Luật im lặng

CHƯƠNG 10



Bây giờ với nhất cử nhất động của mình, Astorre đều hết sức thận trọng. Không chỉ để tránh một vụ mưu sát mà còn không cho phép mình bị bắt vì bất kỳ lý do nào. Chàng ở lỳ trong nhà mình với những đội bảo vệ năm người gác suốt ngày đêm. Chàng cho lắp đặt những thiết bị báo động ở trong rừng và trên mặt đất quanh nhà, sử dụng thiết bị hồng ngoại để giám sát vào ban đêm. Khi chàng liều rời khỏi nhà, luôn luôn có sáu vệ sĩ chia làm ba tổ hai người đi kèm. Việc đánh bom hai thám tử là cần thiết nhưng nó lại làm tăng cường các hoạt động của cảnh sát. Và khi Aspinella Washington bình phục mụ sẽ đoán ra chính Heskow đã phản lại mụ. Nếu Heskow tiết lộ thì mụ sẽ bám theo chính chàng.
Cho đến bây giờ chàng đã hiểu tầm vóc lớn lao của vấn đề. Chàng biết tất cả những kẻ dính líu vào cái chết của ông Trùm bác mình và những vấn đề nghiêm trọng đang đợi chàng ở phía trước. Đó là Kurt Cilke, người không được động tới, Timmona Portella, Grazziella, và viên tổng lãnh sự quán Peru. Những kẻ mà chàng đã trừng phạt là anh em Sturzo, song chúng lại chỉ là những con tốt.
Tất cả các thông tin đến từ John Heskow, ông Pryor, Trùm Craxxi và Octavious Bianco ở Sicily. Nếu có thể, chàng phải chộp cho được toàn bộ kẻ thù của mình tại một nơi trong cùng một lúc. Hạ chúng từng tên một cách chắc chắn là không thể. Mà Pryor và Craxxi đã cảnh báo chàng không được đụng đến Cilke.
Và rồi còn tổng lãnh sự Peru, Mariano Rubio, nhân tình của Nicole nữa. Nàng trung thành với y đến mức độ nào? Nàng đã xoá những gì mà nàng không muốn Astorre thấy trong hồ sơ về ông Trùm của FBI? Nàng còn giấu chàng những gì?
Vào những khoảnh khắc thảnh thơi Astorre mơ thấy những người phụ nữ chàng đã yêu. Đầu tiên là Nicole, trẻ trung và thông minh, thân hình mảnh mai thanh nhã của nàng nồng nàn đến nỗi nàng đã buộc được chàng chấp nhận yêu nàng. Bây giờ nàng đã thay đổi quá nhiều. Chính trị và công việc đã cuốn hút niềm đa mê của nàng.
Chàng nhớ Buji ở Sicily, không hẳn là gái điếm nhưng cũng gần như thế. Chàng nhớ chiếc giường êm ái của ả trong những đêm yên tĩnh ở Sicily, những lúc họ cùng bơi và ăn quả ôliu lấy từ thùng ngâm. Chàng nhớ ả chẳng bao giờ nói dối; ả hoàn toàn thành thật về cuộc sống của mình, về những người đàn ông khác của ả. Và lòng trung thành của ả khi chàng bị bắn, ả đã kéo chàng vào bờ ra sao, máu từ vết thương trên cổ chàng nhuốm đầy người ả. Rồi quà tặng của ả – cái vòng cổ bằng vàng có mặt dây chuyền để che đi cái vết thương khủng khiếp.
Rồi chàng nghĩ đến Rosie, một Rosie phụ bạc, ngọt ngào, xinh xắn và lãng mạn. Người luôn luôn tự cho là thực sự yêu chàng trong khi vẫn liên tục phản bội chàng. Tuy nhiên nàng đã luôn làm chàng vui vẻ khi quấn quýt bên nhau. Chàng đã từng muốn xoá sạch tình cảm của mình đối với nàng bằng việc dùng nàng chống lại anh em Sturzo, và chàng ngạc nhiên thấy nàng thích thú với vai diễn đó.
Rồi hình ảnh vợ Cilke, Georgette, thoáng qua tâm trí chàng như một bóng ma. Thật là vớ vẩn. Chàng có một tối ngắm nhìn chị, nghe chị nói những điều nhảm nhí mà chàng chẳng hề tin về những gì quý giá trong tâm hồn con người. Vậy mà chàng không thể nào quên chị. Làm thế quái nào Georgette lại lấy một thằng cha như Kurt Cilke kia chứ?
Thỉnh thoảng, vào ban đêm, Astorre đến khu Rosie đang sống và gọi cho nàng bằng điện thoại trên xe. Nàng luôn luôn ở nhà một mình và điều đó làm chàng ngạc nhiên. Nhưng nàng giải thích rằng nàng quá bận học hành không thể đi chơi được. Như thế lại hoá hay vì chàng rất thận trọng không muốn đi ăn hiệu hay đưa nàng đi xem phim. Thay cho những việc đó, chàng ghé vào tiệm Zabar ở khu East Side để mua những món đặc sản đem về. Trong lúc đó Monza vẫn ngồi chờ trên xe.
Rosie dọn bàn ăn và mở một chai vang. Trong bữa ăn Rosie gác hai chân lên đùi chàng một cách thân tình và khuôn mặt nàng rạng ngời hạnh phúc vì được bên chàng, đón nhận từng lời nói của chàng với nụ cười tươi tắn. Đấy là phần thưởng của nàng và Astorre thừa biết nàng làm như thế với tất cả đám đàn ông của nàng. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì đâu.
