Luật im lặng

CHƯƠNG 5



Marriano Fubio là kẻ dính dáng đến đủ mọi chuyện, tất cả những chuyện đó lại liên quan đến vàng ròng. Y giữ một vị trí tại Tổng lãnh sự Peru tuy nhiên phần lớn thì giờ y có mặt tại New York. Y còn là đại diện quốc tế của các tập đoàn kinh doanh lớn làm ăn với các nước Mỹ La tinh và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Y là bạn nối khố của Inzio Tulippa, thủ lãnh Cartell matúy quan trọng nhất Colombia.
Rubio may mắn cả trong đời tư cũng như trong kinh doanh. Bốn mươi lăm tuổi vẫn độc thân, y là một kẻ sát gái đáng nể. Lúc nào y cũng chỉ cặp với một nhân tình. Tất cả đám nhân tình đều được hậu đãi mỗi khi bị thay thế bởi một bóng hồng trẻ đẹp hơn. Y đẹp trai, là một kẻ ăn nói có duyên, một vũ công siêu hạng. Y có một hầm rượu lớn và một đầu bếp tuyệt vời loại ba sao.
Cũng giống nhiều người may mắn, Rubio tin vào sự đưa đẩy của định mệnh. Y thích thú đấu trí với những kẻ nguy hiểm. Y cần mạo hiểm để thêm hương vị cho cuộc đời mình. Y dính líu vào việc chuyển giao công nghệ bất hợp pháp cho Trung Quốc, y thiết lập đường dây liên lạc vào loại hiện đại nhất cho các ông trùm ma túy, và y là một kẻ tứ cố vô thân đã mua chuộc các nhà khoa học Hoa Kỳ để họ di cư tới Nam Mỹ. Y cũng quan hệ với cả Timmona Porlella – một kẻ nguy hiểm không kém gì Inzio Tulippa.
Như tất cả những tay máu me cờ bạc, Rubio hãnh diện về quân xì có điểm dưới số không. Y tránh được những hiểm họa pháp lý bởi được miễn trừ về mặt ngoại giao, nhưng y biết có những mối nguy hiểm khác mà y phải dè chừng.
Thu nhập của y cao và y tiêu xài rộng rãi. Y có thể mua bất cứ thứ gì y muốn trên đời, kể cả tình cảm của đàn bà. Y khoái chu cấp cho đám nhân tình cũ. Y là một ông chủ hào phóng và biết trân trọng một cách thông minh danh tiếng của những người phụ thuộc vào y.
Lúc này, tại căn hộ của y – một phần của lãnh sự quán Peru – ở New York, y đang sửa soạn để đi ăn tối cùng Nicole Aprile. Như thường lệ, cuộc hẹn này một phần để bàn công việc, một phần dành cho khoái lạc. Y gặp Nicole tại một bữa tiệc chiêu đãi ở Washington do một trong những thân chủ có uy tín của nàng tổ chức. Ngay từ cái nhìn đầu tiên y đã bị thu hút không những bởi vẻ đẹp không bình thường của nàng, khuôn mặt đài các, cương quyết cùng cặp mắt và cái miệng thông minh, thân hình mảnh mai khêu gợi, mà còn bởi nàng là con gái trùm Mafia Don Raymonde Aprile.
Nàng mê Rubio nhưng chưa đến mức điên dại và y trọng nể nàng vì điều đó. Y ngưỡng mộ nét thông minh lãng mạn ở đàn bà. Y muốn giành được lòng kính trọng của nàng bằng hành động chứ không phải bằng lời nói. Thế là y lập tức ra tay bằng việc đề nghị nàng đại diện cho một trong số những thân chủ của y với một hợp đồng đặc biệt đắt giá. Y nghe đồn rằng nàng làm rất nhiều để hủy bỏ án tử hình và thậm chí đã từng bào chữa cho một số tên sát nhân khét tiếng đã bị két án được hoãn thụ hình. Với y, nàng là người đàn bà hiện đại lý tưởng – xinh đẹp, có nghề nghiệp ngon lành. Ngoại trừ việc có nhu cầu hơi cao về tình dục, nàng có thể trở thành một người bạn tri kỷ dễ chịu nhất trong một năm hoặc gần như thế.
Tất cả những chuyện này xảy ra từ trước cái chết của Trùm Aprile.
Bây giờ, mục đích chính của sự tỏ tình của y là tìm hiểu xem Nicole và hai anh trai của nàng có ủy thác các nhà băng của họ cho Portella và Tulippa hay không. Nếu không, sẽ phải giết Astorre Viola.
Inzio Tulippa đã đợi khá lâu. Hơn mười tháng sau cái chết của Raymonde Aprile y vẫn chưa có thỏa thuận nào với những người thừa kế các nhà băng của ông Trùm. Một lượng tiền lớn đã bị tiêu hết, y đã chi hàng triệu đô cho Timmona Portella để đút lót FBI, cảnh sát New York và để trả công cho anh em nhà Sturzo.
Tulippa không phải là một kẻ buôn bán ma túy đầy quyền lực thông thường. Y xuất thân từ một gia đình danh tiếng và giầu có, thậm chí y còn chơi polo cho đội tuyển Argentina quê hương y. Hiện y sống ở Costa Rica và việc có hộ chiếu ngoại giao Costa Rica cho phép y được hưởng quyền miễn tố ở nước ngoài. Y có các mối quan hệ với các Carten ma túy ở Comlombia, những kẻ trồng ma túy ở Thổ Nhĩ Kỳ và các chuyên gia tinh chế ở Italy. Y thu xếp việc vận chuyển, hối lộ các viên chức từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Y vạch kế hoạch đưa lậu những chuyến hàng lớn vào nước Mỹ. Y cũng là người đã dụ dỗ các nhà khoa học nguyên tử Mỹ tới các nước Mỹ La tinh và chi tiền cho những nghiên cứu của họ. Trong mọi lĩnh vực y là một kẻ khôn ngoan, một giám đốc có năng lực và y đã gom được một sản nghiệp khổng lồ.
Y hung hăng bảo vệ việc buôn bán may túy. May túy là sự cứu rỗi cho tình thần con người, là chỗ dựa cho những kẻ bị đọa đày đến tuyệt vọng bởi nghèo khổ và bệnh hoạn về tinh thần. Chúng là niềm an ủi cho người tương tư, cho những tâm hồn lạc lối trong cái thế giới nghèo nàn về tinh thần của chúng ta.
Xét cho cùng, người ta phải làm gì nếu không còn tin Chúa, xã hội hay chân giá trị của mình? May túy giúp con người được sống trong vương quốc của ước mơ và hy vọng. Tất cả những gì cần đến là điều độ. Rốt cuộc thì ma túy có giết chết nhiều người như rượu, thuốc lá, nghèo đói và tuyệt vọng hay không? Câu trả lời là không. Do đó, trên nền tảng đạo đức, Tulippa hoàn toàn yên tâm.
Inzio tulippa có một bí danh lừng lẫy khắp toàn cầu – “Kẻ chủng ngừa”. Các nhà công nghiệp và đầu tư ngoại quốc có những tài sản khổng lồ ở Nam Mỹ – dù đó là các mỏ dầu, các nhà máy sản xuất ô tô, hay các đồn điền đều phải cử các quản trị viên cao cấp đến đó. Nhiều người trong số họ đến từ Hoa Kỳ. Tại đây vấn đề nan giải nhất của họ là nạn bắt cóc đòi hàng triệu đô la tiền chuộc.
Inzio Tulippa đứng đầu một công ty bảo hiểm chuyên về bắt cóc cho các quản trị viên, hàng năm y đến Mỹ để ký hợp đồng với các tổ hợp này. Y làm thế không chỉ vì tiền mà còn bởi y cần các nguồn cung cấp khoa học và công nghệ của họ. Tóm lại, y trình diễn một dịch vụ tiêm phòng. Việc này đối với y thật quan trọng.
Nguy hiểm hơn, y xem công tác bài trừ ma túy trên phạm vi toàn cầu là một cuộc thánh chiến chống lại chính y, và y ra sức bảo vệ đế chế của mình. Y có những tham vọng nực cười. Y muốn có vũ khí hạt nhân và biến nó thành áp lực tinh thần trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Y đâu cần phải sử dụng, trừ phi đó là phương sách cuối cùng. Nhưng đây sẽ là một vũ khí thương lượng hữu hiệu. Một khát vọng xem ra khôi hài với tất cả mọi người, trừ đại diện FBI ở New York, Kurt Cilke.
Đã có lần Kurt Cilke được cử đi học tại trường chống khủng bố của FBI. Trong thời gian học tập ông đã được tiếp cận phần lớn các tài liệu tuyệt mật và cả những kịch bản về khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử của bọn khủng bố đến từ những nước nhỏ. Tài liệu nói rõ quốc gia nào có vũ khí hạt nhân. Với mọi người thì đó là Nga, Pháp, Anh, có thể cả Ấn Độ và Pakistan. Israel được xem là có khả năng hạt nhân. Kurt say sưa đọc những kịch bản đề cập đến việc Israel sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân như thế nào nếu khối A rập ở thế áp đảo.
Với Hoa Kỳ, có hai phương án giải quyết vấn đề. Phương án thứ nhất, nếu Israel bị tấn công, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ trước khi họ buộc phải sử dụng vũ khí nguyên tử. Còn trường hợp xấu nhất, nếu Israel không thể trụ vững thì Hoa Kỳ sẽ phải xóa sạch khả năng hạt nhân của nó.
