Luật im lặng
CHƯƠNG 9
Kurt Cilke tin vào luật pháp, vào những luật lệ mà con người đã tạo ra để sống một cuộc sống thanh bình. Ông luôn luôn cố tránh những thoả hiệp có thể làm suy yếu một xã hội công bằng, và ông đấu tranh không khoan nhượng với những kẻ thù của đất nước. Sau hai mươi năm tranh đấu lòng tin của ông đã rơi rụng nhiều.
Chỉ có vợ ông vẫn sống như ông mong đợi. Những chính khách là những kẻ nói dối, người giàu tàn nhẫn trong ham muốn quyền lực, người nghèo thì sa đọa. Và còn có những kẻ lừa đảo bẩm sinh, những kẻ bịp bợm, vũ phu và giết người. Những người thừa hành pháp luật chỉ tốt hơn chút ít, nhưng bằng cả tấm lòng ông vẫn tin tưởng rằng Cục Điều tra Liên bang là tốt đẹp nhất. Năm ngoái ông có một giấc mơ luôn tái diễn. Trong mơ ông là một cậu bé mười hai tuổi và ông phải dự một kỳ thi quan trọng của trường. Kỳ thi sẽ kéo dài cả ngày. Khi ông rời khỏi nhà, mẹ ông khóc, và trong giấc mơ ông hiểu vì sao. Nếu thi trượt, ông sẽ không gặp lại mẹ mình.
Trong mơ ông hiểu nạn giết người đã tràn lan đến mức một bộ luật đã được soạn thảo nhờ sự trợ giúp của cộng đồng tâm thần nhằm triển khai một kế hoạch kiểm tra y tế về tâm thần cho phép phát hiện sớm những đối tượng mười hai tuổi khi lớn lên có thể trở thành kẻ giết người. Những đứa trẻ thi trượt sẽ biến mất một cách đơn giản. Y học đã chứng minh rằng nhiều kẻ ham muốn trở thành sát nhân vì việc giết người mang lại cho chúng khoái lạc. Do đó cần phải loại bỏ những kẻ có gen giết người từ khi chúng còn nhỏ.
Sau kỳ thi ông trở về nhà. mẹ ông ôm chặt lấy ông và hôn ông. Các cô các chú của ông đã chuẩn bị một bữa tiệc mừng thịnh soạn. Sau đó, còn lại một mình trong phòng ngủ, ông run lên vì sợ hãi vì biết đã có một nhầm lẫn. Lẽ ra ông không vượt qua được kỳ thi, và rồi đây ông sẽ lớn lên thành kẻ giết người.
Giấc mơ lặp lại hai lần, và ông không kể cho vợ nghe vì ông biết giấc mơ nói lên điều gì.
Mối quan hệ của Cilke với Timonona Portella đến nay đã được hơn sáu năm. Nó bắt đầu khi Portella giết một thuộc hạ trong cơn nóng giận mù quáng. Ngay lập tức Cilke phát hiện ra các khả năng. Ông đã thu xếp để Portella trở thành một kẻ cung cấp tin về Mafia, đổi lấy việc không bị truy tố tội giết người. Ngài giám đốc đã chuẩn y kế hoạch, và phần còn lại đã đi vào lịch sử. Nhờ có Portella, Cilke đã dẹp tan Mafia New York nhưng lại phải nhắm mắt làm ngơ trước việc làm của Portella, kể cả việc y kiểm soát hoạt động kinh doanh ma túy.
Nhưng Cilke, được sự chấp thuận của giám đốc, đã có kế hoạch hạ bệ Portella một lần nữa. Người ta xác định Portella đã giành được việc sử dụng các nhà băng của Aprile để rửa tiền buôn bán ma túy. Tuy nhiên Aprile tỏ ra khá cứng đầu. Tại một cuộc gặp mặt quan trọng Portella đã hỏi Cilke,
– FBI có theo dõi Aprile khi lão đến dự lễ thêm sức của cháu lão không?
Cilke hiểu ngay tức khắc, nhưng ông do dự trước khi trả lời. rồi ông nói chậm rãi
– Tôi bảo đảm người ta sẽ không làm chuyện đó. Nhưng còn NYPD thì sao?
– Việc đó đã được lo liệu, Portella trả lời.
Và Cilke biết ông sẽ là tòng phạm với tội sát nhân. Nhưng chẳng lẽ lão Trùm Aprile không xứng đáng với điều đó hay sao? Phần lớn cuộc đời mình lão là một tội phạm. Lão đã về hưu với số tài sản khổng lồ mà pháp luật không thể đụng tới. Và hãy nhìn vào cái được. Bằng việc giành quyền sử dụng các nhà băng của Aprile, Portella sẽ đâm thẳng vào bẫy của ông. Tất nhiên, ở hậu trường luôn luôn có mặt Inzio với mơ ước có kho vũ khí hạt nhân của riêng mình. Cilke biết rằng với một chút may mắn là ông có thể kết thúc toàn bộ vụ này và chính phủ có thể thu hồi những nhà băng trị giá mười tỷ đô la của Aprile theo luật RICO, vì, chẳng nghi ngờ gì nữa, những kẻ thừa kế của lão sẽ bán các nhà băng, sẽ ký kết một hợp đồng với những sứ giả bí mật của Portella. Và mười hay mười một tỷ đôla sẽ là một vũ khí hiệu nghiệm chống lại chính tội ác.
Nhưng Georgette sẽ coi thường ông, vì vậy không được để nàng biết. Xét cho cùng, nàng sống trong một thế giới khác.
Nhưng bây giờ ông phải gặp lại Portella. Còn cả vụ những người Đức chăn cừu bị giết và ai đứng đằng sau vụ này. Ông sẽ phải bắt đầu với Timmona.
Hiếm có người Italia thành đạt nào lại giống Timmona Portella: Năm mươi tuổi mà vẫn chưa vợ. Nhưng hắn lại chẳng độc thân chút nào. Hắn dành hầu hết các đêm thứ sáu sống chung với một người đẹp từ các đường dây do thuộc hạ kiểm soát. Chỉ thị của hắn là cô nàng phải trẻ, không quá dai sức trong cuộc chơi, phải đẹp và mỡ màng. Cô nàng phải hưng phấn và vui vẻ nhưng không được quá mức. Và không được đề xuất những trò quái đản. Timmona là một kẻ làm tình theo lối chân phương. Hắn có những thói quen lạ lùng nhưng vô hại, chẳng hạn các cô nàng phải có cái tên Anglo – Saxon dễ nghe như Jane hay Susan, hắn có thể gọi chệch thành Tiffany hay thậm chí Merle. Rất ít khi hắn xài một ả tới hai lần.
Những cuộc hẹn hò kiểu này luôn diễn ra trong một khách sạn nho nhỏ ở khu East Side do một trong các công ty của hắn sở hữu. Ở đó hắn được sử dụng cả một tầng bao gồm hai căn hộ khép kín. Một căn có nhà bếp chứa đầy đồ ăn ( vì Portella là một đầu bếp nghiệp dư có tài) kiểu Bắc Italy, mặc dù cha mẹ hắn sinh ra tại Sicily. Và hắn rất khoái nấu nướng.
Đêm nay cô gái được chủ đường dây đưa đến Tên này ở lại uống với hắn chút đỉnh ròi biến mất. Sau đó Portella vừa nấu nhanh bữa khuya cho hai người vừa nói chuyện và làm quen. Tên ả là Janet. Portella nấu rất nhanh. Hắn nấu những món khoái khẩu của mình: bê thui kiểu Milan, mì ống nấu với nước sốt thêm chút pho mát Gruyere, cà tím nướng, salad trộn với cà chua. Món tráng miệng là đủ loại bánh ngọt lấy từ một cửa hiệu bánh ngọt nổi tiếng của Pháp ở gần đấy.
Hắn tiếp Janet một cách lịch sự. Là kẻ ục ịch, đầy lông lá cái đầu to và da dẻ sần sủi nhưng khi ăn hắn luôn chơi cả sơ mi, cà vạt và áo khoác. Trong bữa ăn, với một vẻ quan tâm hiếm thấy ở một người hung ác, hắn hỏi Jannet về cuộc sống của ả, và tỏ vẻ thích thú lắng nghe câu chuyện về những bất hạnh ả kể ra. Để cứu cái gia đình nghèo khó của mình ả đã bị cha, các anh, đám nhân tình và đám đàn ông quyền thế phản bội. Thông qua áp lực của đồng tiền và những lần mang thai ngoài ý muốn chúng đã đưa ả vào một cuộc sống tội lỗi. Hắn sửng sốt trước những nhơ nhuốc mà những kẻ cùng giới với hắn đã thể hiện và ngạc nhiên về lòng tốt với phụ nữ của chính mình. Vì với phụ nữ, hắn nổi tiếng hào phóng không chỉ bởi cho họ nhiều tiền.
Sau bữa ăn, hắn mang rượu vào phòng khách và cho Janet xem sáu hộp nữ trang: một chiếc đồng hồ vàng, một nhẫn hồng ngọc, đôi khuyên tai kim cương, một vòng cổ bằng ngọc bích, một chiếc kim băng tay khảm đá quý và một chuỗi hạt ngọc trai hoàn hảo. Hắn bảo Janet chọn lấy một thứ làm kỷ niệm. Tất cả đều có giá vài ngàn đôla.
