Khoảng trời mênh mông

Chương 17



Ngày 22 tháng Sáu năm 1918

Cách Vida ba dặm về phía Tây Bắc, Montana

Cậu Holt kính mến!

Cháu nhớ mợ Ivy hay bảo: càng trông nước càng lâu sôi. Ở Montana này, càng trông trời càng không mưa. Anh Wayne Robbins và ông Gorley kể cháu nghe rằng, những trận mưa năm 1916 giúp củ cải đường to bằng trái bóng rổ, còn cây ngô cao đến cằm hươu cao cổ. Năm nay, chẳng ai phá nổi kỷ lục ấy. Câu cửa miệng của nông dân quanh vùng này là: “Sang năm sẽ khá hơn”.

Vùng đất ‘sang năm’ này đang khiến cô nông dân như cháu đây phải nhiều đêm mất ngủ.

Ngày thứ Năm, Jim Gà Trống mang thư, báo đến cho tôi. Khá lâu rồi, hai chúng tôi không chơi cờ. Jim lớn tiếng gọi mấy con gà

– Này Rose, may cho mày đấy. Cô đây còn nhẹ tay khi rửa tội đấy nhé.

Anh tủm tỉm cười, tự tán thưởng câu nói đùa của mình. Tôi bảo:

– Gặp trời mưa ướt cánh, chắc cô ả lại phát hoảng.

Nghe thế, Jim cười to hơn.

– Này Hattie, ly cà phê có thêm tài ăn nói dí dỏm của cô sẽ ngon hơn nhiều.

– Nhắc cà phê mới nhớ, tôi đang có một ít đây. Hay anh thích ăn đồ nguội? (Tôi dừng chân ngay ngưỡng cửa). Tôi có bánh bích quy làm bằng bột yến mạch.

– Thôi cà phê đi.

Anh theo tôi vào nhà, giúp mang cà phê ra. Trong nhà quá nóng, không ngồi được, uống xong một ngụm lớn, Jim nhấm nháp bánh bích quy:

– Cuộc sống ở đây nó vậy đấy. Chà, cô Hattie, chắc chắn tài nướng bánh của cô có cải thiện.

Tôi nhăn nhó nhìn anh. Jim cứ thích trêu chọc người ta. Còn hơn cả Charlie lúc trước. Anh với tay lấy thêm bánh:

– Cô có định dự họp ngoài trường học không?

– Họp nào?

– Trong báo kia có nói đấy.

Anh hất hàm về phía nhà. Tôi cất thư trong ấy.

Tôi đứng lên mang báo ra và thấy ngay tin bài cần tìm. Tôi đọc:

– 28 tháng Sáu tới là ngày Toàn Quốc Tiết Kiệm Vì Tiền Tuyến. Yêu cầu mỗi người dân Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ mua tem tiết kiệm ủng hộ tiền tuyến. (Tôi hạ tờ báo xuống). Nhưng tôi mua Trái phiếu Tự do rồi.

Jim nhún vai:

– Tiền đổ vào chiến tranh như gió vào nhà trống. Cô đừng tưởng đối phương quan tâm đến hầu bao của bà con nông dân ở vùng đất đầy sỏi đá này.

Tôi nhìn xuống tờ báo, đọc to:

– “Không một nông dân nào có gia cảnh bình thường, được phép đăng ký mua dưới một trăm đô la”. Người ta không thể trông chờ bà con ta hứa hẹn chi nhiều tiền thế được. Khối người còn không có đủ ngần ấy mua xăng cho máy kéo nữa kìa.

Jim lắc đầu:

– Với tay Traft điều hành công việc, hầu bao dân vùng này sẽ chỉ còn toàn nhậy chuyên cắn quần áo.