Anh và Pháp được xem là không có vấn đề, họ không thể mạo hiểm với chiến tranh hạt nhân. Ấn Độ không có tham vọng. Còn Pakistan có thể bị xóa sổ nhanh chóng. Trung Quốc không phải là mối đe dọa. Họ không có khả năng công nghiệp trong tương lai gần.
Mối nguy hiểm lớn hơn đến từ các nước nhỏ như Iraq, Iran và Libya, nơi có các nhà lãnh đạo liều lĩnh, hoặc kịch bản cho là như vậy. Giải pháp ở đây hoàn toàn rõ ràng: Các nước này sẽ bị hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân.
Song nguy hiểm lớn nhất trong tương lai gần lại là việc các tổ chức khủng bố được các thế lực bên ngoài hậu thuẫn và bí mật tài trợ sẽ đưa lậu vũ khí hạt nhân vào Hoa Kỳ và cho nổ ở những thành phố lớn như Washington DC hay New York. Trong trường hợp này giải pháp được đưa ra là thành lập lực lượng phản ứng sử dụng công tác phản gián và sau đó là những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ nhất chống lại quân khủng bố cũng như bất kỳ ai đứng sau lưng chúng. Việc này đòi hỏi những cơ sở pháp lý đặc biệt quy định quyền của các công dân Mỹ. Kịch bản cũng thừa nhận không thể có được những cơ sở pháp lý như vậy cho đến khi một kẻ nào đó thành công trong việc nổ bom tại thủ đô nước Mỹ. Chỉ khi đó các thủ tục pháp lý mới nhanh chóng được thông qua. Còn từ nay tới đó chỉ còn biết trông vào số mệnh.
Có rất it kịch bản mô tả việc bọn tội phạm chế tạo vũ khí hạt nhân. Mảng này bị xem nhẹ trên cơ sở cho rằng khả năng kỹ thuật, việc thu mua nguyên liệu và quá nhiều người liên quan sẽ không tránh khỏi bại lộ. Đây chỉ là giả tưởng, Kurt nghĩ bụng. Chỉ là suy đoán thôi.
Nhưng bây giờ, sau nhiều năm, Cilke nhân thấy nó đang xảy ra. Tulippa muốn có một trái bom hạt nhân cỡ nhỏ. Y cám dỗ các nhà khoa học Hoa Kỳ tới Nam Mỹ và xây cho họ những phòng thí nghiệm, chu cấp tiền bạc cho những nghiên cứu của họ. Và cũng chính Tulippa là kẻ muốn tiếp cận các nhà băng của Trùm Aprile nhằm thiếp lập một quỹ chiến tranh cả tỷ đôla để mua nguyên vật liệu – tất cả đã bị Cilke phát hiện ra trong quá trình điều tra của ông.
Ông sẽ thảo luận vấn đề này với giám đốc trong chuyến công tác tới đến tổng hành dinh của FBI ở Washington. Nhưng ông không tin người ta có thể giải quyết được vấn đề. Những kẻ như Inzia Tulippa đời nào chịu bỏ cuộc.
Inzio Tulippa đến Hoa Kỳ để gặp Timmona Portella và theo đuổi việc giành giật các nhà băng của Trùm Aprile. Cùng lúc đó thủ lĩnh của băng Corleone ở Sicily, Michael Grazziella, cũng đến New York để cùng Tulippa và Portella soạn thảo kế hoạch chi tiết về việc phân phối ma túy trên toàn thế giới. Chúng đến bằng những cách thức rất khác nhau.
Tulippa đáp xuống New York bằng máy bay riêng. Cùng đi còn có năm mươi thuộc hạ và vệ sĩ. Bọn này mặc cùng một kiểu đồng phục: comple trắng, sơ mi xanh da trời, cà vạt hồng, mũ Panama (1) mềm màu vàng. Trông chúng cứ như những thành viên của một ban nhạc Rhumba Nam Mỹ nào đó. Tất cả đều mang hộ chiếu Costa Rica, đương nhiên Tulippa hưởng quyền bất khả xâm phạm của ngoại giao đoàn.
Tulippa cùng người của y nghỉ tại một khách sạn nhỏ của tổng lãnh sự quán Peru. Tulippa đi đứng đường hoàng chứ không lấm lét như một kẻ buôn bán may túy. Dù sao y vẫn là “kẻ chủng ngừa” và đại diện của các công ty Mỹ tranh nhau làm cho y được thoải mái trong suốt thời gian lưu lại. Y đến dự phiên khai mạc của nhà hát Broadway, Lincoln Center Ballet, Metropolitan Opera, và các buổi hòa nhạc của các nghệ sĩ Mỹ La tinh nổi tiếng. Y xuất hiện cả trên chương trình đối ngoại với tư cách là chủ tịch Liên đoàn công nhân nông nghiệp Nam Mỹ và y dùng các diễn đàn để bảo vệ việc sử dụng ma túy. Một trong những cuộc đối thoại của y – với Charlie Rose trên đài truyền hình PBS – đã trở thành nổi tiếng.
Tulippa cho rằng Hoa Kỳ luôn tỏ thái độ chống lại việc sử dụng côcain, heroin và cần sa trên toàn thế giới là một biểu hiện ô nhục của chủ nghĩa thực dân. Những người lao động Nam Mỹ tồn tại được là nhờ sản xuất ma túy. Ai có thể đổi lỗi cho một người mà cái nghèo đã len vào cả những giấc mơ, buộc họ phải sử dụng ma túy để có được vài giờ thư thái? Đó là một phán xử vô nhân đạo. Thế còn thuốc lá và rượu thì sao? Chúng gây thiệt hại nhiều hơn ấy chứ.
Hôm đó, năm mươi thuộc hạ của y cũng có mặt tại phòng quay. Mỹ Panama để trong lòng, chúng vỗ tay tán thưởng rầm rầm. Khi Charlie Rose hỏi về những thiệt hại mà ma túy gây ra, Tulippa đã tỏ ra đặc biệt chân thành. Tổ chức của y đã rót một lượng tiền lớn vào việc nghiên cứu điều chế để ma túy không còn có hại. Tóm lại, chúng sẽ là những loại thuốc tân dược bình thường. Chương trình sẽ được điều hành bởi các bác sĩ danh tiếng chứ không phải những con tốt của Hiệp hội y tế Mỹ – những kẻ chống ma túy một cách mù quáng. Không, ma túy chỉ có thể là niềm hạnh phúc lớn tiếp theo của nhân loại. Năm mươi chiếc mũ Panama màu vàng nhất loạt bay vèo lên không trung.
Cùng thời gian đó thủ lĩnh của cosca Corleone, Michael Grazziella, vào Hoa Kỳ bằng một cách hoàn toàn khác. Lão đến kín đáo, chỉ có hai vệ sỹ. Lão gầy khẳng khiu, đầu lão giống đầu thần Faun(2) và một vết sẹo do dao gây ra vắt qua miệng. Lão đi đứng phải chống gậy vì một viên đạn đã tiện gãy chân lão hồi lão còn là một chàng picciôtto Palermo. Lão nổi tiếng về những mưu đồ xảo trá – và người ta nói chính lão đã vạch kế hoạch giết hại hai thẩm phán chống Mafia vĩ đại nhất Sicily.
Grazziella ở nhà Portella như khách của hắn. Lão chẳng hề băn khoăn về sự an toàn của chính mình vì toàn bộ việc kinh doanh ma túy của Portella phụ thuộc vào lão.
Cuộc họp được ấn định nhằm vạch ra một chiến lược kiểm soát các nhà băng của Aprile. Việc này có tầm quan trọng đặc biệt vì nó cho phép rửa hàng tỷ đôla từ buôn ma túy đồng thời giúp sức tranh giành quyền lực trong giới tài chính New York. Về phía Inzion Tulippa, không những y rửa được tiền mà còn tài trợ được cho kế hoạch phát triển kho vũ khí hạt nhân của y. Nó sẽ làm cho vai trò “Kẻ chủng ngừa” của y vững chắc hơn.
Cả bọn gặp nhau tại lãnh sự quán Peru, một địa điểm an toàn, thêm vào đó là tấm bình phong miễn trừ ngoại giao. Ngài tổng lãnh sự Marriano Rubio là một chủ nhà hào phóng.
Tụ tập quanh một chiếc bàn nhỏ hình oval, chúng có một cuộc cãi vã khá thú vị.
Grazziella trông như một anh nhà đòn trong bộ comple đen bóng láng, sơ mi trắng, cà vạt đen vì lão đang để tang mẹ. Mẹ lão chết mới được sáu tháng. Giọng lão thấp, buồn, hơi rè, nhưng hiểu được. Lão có vẻ dè dặt và lịch sự nhưng thực tế chính lão là người phải chịu trách nhiệm về việc giết hại một trăm nhân viên thi hành luật pháp ở Sicily.
Timmona Portella, duy chỉ có hắn tiếng Anh mới là tiếng mẹ đẻ, nói oang oang như thể cả bọn kia bị điếc. Hắn mặc bộ comple xám, áo sơ mi màu chanh, cà vạt lụa xanh bóng láng. Chiếc áo khoác cắt rất khéo lẽ ra đã giấu được cái bụng ngoại cỡ nếu không bị cởi khuy để khoe sợi dây đeo quần màu thanh thiên.