Nhiều năm trước một trong các nhóm của hắn đã đánh cướp một xe tải nhỏ chở nữ trang và hắn đã giữ lại nhiều hơn là đem bán. Vì thế quà tặng chẳng đáng giá gì với hắn.
Trong khi Janet cân nhắc thứ mà ả muốn và cuối cùng ả chọn chiếc đồng hồ thì hắn chuẩn bị cho ả tắm. Hắn cẩn thận kiểm tra độ nóng của nước, sắp sẵn cho ả những loại nước hoa và xà phòng hảo hạng. Chỉ sau khi ả đã thư giãn hắn mới đưa ả lên giường ân ái nồng nàn như một cặp vợ chồng hạnh phúc.
Nếu đặc biệt hứng, hắn có thể giữ cô gái đến bốn hoặc năm giờ sáng, nhưng hắn không bao giờ đi ngủ khi cô ả vẫn còn trong căn hộ của mình. Đêm ấy, hắn cũng cho Janet về sớm.
Hắn làm chuyện đó cũng là vì sức khỏe của mình. Hắn biết bản tính phóng đãng có thể dẫn hắn đến rắc rối. Những cuộc hẹn hò hàng tuần như thế làm hắn dịu lại. Đàn bà nhìn chung có tác dụng vỗ về và hắn chứng minh công hiệu của nó bằng việc thứ bảy nào cũng tới bác sỹ của mình. Hắn thỏa mãn khi biết rằng huyết áp của hắn đã trở lại bình thường. Khi hắn kể cho bác sỹ nghe phương pháp điều trị của mình, tay này chỉ biết lắp bắp, “tuyệt quá”. Portella rất thất vọng về tay bác sỹ.
Còn một thuận lợi nữa ở địa điểm này. Các vệ sỹ của Portella bị cách ly ở mặt trước căn hộ. Nhưng vẫn còn lối cửa say dẫn tới căn hộ kế bên có cửa vào một hành lang riêng biệt. Đấy là Portella có các cuộc tiếp xúc mà hắn không muốn những cộng sự thân cận nhất của mình được biết. Gặp một nhân viên đặc biệt của FBI là một việc làm rất nguy hiểm đối với một thủ lĩnh Mafia. Hắn sẽ bị nghi ngờ là kẻ cung cấp thông tin, và Cilke có thể bị tình nghi là người nhận hối lộ.
Chính Portella đã cung cấp số điện thoại để ghi âm, chỉ ra những kẻ nhu nhước không chịu được áp lực, những manh mối dẫn đến thủ đoạn giết người, và giải thích rõ các thủ đoạn đó thực thi ra sao. Và cũng chính Portella đã làm một số việc bẩn thỉu mà FBI không được phép làm.
Trong nhiều năm họ sử dụng mật mã cho việc sắp xếp các cuộc tiếp xúc. Cilke có chìa khóa mở cửa căn hộ đối diện phía bên kia hành lang vì vậy ông có thể vào mà không bị đám vệ sỹ của Portella phát hiện rồi chờ ở căn hộ phụ. Portella sẽ tống khứ ả đàn bà và cuộc gặp sẽ bắt đầu. Đêm nay Portella đang chờ Cilke.
Trong những cuộc gặp kiểu này Cilke luôn không cảm thấy thoải mái. Ông biết tất nhiên, ngay cả Portella cũng không dám làm hại một nhân viên FBI, nhưng con người này có tính tình gần như điên khùng. Cilke mang vũ khí, nhưng để che giấu tên chỉ điểm của mình ông không thể mang theo vệ sỹ.
Portella cầm ly rượu trên tay, và lời chào đầu tiên của hắn là
– Có cái đéo gì không ổn thế?
Nhưng hắn cười vui vẻ và ôm Cilke một nửa vòng tay. Cái bụng phệ của Portella được giấu kín trong chiếc áo choàng tao nhã của Trung Quốc buông trùm bên ngoài chiếc quần Pijamas màu trắng.
Cilke từ chối ly rượu, ngồi xuống ghế và bình tĩnh nói
– Vài tuần trước tôi đi làm về và thấy hai con chó của tôi đầu lìa khỏi cổ. Tôi nghĩ anh có thể có đầu mối? Ông quan sát kỹ Portella.
Nỗi kinh ngạc của Portella có vẻ như thật. Hắn đang lút mình trong chiếc ghế bành và dường như bị giật ra khỏi chỗ ngồi. Hắn nổi cơn thịnh nộ. Cilke không hề bị gây ấn tượng. Theo kinh nghiệm của ông, kẻ có tội dư sức phản ứng với vẻ hoàn toàn vô tội. Ông nói
– Nếu anh đang định cảnh cáo tôi một điều gì đó thì sao không nói thẳng ra?
Đến lúc này Portela nói, giọng đẫm nước mắt
– Kurt, anh mang vũ khí đến đây, tôi đã sờ thấy khẩu súng của anh. Tôi không có vũ khí. Anh có thể giết tôi rồi đổ thừa do tôi kháng cự. Tôi tin anh. Tôi đã đặt vào tài khoản của anh hơn một triệu đôla. Chúng mình là chỗ thân tình. Tại sao tôi phải dở cái ngón Sicily cũ kỹ ấy ra hả? Có kẻ nào đó đang cố đánh động chúng mình đấy. Anh phải thấy rõ điều đó chứ.
– Nó là ai? Cilke hỏi.
Portella trở nên đăm chiêu.
– Đấy chỉ có thể là thằng nhãi Astorre. Nó cứ tưởng mình quan trọng vì đã một lần thoát khỏi tay tôi. Hãy kiểm tra thằng nhãi, còn tôi sẽ có một hợp đồng cho nó.
Cuối cùng Cilke cũng bị thuyết phục.
– Ok, ông nói. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải thận trọng, không được đánh giá thấp thằng nhỏ.
– Đừng lo, Portella nói. Mà này, anh có muốn ăn chút gì không? Tôi có ít thịt bê, mì ống, salad và cả rượu ngon mà.
Cilke cười.
– Tôi tin anh. Nhưng tôi không có thì giờ để mà ăn uống.
Sự thật thì ông không muốn ăn nhậu với một kẻ ông sắp tống vào tù.
Lúc này Astorre đã có đủ thông tin để vạch ra kế hoạch tác chiến. Chàng tin rằng FBI đã nhúng tay vào cái chết của ông Trùm Aprile, và rằng Cilke phụ trách chiến dịch này. Lúc này chàng cũng đã biết ai là kẻ môi giới. Chàng biết Timmona Portella đã đề xuất hợp đồng. Song vẫn còn một vài bí ẩn. Ngài đại sứ, thông qua Nicole, đã đề nghị được cùng các nhà đầu tư nước ngoài mua các nhà băng. Cilke đã ngỏ ý muốn chàng hợp tác để lừa Portella vào một tình huống phạm tội. Đây là những thay đổi đáng lo ngại và nguy hiểm. Chàng quyết định tham khảo ý kiến Craxxi ở Chicago và mời ông Pryor về giúp mình.
Astorre đã yêu cầu ông Pryor sang Mỹ để điều hành các nhà băng của Aprile. Pryor chấp nhận, và thật khác thường, ông đã thay đổi một cách nhanh chóng, từ một quý ngài lịch lãm xứ Ăng – lê thành một vị giám đốc Hoa Kỳ đầy quyền lực. Ông đội mũ phớt thay cho mũ quả dưa, ông bỏ cây dù xếp của mình để cầm một tờ báo gấp. Ông đến cùng vợ và hai người cháu. Vợ ông từ một quý bà đoan trang trở thành một phụ nữ quần lụa áo là hoàn toàn đúng mốt. Hai đứa cháu của ông là dân Sicily nói toàn tiếng Anh hoàn hảo và có bằng kế toán. Cả hai đều là dân mê săn bắn. Họ để những dụng cụ đi săn của mình trên thùng chiếc limousine do một trong số họ cầm lái, thực tế, cả hai là những vệ sỹ của Pryor.
Gia đình Pryor về sống tại một ngôi nhà ở khu Thượng West Side. Ngôi nhà được những toàn tuần tra an ninh của một hãng tư nhân bảo vệ. Nicole, lúc đầu phản đối việc bổ nhiệm này, cũng nhanh chóng bị ông Pryor cuốn hút. Không nghi ngờ gì nữa, ông Pryor có sức hấp dẫn của một người cha đối với phụ nữ. Nicole rất ngưỡng mộ ông. Và hiển nhiên ông có thể điều hành các nhà băng – đến mức Nicole cũng phải kinh ngạc bởi kiến thức của ông về hệ thống ngân hàng quốc tế. Chỉ bằng buôn bán ngoại tệ ông đã làm tăng đáng kể mức lợi nhuận. Astorre vốn biết rằng Pryor là bạn thân của ông Trùm Aprile song nay ông vẫn nói rõ về mối quan hệ của họ.