Vào ngày Tiết Kiệm Vì Tiền Tuyến, trong trường học nóng như lò bánh mì. Cả tinh thần lẫn ví tiền của bà con đều xẹp lép. Nhưng ở cuối căn phòng, Traft và mấy tay mặt mày bặm trợn đang “bày binh bố trận” thành hàng ngang. Thấy nhiều người phàn nàn rằng họ còn nhiều việc phải làm ở nhà, anh ta bảo:

– Tôi chỉ tuân thủ Chỉ thị của ban khuyến cáo. Cam kết đóng góp lần này chưa hẳn là khoản kết sổ đâu.

Tôi ký vào tấm bìa cứng và gạch dưới dòng chữ “đóng góp tùy theo khả năng thu hoạch” ở góc dưới bên tay trái. Tôi đưa tấm bìa cho một thành viên trong nhóm của Traft ngồi sau bàn giáo viên. Anh ta lập tức đưa trả:

– Cam kết đóng góp không thể dưới một trăm đô la.

Tôi lật tấm bìa trên tay:

– Mùa này có bội thu, tôi cũng không đủ tiền trang trải.

Anh ta chuyển cục thuốc lá nhai trong miệng từ má bên này sang má bên kia:

– Theo ngài Frank L. Houston, quản đốc chính của hạt, tiền mua tem của mỗi nông dân là một trăm đô la.

Hai bàn tay tôi run run khi đặt tấm bìa trở lại bàn:

– Cũng có thể, nhưng tôi chỉ cam kết được thế này thôi.

Anh ta thúc ép:

– Ai cũng phải hy sinh lợi ích riêng, cô ạ.

Tôi quyết nuốt nước mắt vào trong:

– Cam kết này không đại diện cho tinh thần hy sinh vì nghĩa lớn. Vả lại, tôi đã cam kết

Anh ta chế nhạo:

– Chắc phải dạy cô này một bài học về lòng ái quốc. Đừng để tụi tôi lôi cô đến trước tòa.

Nhớ đến Elmer Ren, vụ đổ hàng rào không rõ nguyên nhân và vụ cháy kho nhà anh Karl, tôi đành nhẫn nhịn, không đôi co nữa. Tôi vớ lấy cây bút, gạch dòng cũ đi và ghi: 100 đôla.

Anh ta làm động tác như ngả mũ cung kính:

– Trời, cô thật hào phóng quá, thưa cô.

Giọng anh ta trơn tuột như mỡ lợn tráng trên chảo rán. Tôi vén váy, vội vã chen qua đám du côn bạn Traft ra ngoài. Ruột gan tôi ậm ạch, cảm giác tức anh ách. Bầu không khí trở nên ngột ngạt.

Cô Leafie đi sau tôi:

– Hattie, chờ đã. Mai cô lên Wolf Point. Cháu có cần thứ gì trên phố lớn không?

– Cháu cần phép màu.

Cô mỉm cười:

– Tiệm nào bán thứ đó?

Tôi bấm đốt ngón tay tính tháng:

– Bảy, Tám. Chín, Mười. Bốn tháng để đáp ứng nốt các yêu cầu trước khi nhận quyền sử dụng đất. Thế đấy, cháu sẽ là bà trùm đất chỉ khi nào thu hoạch được nông sản…

Cô Leafle chêm vào:

– Nếu không có mưa đá và dịch châu chấu.

-… rồi bán nông sản lấy tiền…

– Miễn là Quốc hội Hoa Kỳ không áp giá quá thấp.

-… để có ba mươi tám đô la tiền mặt trả khoản phí cuối cùng trước khi nông trại thuộc về cháu.

Cô cười:

– Ba mươi bảy đô bảy mươi lăm xu chứ. Cháu có nghe người ta nói về cánh nông dân nhận đất công như chúng ta chưa? Sở dĩ họ còn đi loanh quanh được là vì chưa có tiền mua an.

Tôi cười ngây ngô:

– Hay thật.