Rồi khi họ lên giường, nàng không chỉ nồng nàn đắm đuối mà còn ngọt ngào và quấn quýt. Nàng vuốt ve khắp mặt chàng, hôn chàng và nói
– Chúng mình thực sự là chỗ bạn bè chí cốt.
Những lời nói đó như một gáo nước lạnh dội xuống người chàng. Astorre không muốn nàng là chí cốt với một kẻ như chàng. Chàng khao khát vẻ trong trắng cổ điển, tuy nhiên lại chẳng thể nào cắt được mối quan hệ với nàng.
Chàng ở lại năm hoặc sáu tiếng đồng hồ. Vào ba giờ sáng chàng sẽ ra đi. Thỉnh thoảng khi nàng đang ngủ, chàng lại nhìn nàng đăm đăm và nhận thấy bên trong nàng là trạng thái dễ bị tổn thương và giằng xé cứ như thể lũ quỷ bị nàng nhốt mãi nơi thẳm sâu của tâm hồn đang đòi được tự do.
Một đêm chàng sớm chia tay Rosie. Khi lên xe Monza báo với chàng rằng có một lời nhắn phải gọi lại gấp cho một ngài Juice nào đó. Đấy là mật danh chàng và Heskow dùng. Thế là chàng lập tức chụp lấy ống nghe.
Giọng Heskow khẩn thiết.
– Tôi không thể nói qua điện thoại. Chúng ta phải gặp nhau ngay bây giờ.
– Ở đâu? Astorre hỏi.
– Tôi sẽ đứng ngay bên ngoài Madison Square Garden, Heskow nói. Hãy bí mật đón tôi sau một giờ nữa.
Khi Astorre đến gần Garden, chàng thấy Heskow đang đứng trên vỉa hè. Monza đặt súng lên đùi lúc cho dừng xe trước mặt Heskow. Astorre mở cửa và Heskow nhảy lên băng ghế trước. Cái ghế lạnh để lại những vết lợt trên má y. Y nói với Astorre,
– Cậu có rắc rối lớn đấy.
Astorre có cảm giác ớn lạnh.
– Bắt cóc à? Chàng hỏi.
Heskow gật đầu. Portella đã chộp người bà con Marcantonio của cậu và đã cho giam giữ anh ta ở một nơi nào đó. Tôi không biết là nơi nào. Sáng mai hắn sẽ mời cậu tới thương thảo. Hắn muốn trao đổi một thứ gì đó lấy con tin của hắn. Nhưng nếu cậu bất cẩn, hắn sẽ để đội ám sát bốn người của hắn đưa cậu vào vòng ngắm. Hắn sử dụng người của chính hắn. Hắn giao việc này cho tôi nhưng tôi đã từ chối.
Họ đang ở trên một đường phố tối tăm.
– Cảm ơn, Astorre nói. Tôi để anh xuống chỗ nào đây?
– Chỗ này. Xe tôi đậu cách đây một dãy nhà.
Astorre hiểu. Heskow lo sợ bị phát hiện cặp kè bên chàng.
– Còn một việc nữa, Heskow nói. Cậu biết căn hộ của Portella tại khách sạn của hắn chứ? Em hắn, Bruno, đang sử dụng nó đêm nay để hú hí với một ả đàn bà. Và không hề có vệ sĩ.
– Một lần nữa xin cảm ơn anh, Astorre nói. Chàng mở cửa xe và Heskow biến vào bóng đêm.
Marcantonio đang dự cuộc họp cuối cùng trong ngày. Gã muốn nó diễn ra ngắn gọn. Lúc này là bảy giờ tối, và gã còn dự tiệc chiêu đãi lúc chín giờ.
Cuộc họp diễn ra với một nhà sản xuất có tiếng tăm và cũng là người bạn tốt nhất trong lĩnh vực điện ảnh – Steve Brody, người chẳng bao giờ xem xét kỹ càng kế hoạch chi tiêu, người có tài đánh hơi những sáng tác gây ấn tượng và thường giới thiệu Marcantonio với những diễn viên trẻ có triển vọng đang cần được giúp đỡ ít nhiều trong sự nghiệp.
Nhưng tối nay họ là đối thủ của nhau. Brody đến cùng một trong những đại diện quyền lực nhất trên thương trường có tên là Matt Glazzier. Y đến đây, lấy cớ vì một tiểu thuyết gia. Tác phẩm cuối cùng của người này được y chuyển thể thành kịch bản của loạt phim truyền hình dài tám tiếng. Bây giờ Glazier muốn bán tiếp ba cuốn sách trước đó của ông ta.
– Marcantonio, Glazier nói, ba cuốn sách này rất khá nhưng không bán được. Cậu biết rõ mấy thằng bên xuất bản mà – chúng không thể bán một lọ trứng cá muối lấy năm đô được. Brody đã sẵn sàng bắt tay vào sản xuất. Cậu đã kiếm được cả một đống tiền nhờ cuốn sách cuối cùng của nó, vì vậy hãy hào phóng một tý để bọn mình còn làm hợp đồng.
– Tôi đếch quan tâm, Marcantonio nói. Đấy là những cuốn sách cũ. Chúng chưa bao giờ là sách bán chạy. Và bây giờ chúng cũng không còn được bán nữa.