– Tôi đã bảo bác cậu, ông Pryor nói, rằng các nhà băng sẽ giành được nhiều lợi nhuận mà lại ít rủi ro hơn cái kiểu kinh doanh của ông ấy. Cách làm ăn kiểu cũ như thế đã lỗi thời rồi. Chính phủ quá mạnh và quá quan tâm đến bọn ta. Đã đến lúc phải thay đổi. Các nhà băng là những xưởng đúc tiền nếu ta có kinh nghiệm, có những mối liên hệ cá nhân và chính trị. Không hề khoác lác, tôi có thể nói rằng tôi có được thiện chí của các chính khách Italy cũng là nhờ tiền. Ai cũng trở nên giàu có và chẳng có ai bị thương tổn hay phải ra trước vành móng ngựa. Tôi có thể trở thành một giáo sư đại học dạy mọi người làm sao để trở thành giàu có mà không phạm pháp và không phải dùng tới bạo lực. Cậu chỉ phải nắm chắc luật pháp. Cuối cùng, học vấn là chiếc chìa khoá dẫn đến một nền văn minh cao hơn.
Pryor đang giỡn chơi, tuy nhiên ông có phần nghiêm chỉnh. Astorre cảm thấy có một mối quan hệ mật thiết và sâu sắc với ông và dành cho ông niềm tin tưởng tuyệt đối. Trùm Craxxi và Pryor là những người chàng có thể trông cậy vào. Không chỉ xuất phát từ tình bạn: Cả hai người đó làm giàu nhờ mười nhà băng của Aprile.
Khi Astorre và Pryor đến nhà Trùm Craxxi ở Chicago, chàng ngạc nhiên thấy Pryor và Craxxi ôm hôn nhau vô cùng thân mật. Rõ ràng họ đã quá quen biết nhau.
Craxxi thết họ một bữa ăn gồm có trái cây và pho mát. Trong bữa ăn lão toàn chuyện hàn huyên với Pryor. Astorre lắng nghe với một vẻ hiếu kỳ hiếm thấy. Craxxi và Pryor nhất trí rằng những cách thức làm ăn cũ có quá nhiều nguy hiểm.
– Ai cũng bị cao huyết áp, ai cũng bị bệnh tim, Craxxi nói. Sống theo cách đó thật là kinh khủng. Còn đám lau nhau bây giờ chẳng hề biết đến danh dự. Được chứng kiến chúng bị quét sạch quả là điều đáng mừng.
– Ừ, ông Pryor nói. Nhưng tất cả chúng ta cũng phải bắt đầu ở mọt nơi nào đó chứ. Cứ nhìn vào chúng mình bây giờ mà xem.
Toàn bộ câu chuyện này khiến Astorre ngần ngại trình bày trực tiếp vấn đề. Hai anh già này đang làm cái quái gì thế? Ông Pryor cười thầm cái nhìn của Astorre.
– Đừng lo, chúng tôi còn chưa được phong thánh mà. Và tình thế đang thách thức mối quan tâm của chính chúng tôi. Vì vậy hãy nói cho chúng tôi biết cậu cần gì. Chúng tôi sẵn sàng bàn bạc.
– Tôi cần lời khuyên của các ngài, không thuộc lĩnh vực điều hành, Astorre nói. Đấy là việc của tôi.
– Nếu chỉ là việc báo thù thì ta khuyên cậu hãy quay về với nghiệp cầm ca của cậu. Nhưng ta nhận thấy, cũng như ta hy vọng cậu sẽ làm như vậy, đó là việc bảo vệ gia đình cậu trước mối nguy hiểm, Craxxi nói.
– Cả hai, Astorre nói. Nhưng bác tôi đã cho tôi được tập dượt chỉ để đối phó với tình huống này. Tôi không thể thất hứa với bác ấy.
– Tốt lắm, Pryor nói. Nhưng hãy hình nhận thực tế này: Những gì cậu đang làm là phản tự nhiên của cậu. Hãy cẩn thận với những mạo hiểm mà cậu sẽ phải đương đầu. Đừng để bị lôi cuốn đấy.
Trùm Craxxi ôn tồn nói:
– Vậy ta giúp được gì cho cậu đây?
– Ngài đã nhận định đúng về anh em thằng Sturzo, Astorre nói. Chúng đã thú nhận làm vụ đó và còn khai với tôi đứa môi giới là John Heskow, một kẻ tôi chưa từng nghe tới. Vì thế bây giờ tôi phải tìm ra nó.
– Còn anh em Sturzo? Craxxi hỏi.
– Chúng đã xong rồi.
Hai lão già im lặng. Sau đó Craxxi nói
– Ta biết Heskow. Nó làm nghề môi giới đã hai mươi năm nay. Có những lời đồn về việc nó đã môi giới một số vụ ám sát chính trị nhưng ta không tin. Còn bây giờ, bất kỳ phương pháp nào cậu đã sử dụng để buộc anh em thằng Sturzo lên tiếng cũng sẽ không nên áp dụng với Heskow. Nó là một nhà thương lượng có hạng, và nó sẽ nhận ra rằng nó phải mặc cả để khỏi mất mạng. Nó sẽ biết cậu rất cần những thông tin mà chỉ nó mới có thể cung cấp cho cậu.
– Nó có một đứa con trai và nó hết mực cưng chiều, Astorre nói. Một cầu thủ bóng rổ, thằng nhóc là tất cả đối với Heskow.
– Đấy là một kế sách cũ mà nó sẽ dùng đến, Pryor nói, bằng việc giữ lại những thông tin quan trọng và cung cấp cho cậu những thông tin không quan trọng. Cậu phải hiểu Heskow. Nó suốt đời mặc cả với cái chết. Hãy tìm phương pháp khác.
– Còn nhiều điều tôi muốn biết trước khi tôi có thể đi xa hơn, Astorre nói. Ai đứng sau vụ giết người, và nhất là tại sao? Tôi nghĩ, việc này phải liên quan đến các nhà băng. Có kẻ nào đó đang nhòm ngó các nhà băng.
– Thằng Heskow có lẽ biết ít điều về chuyện đó, Craxxi nói.
– Cái làm tôi lo lắng, Astorre nói, là không có sự theo dõi của cớm và FBI tại nhà thờ vào bữa làm thánh lễ. Anh em Sturzo bảo tôi rằng chúng được bảo đảm sẽ không có việc giám sát ở đó. Tôi có thể tin cớm và FBI đã biết trước về vụ mưu sát không? Có khả năng ấy không?
– Có thể, Craxxi lên tiếng. Và trong trường hợp đó cậu phải thận trọng. Đặc biệt với thằng Heskow.
Pryor lạnh lùng nói
– Astorre này, mục đích cơ bản của cậu là giữ các nhà băng và bảo vệ các con của Don Aprile. Báo thù chỉ là phụ và thậm chí, có thể bỏ đi được.
– Tôi cũng không biết nữa, Astorre lập lờ nói. Tôi còn phải nghĩ đã, chàng nở một nụ cười chân thật với cả hai lão. Nhưng còn phải xem nó tiến triển ra sao đã chứ.
Hai lão già không tin chàng ngay. Trong đời mình họ đã biết và nhận ra chân tướng những gã chíp hôi như Astorre. Họ xem chàng là hiện tượng lại tổ của các trùm Mafia thời kỳ đầu, loại người mà bản thân họ không thích hợp vì thiếu cái uy và ý chí – những phẩm chất chỉ có ở những người vĩ đại: những con người đáng kính cai quản các lãnh địa, dám coi thường luật lệ của nhà nước và chỉ biết đến chiến thắng. Họ nhận ra trong Astorre ý chí, nét quyến rũ và cả sự kiên định đó, những cái mà bản thân chàng cũng không biết. Ngay cả vẻ ngây ngô, đam mê hát hò và ngựa nghẽo cũng không làm thay đổi định mệnh của chàng. Chúng chỉ là những thú vui của tuổi trẻ và bộc lộ tấm lòng nhân hậu của chàng mà thôi.
Astorre kể cho họ nghe việc viên tổng lãnh sự Mariano Rubio và Inzio Tulippa đang cố mua các nhà băng, việc Cilke muốn sử dụng chàng để bẫy Portella. Hai lão già lắng nghe hết sức chăm chú.
– Lần tới hãy gửi chúng cho tôi. Pryor nói. Theo những nguồn tin của tôi thì Rubio là giám đốc tài chính của mạng lưới buôn bán ma tuý toàn cầu.
– Tôi sẽ không bán các nhà băng, Astorre nói. Ông Trùm đã lệnh cho tôi như vậy.
– Tất nhiên, Craxxi nói. Chúng là tương lai và có thể che chở cho cậu. Hãy để ta kể cậu nghe một mẩu chuyện. Trước lúc nghỉ hưu, ta có một người bạn, một nhà kinh doanh ngay thẳng, một niềm tự hào cho xã hội. Ông ấy mời ta tới ăn trưa tại công ty, trong phòng ăn riêng của ông ấy. Ăn xong ông ấy dẫn ta đi tham quan và chỉ cho ta thấy một ngàn chiếc máy tính được các nam nữ thanh niên vận hành. Ông ấy bảo ta
– Căn phòng kia mang về cho tôi mỗi năm một tỷ đôla. Trên đất nước này có gần ba trăm triệu người, và chúng tôi tận tâm làm cho họ mua các sản phẩm do chúng tôi làm ra. Chúng tôi chuẩn bị những xổ số, những giải thưởng và những món tiền thưởng đặc biệt, chúng tôi hứa hẹn đủ điều, tất cả đều hợp pháp để bắt họ nướng tiền vào tất cả các công ty của chúng tôi. Và ngài có biết cái gì mới là quan trọng không? Chúng tôi phải có các nhà băng. Chúng sẽ cung cấp tín dụng cho ba trăm triệu người này để họ tiêu những khoản tiền mà họ không có. Các nhà băng là chìa khoá của thành công, ngài phải nắm các nhà băng trong tay mình.