Tất nhiên, cô Leafie vẫn còn cười được. Tên cô trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất được ghi rõ ràng bằng giấy trắng mực đen. Chừng nào cô còn thuần dưỡng ngựa lấy tiền, cô sẽ không phải lo chạy từng đồng. Nhất là trên đất này, ngựa không được dạy dỗ cẩn thận sẽ lồng lên suốt ngày. Cô phát nhẹ cánh tay tôi:

– Rồi cũng giải quyết ổn thỏa thôi. Cháu đừng lo. Có thể sẽ không đúng như cháu tính, nhưng rồi cũng đâu vào đấy.

– Cháu rất mong thế.

– Nghe này, cô sẽ đưa con nhà Perilee đến Wolf Point. Xem diễu hành đấy. Sao cháu không đi cùng cho vui?

Tôi xua xua con muỗi bay vo ve trên đầu:

– Thôi, cháu còn lòng dạ nào mà đi chơi.

Cô khoác tay tôi:

– Đi đi. Cháu đang cần giải trí. (Cô giơ tay lên trời). Cứ lo cuống lên, trời cũng chẳng mưa đâu.

Tôi mím môi suy nghĩ. Cô gật đầu:

– Mình sẽ đi từ sớm. Hai cô cháu thay nhau điều khiển ngựa Joey và Star. Muốn giải tỏa lo lắng, không gì bằng đi xem đám rước đâu cháu ạ.

Wolf Point thật ồn ã. Theo tôi ngày Toàn quốc Tiết Kiệm Vì Tiền Tuyến chẳng đáng ăn mừng, nhưng Pern, Mattie và Chase đâu cần biết đến điều đó. Hãy để chúng vui niềm vui con trẻ, háo hức đón chờ quân nhạc, diễu hành và những bộ trang phục đủ màu sặc sỡ.

Dáo dác tìm chỗ đứng xem rõ nhất, chúng tôi đi ngang qua rạp chiếu phim Glacier. Phim hiện đang trình chiếu là: Vua Đức, Con Quái Vật Thành Berlin. Hy vọng họ bán được nhiều vé. Người xem đám rước đứng chật như nêm dưới lòng đường. Trẻ con diện quần áo đẹp nhất, thường chỉ mặc vào Chủ nhật. Riêng tôi, với lòng yêu nước nhiệt thành, thắt ruy băng đủ ba màu đỏ, trắng và xanh lên chiếc mũ đẹp nhất

Cô Leafie cho Chase mười lăm xu để mua ba lá cờ giấy. Tay phải dắt bé Fern mới lấm chẫm biết đi, tay trái dắt Mattie đang ngây ngất trong không khí ngày hội, tôi thấy một chỗ xem đám rước khá rõ ở lối đi lót ván ngay trước cửa hàng thực phẩm Hanson’s Cash Grocery. Chase đưa cờ giấy cho hai em:

– Của em đây.

Người của Ngân hàng Quốc gia Citizens ở Wolf Point phát quạt có in khẩu hiệu: Nếu Không Tiến Sẽ Bị Vua Đức Đè Bẹp. Tôi được phát một cái và vui sướng dùng ngay. Mỗi ngày, trời lại nóng hơn, khô hơn hôm trước. Dù không có hàn thử biểu nhưng tôi vẫn được anh Karl đều đặn báo cho biết nhiệt độ hàng ngày. Anh lắc đầu lo ngại: “35°C năm ngày liền.” Ngay cả ông Gorley cũng phải sầm mặt lo lắng: “Lúa mì sẽ bị rang chín ngoài đồng mất thôi”.

Thời tiết nóng nực trở thành đề tài mở đầu câu chuyện. Khuôn mặt cô Leafie đỏ bừng dưới cái mũ không vành sờn cũ:

– Nóng quá nhỉ?

Jim Gà Trống bảnh bao trong bộ quần áo mới, hỏi tôi:

– Cô có trứng không? Rán luôn ở bậc tam cấp này được đấy.

Ông Hanson bảo:

– Cửa hàng tôi có nước thổ phục linh mát lạnh. Xem đám rước xong, mời bà con ghé vào dùng. Tôi đãi.