– Chuyện đó thì nhằm nhò gì, Glazier nói với vẻ quả quyết của tất cả các nhà đại diện. Ngay sau khi chúng ta ký kết hợp đồng, bên xuất bản sẽ cho tái bản.
Marcantonio đã nghe luận cứ này nhiều lần trước đó. Đúng, bên xuất bản sẽ tái bản, nhưng thực ra việc này chẳng giúp gì nhiều cho truyền hình trong khi truyền hình lại giúp được nhiều hơn cho các nhà xuất bản. Đây đúng là một cuộc tranh cãi vô bổ.
– Dẹp cả đi, Marcantonio nói. Tôi đã đọc mấy cuốn đó rồi. Chúng quá văn vẻ. Ngôn ngữ nhiều nhưng không có sự kiện. Tôi không nói là chúng không hay. Tôi chỉ nói không đáng phải liều và cố công với chúng.
– Đừng có loè tôi, Glazier nói. Cậu đọc mục ý kiến bạn đọc chứ gì. Cậu lãnh đạo bộ phận lập chương trình thì làm gì có thời gian mà đọc.
Marcantonio bật cười.
– Cậu nhầm. Tôi thích đọc và tôi thích mấy cuốn đó. Nhưng chúng không hợp với truyền hình. Giọng gã ấm áp, thân tình.
– Tôi rất tiếc, nhưng với chúng ta việc này coi như chấm dứt. Tuy nhiên, hãy nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi rất muốn hợp tác với cậu.
Sau khi hai vị khách ra về, Marcantonio tắm táp, thay đồ đi dự chiêu đãi. Gã chào tạm biệt thư ký của mình – người luôn luôn ở lại cho đến khi gã rời cơ quan, rồi đón thang máy xuống tiền sảnh của toà nhà. Bữa chiêu đãi được tổ chức tại nhà hàng Bốn Mùa, chỉ cách đấy vài dãy nhà. Không giống như hầu hết các tổng giám đốc, anh không dùng xe và lái xe riêng. Khi cần gã sẽ gọi một chiếc. Gã hãnh diện về sự tiết kiệm của mình và biết rằng gã đã học được điều đó từ cha gã, người có thành kiến nặng với việc lãng phí tiền bạc vào những điều ngu xuẩn.
Khi bước ra đường, gã cảm thấy một luồng gió lạnh và bỗng rùng mình. Một chiếc xe Limousine màu đen dừng lại, rồi người tài xế bước xuống mở cửa mời gã. Chả lẽ tay thư ký đã gọi xe giúp? Tay lái xe là một người cao lớn và khoẻ mạnh. Chiếc mũ lưỡi trai quá nhỏ so với đầu. Hắn cúi chào và hỏi,
– Ngài Aprile phải không ạ?
– Tôi đây, Marcantonio trả lời. Đêm nay tôi không cần anh.
– Ngài cần đấy, hắn nói và nở một nụ cười vui vẻ. Lên xe, không thì ăn đạn.
Ngay lúc đó Marcantonio nhận thấy có ba người đàn ông ở sau lưng mình. Gã do dự. Tên lái xe tiếp tục,
– Đừng lo, một người bạn muốn tâm sự với ngài chút đỉnh.
Marcantonio lên băng ghế sau của chiếc Limousine, ba người đàn ông vây quanh gã.
Họ đi qua một hoặc hai dãy nhà và sau đó một tên đưa cho gã cặp kính đen và yêu cầu gã đeo. Marcantonio lam theo và từ đấy gã như người mù. Hai mắt kính quá đen che hết cả ánh sáng. Thật khôn ngoan, gã nghĩ, và lưu ý trong đầu sẽ sử dụng tình tiết này vào một câu chuyện. Đây cũng là một tia hy vọng. Nếu chúng không muốn gã biết mình đi đâu tức là chúng không có ý định giết gã. Toàn bộ câu chuyện này cứ như bịa giống hệt một trong những vở kịch trên truyền hình của gã. Rồi bỗng nhiên gã nghĩ về cha mình. Cuối cùng gã đã có mặt trong thế giới của người cha, cái thế giới mà gã chưa bao giờ hoàn toàn tin tưởng.
Khoảng một tiếng sau chiếc xe dừng lại và gã được hai kẻ áp tải đỡ xuống. Gã có thể cảm thấy con đường mòn lát gạch dưới chân mình. Rồi gã được dẫn vào một ngôi nhà, leo hơn một nhịp cầu thang đến một căn phòng, cánh cửa ra vào đóng lại ở phía sau. Chỉ đến lúc đó cặp kính mới được gỡ ra. Gã đang ở tỏng một phòng ngủ nhỏ có những cửa sổ che rem kín mít. Một trong những tên gác ngồi xuống chiếc ghế tựa ngay bên cạnh giường.
– Nằm xuống ngủ ngáy một chút đi, tên gác nói. Ngài còn cả một ngày vất vả phía trước đấy. Marcantonio nhìn đồng hồ. Đã nửa đêm rồi.
Hơn bốn giờ sáng Astorre và Aldo Monza đến trước khách sạn Lyceum, gã lái xe chờ ở mặt tiền. Chùm chìa khoá của Monza kêu lách cách khi họ chạy lên ba nhịp cầu thang tới trước cửa căn phòng bí mật của Portella.