Inzio Tulippa nom như một người Nam Mỹ điển hình với sơ mi lụa trắng rộng thùng thình và chiếc khăn màu hồng điều trên cổ. Một cách cung kính y cầm chiếc mũ Panama vàng trên tay. Y nói một thứ tiếng Anh nhấn giọng du dương, và giọng y quyến rũ như giọng họa mi. Nhưng hôm nay trên mặt y lộ rõ vẻ hằn học, rõ là y không mấy hài lòng với cái thế giới này.
Marriano Rubio là kẻ duy nhất có vẻ hài lòng. Thái độ niềm nở của y làm tất cả dễ chịu. Giọng y được rèn luyện tốt theo phong cách của người Anh và y ăn mặc theo một kiểu mà y gọi là “en pantoufle”: Pijama bằng lụa xanh, áo choàng xanh đậm, đôi dép mềm bên trong lót lông màu trắng. Rốt cuộc thì đây là nhà y và y có thể thư giãn chứ.
Tulippa mở đầu. Y nói huỵch toẹt với Portella với một vẻ lịch sự chết người.
– Bạn Timmona thân mến của tôi, y nói. Tôi đã chi đậm cho việc loại trừ Trùm Aprile thế mà chúng ta vẫn chưa nắm được các nhà băng. Một năm chờ đợi rồi còn gì.
Ngài tổng lãnh sự giọng trơn tru
– Inzio quý mến, y nói. Tôi đã cố mua lại các nhà băng. Portella cũng cố mua. Nhưng chúng tôi gặp một vật cản không lường trước. Đó là cái thằng Astorre Viola, cháu lão Trùm. Nó được giao quyền kiểm soát và nó không bán.
– Thế ư? Inzio nói. Tại sao nó vẫn sống hả?
Portella cười hềnh hệch.
– Vì giết nó đâu có dễ, hắn nói. Tôi đã cử một đội bốn đứa trông nom nhà nó và chúng đều biến mất. Lúc này tôi cũng đếch biết nó ở chỗ chó nào, mà cái thằng này đi đến đâu cũng có một đám vệ sĩ đi theo nữa chứ.
– Chẳng có thằng nào khó giết như thế đâu, Tulippa nói, giọng y trầm bổng quyến rũ như đang ngân nga một bài thơ trữ tình.
Grazziella lúc này mới lên tiếng.
– Chúng tôi biết thằng Astorre ở Sicily nhiều năm trước. Nó là một thằng may mắn, mà nó cũng rất có năng lực. Ở Sicily chúng tôi đã bắn nó và nghĩ rằng nó tiêu rồi. Nếu phải làm lần nữa, chúng tôi phải được bảo đảm. Thằng này nguy hiểm đấy.
Tulippa nói với Portella,
– Ngài nói ngài mua được một thằng FBI cơ mà? Sử dụng nó đi chứ, lạy chúa.
– Nó chẳng dễ bị khuất phục đâu, Portella nói. FBI cao tay hơn NYPD. Chúng chẳng làm ba cái vụ đánh đấm lộ liễu đâu.
– OK, Tulippa nói. Vậy thì mình chộp một đứa trong đám con lão Trùm và dùng nó để mặc cả với thằng Astorre. Marriano, ngài biết con gái lão, y nháy mắt. Ngài dụ được con nhỏ mà.
Rubio không khoái đề nghị này. Y rít xì gà rồi giận dữ nói không đếm xỉa gì đến phép lịch sự.
– Không được. Y dừng lại một lát. Tôi thích cô ta. Tôi sẽ không làm như vậy với cô ta. Tôi cũng phản đối bất kỳ ai trong các ngài định làm chuyện này.
Những kẻ có mặt đều nhướng mày. Về quyền lực thực tế, ngài tổng lãnh sự ngồi ở chiếu dưới so với chúng. Y nhận ra phản ứng của chúng nên đành mỉm cười nhã nhặn.
– Tôi biết tôi có yếu điểm này. Tôi đang yêu mà. Chiều tôi một tý chứ. Tôi có một chỗ dựa chính trị vững chắc. Inzio, tôi biết bắt cóc là sở trường của ngài, nhưng không thể làm chuyện đó ở nước Mỹ. Đặc biệt là với phụ nữ. Bây giờ mà ngài tóm một trong hai thằng anh rồi tiến hành thương thảo ngay với thằng Astorre thì ngài có cơ hội đấy.
– Không được đụng đến thằng Valerious, Portella nói. Nó ở bên tình báo quân đội và có một lũ bạn là CIA. Chúng tôi không muốn dọn đống cứt đó.
– Thế thì phải là thằng Marcantonio, ngài tổng lãnh sự chống chế. Tôi có thể thỏa thuận với thằng Astorre.
– Hãy đưa ra một bảng báo giá lớn hơn cho các nhà băng, Grazziella nhẹ nhàng lên tiếng. Tránh dùng bạo lực. Cứ tin tôi: Tôi đã từng trải những chuyện như vậy rồi. Tôi đã từng sử dụng súng thay tiền, và tôi luôn luôn phải trả giá cao hơn.
Cả bọn ngạc nhiên nhìn lão. Grazziella vốn khét tiếng về bạo lực.
– Michael, ngài tổng lãnh sự nói, ngài đang nói đến hàng tỷ đôla đấy. Và thằng Astorre vẫn chẳng chịu đâu.
Grazziella nhún vai.
– Nếu chúng ta phải ra tay thì cứ làm đi. Nhưng cần rất thận trọng. Nếu trong lúc đàm phán chúng ta điều được nó ra khỏi nhà thì khử nó không còn là vấn đề.
Tulippa ngoác miệng cười.
– Đó là cái tôi thích nghe. Marriano này, y nói, đừng có dính vào yêu đương nữa. Đấy là một thói xấu rất nguy hại.
Cuối cùng Marriano Rubio cũng thuyết phục được Nicole và các anh nàng ngồi lại nghiệp đoàn của y để bàn về việc bán các nhà băng. Tất nhiên, Astorre Viola cũng phải có mặt mặc dù Nicole không thể bảo đảm điều đó được.
Trước cuộc họp Astorre dặn dò Nicole và các anh nàng phải nói gì và phải xử sự chính xác ra sao. Họ hiểu sách lược của chàng: Cứ để nghiệp đoàn nghĩ rằng chỉ có mình chàng là đối thủ của chúng.
Cuộc họp được tiến hành tại phòng họp của lãnh sự quán Peru. Ở đó không có người phục vụ ăn uống, nhưng một bữa ăn tự phục vụ đã được chuẩn bị và đích thân Rubio rót rượu mời họ. Vì phải dành thời gian cho những bất đồng nên cuộc họp được ấn định vào mười giờ đêm.
Rubio giới thiệu và dẫn dắt cuộc họp. Y trao cho Nicole cặp hồ sơ.
– Đây là đề nghị chi tiết. Nhưng có thể vắn tắt thế này, giá chúng tôi đưa ra cao hơn giá thị trường năm mươi phần trăm. Mặc dù quyền kiểm soát sẽ hoàn toàn thuộc về chúng tôi, nhưng tiền lãi nhà Aprile sẽ nhận là mười phần trăm lợi nhuận của chúng tôi trong hơn hai mươi năm tới. Tất cả các bạn đều giàu có và hưởng thụ cảnh an nhàn không phải biết đến những căng thẳng khủng khiếp mà loại hình kinh doanh này đòi hỏi.
Họ chờ đợi trong khi Nicole đọc lướt qua các giấy tờ. Cuối cùng nàng nhìn lên và nói
– Ấn tượng đấy, nhưmg hãy cho tôi biết tại sao lại có một đề nghị hào phóng như thế này?
Rubio trìu mến mỉm cười với nàng.
– Hợp tác mà, y nói. Mọi chuyện làm ăn bây giờ đều phải hợp tác, như máy tính và hàng không, sách vở và xuất bản, âm nhạc và ma túy, thể thao và truyền thông. Tất cả đều có hợp tác. Với các nhà băng của Aprile, chúng tôi sẽ có quan hệ hợp tác trong giới tài chính quốc tế. Chúng tôi sẽ kiểm soát việc xây dựng các thành phố, việc bầu cử của chính phủ. Nghiệp đoàn này sẽ trải khắp toàn cầu và chúng tôi cần đến các nhà băng của các bạn, do đó đề nghị của chúng tôi là hào phóng.
Nicole quay sang các thành viên còn lại của nghiệp đoàn, tất cả các quý ngài đều là đối tác bình đẳng đấy chứ?
Tulippa hoàn toàn bị lôi cuốn bởi diện mạo xinh đẹp đượm buồn cùng giọng nói nghiêm nghị của nàng, nên y cố tỏ ra quyến rũ khi trả lời nàng.
– Chúng tôi đều bình đẳng trước pháp luật trong vụ mua bán này, nhưng cho phép tôi bảo đảm với các bạn rằng được liên kết với cái tên Aprile là cả một vinh dự. Không ai ngưỡng mộ cha các bạn nhiều hơn chúng tôi.
Valerious, mặt lạnh như tiền, thẳng thừng phản đối Tulippa.
– Đừng hiểu nhầm tôi, tôi muốn bán thật. Nhưng tôi thích bán đứt hơn, không cần phải phần trăm gì cả. Ở cấp độ cá nhân, tôi không muốn dây dưa với việc này.
– Nhưng ngài vẫn muốn bán chứ? Tulippa hỏi.
– Đúng thế, Valerious nói. Tôi muốn phủi tay khỏi việc này.
Portella định nói nhưng Rubio ngắt lời y.
– Thế còn ngài, thưa ngài Marcantonio, y nói. Ngài nghĩ sao về đề nghị của chúng tôi? Nó có hấp dẫn với ngài không?