Ông cù nhẹ dưới cằm Fern, âu yếm vỗ về mái tóc quăn của Mattie. Sau đó ông đưa tôi ba bông hoa đỏ, trắng và xanh dương làm bằng giấy kếp. Chase giật nhẹ váy tôi:

– Nhìn kìa! Ban nhạc đầu tiên đang đến!

Dù chơi nốt nhạc đúng thì ít, đạp bụi thì nhiều nhưng ban nhạc thị trấn Circle vẫn được đám đông nồng nhiệt đón chào. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt biến thành tiếng hò reo rầm trời khi họ chuyển sang bài “Chúa phù hộ nước Mỹ”.

Tôi bắt gặp cô Leafie lau nước mắt. Mắt tôi cũng rưng rưng giọt lệ tự hào. Không chỉ riêng tiếng nhạc trang nghiêm làm tôi xúc động. Bao hình ảnh thân thương đầy ăm ắp tâm trí tôi. Nào Charlie (lâu rồi tôi không nhận được thư anh) dám bước lên bảo vệ tôi ở trường. Kế đến là chị Perilee và anh Karl. Tôi sẽ không bao giờ có được bạn bè hay người thân nào tốt hơn họ. Nhưng Charliehĩ gì nếu biết tôi kết bạn với gia đình ấy? Chẳng lẽ chỉ tại sinh ở Đức mà anh Karl không xứng là bạn của tôi? Thắc mắc ấy khiến đầu óc tôi quay cuồng. Thực ra tôi không hề phân vân khi chọn bạn. Nhưng tìm cách giải thích cho Charlie hiểu mới khó khăn làm sao.

Gió thổi thành vòng tròn quanh tôi mỗi lúc một mạnh hơn, những suy tư đuổi nhau chạy quanh đầu tôi mỗi lúc một nhanh hơn. Lo âu về chiến tranh chưa dứt, mối tơ vò về chuyện tiền nong lại hiện lên. Tôi tính đi tính lại số tiền tiết kiệm ít ỏi. Dù mùa này có bội thu, tôi cũng không biết nặn sao cho đủ tiền trang trải cả trăm món chi phí. Chưa kể khoản cam kết mua tem tiết kiệm đáng ghét. Tôi không dám nghĩ đến việc mình sẽ thất bại, không thể đáp ứng yêu cầu của bên địa chính. Bụng tôi quặn thắt vì lo lắng, vì cái nóng như đổ lửa và vì không biết rồi mai đây, số phận mình sẽ ra sao. Có lẽ đòi hỏi một nơi dành riêng cho mình là quá nhiều. Có lẽ suốt đời tôi sẽ chỉ là Hattie ăn nhờ ở đậu.

Mattie cầm tay tôi bóp nhẹ: Một, hai, ba. Khi hồi âm thông điệp trìu mến ấy, mọi lo âu của tôi theo đầu ngón tay chạy ra ngoài, tan biến vào hư vô. Có khi nào tôi chịu đổi cuộc sống vất vả, đầy ắp lo âu này lấy cuộc sống ở Iowa, không bao giờ biết đến Mattie dễ thương cùng gia đình bé? Riêng với câu hỏi này, tôi biết rõ lời giải đáp.

Gió mạnh, khô nóng thổi bay những nốt nhạc cuối cùng. Các nhạc công chỉnh mũ mão trước khi chơi bài kế tiếp. Họ bước đều, theo sau là xe của cơ sở Fort Peck Livery & Sale Barn được trang hoàng bằng nhiều dây cờ hoa đủ ba màu đỏ, trắng và xanh dương. Bà Martin ngồi cuối xe, tạo hình tượng Người mẹ Tự do. Nối tiếp đoàn diễu hành có hai xe ô tô cờ xí rực rỡ quảng cáo cho trạm xe Pipal Garage & Service Station.