Monza dùng chìa khoá của mình để mở cửa, rồi họ vào phòng khách. Họ thấy một chiếc bàn bày bừa la liệt những hộp đồ ăn Tàu, những chiếc ly không, những chai vang và Whiskey. Một chiếc bánh nướng đánh kem rất to đã bị ăn một nửa với một điếu thuốc hút dở cắm lên trên trông như một cây nến sinh nhật. Họ vào phòng ngủ. Astorre bật công tắc đèn gắn trên tường. Ở đó, vận chiếc xà lỏn và nằm dài trên giường là Bruno Portella.
Không khí nồng nặc mùi nước hoa nhưng chỉ có một mình Bruno. Trông gã không được đẹp mắt cho lắm. Mặt gã nặng nề, uể oải, bóng loáng mồ hôi. Mùi hải sản tanh nồng bốc ra từ miệng gã. Bộ ngực đồ sộ làm gã giống như một con gấu, và thực tế, gã có cái vẻ dịu dàng của một con gấu nhồi bông. Cạnh chân giường có một chai vang đỏ đã mở. Có lẽ sẽ là bất nhã nếu đánh thức gã, và Astorre làm điều đó một cách nhẹ nhàng bằng cách vỗ vào trán gã.
Bruno mở một mắt, rồi mở nốt mắt kia. Gã không có vẻ sợ hãi, thậm chí chẳng hề ngạc nhiên.
– Tụi mày làm cái chó chết gì vậy hả? Giọng gã khàn khàn ngái ngủ.
– Bruno, chẳng có gì phải lo lắng cả, Astorre nhẹ nhàng nói. Cô gái đâu rồi?
Bruno ngồi dậy. Gã cười hềnh hệch. Nó phải về nhà sớm để đưa con đến trường. Tao đã phang nó ba lần trước khi để nó về, gã nói, không che giấu niềm kiêu hãnh về khả năng tình dục mạnh mẽ cũng như hiểu biết của gã về những vấn đề của một gái làng chơi. Một cách ngẫu nhiên gã với tay về phía chiếc bàn kê cạnh giưòng. Astorre nhã nhặn giữ tay gã lại còn Monza mở ngăn kéo và lấy ra khẩu súng.
– Nghe đây, Bruno, Astorre vỗ về. Sẽ không có chuyện gì tồi tệ xảy ra cả. Tôi biết anh ngài chẳng hề bàn bạc với ngài, nhưng ông ta đã bắt cóc anh họ tôi đêm hôm qua. Vì thế bây giờ tôi phải đổi ngài lấy anh ấy. Anh ngài yêu thương ngài, Bruno ạ, ông ấy sẽ chấp nhận trao đổi thôi. Ngài tin điều đó chứ?
– Tất nhiên rồi, Bruno nói. Trông gã nhẹ nhõm hẳn.
– Chỉ không được làm điều gì ngốc nghếch mà thôi. Giờ thì mặc quần áo vào.
Mặc đồ xong, Bruno hình như lại gặp rắc rối trong việc buộc dây giầy.
– Có chuyện gì vậy? Astorre hỏi.
– Đây là lần đầu tao đi đôi giày này, Bruno nói. Tao thường đi giày không dây.
– Ngài không biết cột dây giày chứ gì? Astorre hỏi
– Đây là đôi giày có dây đầu tiên của tao mà lại.
Astorre bật cười
– Lạy chúa. Thôi được, tôi sẽ cột hộ.
Khi làm xong, Astorre nhấc máy điện thoại ở đầu giường đưa cho Bruno. Hãy gọi cho anh ngài, chàng ra lệnh.
– Vào lúc năm giờ sáng ư? Bruno hỏi. Timmona sẽ giết tao mất.
Astorre nhận ra rằng không phải việc mất ngủ làm đầu óc Bruno lú lẫn, mà thực sự gã là một kẻ đần độn.
– Chỉ nói rằng tôi đã chộp được ngài. Sau đó tôi sẽ nói với ông ấy.
Bruno cầm ống nghe và rên rỉ nói,
– Timmona, anh đẩy tôi vào những chuyện rắc rối, đấy là lý do tôi gọi cho anh sớm thế này.
Astorre có thể nghe thấy tiếng la lối qua điện thoại, rồi Bruno gấp gáp nói
– Astorre Viola đang giữ tôi và nó muốn nói chuyện với anh. Gã nhanh chóng chuyển ống nghe cho Astorre.
Astorre nói
– Thưa ngài Timmona, rất tiếc đã đánh thức ngài. Tôi buộc phải bắt Bruno vì ngài đang giữ anh họ tôi.
Giọng Portella giận dữ truyền qua đường dây.
– Ta chẳng biết gì về điều đó. Thế mày muốn cái quái gì hả?
Bruno nghe được và gã gào lên.
– Anh đẩy tôi vào chuyện này, anh thật là ngu ngốc. Hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay.
Astorre ôn tồn nói,
– Thưa ngài Timmona, hãy tiến hành trao đổi rồi chúng ta sẽ bàn về cái hợp đồng ngài đang cần. Tôi biết ngài vẫn nghĩ rằng tôi là một kẻ cứng đầu, nhưng khi gặp nhau tôi sẽ cho ngài biết lý do và ngài sẽ biết tôi vẫn đang giúp ngài đấy.
Lúc này giọng Portella đã dịu xuống
– OK, hắn nói. Chúng ta tiến hành gặp gỡ ra sao đây.