Marcantonio trả lời với giọng muốn bỏ cuộc.
– Tôi cũng như Val. Cứ bán đứt chả cần phần trăm gì sất rồi chúng ta sẽ chào tạm biệt và chúc nhau may mắn.
– Tốt. Chúng ta có thể làm hợp đồng theo hướng đó, Rubio nói.
Nicole lạnh lùng lên tiếng,
– Nhưng thế thì các vị phải tăng phụ phí đấy. Các vị có giải quyết được không?
– Không thành vấn đề, Tulippa nói và tặng nàng một nụ cười ngưỡng mộ.
Grazziella, mặt lộ vẻ lo ngại nhưng giọng nói vẫn lịch sự hỏi
– Thế còn người bạn Astorre Viola quý mến của chúng ta thì sao? Cậu ấy có đồng ý không?
Astorre nở nụ cười khó hiểu
– Các ngài biết tôi đến đây với tư cách một chủ nhà băng. Ngài Aprile đã bắt tôi hứa không được bán. Tôi không muốn đi ngược lại với gia đình tôi, nhưng tôi phải nói không. Và tôi kiểm soát đa số cổ phần.
– Nhưng các con của ông Trùm cũng có quyền lợi của họ, ngài tổng lãnh sự nói. Họ có thể kiện ra toà đấy.
Astorre cười.
Nicole nói chắc nịch
– Chúng tôi sẽ không làm thế
Valerious cười chua chát, còn Marcantonio dường như đã tìm thấy ý tưởng vui.
Portella cằn nhằn
– Quỷ tha ma bắt và nhổm đít định chuồn.
Astorre nói giọng hòa giải
– Xin các ngài kiên nhẫn. Tôi có thể sẽ buồn vì phải làm một chủ ngân hàng. Chúng ta có thể gặp lại sau vài tháng nữa.
– Được thôi, Rubio nói. Nhưng chúng tôi không thể ôm cả đống tiền trong thời gian dài như thế. Các bạn có thể sẽ nhận giá thấp hơn đấy.
Không có cái bắt tay nào khi họ chia tay.
Sau khi anh em nhà Aprile và Astorre ra về, Michael Grazziella nói với các đồng sự của lão
– Nó chỉ câu giờ thôi. Nó không đời nào bán đâu.
Tulippa thở dài
– Quả là một thằng hấp dẫn. Chúng ta có thể trở thành bạn tốt đấy. Có lẽ tôi phải mời nó tới đồn điền của tôi ở Costa Rica. Tôi sẽ cho nó thấy quãng đời đẹp nhất của nó.
Cả bọn phá lên cười. Portella nói một cách thô lỗ,
– Nó không đi hưởng tuần trăng mật với ngài đâu, Inzio ạ. Tôi phải quan tâm tới nó tại đây thôi.
– Tôi hy vọng kết quả sẽ tốt hơn trước, Tulippa nói.
– Tôi đã đánh giá thấp thằng này, Portella phân bua. Tôi còn nói gì được nào? Một thằng chỉ biết hát tại các đám cưới chắc? Tôi đã làm vụ lão Trùm Aprile ngon lành. Có thấy ai phàn nàn đâu.
Ngài tổng lãnh sự, khuôn mặt đẹp trai rạng rỡ vì cảm kích nói
– Một việc tuyệt vời, Timmona ạ. Chúng tôi luôn luôn tin tưởng ngài. Nhưng cái vụ mới này phải được làm càng sớm càng tốt.
Rời khỏi cuộc họp, gia đình Aprile và Astorre đi ăn khuya tại nhà hàng Partinico, nơi có phòng ăn riêng và do một người bạn cũ của ông Trùm sở hữu.
– Tôi nghĩ các anh chị làm rất tốt, Astorre nói với họ. Các anh chị đã làm chúng tin rằng các anh các chị chống lại tôi.
– Chúng tôi chống cậu thật đấy. Val nói.
– Tại sao chúng ta phải chơi trò chơi này? Nicole nói. Tôi không thích chút nào.
– Những gã này có thể dích dáng đến cái chết của ông già, Astorre nói. Tôi không muốn chúng làm hại các anh chị.
– Chú tin chú có thể đỡ được tất cả những gì chúng ném vào chú à? Marcantonio hỏi.
– Không, không. Astorre phản đối. Nhưng tôi có thể ẩn náu mà không ảnh hưởng gì tới cuộc sống. Quỷ ạ, tôi sẽ đi Dakotas và bọn chúng tìm thế quái nào được tôi. Cái cười của chàng khoan dung và thành tâm đến mức chàng xem ra có thể xỏ mũi bất kỳ ai trừ các con của ông Trùm Aprile. Nào, chàng nói, hãy cho tôi biết chúng có liên lạc với ai trong các anh chị không?
– Tôi nhận được rất nhiều cú điện thoại của thanh tra Di Benedetto, Valerious nói.
Astorre ngạc nhiên
– Thằng cha này gọi cho anh làm cái chết tiệt gì vậy?
Valerious cười với chàng.
– Khi còn làm bên tình báo bọn này có cái gọi là những cú điện thoại “mày biết gì hả”. Một người nào đó muốn gửi cho chú thông tin hoặc giúp đỡ với một thỏa thuận nào đó. Cái họ thực sự muốn là biết được cuộc điều tra của chú tiến hành ra sao. Vì vậy Di Benedetto gọi cho tôi như một hành động lịch sự để lợi dụng tôi đúng lúc cho công tác điều tra của hắn. Sau đó hắn dò hỏi tôi thông tin về chú. Hắn có vẻ quan tâm nhiều đến chú
– Nịnh đầm quá, Asotrre nói và toét miệng cười. Hẳn là hắn phải nghe tôi hát ở đâu đó rồi.
– Không thể được, Marcantonio nói khô khốc. Di Benedetto cũng gọi cả cho tôi. Hắn nói hắn có một ý tưởng dành cho một loạt chương trình về cớm. Ở phòng quay lúc nào chả có chỗ cho một chương trình như thế nên tôi ra sức khích lệ hắn. Song những thứ hắn gửi cho tôi chỉ là nhảm nhí. Hắn là đứa không nghiêm chỉnh. Hắn chỉ muốn giữ liên lạc với chúng ta thôi.
– Tốt lắm, Astorre nói.
– Astorre, anh muốn chúng nhằm vào anh thay cho chúng tôi à? Nicole nói. Việc đó không quá nguy hiểm sao? Cái lão Grazziella ấy làm tôi sởn gai ốc.
– À, tôi biết về lão, Astorre nói. Lão là người biết điều. Và ngài tổng lãnh sự của chị là một nhà ngoại giao trung thực, y có thể kiểm soát Tulippa. Kẻ duy nhất ngay lúc này tôi lo lắng là Portella. Ông bạn này đủ đần độn để gây ra rắc rối. Chàng nói tất cả những điều này y như thể đó chỉ là những bàn luận làm ăn hàng ngày.
– Nhưng rồi chuyện này còn kéo dài bao lâu? Nicole hỏi.
– Hãy cho tôi vài tháng nữa, Astorre trấn an nàng. Tôi hứa, đến lúc đó tất cả chúng ta sẽ thỏa hiệp được thôi.
Valerious nhìn chàng khinh miệt
– Astorre, chú lúc nào cũng lạc quan. Nếu chú là nhân viên tình báo dưới quyền tôi, tôi sẽ điều chú sang bên bộ binh để làm chú cảnh giác.
Bữa tối không được vui. Nicole tiếp tục tìm hiểu Astorre như thể nàng đang cố gắng nghiên cứu một bí mật nào đó. Valerious đương nhiên không tin tưởng Astorre và Marcantonio còn đang dè dặt. Cuối cùng Astorre nâng ly và vui vẻ nói
– Các anh chị bi quan quá, nhưng tôi chả quan tâm. Chuyện này sẽ buồn cười lắm đây. Ly này là cho ông già.
– Ông Trùm Don Aprile vĩ đại, Nicole chua chát nói.
Astorre mỉm cười với nàng.
– Ừ, cho ông Trùm vĩ đại.
Astorre luôn luôn cưỡi ngựa vào cuối chiều. Nó làm chàng thư giãn và ăn tối ngon miệng. Nếu đang tán tỉnh một cô nàng, chàng sẽ bắt nàng cùng cưỡi ngựa. Nếu cô nàng không biết cưỡi ngựa, chàng sẽ dạy nàng việc đó. Nếu cô nàng không ưa gì ngựa nghẽo, chàng sẽ thôi theo đuổi nàng.
Chàng đã làm một đường mòn đặc biệt để đua ngựa xuyên qua rừng. Chàng tận hưởng tiếng chim hót véo von, tiếng sột soạt của những con thú nhỏ. Nhưng hơn hết, chàng thích mặc đồ đẹp đi cưỡi ngựa. Áo khoác đỏ tươi, giầy ống đi ngựa màu nâu, chiếc roi trên tay chưa bao giờ chàng sử dụng, chiếc mũ đi săn bằng da mềm. Chàng mỉm cười với bóng của chính mình trong gương, tưởng tượng mình là một lãnh chúa Anh thời trung cổ.