Chase trầm trồ:

– Toàn xe của hãng Luvernes. Đời mới nhất đấy.

Không chịu thua kém, Công ty Fuller Motor trình làng một cỗ máy lạ mắt, trang trí cầu kỳ. Giọng Chase ỉu xìu:

– Xe du lịch.

Nghe cũng đủ biết xe du lịch không hợp thời trang. Sau đoàn xe ô tô đến các thành viên Hội đồng Tự vệ Hạt Dawson. Mọi thành viên hội đồng đều nghễu nghện trên lưng ngựa của trang trại Tipped M. Khi đi ngang qua tôi, Traft đưa tay lên vành mũ. Tôi không mảy may cảm kích hành động tao nhã ấy. Sau đoàn người cưỡi ngựa, nhà thờ dòng Hội Giám lý trình bày một hoạt cảnh cổ động tinh thần yêu nước. Học sinh trường Wolf Creek School (thiếu mặt Chase, cậu học trò ưu tú) đều bước sau nhóm cao bồi. Chúng đeo những dải vải trang trí màu xanh dương đẹp đẽ, miệng hát vang bài “Ở Nơi ấy”. Tôi vừa giơ tay vẫy cờ cổ vũ, luồng gió mạnh cuốn mất cờ bé Fern. Bé kêu khóc, chập chững bước lên:

– Fờ!

Tôi vội kéo Fern lùi lại:

– Cẩn thận chứ, em. Kẻo bị xô ngã thì khổ.

– Fờ! Fờ!

Nước mắt giàn giụa trên cặp má phúng phình của nó. Ông Hanson dỗ dành:

– Thôi nào, nín đi. Đừng nhõng nhẽo nữa.

Ông lấy trong túi ra ba cây kẹo que có sọc, trông như chùm ruy băng bắt mắt.

– Chơi cái này đỡ vậy.

Ông đưa cho Mattie và Chase mỗi người một cái, rồi gói cái còn lại cho bé Fern. Tôi nhắc:

– Các em nói gì nào?

Mattie và Chase cùng đồng thanh:

– Cảm ơn ông Hanson!

Thấy cây kẹo, bé Fem cười toét miệng. Nụ cười trong sáng, ngây thơ sáng bừng khuôn mặt còn ngấn nước của bé. Ông Hanson vừa cười vừa nói:

– Đau mấy thấy kẹo cũng hết, Fern nhỉ?

Con bé loay hoay với cây kẹo, quên hết mọi sự đời.

Cuối cùng, xe giao hàng nhà Cogswell tiến vào. Bên trong thùng xe dán nhiều tranh cổ động tự vẽ mang chủ đề “Diễu hành chào mừng Ngày Toàn Quốc Tiết Kiệm Vì Tiền Tuyến”. Không thể bỏ lỡ cơ hội quảng cáo tuyệt vời, ông Cogswell dán thêm sau thùng xe băng biểu ngữ nhỏ mang dòng chữ: “Anh đào tươi cửa hàng Cogswell’s: giá hợp lý nhất thị trấn”.

Thấy dòng quảng cáo, ông Hanson huýt sáo châm chọc. Đoạn ông cầm tay Mattie:

– Đi nào các cháu. Tìm thứ gì man mát bỏ bụng cái đã.

Chase nghe lời. Thấy thế, đám trẻ con thị trấn cũng bám đuôi ông ch tiệm tốt bụng. Trao bé Fern cho cô Leafie, tôi bảo bọn trẻ:

– Các em đi trước nhé. Hết diễu hành rồi, để chị nhặt cờ cho Fern.

Cô Leafie kéo sụp mũ trên đầu:

– Phải nhanh chân lên. Gió mạnh đang thổi bay cả North Dakota kia kìa.