– Tôi sẽ gặp ngài tại nhà hàng Paladin vào buổi trưa, Astorre nói. Ở đó tôi có một phòng riêng. Tôi sẽ mang Bruno đi cùng, còn ngài mang theo Marc. Ngài có thể mang theo vệ sĩ nếu ngài nghi ngờ, nhưng chúng tôi không muốn có một cuộc tắm máu ở nơi công cộng. Chúng ta sẽ thảo luận và tiến hành trao đổi.
Một sự im lặng kéo dài, rồi Portella nói
– Sau cuộc gặp gỡ này chúng ta sẽ là chỗ bạn bè thân thiết mà.
Astorre và Monza kém sát hai bên Bruno, chàng còn khoác vai Bruno một cách thân thiện. Họ đưa gã xuống đường. Ở đó có thêm hai chiếc xe với người của Astorre đang đợi
– Hãy đưa Bruno đi cùng anh trên một xe, Astorre dặn Monza. Đưa hắn đến nhà hàng Paladin vào buổi trưa. Tôi sẽ gặp anh ở đấy.
– Tôi phải làm cái chó chết gì với hắn cho đến lúc đó? Monza hỏi.
– Đưa hắn đi ăn sáng, Astorre đáp. Hắn háu ăn lắm. Việc đó sẽ tiêu mất vài tiếng đồng hồ. Sau đó đưa đi dạo trong công viên Trung Tâm. Vào sở thú. Tôi sẽ lấy một xe và một tài xế. Nếu hắn cố chạy trốn cũng không được giết, mà phải bắt cho kỳ được.
– Cậu sẽ đi một mình? Như vậy có khôn ngoan không đấy?
– Tôi không sao đâu. Trên xe Astorre dùng điện thoại gọi về số máy riêng của Nicole. Lúc này đã gần sáu giờ sáng.
Giọng Nicole còn ngái ngủ khi trả lời điện thoại. Astorre nhớ nó giống giọng của cô thiếu nữ và người tình của chàng năm xưa.
– Nicole, dậy đi. Chị có biết đây là ai không?
Câu hỏi rõ ràng làm nàng bực mình.
– Tất nhiên tôi biết người ấy là ai rồi. Còn ai có thể gọi vào giờ này chứ?
– Nghe cho kỹ đây, Astorre nói. Không được hỏi. Tờ văn bản chị giữ dùm tôi, tờ tôi đã ký cho Cilke còn chị đã bảo tôi đừng ký, chị còn nhớ chứ?
– Còn, Nicole trả lời cộc lốc, đương nhiên tôi vẫn nhớ.
– Chị để nó ở nhà hay ở tủ bảo mật của văn phòng?
– Tại văn phòng của tôi, Nicole đáp.
– Tốt. Tôi sẽ đến nhà chị sau ba mươi phút nữa. Tôi sẽ nhấn chuông. Hãy sẵn sàng để đi ngay. Mang theo tất cả chìa khóa. Chúng ta sẽ cùng tới văn phòng của chị.
Khi Astorre nhấn chuông, Nicole xuống ngay. Nàng mặc chiếc áo khoác da màu thanh thiên và mang một chiếc bóp lớn. Nàng hôn lên má Astorre nhưng không dám nói một lời cho đến khi họ lên xe và nàng phải hướng dẫn người tài xế. Sau đó nàng tiếp tục im lặng đến khi họ tới văn phòng của nàng.
– Nào, hãy nói cho tôi biết tại sao anh cần tờ văn bản đó.
– Chị không cần phải biết.
Astorre nhận thấy nàng bực tức với câu trả lời, nhưng nàng vẫn bước tới tủ bảo mật, đó là một phần của bàn làm việc và rút ra một cặp hồ sơ.
– Đừng đóng cửa tủ, Astorre nói. Tôi cần cuốn băng chị thu cuộc gặp của chúng ta với Cilke.
Nicole đưa cho chàng chiếc cặp.
– Anh có quyền đối với những văn bản này, nàng nói. Nhưng anh không có quyền đối với bất kỳ cuốn băng nào, cho dù nó có tồn tại đi chăng nữa.
– Trước đây chị đã có lần nói với tôi rằng chị ghi âm tất cả các cuộc họp tại văn phòng của chị. Và trong lần gặp đó tôi đã quan sát chị. Chị đã hơi quá thoả mãn với chính mình.
Nicole cười khẩy
– Anh đã thay đổi, nàng nói. Anh chưa bao giờ là một trong những thằng khoác lác, những kẻ vẫn nghĩ rằng chúng có thể đọc được suy nghĩ của người khác.
Astorre toét miệng cười và nói giọng đầy hối tiếc
– Tôi nghĩ chị hãy còn quý tôi. Bởi vậy tôi không hề hỏi chị đã xoá cái gì trong hồ sơ của ông già trước khi cho tôi xem.
– Tôi không xoá gì hết, Nicole lạnh lùng nói. Và tôi sẽ không đưa cuốn băng chừng nào anh còn chưa cho tôi biết toàn bộ chuyện này là thế nào.
Astorre im lặng, sau đó chàng nói
– Thôi được, bây giờ chị đã là một người lớn rồi mà. Chàng phì cười khi thấy nàng giận dữ, mắt nàng long lên, nàng bĩu môi khinh bỉ. Nó làm chàng nhớ lại hình ảnh của nàng khi nàng xung đột với chàng và cha nàng nhiều năm trước.