Chàng xuống chuồng ngựa. Ở đó chàng nhốt sáu con ngựa, và chàng hài lòng thấy rằng huấn luyện viên Aldo Monza đã chuẩn bị xong một trong những con ngựa đực của mình. Chàng lên yên và cho ngựa chạy nước kiệu lên trên con đường mòn vắt qua rừng. Tăng tốc độ, chàng phi qua một vòm lá đỏ, vàng lộn xộn tạo thành một tấm rèm đăng ten ngăn mặt trời đang lặn. Chỉ có những cánh hoa vàng mảnh dẻ soi sáng con đường. Móng ngựa làm bốc lên mùi lá mục. Chàng nhìn thấy đống phân bón lúa mì và thúc ngựa băng qua, rồi phi lên lối rẽ trên con đường mòn. Đó là một lộ trình khác để đi quanh nhà. Ánh vàng trên đường biến mất.
Chàng ghìm dây cương. Đúng lúc đó hai bóng người xuất hiện phía trước chàng. Chúng mặc quần áo của những người lao động chân tay ở trang trại. Nhưng chúng đeo mặt nạ, ánh kim loại lóe lên trên tay chúng. Astorre vội thúc ngựa và cúi rạp mình xuống. Khu rừng chìm trong ánh sáng và âm thanh của những loạt đạn. Bọn người này đã tiến đến rất gần. Chàng cảm thấy lưng và sườn mình trúng đạn. Con ngựa hoảng sợ phi nước đại điên cuồng trong khi Astorre cố ngồi cho vững. Chàng phi xuống đường mòn và lại thêm hai bóng người xuất hiện. Họ không đeo mặt nạ và không mang vũ khí. Chàng tuột khỏi mình ngựa và ngã vào vòng tay họ, bất tỉnh.
Trong vòng một giờ Kurt Cilke đã nhận được báo cáo của đơn vị giám sát đã cứu Astorre Viola. Cái làm ông thực sự ngạc nhiên là bên dưới lớp quần áo của anh chàng thích trưng diện này là chiếc áo lót chống đạn che phần thân trên bằng chiều dài của chiếc áo khoác cưỡi ngựa. Một gã như Astorre – một người nhập khẩu macaroni, một ca sĩ phòng trà, một kỵ sĩ lập dị lại đi mặc áo giáp làm cái chết tiệt gì cơ chứ? Cú va chạm của những viên đạn chỉ làm gã bất tỉnh, và gã cũng đã ra viện rồi.
Cilke viết một thông báo nhờ điều tra cuộc sống của Astorre Viola từ bé đến giờ. Con người này có thể là chìa khóa để giải quyết mọi vấn đề. Tuy nhiên ông đã biết một điều: Kẻ nào mưu toan sát hại Astorre Viola.
Astorre gặp hai người anh họ tại nhà Valerious. Chàng kể cho họ nghe về cuộc tấn công, về chàng đã bị bắn như thế nào.
– Tôi đã nhờ các anh giúp đỡ, chàng nói. Nhưng các anh đã từ chối và tôi hiểu. Nhưng bây giờ tôi cho rằng các anh phải xem xét lại. Ở đây có một loạt đe dọa nào đó nhằm vào tất cả các anh chị. Tôi nghĩ việc này có thể giải quyết được bằng việc bán các nhà băng. Đó sẽ là một tình huống hai bên đều thắng. Ai cũng có cái mình cần. Hoặc chúng ta cũng có thể chọn tình huống thắng – thua. Chúng ta giữ các nhà băng, đẩy lùi và tiêu diệt kẻ thù, dù chúng có là ai đi nữa. Cuối cùng là tình huống hai bên đều thua mà chúng ta phải hết sức cẩn thận để không rơi vào.
– Dễ ợt, Valerious nói. Bán quách nhà băng. Hai bên đều thắng.
Marcantonio nói
– Chúng ta đâu phải người Sicily, chúng ta không muốn ném đi mọi cái chỉ để trả thù.
– Chúng ta bán nhà băng rồi chúng ta vất bỏ luôn tương lai của mình, Nicole bình tĩnh nói. Marc, một ngày nào đó anh muốn có mạng lưới truyền hình của riêng mình. Val, với những ưu thế lớn lao về chính trị anh có thể trở thành đại sứ hay bộ trưởng quốc phòng.
– Còn Astorre, anh có thể hát với ban nhạc Rolling Stones. Nàng mỉm cười với Astorre. Được thôi, cũng hơi khó tin, nàng nói và đổi giọng. Hãy quên những chuyện đùa đó đi. Việc ba bị giết không là cái gì với anh em mình hay sao? Có phải thưởng công cho lũ sát nhân khong? Tôi nghĩ chúng ta phải giúp Astorre hết khả năng của mình.
– Em có biết em đang nói gì không? Valerious hỏi.
– Biết chứ, Nicole khẽ đáp.
Astorre nhẹ nhàng nói
– Ông già dạy tôi rằng cháu không được đẻ cho người khác áp đặt ý muốn của họ lên cháu, nếu không cuộc sống chẳng còn mảy may giá trị. Anh Val, đó là chiến tranh đấy, đúng không?
– Chiến tranh là một quyết định hai bên đều thua. Nicole nói.
Valerious thể hiện sự khó chịu của mình
– Những người khoan dung muốn nói gì thì nói, chiến tranh là tình huống thắng – thua. Ai khôn ngoan hơn sẽ thắng trong cuộc chiến. Thất bại là một điều khủng khiếp không thể tưởng tượng được.
– Ông già đã có một quá khứ, Astorre nói. Quá khứ đó bây giờ phải được tất cả chúng ta cùng quan tâm. Vì thế một lần nữa tôi yêu cầu các anh chị giúp đỡ. Hãy nhớ rằng, tôi là người dưới sự chỉ đạo của ông, và nhiệm vụ của tôi là bảo vệ gia đình, điều đó có nghĩa là không được bán các nhà băng.
Valerious nói
– Trong vòng một tháng tôi sẽ có thông tin cho chú.
Astorre quay sang Marcantonio
– Thế còn anh, Marc?
Marcantonio đáp
– Tôi sẽ bắt tay vào chương trình đó ngay lập tức. Khoảng hai hay ba tháng là xong.
Astorre nhìn Nicole
– Nicole, chị đã hoàn thành việc phân tích hồ sơ của FBI về ông già chưa?
– Vẫn chưa xong, nàng có vẻ buồn. Chúng ta không thể nhờ Cilke giúp hay sao?
Astorre mỉm cười.
– Cilke là một trong số những kẻ tôi nghi ngờ. Khi nào tôi có đủ thông tin chúng ta mới có thể quyết định phải làm gì.
Trong cả tháng trời Valerious đã tìm ra một vài thông tin vừa bất ngờ vừa đáng buồn. Thông qua các đầu mối CIA của mình gã đã biết sự thật về Inzio Tulippa. Y có những tiếp xúc ở Sicily, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Pakistan, Colombia, và các nước Mỹ La tinh khác. Thậm chí y còn quan hệ với cả gia đình Corleone ở Sicily.
Theo Valerious, chính Tulippa đang tài trợ cho những phòng thí nghiệm nghiên cứu nguyên tử nào đó ở Nam Mỹ. Chính y liều lĩnh mưu toan lập một quỹ khổng lồ ở Hoa Kỳ để mua phương tiện và nguyên liệu. Chính y muốn sở hữu một loại vũ khí khủng khiếp để chống lại chính quyền. Trong tất cả những mưu đồ này Timmona Portella chỉ là tấm bình phong cho Tulippa. Với Astorre, đây là một tin vui.
– Những gì Tulippa hoạch định có thể thực hiện được không? Astorre hỏi.
– Y sẽ thực hiện được, Valerious đáp. Và y được các quan chức chính phủ bảo vệ ở tất cả những nơi y đặt phòng thí nghiệm.
– Cảm ơn anh, Val, Astorre nói. Chàng trìu mến vỗ vai người anh họ.
– Không có gì, Valerious nói. Nhưng đây là tất cả những gì chú nhận được từ tôi đấy.
Marcantonio phải mất sáu tuần để nghiên cứu tiểu sử tóm tắt của Kurt Cilke. Gã đưa cho Astorre một đống hồ sơ tin tức. Astorre giữ lại hai mươi bốn tiếng đồng hồ rồi đem trả.
Chỉ có Nicole là lo lắng cho chàng. Nàng gửi cho chàng bản copy hồ sơ FBI về ông Trùm Aprile, nhưng ở đó có cả một đoạn hoàn toàn để trống. Khi chàng hỏi về điều đó nàng chỉ nói
– Khi tôi nhận nó đã như vậy rồi.
Astorre nghiên cứu các giấy tờ rất kỹ. Đoạn để trống hình như nói về quãng thời gian chàng mới lên hai.
– Thôi được, chàng bảo Nicole, lâu quá rồi nên chẳng quan trọng lắm.
Lúc này Astorre không thể trì hoãn thêm được nữa. Chàng đã có đủ thông tin để bắt đầu cuộc chiến của mình.
Nicole bị Marcantonio Rubio và sự tán tỉnh của y làm cho lóa mắt. Nàng vẫn chưa lấy lại được thăng bằng từ vụ bội tình của Astorre khi nàng còn là một thiếu nữ, khi chàng chọn giải pháp vâng lời cha nàng. Mặc dù đã trải qua vài cuộc tình ngắn ngủi với những người đàn ông đầy quyền lực, nàng vẫn biết đàn ông luôn luôn âm mưu chống lại đàn bà.
Nhưng Rubio dường như là một ngoại lệ. Y không hề nổi nóng với nàng khi lịch làm việc của nàng cản trở các kế hoạch được ở bên nhau của họ. Y hiểu, với nàng công việc là trên hết. Y không xử sự vô lý như nhiều người đàn ông khác, những kẻ cho rằng ghen tuông mới là cơ sở của một tình yêu chân chính.