– Đúng thế, Pryors nói. Và hai bên đều có lợi. Dù lãi suất cao, nhưng những khoản nợ ấy thôi thúc họ, làm cho họ thành đạt hơn.
Astorre cười.
– Tôi mừng vì việc giữ các nhà băng là sáng suốt. Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Ông Trùm Aprile bảo tôi không được bán. Với tôi thế là đủ. Và việc chúng nó giết bác ấy mới là vấn đề.
Craxxi nói với Astorre một cách cứng rắn
– Cậu không được làm hại thằng Cilke. Chính phủ bây giờ quá mạnh, thừa sức giáng trả những hành động như vậy. Nhưng ta đồng ý với cậu, trong một chừng mực nào đó, nó là một đứa nguy hiểm.
– Bước đi sắp tới của cậu là thằng Heskow, Pryor nói. Nó là nhân vật quan trọng, nhưng một lần nữa cậu phải cẩn thận. Hãy nhớ rằng, cậu có thể nhờ Don Craxxi giúp đỡ và chính tôi cũng có lực lượng. Chúng tôi không hoàn toàn về hưu. Và chúng tôi có quyền lợi trong các nhà băng – đấy là chưa kể đến lòng yêu thương của chúng tôi đối với Don Aprile, người đang yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng.
– Ok, Astorre nói. Chúng ta có thể gặp lại sau khi tôi kiếm được thằng Heskow.
Astorre hiểu rõ tình thế nguy hiểm của mình. Chàng biết rằng thành công là rất nhỏ mặc dù chàng đã trừng phạt hai tên sát thủ. Chúng chỉ là một sợi chỉ được kéo ra từ những bí ẩn của vụ ám sát Trùm Aprile. Nhưng chàng trông cậy vào khả năng nghi ngờ cực kỳ chính xác đã ăn sâu vào chàng trong những năm học tập ở Sicily, nơi mà sự phản bội là không giới hạn. Bây giờ chàng phải hết sức thận trọng. Heskow có vẻ là một mục tiêu dễ ngắm, nhưng cũng có thể y chỉ là một cái bẫy.
Có một thứ làm chàng ngạc nhiên. Chàng đã nghĩ chàng sẽ sống hạnh phúc với một chân doanh nhân nhỏ và một ca sỹ nghiệp dư, nhưng bây giờ chàng cảm nhận thấy một niềm hoan hỷ mà trước đây chàng chưa từng biết tới. Có cảm giác rằng chàng đang quay về mọt thế giới mà ở đó chàng là một thành viên. Và rằng chàng có một sứ mệnh: Bảo vệ các con của Trùm Aprile, trả thù cho cái chết của người chàng hằng yêu quý. Chàng đơn giản chỉ phải bẻ gãy ý chí của kẻ thù. Aldo Monza đã đưa từ Sicily tới đây mười người xuất sắc. Theo chỉ thị của Astorre, hắn đã bảo đảm sinh kế cho gia đình của họ suốt đời dù bất cứ điều gì xảy đến với họ.
– Đừng có tin vào lòng biết ơn về những gì đã làm cho con người trong quá khứ, chàng nhớ ông Trùm đã dạy chàng. Cháu phải bắt họ mang ơn vì những gì cháu sẽ làm cho họ trong tương lai. Các nhà băng là tương lai của gia đình Aprile, Astorre và đội quân đang lớn mạnh của chàng. Đó là một tương lai đáng để đấu tranh bảo vệ bằng mọi giá.
Trùm Craxxi cung cấp cho chàng thêm sáu người và lão hoàn toàn chịu trách nhiệm về họ. Astorre đã biến ngôi nhà của mình thành một pháo đài với những hệ thống an ninh hiện đại nhất. Chàng đã chuẩn bị cả một ngôi nhà bí mật làm nơi “ trải nệm” phòng khi nhà chức trách muốn tóm chàng vì một lý do bất kỳ nào.
Chàng không sử dụng vệ sỹ. Thay vào đó, chàng trông cậy vào sự nhanh nhẹn của chính mình và sử dụng lực lượng bảo vệ của mình như những trinh sát trên những tuyến đường chàng sẽ đi qua.
Trước mắt chàng chưa sờ đến Heskow. Chàng lấy làm lạ về việc Cilke nổi danh như một người đáng kính, dù rằng Trùm Aprile đã mô tả về ông ta như vậy.
– Có những người đáng kính dành cả đời mình chuẩn bị cho một hành vi phản bội lớn nhất, ông Pryor đã nói thế với chàng. Nhưng bất chấp hết thảy, chàng cảm thấy tự tin. Tất cả những gì chàng sẽ phải làm là sống sót như những mẩu nhỏ trong bộ đồ xếp hình khớp lại với nhau.
Cuộc thử nghiệm thực sự sẽ đến từ những kẻ như Heskow, Portella, Tulippa và Cilke. Chàng sẽ phải đích thân nhúng tay vào máu một lần nữa.
Astorre mất cả tháng trời để tính toán một cách chính xác phải đối xử với John Heskow như thế nào. Y sẽ chết khiếp, quỷ quyệt, dễ khử nhưng khó mà moi được thông tin ở y. Dùng con trai y làm áp lực thì quá nguy hiểm – nó sẽ buộc Heskow âm mưu chống lại chàng trong khi vẫn vờ hợp tác. Chàng quyết định sẽ không để Heskow biết việc anh em Sturzo đã khai với chàng chính Heskow là tài xế trong vụ mưu sát. Điều đó có thể là y sợ mất mật.
Trong lúc đó, chàng thu thấp thông tin cần thiết về thói quen hàng ngày của Heskow. Dường như y là một kẻ ôn hoà dành hết tình cảm của mình vào việc trồng hoa rồi đem bán buôn cho những cửa hàng, thậm chí đôi khi y còn đích thân bán ở bãi đỗ xe lề đường ở Hamptons. Thú vui duy nhất của y là tới xem đội bóng rổ của con trai thi đấu. Y theo dõi lịch thi đấu của đội Villanova một cách đều đặn.
Một đêm thứ bảy của tháng Giêng Heskow dự định đi xem trận đấu giữa hai đội Villanova và Temple tại Madison Square Garden ở New York. Trước khi rời khỏi nhà y không quên bấm nút hệ thống báo động tinh xảo. Y luôn luôn thận trọng từng ly từng tý trong sinh hoạt hàng ngày, luôn luôn tin rằng y đã dự phòng rủi ro có thể. Và niềm tin của y là cái Astorre muốn dập tắt ngay khi cuộc gặp gỡ của họ vừa bắt đầu.
John Heskow lái xe vào thành phố và ăn tối một mình tại một nhà hàng Trung Hoa – gần Garden. Mỗi khi đi đây đó y luôn luôn ăn cơm Tầu vì đó là món y không thể tự nấu ngon hơn. Y thích người Trung Hoa. Họ lưu tâm đến công việc của mình, không bàn chuyện phiếm hay tỏ thái độ săn đón. Và chưa bao giờ y thấy một sai sót trong phiếu tính tiền. Y luôn kiểm tra cẩn thận vì thường gọi nhiều món ăn.
Đêm nay y đặc biệt thích món vịt Bắc Kinh, tôm nước ngọt và món sốt tôm hùm Quảng Đông. Y gọi cả một suất cơm rang, vài chiếc bánh bao nướng nhân trái cây và sườn heo tẩm gia vị. Y kết thúc bữa ăn bằng món kem trà xanh, món này phải tập mới thưởng thức được, nhưng nó chứng tỏ rằng y là người sành các món ăn Phương Đông.
Khi y đến Garden, khán đài mới kín một nửa. Y tìm chỗ ngồi ở giữa khu vực sân bóng.
Trận đấu không mấy hấp dẫn. Đội Temple đè bẹp đội Villanova, nhưng Jocko là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng trong trận đấu. Cuối cùng y quay lại phòng thay đồ.
Con trai y ôm chầm lấy y.
– Ồ ba, con rất mừng vì ba đã đến. Ba có muốn đi chơi rồi ăn với tụi con không?
Heskow rất hài lòng. Thằng con y là một đàn ông thực sự rồi. Đương nhiên lũ nhóc này đâu có muốn một anh già như y lẵng nhẵng bám theo chúng suốt đêm. Chúng muốn say sưa, chúng muốn vui vẻ, và có lẽ cả khoản tươi mát nữa.
– Cảm ơn con, Heskow nói. Ba ăn tối rồi, và ba còn phải về nhà. Đêm nay con chơi tuyệt quá. Ba tự hào về con. Cứ đi chơi đi, chúc con vui vẻ. Y hôn tạm biệt con và tự hỏi sao y lại may mắn đến thế. Ừ, con trai y có một người mẹ tốt, mặc dầu ả là một con vợ lăng loàn.
Heskow chỉ mất một tiếng đồng hồ là về đến nhà ở Brightwaters – các đại lộ ở Long Island hoàn toàn vắng ngắt vào giờ đó. Y mệt đừ khi về tới nơi, tuy nhiên trước khi vào nhà y không quên kiểm tra khu nhà trồng hoa để bảo đảm rằng nhiệt độ và độ ẩm đều tốt.