– Chị luôn luôn muốn đánh đu với các ông lớn, Astorre nói. Và hiển nhiên chị làm được điều đó. Là một luật sư, chị đã làm nhiều người khiếp sợ cũng như cha chị vậy.
– Ông cụ không đến nỗi xấu xa như báo chí và FBI thêu dệt, Nicole giận dữ nói.
– Được rồi, Astorre nói giọng vỗ về. Đêm qua Marc đã bị Timmona Portella bắt cóc. Tuy nhiên đừng quá lo lắng. Tôi đã tóm được Bruno, em trai lão. Bây giờ chúng ta có thể thương lượng.
– Anh đã thực hiện vụ bắt cóc ư? Nicole nghi hoặc hỏi.
– Chúng làm trước như vậy với ta mà, Astorre đáp. Chúng rất muốn ta bán các nhà băng cho chúng.
Nicole gần như hét lên
– Thế thì cho quách chúng mấy cái nhà băng chết tiệt ấy đi.
– Chị không hiểu rồi. Chúng ta chẳng cho chúng bất cứ thứ gì. Chúng ta có Bruno. Nếu chúng hại Marc thì tôi sẽ hại Bruno.
Nicole nhìn chàng bằng ánh mắt khiếp đảm. Astorre nhìn nàng bình tĩnh, và một tay đưa lên sờ cái vòng cổ bằng vàng. Phải, chàng nói. Tôi sẽ phải giết hắn.
Trên khuôn mặt cứng rắn của Nicole vụt xuất hiện những nếp nhăn đau khổ.
– Không phải là anh, Astorre, không phải là anh.
– Vậy là chị đã biết, Astorre nói. Tôi không phải là người bán các nhà băng sau khi chúng đã giết cha chị và bác tôi. Nhưng tôi cần cuốn băng và tờ văn bản để làm hợp đồng và đưa Marc trở về mà không phải đổ máu.
– Thì cứ bán cái nhà băng cho chúng, Nicole thì thầm. Chúng ta sẽ giầu có. Có gì quan trọng chứ?
– Việc này quan trọng đối với tôi, Astorre nói. Việc này cũng đã quan trọng với ông già.
Nicole lặng lẽ lấy trong tủ bảo mật ra một gói nhỏ. Nàng dể nó trên cặp hồ sơ.
– Cho tôi nghe luôn đi, Astorre đề nghị.
Nicole lấy trong ngăn bàn ra một chiếc cát xét nhỏ. Nàng lắp cuốn băng vào máy, rồi họ lắng nghe Cilke tiết lộ kế hoạch gài bẫy Portella. Sau đó Astorre bỏ tất cả vào túi và nói.
– Tôi sẽ đem chúng về cho chị trong ngày hôm nay, cả Marc nữa. Đừng lo. Chẳng có gì xảy ra đâu. Mà nếu có, chúng nó sẽ khốn nạn hơn chúng ta.
Quá trưa một chút Astorre, Aldo Monza và Bruno Portella đã tề tựu tại phòng ăn riêng của nhà hàng Paladin.
Bruno có vẻ chẳng hề lo lắng tí nào. Hắn trò chuyện vui vẻ với Astorre.
– Chú mày biết đấy, tao đã sống cả đời ở New York mà không biết trong công viên Trung Tâm lại có vườn bách thú. Còn nhiều người cần phải biết điều đó để mà đến xem.
– Vậy là ngài đã có một cuộc dạo chơi thú vị. Astorre vui vẻ nói, đồng thời chàng nghĩ nếu mọi việc diễn ra không suôn sẻ thì ít ra Bruno cũng đã có một kỷ niệm đẹp trước khi chết. Cánh cửa phòng ăn bật mở và chủ nhà hàng xuất hiện cùng Timmona Portella và Marcantonio. Thân hình đồ sộ của Portella cùng bộ vét cắt rất khéo gần như che khuất Marcantonio phía sau hắn. Bruno nhào vào vòng tay Timmona và hôn lên hai má hắn. Astorre vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy vẻ yêu thương trìu mến trên mặt Timmona.
Trái ngược với cảnh đó, Astorre và Marcantonio chỉ bắt tay, rồi Astorre nói
– Mọi việc ổn cả, Marc ạ…
Marcantonio quay lại và ngồi xuống. Hai chân gã run run phần bởi đã an toàn, phần bởi sự xuất hiện của Astorre. Cái gã thanh niên chỉ thích hát hò, lúc nào cũng cuồng nhiệt, vui vẻ và vô tư bây giờ đã lộ nguyên hình là Thiên Sứ của Thần Chết. Dáng vẻ đầy quyền lực của nó có ảnh hưởng lớn tới nỗi sợ hãi và vẻ hùng hổ bề ngoài của Portella.
Astorre ngồi xuống bên cạnh Marcantonio và vỗ lên đầu gối gã. Chàng đang nở một nụ cười nhã nhặn như thể đây chỉ là một bữa ăn thân mật.
– Anh ổn chứ? Chàng hỏi.
Marcantonio nhìn thẳng vào đôi mắt Astorre. Trước đây gã chưa từng thấy chúng thản nhiên và tàn nhẫn như vậy. Gã nhìn Bruno, kẻ lẽ ra đã phải trả giá cho cuộc sống của gã. Hắn đang tiết lộ với anh mình những điều gì đó về sở thú ở công viên Trung Tâm.