Rubio là kẻ hào phóng trong khoản quà cáp; quan trọng hơn nàng thấy y là một người thú vị và say sưa nghe y thao thao nói về văn học, về kịch nghệ. Nhưng việc y là một người tình hăng hái, một chuyên gia trong lĩnh vực chăn gối, và bên cạnh đó không làm mất nhiều thì giờ của nàng mới là ưu điểm lớn nhất của y.
Một buổi tối Rubio đưa Nicole đi ăn tại nhà hàng Le Cirque với vài người bạn của y: một tiểu thuyết gia Nam Mỹ nổi tiếng thế giới, kẻ quyến rũ Nicole bằng sự hóm hỉnh và những câu chuyện ma vô lý của mình, một ca sĩ Opera cách tân cứ mỗi lần ăn một món mới lại ngân nga một bản Aria vui vẻ và sau đó ngốn ngấu đồ ăn cứ như sắp phải lên ghế điện, và cuối cùng là một nhà báo chuyên mục bảo thủ, rất có uy tín về các vấn đề quốc tế của tờ New York Times. Tay này rất tự hào được cả những người tự do và bảo thủ ghét như nhau.
Sau bữa tối Rubio đưa Nicole về căn hộ sang trọng của y trong lãnh sự quán Peru. Ở đó, y quần nàng một trận tơi bời. Cả bằng sức, cả bằng những lời thì thầm. Sau đó y bế nàng trần truồng ra khỏi giường và khiêu vũ với nàng trong khi vẫn ngâm thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Nicole có một khoảng thời gian tuyệt vời. Nhất là khi họ cùng im lặng và y rót Champagne cho cả hai rồi thành thật nói,
– Anh yêu em lắm.
Vẻ thành thật còn ngời lên trên nét mặt y. Sao lại có những kẻ mặt dày mày dạn đến thế. Nicole cảm thấy hài lòng. Cha nàng lẽ ra đã phải tự hào về nàng. Nàng đã hành động như một Mafioso thực thụ.
Là người đứng đầu cơ quan FBI New York, Kurt Cilke có nhiều vụ án quan trọng hơnvụ giết Trùm Raymonde Aprile. Vụ thứ nhất điều tra về sáu tổ hợp khổng lồ âm mưu đưa lậu những máy móc bị cấm, bao gồm cả công nghệ máy tính, sang Trung Quốc. Vụ thứ hai là âm mưu của các công ty thuốc lá lớn khai man trước một ủy ban điều tra của nghị viện. Vụ thứ ba là việc các nhà khoa học hạng trung di cư tới các nước Nam Mỹ như Brazil, Peru và Comlombia. Ngài giám đốc FBI muốn được tường trình về những vụ này.
Trên chuyến bay tới Washington, Boxton nói
– Chúng ta đã làm mấy tay bên các công ty thuốc lá bị tóm, đã làm cho những chuyến hàng của Trung Quốc bị giữ lại. Cái duy nhất chúng ta chưa rờ đến được là các nhà khoa học kia. Nhưng tôi cá anh sẽ lên phó giám đốc sau vụ này. Người ta không thể phủ nhận chiến tích của anh được.
– Cái đó còn phụ thuộc vào giám đốc, Cilke nói. Ông ấy biết rõ tại sao các nhà khoa học lại kéo nhau xuống Nam Mỹ nhưng vẫn bình chân như vại.
Tại Hoover Building, Boxton bị cản lại không được vào dự họp.
Mười một tháng trôi qua kể từ ngày ông Trùm Aprile bị giết. Cilke đã chuẩn bị xong tất cả những giấy tờ cần thiết. Vụ Aprile dần lắng xuống, nhưng ông đã có thông tin về những vụ thậm chí còn quan trọng hơn. Và lần này, việc ông sẽ đề nghị giữ chân phó giám đốc Cục là một cơ hội thực sự.
Giám đốc là một người tầm thước, lịch thiệp, cực kỳ giàu có nhờ tiềm năng của chính mình và tham gia chính trường như một bổn phận trước công chúng. Bắt đầu nhiệm kỳ của mình lão đã đặt ra những luật lệ nghiêm ngặt.
– Không làm bậy, lão vui vẻ nói bằng giọng mũi. Tuân theo quy tắc. Không vi phạm Luật nhân quyền. Một nhân viên FBI phải luôn luôn lịch sự, phải luôn luôn đúng luật, phải luôn luôn đứng đắn trong đời tư. Bất kỳ một tai tiếng nào, dù nhỏ đến đâu chăng nữa, như đánh vợ, say rượu, quan hệ quá gần gũi với quan chức cảnh sát địa phương, những trò tra tấn ngu ngốc, thì bạn chỉ còn nước cắp đít mà đi dù cho cha chú bạn có làm đến Thượng nghị sĩ cũng mặc. Đấy là luật lệ suốt mười năm qua. Còn nữa, nếu bạn được báo chí nói đến nhiều, dù toàn những lời khen ngợi, bạn cũng sẽ được lên đường tới Alaska để canh chừng những ngôi nhà tuyết của người Eskimo.
Giám đốc mời Cilke ngồi xuống một chiếc ghế cực kỳ khó chịu ở phía bên kia chiếc bàn gỗ sồi rộng rãi của lão.
– Tôi triệu tập cậu về vì vài nguyên nhân, lão nói. Thứ nhất: Tôi đã đưa vào hồ sơ cá nhân của cậu việc cậu được đặc biệt tuyên dương vì công tác chống Mafia ở New York. Nhờ có cậu chúng ta đã bẻ gãy xương sống của chúng. Xin chúc mừng. Lão nhổm lên để bắt tay Cilke. Chúng tôi không công bố bây giờ vì Cục chỉ khen thưởng cho những thành tích đặc biệt. Hơn nữa, nó có thể đặt cậu vào tình thế nguy hiểm.
– Chỉ từ vài kẻ điên thôi, thưa ngài, Cilke nói. Các tổ chức tội phạm hiểu rằng chúng không thể làm hại một nhân viên Cục điều tra Liên bang.
– Cậu định nói rằng Cục trả thù cá nhân chứ gì, lão nói.
– Ồ không, Cilke nói. Ý tôi là chúng ta phải cẩn thận hơn thôi.
Ngài giám đốc cho qua chuyện này. Ở đây có những đường ranh giới. Đạo đức luôn luôn có một giới hạn mỏng manh.
– Thật không công bằng nếu để cậu chôn chân một chỗ, lão nói. Tôi đã quyết định không bổ nhiệm cậu làm phó của tôi tại đây, ở Washington này. Chưa phải lúc. Có ba lý do. Thứ nhất, cậu là một người thông thạo đường phố và ở đó vẫn còn công việc phải được giải quyết. Thứ hai, cậu có một tên chỉ điểm mà cậu từ chối tiết lộ danh tánh hắn với cả phòng giám sát nhân sự của Cục. Thứ ba, quan hệ của cậu với thanh tra cảnh sát New York quá riêng tư.
Hai người chuyển qua những mục khác trong chương trình nghị sự.
– Chiến dịch Omertà của chúng ta sao rồi? Lão hỏi. Phải hết sức thận trọng, chúng ta có hành lang pháp lý trong toàn bộ chiến dịch của mình.
– Tất nhiên rồi, thưa ngài, Cilke nói, mặt lạnh như tiền. Lão giám đốc phải gió này biết rõ phải bỏ qua luật lệ mà. Chúng tôi có một ít trở ngại. Raymonde Aprile từ chối hợp tác với chúng ta. Tuy nhiên, những trở ngại đó không tồn tại lâu được.
– Lão Aprile bị giết hợp lý quá, giám đốc giễu cợt nói. Ông bạn Portella của cậu làm vụ này chứ gì?
– Chúng tôi không biết, Cilke nói. Dân Italy có khi nào đi báo chính quyền đâu. Chúng tôi chỉ phải chờ những xác chết được tìm thấy thôi. Hiện tôi đã tiếp cận Astorre theo cách chúng ta đã thảo luận. Gã đã ký những giấy tờ bảo mật nhưng lại từ chối hợp tác. Gã không làm ăn với Portella và nghe nói không bán các nhà băng.
– Thế chúng ta làm gì bây giờ? Lão hỏi. Cậu cũng biết việc đó quan trọng như thế nào. Nếu có thể buộc tội chủ nhà băng theo luật RICO thì chúng ta sẽ thu hồi được các nhà băng cho chính phủ. Và mười tỷ đó sẽ được dùng để đấu trnh chống tội phạm. Đây sẽ là một thành tích đáng nể đối với Cục. Lúc bấy giờ chúng ta có thể chấm dứt mối liên kết của cậu với Portella. Y đã sống lâu hơn lợi ích của mình. Kurt này, chúng ta đang ở trong một tình huống rất tế nhị. Chỉ có các phụ tá của tôi và bản thân tôi biết việc cậu hợp tác với Portella, việc cậu nhận tiền của y còn y cứ đinh ninh cậu là kẻ đồng lõa. Cuộc sống của cậu có thể bị đe dọa đấy.
– Y sẽ không dám làm hại người của FBI đâu, Cilke nói. Y điên thật, nhưng chưa điên đến thế.
– Thôi được, Portella phải tiêu trong chiến dịch này. Kế hoạch của cậu thế nào?
– Anh chàng Astorre Viole không ngây thơ như mọi người vẫn nghĩ, Cilke nói. Tôi đang cho kiểm tra quá khứ của gã. Tôi cũng sẽ yêu cầu các con của Aprile không đếm xỉa gì đến gã nữa. Nhưng tôi thấy lo, liệu chúng ta có thể mang cây gậy RICO lùi lại mười năm để đối phó với những gì chúng đang làm không?