Dù kính trên mái nhà trồng hoa phản chiếu ánh trăng, nhưng những bông hoa vẫn có một vẻ đẹp hoang dã đáng sợ, hoa đỏ lại có màu đen, hoa trắng trông như những quầng hơi nước ma quái. Y thích nhìn chúng, nhất là khi y chuẩn bị đi ngủ.
Y tản bộ trên lối đi rải sỏi về nhà và mở khoá cửa. Vào trong nhà y nhanh nhẹn nhấn những con số trên tấm panô để tắt hệ thống báo động rồi đi vào phòng ngủ.
Bỗng y bủn rủn cả chân tay. Hai người đàn ông đang đợi y. Y nhận ra Astorre. Y quá hiểu cái chết và nhận ra nó trong nháy mắt. Bọn này sứ giả của thần chết đây.
Tuy nhiên y phản ứng với một phương pháp tự vệ hoàn hảo.
– Làm thế đéo nào mà hai đứa mày vào được đây, và tụi mày muốn cái quái gì hả?
– Đừng hốt hoảng, Astorre nói. Chàng tự giới thiệu, bổ xung thêm chàng là cháu của ông Trùm Aprile quá cố.
Heskow cố trấn tĩnh. Trước đây y đã từng rơi vào những tình huống khó khăn nhưng y luôn luôn bình an vô sự. Y ngồi xuống ghế xô pha nhằm mục đích để tay lên tay vịn và vươn tới chỗ giấu khẩu súng.
– Nào tụi mày muốn gì?
Trên mặt Astorre rạng rỡ nụ cười thích thú như trêu ngươi Heskow. Y đang chờ thời cơ thuận lợi. Thế rồi y bật ngón tay mở chiếc tay vịn và với lấy khẩu súng. Trong hộc rỗng không.
Đúng lúc đó ba chiếc xe hơi xuất hiện ở lối đi, đèn pha rọi vào phòng. Thêm hai người đàn ông nữa bước vào.
Astorre vui vẻ nói
– Tôi không hề đánh giá thấp anh, John ạ. Chúng tôi đã lục soát ngôi nhà. Chúng tôi tìm thấy một khẩu súng trong ấm pha cà phê, một khẩu nữa buộc dưới giường, một khẩu trong thùng thư giả, và một khẩu trong nhà tắm dưới cái chậu. Chúng tôi có bỏ sót khẩu nào không hả?
Heskow không trả lời. Tim y lại đập thình thịch. Y có thể thấy nó sắp phòi ra ngoài lồng ngực.
– Anh đang trồng cái quái gì trong khu nhà trồng hoa kia thế? Astorre cười hỏi. Cây thuốc phiện, cây gai dầu, cây cô ca, cây gì hả? Tôi đã nghĩ anh sẽ chẳng thèm bước vào nhà.
– Chấm dứt vòng vo với tao đi cho rồi, Heskow khẽ nói.
Astorre ngồi vào chiếc ghế tựa đối diện với Heskow rồi thảy hai chiếc ví hiệu Gucci – một màu vàng, một màu nâu – lên trên chiếc bàn uống cà phê giữa hai người.
– Xem đi, chàng nói.
Heskow với lấy và mở chúng ra. Cái đầu tiên đập vào mắt y là những tấm bằng lái xe của anh em Sturzo có dán ảnh của chúng. Dịch vị trào lên họng y chua lòm làm y phát buồn nôn.
– Chúng cắt đứt liên hệ với anh rồi, Astorre nói. Anh là kẻ môi giới vụ Don Aprile. Chúng còn nói anh đã bảo đảm sẽ không có sự theo dõi của NYPD và FBI tại buổi thánh lễ.
Heskow rà lại tất cả những gì đã xảy ra. Dù anh em Sturzó đã toi mạng người ta cũng không giết y được. Y cảm thấy hơi thất vọng vì sự phản bội đó. Nhưng hình như Astorre không hề biết y là kẻ lái xe. Vậy là sẽ có đàm phán, cái quan trọng nhất trong cuộc đời y.
Heskow nhún vai
– Tao không biết mày đang nói gì.
Aldo Monza vẫn cảnh giác lắng nghe, mắt dán vào Heskow. Thế rồi hắn xuống bếp và quay lại vơi hai tách cà phê đen. Hắn đưa một tách cho Astorre, tách còn lại cho Heskow. Hắn nói:
– Xem này, ông bạn có cả cà phê Italy cơ đấy – khá thật. Heskow ném cho hắn một cái nhìn khinh bỉ.
Astorre uống cà phê rồi chậm rãi nói với Heskow:
– Tôi nghe nói anh là một người thông minh, rằng đó là lý do duy nhất khiến anh chưa mất mạng. Vì vậy hãy nghe tôi và nghĩ cho kỹ. Tôi là người truy lùng tội phạm của Don Aprile. Tôi nắm tất cả các nguồn lực mà ông có trước khi về hưu. Anh biết ông ấy Aprile, anh cũng biết việc đó nói lên điều gì. Anh sẽ không đời nào dám làm kẻ môi giới, nếu ông không về hưu. Đúng thế chứ?
Heskow không trả lời. Y tiếp tục quan sát Astorre, cố gắng xét đoán chàng.
– Anh em thằng Sturzo đã tiêu rồi, Astorre tiếp tục. Anh có thể theo chân chúng. Nhưng tôi có một đề nghị, và ở đây anh phải hết sức tỉnh táo. Trong vòng ba mươi phút nữa anh sẽ phải thuyết phục được tôi rằng anh đứng về phía tôi, rằng anh sẽ hành động như người đại diện của tôi. Nếu không, anh sẽ được chôn dưới những gốc hoa trong nhà kính. Bây giờ, để tôi nói với anh những điều dễ chịu hơn. Tôi sẽ không lôi thằng con anh vào vụ này. Tôi không làm thế, hơn nữa, một hành động như thế sẽ làm anh trở thành kẻ thù của tôi và sẵn sàng phản tôi. Nhưng anh phải hiểu rằng tôi là người duy nhất giữ được tính mạng cho con trai anh. Kẻ thù của tôi muốn tôi chết. Nếu chúng thành công, bạn bè tôi sẽ không tha cho con anh. Số phận của nó gắn liền với tôi.
– Vậy cậu muốn gì? Heskow hỏi.
– Tôi cần thông tin, Astorre đáp. Anh cứ nói. Nếu tôi hài lòng thì chúng ta sẽ có một hợp đồng. Nếu tôi không hài lòng, anh sẽ chết. Vấn đề cấp bách của anh là vẫn còn sống đêm nay. Bắt đầu đi.
Heskow không mở miệng ít nhất là năm phút. Trước tiên y đánh giá Astorre – một thằng bảnh trai thế này, không hung ác hay đáng sợ. Nhưng anh em Sturzo đã ngoẻo đấy thôi. Rồi còn cả việc đột nhấp vào nhà qua hệ thống an ninh và nẫng hết súng ống nữa. Đáng ngại nhất Astorre còn chờ cho y với lấy khẩu súng không tồn tại. Thế thì đây không phải là trò hù doạ rồi, lại càng không phải là trò hù doạ mà y có thể thách thức. Cuối cùng Heskow uống hết tách cà phê và đưa ra quyết định của mình với thái độ dè dặt.
– Tôi phải đứng về phía cậu, y nói với Astorre. Tôi phải tin tưởng cậu để làm những việc đúng đắn. Người thuê tôi làm môi giới và trả tiền cho tôi là Timmona Portella. Tôi đã hối lộ để NYPD không theo dõi. Tôi là tay hòm chìa khoá của Timmona. Tôi đã trả thanh tra cảnh sát New York Di Benedetto năm trăm ngàn và cấp phó của y, Aspinella Washington, hai trăm năm mươi ngàn đô. Về sự bảo đảm của FBI, Portella bảo tôi rằng hắn chi phối được thằng cha Cilke, sếp FBI ở New York. Chính thằng Cilke đã bật đèn xanh cho vụ giết ông Trùm.
– Trước đây anh có làm việc cho Portella không?
– Ôi chao, có chứ. Hắn buôn lậu ma tuý ở New York nên có nhiều cảm tình đối với tôi. Trong liên minh của ông Trùm hắn không được mến mộ. Tôi chẳng có liên quan gì. Thế đấy.
– Tốt lắm, Astorre nói. Vẻ mặt chàng rất chân thành. Bây giờ tôi muốn anh phải cẩn thận. Vì chính quyền lợi của anh đấy. Anh còn muốn nói thêm điều gì với tôi không?
Và ngay lập tức Heskow hiểu y chỉ cách cái chết trong gang tấc. Y tin vào bản năng của mình. Y cười gượng gạo.
– Còn một việc nữa, y bổ xung. Ngay bây giờ. Tôi có một hợp đồng với Portella về cậu đấy. Tôi sẽ hối lộ nửa triệu cho hai thám tử để hạ cậu. Chúng tới tóm cậu, cậu chống lại và thế là chúng bắn cậu luôn.
Astorre có vẻ bối rối.
– Làm gì phải phức tạp và tốn kém đến thế? Chàng hỏi. Tại sao không thuê một thằng giết mướn?
Heskow lắc đầu.
– Người ta đánh giá cậu cao hơn thế. Sau cái chết của ông Trùm, một vụ giết người như thế sẽ thu hút quá nhiều sự quan tâm. Cậu là cháu ông ấy. Giới truyền thông sẽ đổ xô vào. Làm theo cách này che đậy được.