Astorre nói với Portella,
– Chúng ta có những vấn đề cần bàn đấy.
– OK, Portella nói. Bruno, xéo khỏi đây ngay. Xe đang đợi ngoài kia. Tôi sẽ nói chuyện với chú khi về nhà.
Monza bước vào phòng ăn.
– Đưa Marcantonio về nhà anh ấy, Astorre bảo gã. Marc, chờ tôi ở nhà nhé.
Lúc này chỉ còn lại Portella và Astorre ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn. Portella mở một chai vang rồi rót đầy ly của mình. Hắn chẳng thèm mời Astorre.
Astorre thọc tay vào túi lấy ra chiếc phong bì màu nâu, rồi dốc tất cả những gì chứa bên trong lên mặt bàn. Ở đó có tờ văn bản mật chàng đã ký cho Cilke, trong đó chàng được yêu cầu phản lại Portella.
Có cả một máy cát xét nhỏ đã lắp băng.
Portella nhìn tờ văn bản có biểu tượng FBI và cắm cúi đọc. Rồi hắn thảy nó sang một bên.
– Đây có thể là giấy tờ giả, hắn nói. Và tại sao cậu lại có thể ngớ ngẩn ký vào đó nhỉ?
Astorre nhấn nút máy cát xét thay cho câu trả lời. Có thể nghe thấy giọng Cilke đang yêu cầu Astorre cộng tác để bẫy Portella. Portella lắng nghe và cố chế ngự sự ngạc nhiên cùng cơn giận dữ, nhưng mặt hắn đỏ bừng còn đôi môi hắn mấp máy thành những tiếng chửi rủa không lời. Astorre tắt máy.
– Tôi biết ngài làm việc với Cilke hơn sáu năm qua. Ngài đã giúp ông ta quét sạch các Đại gia ở New York. Vì việc đó ngài đã được ông ta miễn tội. Nhưng ông ta vẫn không ngừng theo dõi ngài, kể cả lúc này. Những kẻ đeo phù hiệu đó có bao giờ thoả mãn đâu. Ngài đã vì ông ta mà phá vỡ luật im lặng. Ngài đã làm cho ông ta nổi tiếng, và bây giờ ông ta lại muốn tống ngài vào tù. Ông ta không cần đến ngài nữa. Ông ta sẽ tóm ngài ngay sau khi ngài mua các nhà băng. Điều đó giải thích tại sao tôi không thể làm hợp đồng.
Portella lặng thinh rồi sau đó có vẻ như đi đến một quyết định.
– Nếu ta giải quyết vấn đề thằng Cilke thì cậu sẽ tính sao với các nhà băng?
Astorre bỏ mọi thứ vào lại cặp hồ sơ của mình.
– Bán ngay, chàng nói. Trừ tôi ra – tôi giữ năm phần trăm cổ phần.
Portella dường như đã vượt qua cú sốc.
– OK, hắn nói. Chúng ta sẽ tính toán việc này sau khi vấn đề được giải quyết.
Họ bắt tay về việc đó rồi Portella rút trước. Astorre nhận thấy chàng đang đói cồn cào. Chàng gọi một miếng bít tết cho bữa trưa. Thế là đã giải quyết được một việc, chàng nghĩ.
Nửa đêm Portella họp bàn với Marriano Rubio, Luzio Tulippa và Michael Grazziella tại lãnh sự quá Peru.
Rubio là một chủ nhà tuyệt hảo của Tulippa và Grazziella. Y đưa khách đi xem hát, nhạc kịch và ba lê, cung cấp những người đàn bàn trẻ đẹp và kín đáo đã đạt được một số tiếng tăm trong mỹ thuật và âm nhạc. Tulippa và Grazziella đang có một thời gian lưu trú tuyệt vời và tỏ ra miễn cưỡng khi phải quay về với môi trường tự nhiên của mình.
Đêm nay viên tổng lãnh sự đã vượt quá khả năng của mình về lòng mến khách. Trên bàn bày la liệt những món ăn hấp dẫn, rồi trái cây, phó mát, những viên kẹo bòn bon sô cô la, bên mỗi chiếc ghế có một chai Chamgagne đặt trong thùng đá. Những chiếc bánh gatô xinh xắn đặt trên những thanh kẹo bông tao nhã. Một bình cà phê cỡ lớn, và những hộp xì gà Havana được rải bừa bãi khắp mặt bàn.
Rubio khai mạc buổi họp bằng một câu hỏi dành cho Portella
– Nào có chuyện gì quan trọng đến nỗi chúng tôi phải huỷ bỏ các cuộc hẹn để ngồi đây thế hả? Bất chấp vẻ lịch sự của y, trong giọng nói vẫn toát lên cách cư xử hạ cố và điều đó làm Portella tức giận. Hắn biết rằng hắn sẽ trở nên nhỏ bé trong con mắt các chiến hữu của hắn khi chúng biết sự cố ý lừa dối Cilke. Hắn kể cho chúng nghe toàn bộ câu chuyện.
Đang ăn viên bòn bon Tulippa lên tiếng
– Ngài muốn nói ngài đã bắt thằng Marcantonio Aprile anh họ nó và ngài đã có một thoả thuận để giải thoát em ngài mà không tham khảo ý kiến của chúng tôi.
Giọng y đầy vẻ coi thường.