– Đấy là việc của ngài Tổng kiểm sát trưởng, giám đốc nói. Chúng ta chắc chắn tìm ra cái gì đó tòa án có thể ủng hộ.
– Về tài khoản bí mật của tôi mà Portella rót tiền vào, Cilke nói, tôi nghĩ ngài phải rút ra một ít để y tin tôi đang sử dụng.
– Tôi sẽ thu xếp việc này, lão nói. Tôi phải nói, ông bạn Timmona Portella của cậu không vắt cổ chày ra nước đâu.
– Y thực sự tin tôi đã thay đổi, Cilke nói và mỉm cười.
– Cứ cẩn thận. Đừng tạo cho chúng những cơ sở có thể biến cậu thành một kẻ đồng lõa với tội ác thực sự.
– Tôi hiểu, Cilke noi. Dù sao nói cũng dễ hơn làm.
– Và đừng hành động mạo hiểm không cần thiết, giám đốc nói. Nhớ rằng, bọn buôn bán ma túy ở Nam Mỹ và Sicily có quan hệ với Portella và chúng là những kẻ liều lĩnh đấy.
– Tôi sẽ lưu chỉ thị của ngài ở dạng lời nói hay văn bản? Cilke hỏi.
– Cả hai đều không được, giám đốc nói. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự ngay thẳng của cậu. Ngoài ra, tôi không muốn phải nói dối trước một ủy ban nào đó của nghị viện. Để trở thành một trong các phụ tá của tôi, cậu sẽ phải rũ sạch những thứ đó. Lão hy vọng chờ đợi.
Cilke thậm chí không dám nghĩ những ý nghĩ thật của mình trước mặt ngài giám đốc, sợ rằng lão có thể đọc được suy nghĩ của ông. Mặc dù vậy cơn giận cứ bùng lên. Lão nghĩ ông là thằng đéo nào, thành viên của Hiệp hội những người có quyền tự do dân sự Hoa Kỳ chắc? Thông báo của lão chỉ để khẳng định rằng Mafia đếch phải là người Italy, dân Hồi giáo đếch có thằng nào làm khủng bố, người da đen đếch phải là tầng lớp tội phạm. Vậy lão nghĩ thằng đéo nào gây ra những tội ác trên đường phố chứ?
Nhưng rồi Cilke nhẹ nhàng nói,
– Thưa ngài, nếu ngài muốn tôi từ chức, tôi đã công tác đủ thời gian để về hưu sớm được rồi.
– Ồ không, lão nói. Hãy trả lời tôi. Liệu cậu có thể xóa sạch các mối quan hệ của cậu không?
– Tôi đã trao cho Cục tên của tất cả những kẻ chỉ điểm, Cilke nói. Đối với những việc làm tắt, bỏ qua luật lệ, đó chỉ là vấn đề giải thích. Còn việc làm bạn với lực lượng cảnh sát địa phương chỉ là quan hệ xã hội.
– Kết quả của cậu biện minh cho công việc của cậu, lão nói. Nào, cố thêm một năm nữa. Cứ tiếp tục đi. Lão im lặng một hồi lâu và thở dài. Rồi không còn kiên nhẫn được, lão hỏi – Theo đánh giá của cậu, chúng ta đã có đủ bằng chứng về việc các nhà điều hành công ty thuốc lá khai man hay chưa?
– Dễ quá mà, Cilke, nó và tự vấn tại sao giám đốc lại phải hỏi. Lão đã có tất cả hồ sơ rồi cơ mà.
– Nhưng đấy có thể là niềm tin của cá nhân họ, lão nói. Những cuộc thăm dò dư luận của chúng ta chỉ ra rằng một nửa số người Mỹ đồng ý với họ.
– Cái đó đâu có liên quan đến vụ này, Cilke phản đối. Những người được hỏi ý kiến không thực hiện hành vi khai man trước Nghị viện. Chúng ta có những cuốn băng và những tài liệu nội bộ chứng minh được các nhà điều hành công ty thuốc lá cố ý lừa dối. Họ đã có ý đồ.
– Cậu nói đúng, giám đốc nói cùng một tiếng thở dài. Nhưng ngài Tổng kiểm sát trưởng đã hoàn tất một thỏa thuận. Không một can phạm nào bị kết án, không ai phải đi tù. Người ta sẽ trả tiền phạt lên đến hàng trăm tỷ đô la. Vậy hãy khép vụ án đó lại. Nó nằm ngoài tầm tay chúng ta.
– Được thôi, thưa ngài. Tôi có thể sử dụng nhân lực dôi dư vào những việc khác.
– Được việc cho cậu quá còn gì. Tôi sẽ còn làm cậu vui hơn nữa. Cứ sử dụng nhân lực của cậu vào cái vụ vận chuyển công nghệ bất hợp pháp sang Trung Quốc. Vụ này rất nghiêm trọng đấy.
– Không cho qua được, Cilke nói. Các công ty đó cố ý vi phạm điều luật về đầu cơ tiền tệ và xâm hại an ninh Hoa Kỳ. Những người lãnh đạo công ty đã có âm mưu từ trước rồi
– Chúng ta có đủ bằng chứng kết tội họ, lão tiếp tục. Nhưng cậu biết đấy, âm mưu chỉ là một từ chung chung. Ai mà chả có âm mưu. Nhưng vụ này cậu cũng có thể khép lại và tiết kiệm nguồn nhân lực.
Cilke ngờ vực hỏi,
– Thưa ngài, có phải ngài đang nói một thỏa thuận về việc này đã được hoàn tất?
Ngài giám đốc ngả lưng vào ghế và chau mày vì câu nói xấc xược của Cilke, nhưng rồi lão vẫn ngọt nhạt
– Cilke cậu là sĩ quan xuất sắc nhất ở Cục nhưng cậu không có giác quan chính trị. Bây giờ hãy nghe tôi và đừng bao giờ quên điều này: Cậu không thể tống sáu nhà tỷ phú vào tù được. Không làm thế được trong một xã hội dân chủ.
– Và đó là lý do ư? Cilke hỏi.
– Các biện pháp chế tài sẽ rất nặng, lão nói. Bây giờ ta chuyển sang các vụ khác, có một vụ cực kỳ bí mật. Chúng ta sẽ đổi một tù nhân của Liên bang lấy một trong những chỉ điểm viên của chúng ta đang bị giữ làm con tin ở Comlombia, một người rất hữu dụng trong cuộc đấu tranh chống ma túy của chúng ta. Vụ này phù hợp với cậu đấy. Lão đề cập đến một vụ bốn năm về trước. Một tên buôn ma túy đã bắt năm người, một phụ nữ và bốn đứa con, làm con tin. Rồi y giết họ và cả một nhân viên của Cục. Nhưng y vẫn được tha mạng. Tôi nhớ rằng cậu rất kiên quyết với việc thi hành án tử hình, lão nói. Tôi biết cậu chẳng vui vẻ gì khi chúng ta sẽ để y được tự do. Tất cả chuyện này được giữ kín, nhớ nhé. Tuy nhiên, báo chí có khả năng sẽ bới vụ này lên và lúc ấy tha hồ mà om xòm. Cậu và các nhân viên của cậu sẽ không được bình luận gì. Cậu hiểu chứ?
Cikle nói
– Chúng ta không được dể bất kỳ kẻ nào giết nhân viên của chúng ta được ra đi như vậy.
– Với một nhân viên của Cục điều tra Liên bang, thái độ đó là không thể chấp nhận được.
Cilke cố gắng không để lộ sự phẫn nộ của mình.
– Thế thì tất cả đồng đội của chúng ta sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm. Đồng nghiệp của chúng ta bị giết khi đang cố giải cứu con tin. Đó là một vụ giết người tàn bạo. Việc tha bổng kẻ sát nhân xúc phạm đến hương hồn người đồng đội đã khuất.
– Không có tâm lý báo thù ở Cục, giám đốc nói. Nếu không chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn chúng. Nào, cậu có những gì về các nhà khoa học di cư đó hả?
Lúc này Cilke nhận ra ông không thể tin vào ngài giám đốc.
– Chẳng có gì mới, ông nói dối. Ông quyết định từ giờ trở đi ông sẽ không dính vào những thỏa hiệp chính trị. Ông sẽ hành động một mình.
– Nào, cậu đang có khá nhiều nhân lực, vậy hãy làm vụ này đi, giám đốc nói. Và sau khi cậu tóm Timmona Portella, tôi sẽ đưa cậu về đây làm một trong các phụ tá của tôi.
– Cảm ơn ngài, Cilke đáp. Nhưng tôi đã quyết định, sau khi tính sổ Portella, tôi sẽ nghỉ hưu.
Giám đốc buông một tiếng thở dài.
– Hãy xem xét lại. Tôi biết toàn bộ việc này làm câu ngán tới cỡ nào. Nhưng hãy nhớ điều này: Cục không chỉ chịu trách nhiệm bảo vệ xã hội chống lại những kẻ phạm pháp, mà còn phải thi hành những biện pháp về lâu về dài mang lại lợi ích cho xã hội chúng ta.
– Tôi nhớ điều đó từ ngày học phổ thông cơ, Cilke nói. Kết quả biện minh cho phương tiện.
Giám đốc nhún vai,
– Dù sao cũng hãy xem xét lại việc xin nghỉ hưu của cậu.Tôi sẽ đưa vào hồ sơ của cậu một đơn đề nghị. Dù cậu đi hay ở, cậu vẫn sẽ nhận huân chương do Tổng Thống Hoa Kỳ ban tặng.