– Anh đã trả tiền cho chúng chưa?
– Chưa, Heskow trả lời. Tụi này phải gặp nhau đã.
– Được lắm, Astorre nói. Cứ tổ chức gặp gỡ mà không có hối lộ gì hết. Cho tôi biết trước chi tiết. Còn một việc nữa. Sau cuộc gặp không được đi cùng chúng.
– Chó chết, Heskow nói. Thế là thế nào hả? Ở đấy có nhiều cớm lắm.
Astorre ngã người trên ghế.
– Là thế đấy, chàng nói. Chàng đứng dậy thân tình ôm lấy Heskow. Hãy nhớ rằng, chúng ta phải giữ cho nhau được sống.
– Tôi có thể lấy đi một ít tiền không? Heskow hỏi.
Astorre cười.
– Không. Thế mới tuyệt chứ. Bọn cớm giải thích nửa triệu đô chúng có trong người ra sao hả?
– Chỉ hai mươi ngàn thôi vậy, Heskow đề nghị.
– Cũng được, Astorre hoà nhã nói. Nhưng không hơn đâu nhé. Chỉ một chút quà cáp thôi.
Lúc này tình hình rất cấp bách đòi hỏi Astorre phải gặp lại Trùm Craxxi và Pryor để lắng nghe lời khuyên của họ cho kế hoạch của chàng.
Nhưng tình hình đã thay đổi, Pryor đòi mang hai đứa cháu đến Chicago làm vệ sỹ. Và khi đến ngoại ô Chicago họ thấy điền trang hiện đại cảu Craxi đã biến thành một pháo đài. Con đường dẫn vào nhà bị những bót canh với đám tay chân hết sức côn đồ án ngữ. Một chiếc xe thông tin đỗ trong vườn cây ăn quả. Có ba gã trực cửa điện thoại đồng thời kiểm tra thẻ thông hành của khách.
Eric và Roberto, hai đứa Pryor gọi bằng cháu, là những gã trai chắc nịch và cường tráng, chuyên gia trong lĩnh vực vũ khí và rất mực tôn sùng bác mình. Họ hình như cũng biết chuyện của Astorre ở Sicily và tỏ ra rất kính nể chàng, làm giúp chàng từ những việc nhỏ nhất. Họ mang hành lý của chàng lên máy bay, rót rượu cho chàng trong bữa tối, họ trả khoản tiền boa và mở cửa cho chàng để chàng hiểu họ coi chàng là một người vĩ đại. Astorrre cố làm cho cả hai thoải mái, nhưng họ không lần nào tỏ ra quá trớn.
Những người bảo vệ Trùm Craxxi không lịch sự được như vậy. Chúng là những kẻ nhã nhặn nhưng cứng nhắc, hoàn toàn tập trung vào công việc của mình. Và tất cả đều mang vũ khí.
Tối hôm đó, khi Trùm Craxxi, Pryor và Astorre đã dùng xong bữa và đang ăn tría cây tráng miệng, Astorre hỏi Craxxi
– Tại sao an ninh lại nghiêm ngặt thế này?
– Chỉ để phòng xa thôi, chủ nhà thản nhiên trả lời. Ta đã nghe một số tin đáng lo ngại. Kẻ thù cũ của ta, thằng Inzio Tulippa đã đến Hoa Kỳ. Nó là đứa tham lam, và rất ẩu, vì thế cứ chuẩn bị sẵn là thượng sách. Nó đến để họp bàn với ông bạn Timmona Portella của chúng ta. Chúng phân chia lợi nhuận từ ma tuý và triệt phá kẻ thù của chúng. Tốt nhất là phải sẵn sàng. Nhưng lúc này cậu đang nghĩ gì, hả Astorre?
Astorre trình bày với cả hai những thông tin chàng đã nghe được và việc chàng đã xoay chuyển Heskow. Chàng kể cho họ về Portella, Cilke và hai thám tử.
– Bây giờ tôi phải hành động, chàng nói. Tôi cần một chuyên gia đánh bom và ít nhất mười người xuất sắc. Tôi biết cả hai ngài đều có thể giúp tôi. Song…. Chàng cẩn thận gọt vỏ quả lê màu vàng hơi xanh chàng đang ăn. Các ngài hiểu việc này sẽ nguy hiểm ra sao và tôi không muốn liên quan quá nhiều.
– Nhảm nhí, ông Pryor nóng này nói. Chúng tôi có được cuộc sống thế này là nhờ Don Aprile. Tất nhiên chúng tôi sẽ giúp. Nhưng hãy nhớ rằng, đây không phải là cuộc trả thù. Đây là vấn đề tự vệ. Vì vậy cậu không được làm hại Cilke. Chính phủ Liên bang sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta vô cùng khốn đón đấy.
– Nhưng thằng đó phải bị dằn mặt, Trùm Craxxi nói. Nó sẽ luôn luôn là một mối nguy hiểm. Tuy nhiên, phải căn nhắc việc này. Cứ bán quách các nhà băng và tất cả mọi người đều vui vẻ.
– Tất cả mọi người trừ tôi và người nhà của tôi. Astorre nói.
– Đó là cái phải cân nhắc, ông Pryor lên tiếng. Tôi sẵn sàng hy sinh cổ phần của mình tại nhà băng cùng Don Craxxi, dù tôi thừa biết nó sẽ trở thành một gia sản lớn. Nhưng điều quan trọng vẫn là một cuộc sống yên bình.
– Tôi không bán các nhà băng, Astorre nói. Chúng đã giết bác tôi thì chúng phải trả giá, chúng không thể đạt được mục đích. Tôi không thể sống trong một thế giới, nơi vị trí của tôi được ban cho bởi lòng nhân từ của thiên hạ. Bác tôi đã dạy tôi điều đó.
Astorre ngạc nhiên, quyết định của chàng đã làm cho Trùm Craxxi và Pryor trông dễ chịu hẳn ra. Họ cố giấu nụ cười. Chàng nhận ra rằng hai lão già này, dù đang ở đỉnh cao quyền lực, đều trọng nể chàng, họ nhận thấy ở chàng những cái họ không thể nào có được.
Craxxi nói,
– Bọn ta biết bổn phận của cậu đối với Don Aprile, cầu cho hương hồn ông ấy được an nghỉ và bọn ta cũng biết bổn phận của mình đối với cậu. Nhưng lưu ý điều này: Nếu cậu hấp tấp, và nếu có chuyện gì xảy ra với cậu thì bọn ta buộc lòng phải bán các nhà băng.
– Phải đấy, ông Pryor nói. Phải thận trọng.
Họ tiếp tục bữa tráng miệng. Trùm Craxxi hình như chìm trong suy nghĩ. Sau đó lão nói
– Tulippa là trùm ma tuý thế giới. Portella là bạn hàng của nó. Chúng cần phải có nhà băng để rửa tiền.
– Vậy thì làm sao Cilke nhập bọn với chúng được?
– Ta không biết, Craxxi nói. Mặc dù vậy, cậu không được hại Cilke.
– Làm như thế sẽ là một thảm hoạ, Pryor phụ hoạ.
– Tôi sẽ ghi nhớ điều đó, Astorre nói.
Nhưng nếu Cilke thực sự có tội thì chàng còn có thể làm gì?
Trước khi đưa con đi ngủ thám tử Aspinella Washington phải biết chắc rằng đứa con gái tám tuổi của mình đã ăn khuya, đã làm bài tập về nhà và cầu nguyện. Mụ rất mực yêu thương con và từ lây đã đẩy người cha ra khỏi cuộc đời cô bé. Cô giữ trẻ, con gái một cớm mặc đồng phục, tới nàh lúc 8 giờ tối. Aspinella hướng dẫn cô cách sử dụng thuốc cho con gái mình và nói mụ sẽ quay về trước nửa đêm.
Sau đó chuông báo hiệu ngoài cổng vang lên và Aspinella chạy xuống cầu thang. Mụ chẳng bao giờ sử dụng thang máy. Paul Di Benedetto đang đợi trong chiếc Chevrolet không mác màu nâu vàng. Mụ nhảy lên xe và buộc dây an toàn. Y là một tài xế đêm mệt mỏi.
Di Beneletto đang hút một điếu xì gà dài nên Aspinella mở cửa kính.
– Đi cỡ một tiếng đấy, y nói. Chúng ta phải nghĩ lại việc này. Y biết đây là một bước nhảy dài cho cả hai. Việc đầu tiên là nhận lấy khoản hối lộ và tiền buôn bán ma tuý, việc thứ hai là thực hiện một vụ giết người.
– Sao lại phải nghĩ lại? Aspinella hỏi. Chúng ta nhận nửa triệu để hạ một thằng đáng phải nằm trong biệt giam tử tội. Anh biết tôi có thể làm gì với một phần tư triệu chứ?
– Không, Di Benedetto nói. Nhưng tôi biết tôi có thể làm gì. Khi về hưu, tôi sẽ mua một toà nhà thật oách ở Miami. Nhớ rằng, chúng ta sẽ phải chịu đựng việc này đấy.
– Nhận hối lộ từ ma tuý giống như đi trên dây vậy. Aspinella nói. Tiên sư chúng nó.
– Đúng thế, Di Benedetto tán thành. Chúng ta phải kiểm tra xem thằng Heskow có mang tiền theo đêm nay không, Phải bảo đảm rằng nó không cho chúng ta leo cây.