– Tôi không thể để em tôi chết được, Portella nói. Ngoài ra, nếu tôi không đạt được một thoả thuận thì chúng ta đã rơi vào bẫy của thằng Cilke rồi.
– Đúng thế, Tulippa nói. Nhưng ngài không có quyền quyết định.
– Ra thế, Portella nói. Vậy thì ai?
– Tất cả chúng ta. Tulippa sủa. Chúng tôi là bạn hàng của ngài.
Portella nhìn y và tự hỏi cái gì đã cản hắn không giết cái đồ chó đẻ thớ lợ này. Nhưng rồi hắn nhớ tới năm mươi cái mũ Panama bay vèo lên không trung.
Ngài tổng lãnh sự dường như đã đọc được ý nghĩ của hắn. Y nói giọng xoa dịu
– Tất cả chúng ta đến đây từ những nền văn hoá khác nhau và có những nguyên tắc khác nhau. Chúng ta phải tự thích nghi với nhau thôi. Ngài Timmona là một người Mỹ, một người đa cảm.
– Em hắn chỉ là một cục cứt, Tulippa nói.
Rubio nhứ ngón tay ra hiệu cho Tulippa.
– Inzio, hãy thôi gây chuyện đi. Chúng ta ai cũng có quyền quyết định những vấn đề riêng tư của mình.
Grazziella nhếch mép cười thích thú.
– Đúng thế. Ngài Inzio chưa bao giờ thổ lộ với chúng tôi về những phòng thí nghiệm bí mật của ngài. Khát vọng của ngài là sở hữu những vũ khí cá nhân của chính ngài. Đấy là một ý tưởng ngu xuẩn. Ngài có nghĩ rằng chính phủ sẽ khoanh tay ngồi nhìn một mối đe doạ như vậy không? Người ta sẽ thay đổi tất cả các đạo luật đang bảo vệ chúng ta và cho phép chúng ta làm ăn phát đạt.
Tulippa cười. Y khoái cuộc họp mặt này.
– Tôi là một người yêu nước. Tôi muốn Nam Mỹ có khả năng tự vệ như Israel, Ấn Độ và Irắc.
Rubio mỉm cười lịch sự với Tulippa.
– Thế mà tôi không biết ngài là một nhà ái quốc.
Portella rầu rĩ
– Tôi đang có một vấn đề nghiêm trọng. Tôi những tưởng Cilke là bạn. Tôi đã đầu tư rất nhiều tiền vào nó. Và bây giờ nó lại theo dõi tôi và tất cả các ngài.
Grazziella nói thẳng thừng và mạnh mẽ.
– Chúng ta phải từ bỏ toàn bộ dự án thôi. Chúng ta phải tìm giải pháp khác. Hãy quên Kurt Cilke và Astorre Viola đi. Chúng quá nguy hiểm. Chúng ta không được tiếp tục theo đuổi tiến trình có thể huỷ diệt tất cả chúng ta.
– Làm thế sẽ không giải quyết được vấn đề của tôi, Portella nói. Thằng Cilke sẽ tiếp tục truy đuổi tôi.
Tulippa quay sang Grazziella.
– Việc ngài biện minh cho một giải pháp hoà bình như thế thật khác với những gì chúng tôi biết về ngài. Ngài đã giết cảnh sát và các thẩm phán ở Sicily. Ngài ám sát thị trưởng và vợ lão. Ngài và cái cosca Corleone của ngài đã giết lão đại tướng – kẻ được cử đến để tiêu diệt tổ chức của ngài. Thế mà bây giờ ngài lại đề nghị từ bỏ một dự án sẽ đem về cho chúng ta hàng tỷ đô là và bỏ mặc cả người bạn Portella của chúng ta nữa.
– Tôi sẽ loại bỏ thằng Cilke, Portella nói. Các ngài nói sao cũng mặc.
– Đó là một hành động nguy hiểm, ngài tổng lãnh sự lên tiếng. Tụi FBI sẽ sử dụng toàn bộ nguồn lực để tìm cho ra kẻ giết người.
– Tôi đồng ý với Timmona, Tulippa nói. Tôi sẽ điều đến một đội biệt kích, vài tiếng sau chiến dịch chúng sẽ bay đi Nam Mỹ.
Portella nói,
– Tôi biết việc này nguy hiểm chứ, nhưng vẫn phải làm.
– Tôi nhất trí, Tulippa nói. Vì hàng tỷ đô la người ta phải chấp nhận mạo hiểm. Nếu không thì chúng ta kinh doanh làm gì hả?
Rubio bảo Inzio
– Ngài và tôi ít rủi ro nhất vì chúng ta có quy chế ngoại giao. Michael, ngài quay lại Sicily tạm lánh một thời gian. Timmona, ngài sẽ là người phải chịu đựng toàn bộ áp lực của những gì xảy ra sau đó.
– Nếu mọi việc trở nên tồi tệ, Tulippa nói, tôi có thể giúp ngài trốn tránh ở Nam Mỹ.
Portella khoát tay trong một cử chỉ cần được giúp đỡ.
– Tôi đã có cách. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ của các ngài. Michael, ngài đồng ý chứ?
Nét mặt Grazziella vẫn thản nhiên.
– Có, tôi đồng ý, lão nói. Nhưng tôi lo lắng về thằng nhãi Astorre Viola nhiều hơn thằng Kurt Cilke.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.