– Cảm ơn ngài, Cilke nói. Giám đốc bắt ty ông và tiễn ông ra cửa. Nhưng lão còn hỏi thêm câu hỏi cuối cùng.
– Chuyện gì xảy ra trong vụ Aprile thế. Đã nhiều tháng rồi mà hình như chưa làm được gì.
– Đó là việc của bên cảnh sát New York, đâu phải là của chúng ta, Cilke đáp. Tất nhiên, tôi cũng đã xem xét vụ này. Đến giờ vẫn chưa rõ động cơ. Không có đầu mối, tôi thiết nghĩ, thì không thể giải quyết được vụ này.
Đêm hôm đó Cilke ăn tối cùng Bill Boxton.
– Có những tin tốt lành đây, Cilke nói. Vụ thuốc là và vụ máy móc của Trung Quốc khép lại rồi. Ngài tổng kiểm sát trưởng ngả theo các biện pháp chế tài chứ không theo biện pháp trấn áp tội phạm. Nhân lực tha hồ mà dôi dư.
– Cứt, Boxton nói. Tôi cứ nghĩ giám đốc là một người ngay thẳng, công bằng. Lão sẽ từ chức chứ?
– Có những người thẳng thẳn và có những người thẳng thắng với một chút lương lẹo, Cilke nói.
– Còn gì nữa không? Boxton hỏi.
– Khi tôi hạn xong Portella toi sẽ trở thành phụ tá của giám đốc. Bảo đảm đấy. Nhưng đến lúc đó tôi cũng sẽ nghỉ hưu.
– Ừ, Boxton nói. Thế thì đề nghị để tôi giữ cương vị đó nhé?
– Không được đâu. Lão giám đốc biết cậu đã sử dụng những từ có ba chữ cái mà, ông phá lên cười.
– Cứt, Boxton nói, giả vờ thất vọng.
Đêm hôm sau Cilke cuốc bộ từ ga về nhà. Georgette và VAnesa đi Flỏida thăm bà ngoại một tuần và ông không thích đón taxi. Ông ngạc nhiên không nghe tiếng chó sủa khi bước lên con đường dẫn vào nhà. Ông gọi chúng nhưng không được. Hẳn chúng đã xổng nhà đi lang thang đâu đó bên hàng xóm hay trong khu rừng gần nhà.
Ông nhớ gia đình mình, nhất là vào giờ ăn. Ông đã ăn tối một mình hoặc cùng các nhân viên khác ở rất nhiều thành phố trên khắp nước Mỹ, luôn phải cảnh giác với bất kỳ mối nguy hiểm nào. Ông chuẩn bị một bữa ăn đơn giản như vợ ông đã hướng dẫn – một ít rau, một món salad trộn và một miếng bít-tết nhỏ. Không cà phê nhưng có một ly nhỏ rượu mạnh. Sau đó ông lên lầu tắm rửa và gọi điện cho vợ trước khi đọc vài trang sách để dỗ giấc ngủ. Ông yêu quý sách và việc FBI bị mô tả như những tên côn đồ trong các tiểu thuyết trinh thám luôn làm ông buồn. Chúng biết quái gì nào?
Khi mở cửa phòng ngủ, ngay lập tức ông ngửi thấy mùi máu và đầu óc ông quay cuồng. Tất cả những lo sợ giấu kín trong ông đang hiện ra trước mắt.
Hai gã chăn cừu người Đức đang nằm trên giường của ông. Nước da trắng rám nắng của họ lốm đốm đỏ, chân họ bị trói lại với nhau, miệng bị bịt kín bằng băng keo. Trái tim của họ bị cắt ra để bên sườn.
Với một cố gắng phi thường, ông cố trấn tĩnh. Theo bản năng, ông gọi điện cho vợ để biết chắc Georgette vẫn an toàn. Ông không nói gì với chị. Rồi ông gọi điện cho sĩ quan trực ban của FBI yêu cầu một đội pháp y đặc biệt và một nhóm truy bắt tội phạm. Họ sẽ phải tống khứ hết khăn trải giường, đệm và thảm. Ông không thấy nhà chức trách địa phương nào xuất hiện.
Sáu tiếng sau, các toán FBI ra về còn ông viết một bản tường trình gửi cho giám đốc. Ông rót cho mình một ly rượu mạnh và cố phân tích tình hình.
Lúc này ông cân nhắc việc nói dối Georgette, phịa ra chuyện hai con chó đi khỏi nhà. Nhưng phải giải thích ra sao về tấm thảm và khăn trải giường bị mất. Ngoài ra, làm như thế là không công bằng với chị. Georgetta có quyền lựa chọn. Trên hết thảy, chị sẽ không tha thứ cho ông nếu ông nói dối. Ông sẽ phải nói cho chị sự thật.
Hôm sau, trước tiên Cilke bay đến Wasshington để hội ý với giám đốc, sau đó ông xuống Florida, nơi vợ con ông đang nghỉ với gia đình bên ngoại.
Ở đó, sau khi ăn trưa cùng họ, ông đưa Georgette đi dạo dọc theo bờ biển. Trong khi họ dõi theo mặt nước xanh lung linh, ông nói với chị chuyện lũ chó bị giết, rằng đó là dấu hiệu cảnh cáo của Mafia Sicily nhằm đe dọa ông.
– Theo giới truyền thông, các anh đã xóa sổ Mafia ở đất nước này rồi cơ mà, Georgette ngạc nhiên nói.
– Chẳng chóng thì chầy, Cilke nói. Bọn anh vẫn còn để sót một vài tổ chức ma túy, và anh biết rõ ai làm việc này.
– Lũ chó tội nghiệp của chúng ta, Georgettte than. Tại sao con người lại có thể độc ác đến thế? Anh đã báo cho giám đốc chưa?
Cilke cảm thấy một nỗi tức giận trào lên khi chị chỉ quan tâm đến lũ chó.
– Giám đốc cho anh ba sự lựa chọn, ông nói. Thứ nhất anh sẽ từ nhiệm và chuyển đến nơi khác. Anh đã từ chối việc này. Thứ hai, anh đặt gia đình dưới sự bảo vệ của Cục cho đến khi vụ này kết thúc. Thứ ba, em cứ ở lại nhà như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chúng mình sẽ được một đội an ninh bảo vệ hai bốn trên hai bốn tiếng đồng hồ. Một nữ mật vụ sẽ sống cùng em và mỗi khi em cùng Vanesa ra khỏi nhà, sẽ có hai vệ sĩ đi kèm. Sẽ có những trạm cảnh giới với hệ thống báo động hiện đại nhất được đặt quanh nhà. Em nghĩ sao? Trong vòng sáu tháng việc này sẽ kết thúc.
– Anh nghĩ đó chỉ là trò hù dọa thôi sao? Georgette hỏi.
– Phải. Chúng không dám làm hại một nhân viên. Cục điều tra Liên bang và gia đình. Đó sẽ là một hành động tự sát đối với chúng.
Georgette đăm đăm nhìn nhìn mặt vịnh xanh yên ả. Tay chị xiết chặt lấy tay ông.
– Em sẽ ở lại, chị nói. Em nhớ anh nhiều lắm, và em biết anh sẽ chẳng chịu bỏ vụ này. Làm sao anh có thể đoán chắc anh sẽ giải quyết xong trong vòng sáu tháng?
– Anh bảo đảm mà, Cilke nói.
Georgette lắc đầu.
– Em không thích anh quả quyết như thế đâu. Làm ơn đừng làm bất cứ điều gì tệ hại. Và em muốn một lời hứa. Khi vụ này kết thúc, anh sẽ rời nhiệm sở. Hãy bắt đầu công việc luật sư của anh hay đi dạy. Em không thể sống như thế này mãi được. Chị nói hết sức nghiêm chỉnh.
Câu nói chị sẽ rất nhớ ông in sâu vào tâm trí ông. Và ông cũng thường nhớ Georgette như vậy. Ông tự hỏi làm sao một phụ nữ như chị lại có thể yêu một người như ông. Tuy nhiên ông luôn biết sẽ có ngày Georgette đưa ra đề nghị này. Ông thở dài và nói,
– Anh hứa.
Họ tiếp tục đi theo bờ biển rồi rẽ vào một công viên nhỏ rợp bóng cây giúp họ tránh ánh mặt trời. Một làn gió mát từ vịnh thổi vào làm rối tung mái tóc Georgette. Lúc này, trông chị rất trẻ và hanh phúc. Cilke biết ông không thể nào thất hứa với vợ. Và thậm chí ông còn kiêu hãnh về vẻ hấp dẫn của chị trong cách moi lời hứa của ông vào đúng một thời điểm thích hợp, khi chị mạo hiểm cả cuộc sống của mình để đứng về phía ông. Suy cho cùng, có ai muốn được một người đàn bà đần độn yêu thương cớ chứ? Đồng thời ông biết rằng vợ ông sẽ kinh sợ và cảm thấy bị xúc phạm nếu biết được những gì ông đang nghĩ. Vẻ hấp dẫn của chị hoàn toàn trong trắng. Ông xét đoán ai đây? Georgette không khi nào xét đoán ông, không nghi ngờ cái vẻ hấp dẫn không được trong trắng của ông bao giờ.
(1) Mũ Panama: mũ rộng vành
(2) Faun (thần thoại La Mã): vị thần cai quản đồng ruộng và rừng cây, có sừng, chân dê, mình người.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.