– Nó luôn luôn đáng tin cậy, Aspinella nói. Nó là ông già Noel của tôi mà. Nếu nó không có một bọc tiền lớn thì nó sẽ là một ông già chết.
Di Benedetto cười ngất.
– Cưng ơi, cô đang bám theo thằng Astorre vậy mà cô có thể tống khứ nó đi ngay vậy sao?
– Vâng. Tôi đã đặt thằng Astorre dưới sự giám sát rồi. Tôi biết kho macaroni là nơi có thể tóm được nó. Đêm nào nó cũng làm việc rất khuya.
– Cô đã có tang vật để gài nó rồi à? Di Benedetto hỏi.
– Tất nhiên, Aspinella đáp. Nếu nó không mang theo tang vật tôi cũng chẳng thèm quan tâm.
Họ đi trong im lặng cỡ mười phút. Sau đó Di Benedetto thản nhiên hỏi
– Ai sẽ bắn.
Aspinella ném cho y một cái nhìn thích thú.
– Ồ Paul, anh đã mài đũng quần vào bàn giấy suốt mười năm qua. Anh đã thấy sốt cà chua nhiều hơn máu. Tôi sẽ bắn. Mụ có thể thấy y thờ phào nhẹ nhõm. Đàn ông chỉ là một lũ chó dái vô dụng.
Một lần nữa họ rơi vào im lặng. Cả hai mải suy nghĩ về những gì đã đưa đẩy họ đến bước ngoặt này của cuộc đời. Ba mươi năm trước, khi còn là một thanh niên, Di Benedetto đã gia nhập lực lượng cảnh sát. Sự tha hoá của y diễn ra từ từ không cách gì tránh nổi. Y khởi sự bằng những ảo tưởng về mình, y sẽ được kính trọng và ngưỡng mộ vì dám hy sinh cả cuộc đời mình để bảo vệ mọi người. Nhưng rồi thời gian đã làm phai mờ điều đó. Đầu tiên là những khoản lót tay của những kẻ bán hàng rong trên đường phố và những cửa hiệu nhỏ. Tiếp đó là vụ giúp một gã thoát khỏi trọng tội. Đó dường như là một bước nhỏ dẫn đến việc nhận tiền của những kẻ buôn bán ma tuý cỡ bự. Cuối cùng là của Heskow, kẻ rõ ràng đại diện cho Timmona Portella, trùm Mafia lớn nhất còn lại ở New York.
Đương nhiên, luôn luôn hiện hữu một lý do bào chữa thuyết phục. Con người ta có thể nhận mọi thứ hối lộ. Y thấy những quan chức cấp cao đang trở nên giàu có abừng tiền lại quả của những vi phạm buôn bán ma tuý, và những viên chức thấp hơn thậm chí còn hủ bại hơn, cuối cùng, y còn phải lo cho ba đứa con ăn học lên đại học. Nhưng trên hết vẫn là thái độ vô ơn của những người mà y bảo vệ. Các nhóm tự do cá nhân sẽ phản đối hành vi tàn bạo của cảnh sát nếu anh tẩn một tên buôn lậu da đen ở nơi này hay nơi khác. Giới truyền thông sẽ ỉa vào đồn cảnh sát mỗi khi có cơ hội. Dân chúng kiện cáo cả cớm. Cớm thì bị thải hồi sau nhiều năm phục vụ, bị cúp cả lương hưu, thậm chí còn ra toà. Bản thân y đã mọt lần phải ra toà rồi bị kỷ luật vì bị buộc tội đã tách riêng các tội phạm da đen. Y biết y không có thành kiến về vấn đề chủng tộc. Có phải đấy là lỗi của y khi hầy hết tội ở New York là dân da đen? Lẽ ra người ta phải làm gì – cấp cho chúng giấy phép đi ăn cắp như biện pháp giúp đỡ những người bị thiệt thòi hay bị đối xử bất công chắc? Y đã cất nhắc đám cớm da đen. Ở cơ quan y là cố vấn của Aspinella, tạo điều kiện để mụ thăng tiến bằng việc gieo kinh hoàng cho những tên tội phàm cùng màu da với mụ. Và người ta không thể khép mụ vào tội phân biệt chủng tộc. Nói tóm lại, xã hội ỉa vào cớm, những người bảo vệ họ. Tất nhiên, trừ phi họ bị giết khi đang thi hành công vụ. Làm một cớm trung thực chẳng được lợi lộc gì. Tuy nhiên, y không hề nghĩ việc này sẽ dẫn đến tội giết người. Xét cho cùng, y vẫn an toàn, ở đây chẳng có mạo hiểm, ở đây có rất nhiều tiền, và nạn nhân lại là kẻ giết người. Nhưng dù sao…
Aspinella cũng đang tự hỏi bẳng cách nào cuộc sống của mụ lại đi đến một tình trạng rối beng như vậy. Có Chúa chứng giám, mụ đã đấu tranh chống lại thế giới ngầm với một niềm say mê và nghiêm khắc, những phẩm chất đã làm mụ trở thành một huyền thoại của New York. Chắc chắn mụ đã nhận những khoản tiền hối lộ. Mụ chỉ bắt đầu cuộc chơi muộn hơn, khi Di Benedetto thuyết phục mụ nhận tiền buôn bán ma tuý. Đã nhiều năm nay y là cố vấn của mụ và vài tháng nay kiêm luôn cả người tình – không đến nỗi tồi, chỉ như một con gấu vụng về sử dụng tình dục như một phần của động cơ ngủ đông.
Nhưng sự tha hoá của mụ thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày làm việc đầu tiên sau khi được giới thiệu làm thám tử. Tại phòng giải trí của đồn, một cớm da trắng có tính độc đoán tên là Gangee đã vui vẻ cợt nhả với mụ.
– Này, Aspinella, gã nói. Với cái trôn của cô và cơ bắp của tôi, chúng ta sẽ quét sạch tội ác trong thế giới văn minh đấy. Đám cớm, trong đó có vài đứa da đen phá lên cười.
Aspinella nhìn gã lạnh lùng và nói
– Anh sẽ không bao giờ là bồ của tôi. Một thằng đàn ông dám xúc phạm một phụ nữ chỉ là một thằng bé dái.
Gangee cố giữ vẻ thân mật.
– Cái nhỏ bé của thằng này có thể lấp đầy cái trôn khổng lồ của cô bất cứ khi nào cô muốn thử. Còn tôi dù sao tôi cũng muốn thử vận may của mình.
Aspinella ngoảnh cái mặt lạnh tanh của mụ về phía gã
– Da đen còn hơn một thằng hèn, mụ nói. Đi mà thủ dâm, người đâu mà đần như cứt.
Cả phòng dường như chết điếng bởi ngạc nhiên. Mụ đã làm Gangee đỏ mặt. Một thái độ coi thường độc địa như vậy thể nào cũng dẫn tới ẩu đả. Gã tiến về phía mụ, thân hình lực lưỡng của gã đang vượt qua khoảng trống.
Aspinella mặc đồng phục. Mụ rút súng nhưng không chĩa vào gã.
– Cứ thử xem, rồi tao sẽ thổi bay hai hòn dái của mày, mụ nói, và trong phòng không ai dám nghi ngờ mụ sẽ bóp cò. Grangee dừng lại và lắc đầu ghê tởm.
Vụ xô xát, tất nhiên được báo cáo. Về phần Aspinella, đấy là một hành động phạm luật nghiêm trọng. Nhưng Di Benedetto đủ khôn ngoan để biết rằng một cuộc kiểm tra của ngành sẽ là một thảm hoạ chính trị đối với NYPD. Y dập tắt toàn bộ sự việc và có ấn tượng với Aspinella đến nỗi y điều mụ về nhóm của mình và trở thành cố vấn của mụ.
Việc có ít nhất ba cớm da đen ở trong phòng và không một ai trong số họ đứng lên bảo vệ mụ đã tác động đến mụ nhiều hơn bất cứ điều gì. Thực vậy, họ cười cợt với những trò đùa của tên cớm da trắng. Mối liên kết về giới mạnh hơn mối liên kết về chủng tộc.
Sau đó việc làm của mụ đã chứng mimh rằng mụ là một cớm cừ nhất trong đơn vị. Mụ thẳng tay với bọn buôn bán ma tuý, buôn lậu, cướp có vũ trang. Mụ không dung tha cho chúng, dù là da trắng hay da đen. Mụ bắn chúng, nện chúng, sỉ nhục chúng. Những lời buộc tội được đưa ra chống lại mụ nhưng chẳng ăn thua gì và công trạng của mụ đã biện minh cho mụ. Tuy nhiên những lời buộc tội đã khơi ngòi cho cơn thịnh nộ của mụ chống lại chính xã hội. Làm sao người ta dám chất vấn mụ khi mụ bảo vệ họ khỏi đám cặn bã xấu xa nhất trong thành phố? Di Benedetto ủng hộ mụ hoàn toàn.