Tôi chạy từ vỉa hè xuống đường. Lá cờ nhỏ của bé Fern không thể thoát bàn chân dẫm đạp của người tham gia diễu hành. Tôi nhặt món quà kỷ niệm rách bươm, ủ rủ lên, tai văng vẳng tiếng la khóc của con bé. Không muốn ngày vui của Fern kết thúc trong nước mắt, tôi bèn quay lại văn phòng Herald mua cờ khác. Mất thêm vài xu lẻ nữa thì đã sao nào?

Chợt có tiếng đàn ông đôi co khiến tôi phải chú ý. Phía cuối đường, ngay nơi đám rước vừa đi qua, hình như một đám rước khác vừa hình thành. Người dẫn đầu đám này chính là Traft Martin.

Đám đông dừng ngay trước văn phòng địa chính. Vài gã cao to, lực lưỡng theo nhau vào văn phòng. Chỉ lát sau, họ trở ra, vừa đi vừa đẩy một người mảnh khảnh đeo mắt kính đằng trước. Người ấy là ông Ebgard. Một gã tôi không biết mặt gầm gừ:

– Này ông Ebgard, trong sổ có ghi ông chưa đóng góp khoản phí hỗ trợ tiền tuyến.

Người khác đế vào:

– Thế sao gọi là ái quốc được. Hay ông muốn đổi tên Ebgard thành Chúc – Vua – Đức – Thắng?

Mỗi gã cao lớn tiến đến, sừng sững đứng chắn trước mặt ông Ebgard:

– Chắc ông quên bao trai tráng Wolf Point ngoài mặt trận…

Đám đông vây quanh họ đông dần. Một người trong số họ phụ họa:

– Cả người Circle, Vida nữa.

– Quanh vùng này, con em ta…

Những lời cuối của anh ta bị tiếng la hét át đi:

– Thay vì thương lũ ngoại bang, ông phải thương họ mới phải.

Tôi đứng dán lưng vào mặt tiền một cửa tiệm. Chỗ tôi đứng gần ông Ebgard đến nỗi tôi thấy rõ mồ hôi lấm tấm trên trán ông. Cặp kính của ông bị lệnh sang một bên. Ông chỉnh lại, nói nhỏ:

– Tôi không làm gì sai cả.

– Không ư?

Traft Martin nhìn bao quát đám đông, hạch hỏi:

– Thế tạo sao ông không xem diễu hành? Lại còn viết thư nhăng cuội gửi ngài Thống đốc làm gì? Thư ủng hộ tay giảng đạo ở Brockway ấy?

Ông Ebgard điềm tĩnh trả lời:

– Đa phần người xóm đạo ấy là dân nhập cư. Nếu ông ta giảng bằng tiếng Anh, giáo dân sẽ không hiểu.

– Tiếng Anh là ngôn ngữ của người Mỹ yêu nước.

Traft sấn sổ tiến đến gần ông Ebgard. Mạch máu phập phồng trên cổ anh ta. Mồ hôi lạnh túa ra, chảy dọc sống lưng tôi. Traft gằn giọng:

– Tôi cho ông biết chúng tôi sẽ làm gì. Còn ông hãy chứng minh lòng yêu nước của mình ngay tại đây, ngay bây giờ. Fred đâu?

Gã cao to tên Fred giơ cao một lá cờ Mỹ loại nhỏ. Hắn dí sát lá cờ vào mặt ông Ebgard vẫy vẫy. Traft hỏi:

– Ông có yêu tổ quốc không?

Cằm ông Ebgard run lên nhè nhẹ nhưng giọng nói vẫn mạch lạc:

– Anh thừa biết là có.

Fred đi giật lùi trên đường đến tận gần khách sạn Erickson. Traft chỉ về phía hắn:

– Vậy hãy chứng minh đi. Hãy bò bằng hai tay và hai đầu gối đến trước lá quốc kỳ. (Anh ta ghé sát vào nạn nhân khốn khổ) Khi đến nơi, nhớ phải hôn cờ tổ quốc. Ông nghe rõ chưa?

