như hắn hoàn toàn quên mất sự hiện diện của tôi ở đây.
Tôi đằng hắng. Đang đẩy cửa, hắn quay lại nhướn mày dò hỏi.
Tôi cũng trả lời bằng câm lặng, bởi không thể nói to: “Đừng để tôi một mình với lũ người này.” Gideon lưỡng lự.
“Con bé sẽ chỉ làm phiền chúng ta,” bá tước nói.
“Em đợi tôi ở đây nhé,” Gideon nói, dịu dàng một cách khó tin.
“Huân tước và Miro sẽ ở bên cháu trong mấy phút tới,” bá tước nói. “Các ngài có thể hỏi cô bé đôi chút về tương lại. Đây là dịp độc nhất vô nhị đấy. Cô bé tới từ thế kỷ 21, hỏi nó về tàu tự động chạy dưới lòng đất London, hoặc về những cỗ máy biết bay màu bạc gầm rú như ngàn con sư tử và vượt đại dương ở độ cao nhiều cây số.”
Huân tước cười nhiều đến nỗi tôi thực sự lo cho cái ghế. Mọi ngấn mỡ trên người ông ta đều rung rinh. “Còn gì nữa không ạ?”
Tôi không đời nào chịu ở lại một mình với gã Rakoczy. Nhưng Gideon chỉ mỉm cười, bất chấp ánh mắt cầu khẩn của tôi.
“Tôi quay lại ngay đây mà,” hắn bảo.
***
Như đã hẹn, viên Tourmaline đen, Paul de Villiers, hôm nay đã tới năm 1992 để phân nhánh hồi khứ trong phòng tài liệu. Nhưng lần này anh ta không đến một mình. Cô bé tóc đỏ đi cùng quả quyết mình là Lucy Montrose, cháu ngoại môn sinh Lucas Montrose. Mọi nét ở cô bé đều giống Arista Bishop (thuộc dòng ngọc thạch, mẫu quan sát số bốn) một cách kinh ngạc. Chúng tôi dẫn họ tới thư phòng của Lucas. Giờ thì tất cả đều biết Lucas sẽ cầu hôn Arista chứ không phải Claudine Seymore như mọi người đều cầu chúc cho anh ấy. (Mặc dù phải công nhận Arista di chuyển tốt hơn và chơi tay ve rất cừ.)
Thật kỳ lạ khi được cháu chắt tới thăm trước khi có con.
Trích Biên niên sử Đội cận vệ.
Ngày 12 tháng Sáu năm 1948.
Tường thuật bởi: Kenneth de Villiers, Bộ Nội vụ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.