Có một tình huống tế nhị khi mụ bắn chết hai thằng choai choai trấn lột mụ trên phố Harlem sáng trưng, ngay bên ngoài căn hộ của mụ. Một thằng đấm vào mặt mụ, còn thằng kia giật lấy cái ví của mụ. Aspinella rút súng và hai thằng nhãi sợ chết khiếp. Rất từ từ mụ bắn cả hai đứa. Không chỉ vì một cú đấm vào mặt, mà còn để gửi một lời cảnh cáo không được giở trò trấn lột trong khu vực nhà mụ. Các nhóm đòi quyền tự do dân sự tổ chức một cuộc phản đối, nhưng Sở phán quyết rằng mụ đã sử dụng sức mạnh hợp pháp.
Chính Di Benedetto đã thuyết phục mụ nhận khoản hối lộ đầu tiên về một hợp đồng mà tuý rất quan trọng. Y thân mật như một ông chú đáng yêu.
– Aspinella, y nói, ngày nay cớm đếch phải lo lắng nhiều về hòn tên mũi đạn. Nhưng phải dè chừng các nhóm đòi quyền tự do dân sự, các công dân và lũ tội phạm đòi bồi thường thiệt hại. Phải dè chừng các thủ lĩnh chính trị trong ngành, họ sẵn sàng lôi cô ra trước vành móng ngựa để hốt phiếu bầu. Cô chỉ là một nạn nhân bình thường liệu cô có chấp nhận kết cục như đám con nghiện đáng thương trên đường phố, những kể chuyên hiếp dâm, cướp bóc và trấn lột hay không? Hay cô sẽ tự bảo vệ mình? Vậy thì làm tới đi. Cô sẽ nhận được sự che chở nhiều hơn từ những nhân vật có thế lực trong ngành, những người đã bị mua đứt. Sau năm sáu năm nữa cô có thể về hưu với một đống tiền. Và cô sẽ chẳng phải lo lắng về việc phải ra toà vì tội làm rối vài sợi tóc của một thằng trấn lột.
Vậy là mụ đã được đưa đường chỉ lối. Dần dần mụ say mê với việc gửi tiền hối lộ vào những tài khoản bí mật. Những cũng không vì thế mụ thả lỏng đám tội phạm.
Nhưng vụ này thì khác. Đây là một vụ giết người. Astorre là một thành viên quan trọng của Mafia đáng bị loại bỏ. Thật khôi hài, lúc đó mụ đang thi hành công vụ. Tuy nhiên vụ này ít rủi ro mà thù lao lại hậu hĩnh. Một phần tư triệu cơ mà.
Di Benedetto lái xe rời đại lộ Southem State và ít phút sau y dừng lại tại bãi đỗ xe của một khu buôn bán. Tất cả các gian hàng đã đóng cửa, kể cả tiệm bánh pizza phô trương bảng quảng cáo bằng ánh đèn nêông đỏ nơi cửa sổ. Cả hai bước xuống xe.
– Đây là lần đầu tiên tôi thấy một hiệu bánh pizza đóng cửa sớm như vậy, Di Benedetto nói. Mới có 10 giờ đêm.
Y dẫn Aspinella đến cửa ngách của tiệm bánh pizza. Cửa không khoá. Họ leo lên mười hai nhịp cầu thang. Ở đó có một căn hộ hai phòng ở bên tay trái và một phòng ở bên tay phải. Y làm hiệu, và Aspinella kiểm tra căn hộ bên tay trái trong khi y đứng gác. Sau đó họ bước vào căn phòng bên tay phải. Heskow đang chờ họ.
Heskow đang ngồi ở cuối một chiếc bàn gỗ dài với bốn chiếc ghế gỗ ọp ẹp vây quanh. Trên bàn có một chiếc túi vải len mịn kích thước bằng một bao cát tập đấm và có vẻ đầy ự. Heskow bắt tay Di Benedetto và gật đầu chào Aspinella. Mụ nghĩ mụ chưa từng thấy một người da trắng nào nom trắng như vậy.
Căn phòng chỉ có một bóng đèn tròn lờ mờ và không cửa sổ. Họ ngồi quanh bàn, Di Benedetto chồm lên vỗ vỗ vào cái túi.
– Đủ cả chứ? Y hỏi.
– Nhất định rồi. Heskow run rẩy trả lời. Ừ, một kẻ mang tới 500000 đô trong một chiếc túi vải len căng thẳng cũng phải thôi, Aspinella nghĩ. Tuy nhiên mụ vẫn quan sát căn phòng xem nó có bị đặt máy nghe trộm hay không.
– Cho xem thử, Di Benedetto đề nghị.
Heskow nới lỏng sợi dậy buộc quanh miệng túi và đổ ra một nửa. Khoảng hai mươi bó tiền được cột bằng dây cao su trút lên bàn.
Hầu hết là các bó tiền một trăm đô, không có loại năm mươi đô và hai bó tiền hai mươi đô.
Di Benedetto thở dài.
– Đ. mẹ những tờ hai mươi đô. Y nói. Thôi được, bỏ chúng vào túi.
Heskow bỏ những cọc tiền vào túi rồi cột lại sợi dây.
– Khách hàng của tôi đề nghị vụ này phải làm càng nhanh càng tốt.
– Trong vòng hai tuần, Di Benedetto nói.
– Tốt, Heskow tán thành.
Aspinella đeo chiếc túi lên vai. Nó không nặng đến thế, mụ nghĩ. Nửa triệu đô đâu có nặng như thế này.
Mụ nhìn Di Benedetto bắt tay Heskow và cảm thấy bồn chồn. Mụ muốn chuồn khỏi nơi này. Mụ bắt đầu xuống thang, chiếc túi nằm ngay ngắn nơi vai mụ, mụ giữ nó bằng một tay còn tay kia bỏ không để còn rút súng. Mụ nghe thấy Di Benedetto theo sát phía sau.
Lát sau họ bước vào màn đêm mát lạnh. Cả hai ướt đẫm mồ hôi.
– Bỏ chiếc túi lên thùng xe, Di Benedetto nói. Y ngồi vào sau tay lái và châm thuốc. Aspinella đi một vòng rồi cũng lên xe.
– Mình đi đâu để chia chứ? Di Benedetto hỏi.
– Không đến chỗ tôi được. Ở đấy còn cô giữ trẻ.
– Cũng không đến chỗ tôi được, Di Benedetto nói. Mụ vợ tôi đang ở nhà. Hay chúng mình thuê một phòng khách sạn? Aspinella nhăn nhó và Di Benedetto bỗng nói
– Đến văn phòng của tôi. Chúng mình sẽ đóng cửa lại. Cả hai phì cười.
– Kiểm tra lại thùng xe một lần nữa đi. Phải bảo đảm nó đã được khoá chặt.
Aspinella không cãi lại. Mụ xuống xe, mở nắp thùng xe và lôi cái túi ra. Đúng lúc đó Paul bật công tắc điện.
Vụ nổ vãi ra một cơn mưa mảnh thuỷ tinh lên khắp dãy phố buôn bán. Chiếc xe dường như trôi lơ lửng trong không khí rồi rơi xuống đè bẹp thi thể của Paul Di Benedetto. Aspinella bị thổi văng ra xa mười bộ, một chân và một tay bị gãy. Một cơn đau xé ruột từ bên mắt bị rách làm mụ ngất đi.
Heskow đang đi phía sau cửa hiệu bánh pizza chợt cảm thấy một luồng không khí ép y vào toà nhà. Rồi y nhảy lên xe và hai mươi phút sau đã về tới nhà ở Brightwaters. Y thưởng cho mình một ly rượu rồi kiểm tra lại hai bó tiền toàn tờ một trăm đô la mà y đã lấy từ chiếc túi. Bó mươi nghìn đô – một món tiền thưởng xinh xắn. Y sẽ cho thằng con y vài nghìn tiêu vặt. Mà không, chỉ cho nó một nghìn thôi. Chỗ còn lại sẽ gửi vào một nơi an toàn.
Y xem bản tin khuya trên T.V có tường thuật một vụ nổ. Một thám tử bị giết, người còn lại bị thương nặng. Tại hiện trường có một túi vải len đựng rất nhiều tiền. Phóng viên của đài truyền hình không nói là bao nhiêu.
Hai ngày sau Aspinella Washington hồi tỉnh trong bệnh viện và mụ không hề ngạc nhiên khi bị hỏi rất tỉ mỉ về túi tiền và tại sao chỉ thiếu bốn mươi ngàn trong số nửa triệu đôla. Mụ không nhận là có biết về số tiền. Người ta hỏi mụ rằng ngài thanh tra và trợ lý của ông ta làm gì cùng nhau. Mụ từ chối trả lời với lý do đó là vấn đề cá nhân. Nhưng mụ nổi cơn tam bành trước câu hỏi mụ đã rơi vào hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy từ khi nào. Sở cũng không hề đếm xỉa gì tới mụ. Họ chẳng hề biểu dương những thành công của mụ. Tuy nhiên mọi việc cũng kết thúc êm đẹp. Sở không theo đuổi vụ này và làm mọi cách để cho cuộc điều tra về túi tiền không đi đến đâu.
Mất thêm một tuần lễ hồi phục nữa Aspinella mới nghĩ kỹ được mọi chuyện. Họ đã bị lừa. Và kẻ duy nhất có thể lừa được họ chính là Heskow. Và bốn mươi ngàn đôla biến mất khỏi khoản tiền hối lộ nói lên rằng con lợn tham lam này không thể nào cưỡng nổi việc ăn chặn của chính người của y. Rồi mụ sẽ bình phục, mụ nghĩ vậy, rồi mụ sẽ còn gặp lại Heskow một lần nữa.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.