Đám đông dồn lên, vây xung quanh Traft. Tôi run rẩy như con bê mới đẻ, kiệt sức bởi mùi mồ hôi xông lên nồng nặc, bởi nỗi sợ hãi đến choáng ngợp. Và bởi phải chứng kiến sự hèn hạ lên đến tột cùng.

Tôi bụng bảo dạ: “Bước lên đi chứ. Ngăn họ lại đi”.

Đám người kia tiếp tục trò đùa xấu xa. Có bàn tay với đến ông Ebgard, ô mạnh. Ông khuỵu đầu gối xuống. Kính ông rơi ngay trước mặt tôi. Traft ra lệnh:

– Bò đi.

Phần vì không tin cảnh xảy ra trước mắt mình là thật, phần vì quá khiếp đảm, tôi cứ đứng ngây như trời trồng. Tôi ngó trân ông Ebgard đang quýnh quáng tìm cách đứng lên. Đường may nối giữa tay và vai áo của ông hở hoác, hai ống quần bẩn thỉu dính đầy phân ngựa.

“Làm gì đi chứ!” Tâm trí tôi gào lên ra lệnh, nhưng hai chân tôi nhất định không nghe. Tôi đứng đó, chống mắt nhìn cảnh tượng kinh hãi đang diễn ra trước mắt.

Ai đó đá mạnh ông Ebgard. Ông ngã đập mặt xuống đất, máu mũi chảy thành dòng.

Tôi nhìn quanh. Sao không có ai ngăn họ vậy? Tôi nôn nao đến mức không sao chịu nổi, hệt cái ngày bị ngất ngoài đồng. Nhưng khác với hôm ấy, hôm nay sẽ chẳng có ai xuất hiện kịp thời. Tôi chỉ biết trông cậy vào chính mình.

– Anh Traft!

Âm thanh lào thào thoát khỏi cặp môi run rẩy của tôi. Tôi cố gọi lần nữa:

– Anh Traft!

Traft Martin giật mình quay phắt lại. Có tiếng đàn ông la lối:

– Này cô, về nhà đi.

Tôi bước lên một bước ngắn. Ơn Trời, lần này đôi chân chịu nhúc nhích:

– Tôi… tôi… (Tôi biết nói gì trước đám đông đằng đằng sát khí này?). Tôi có chuyện cần bàn với ông Ebgard đây.

Tôi bước thêm bước nữa, thật ngắn thôi. Rồi lại bước nữa. Lúc này, tôi đã có can đảm cúi xuống nhặt kính cho ông Ebgard:

– Chuyện quan trọng, liên quan đến luật pháp, (tay run run, tôi trả kính cho chủ nhân) Xin lỗi, cháu đến muộn.

Ông Ebgard đứng lên, đeo kính vào:

– Ta vào văn phòng nhé?

Tôi nắm tay ông, hay đúng hơn là vịn vào tay ông. Ai đó chộp lấy vai tôi:

– Cô làm gì thế hả?

Tuy không biết giọng ai, nhưng tôi quyết không quay lại. Ruột gan lộn tùng phèo. Cơn giận dữ chặn ngang cổ họng. Tôi gồng mình, sẵn sàng đón trận mưa đấm đá sắp dội xuống đầu.

– Đừng vô cớ gây chuyện với cô ấy. Để cô ấy đi.

Giọng ấy thì tôi biết. Giọng của Traft. Trước khi buông vai tôi, người kia còn giật mạnh khiến tôi lảo đảo cạnh ông Ebgard.

– Mấy người đều là lũ phản quốc.

Người lạ xỉ vả. Tuy nhiên, phần lớn người có mặt trong đám đông khi nãy đều tản ra, như thể họ đều bất ngờ có việc không làm không được trong thị trấn. Traft trừng mắt nhìn tôi, mở miệng định nói nhưng lại thôi. Đoạn anh ta lắc đầu bỏ đi.

Trước khi ngã quỵ, tôi cố lê đến văn phòng ông Ebgard loạng choạng tìm ghế gần nhất.

– Cháu… buồn nôn quá.

Tôi nuốt khan. Ông Ebgard lục tủ phía sau bàn làm việc lấy chai rượu và hai ly thủy tinh, ông rót đầy cả hai:

– Uống đi cháu.

Chất lỏng trong ly thiêu đốt cổ họng tôi. Vừa nhấp một ngụm, tôi vội đặt ly xuống.

– Thật đáng sợ. Mấy người đó…

Chủ nhà cũng đặt ly xuống bàn. ông run rẩy rút khăn chấm nhẹ khóe miệng. Tôi cố diễn đạt những cảm xúc quay cuồng trong đầu:

– Trông họ có gì khác người thường đâu. Chỉ như bao láng giềng khác. Thế mà…

Ông Ebgard rót thêm ly nữa cho mình:

– Vài người trong số họ từng tối lửa tắt đèn với nhà bác đấy.

– Cháu không hiểu sao lại ra nông nỗi.

Với tôi lúc này, tay, chân, đầu mọi thứ đều nặng trĩu. Nặng đến nỗi không thể nhúc nhích, ông Ebgard nâng ly, nhấp một ngụm nhỏ.

– Do chiến tranh cả thôi.

Tôi chống tay lên mặt cố trấn tĩnh:

– Chiến tranh đốt kho nhà anh Karl ư? Làm gãy tay bé Elmer ư? Biến bác thành tội phạm ư?

Ông ngồi phịch xuống ghế:

– Không. Không phải. Nhưng con quỷ chiến tranh quá lớn. Giao chiến lan rộng khắp nơi, vượt ra ngoài địa phận chiến trường. Nó nhắm vào mọi thứ. Ngay cả việc viết thư ủng hộ linh mục và giáo dân cũng bị coi là phản quốc.

Giọng ông Ebgard dịu lại. Tay tôi cũng hết run:

– Chắc cháu về với cô Leafle và bọn trẻ. Họ đang lo cho cháu.

Tôi chậm chạp đứng lên, thử xem đôi chân đã bình thường trở lại chưa. Chân tôi mềm nhũn, giống hồi trên xe lửa, lúc bị ông béo đả kích. Tuy nhiên, tôi vẫn đi được.

Ông Ebgard vỗ nhẹ vai tôi:

– Cháu thật dũng cảm. Can đảm lắm.

Tôi nhìn khuôn mặt trầy trụa bầm tím của ông:

– Hay bác rửa mặt, gột quần áo rồi hãy về? Thôi, cháu chào bác.

– Cháu Brooks về nhé. (Ồng mở cửa, liếc ra ngoài). Yên ắng lắm rồi.

Tôi bước ra ngoài cánh cửa mở rộng, dừng bên vệ đường, hít sâu vào buồng phổi bầu không khí trong lành. Đến trước cửa hàng Hanson’s Cash Groeery, tôi dừng lại thầm sắp xếp mọi suy nghĩ theo trình tự rõ ràng và cố sáng suốt, sao cho nét phân vân không hiện quá rỏ trên mặt. Vào bên trong cửa hàng rồi mà chân tôi vẫn còn run. Ông Hanson đưa cho tôi ly thổ phục linh:

– Của cháu đây. Bác đoán cháu đang cần thứ gì uống cho tỉnh người.

– Fờ đâu?

Tôi lơ đãng đưa bé Fern lá cờ rách tả tơi. Cô Leafle nhìn tôi:

– Sao thế, Hattie?

Tôi lắc đầu, ra hiệu cô đừng nói gì thêm nữa. Bé Fern ném lá cờ xuống đất:

– Bẩn.

Nhớ đến Traft cùng đám người hung hăng như đàn ong bắp cày bị chọc giận vào hùa với anh ta, tôi đưa tay chùi mắt:

– Ừ, bẩn thật.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.