Nếu Đời Anh Vắng Em

CHƯƠNG 15 – NỬA ĐỜI CÒN LẠI CỦA TÔI



Trong tâm hồn ẩn chứa rất nhiều thứ vô cùng quý báu mà chính chúng ta cũng không hề biết. Hoặc giả như cuộc sống của chúng ta thiếu những thứ đó, thì đó là vì mỗi ngày chúng ta đều trao nó cho người khác bởi nỗi sợ thất bại, sợ phải đau khổ và sợ không dám sở hữu chúng.
Thưa quý ông, quý bà, máy bay của chúng ta chuẩn bị hạ cánh xuống San Francisco. Xin vui lòng cài dây an toàn, dựng lại lưng ghế của quý khách.
Vẫn còn bàng hoàng vì những gì vừa đọc được, Martin lặng người, không nghe thấy thông báo của tiếp viên trưởng.
Cái tên ấy… Ngày sinh ấy…
Gục đầu xuống tập tài liệu, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi và tim đập dồn dập, anh vội vàng, run rẩy đọc nốt bản án. Bản án của phiên tòa đã kết tội Archibald mười năm tù giam vì gây thương tích nặng cho bác sĩ Alister.
Bản photo tập hồ sơ cải tạo của hắn ở nhà tù San Quentin có nhắc tới một vài vụ ẩu đã đã khiến hắn không được giảm án, song cũng đề cập tới việc hắn rất chăm đến thư viện và tham dự đều đặn các khóa học về lịch sử nghệ thuật của một giảng viên tình nguyện đến từ Stanford.
Song điều ngạc nhiên nhất là suốt thời gian ngồi tù, Archibald không hề được một người nào tới thăm. Không một người bạn dù chỉ để động viên: “Hãy cố lên”. Không một người thân để cho hắn biết tin tức về gia đình, chẳng có ai nói cho hắn biết về đứa con gái của hắn…
Rồi người ta đã mất dấu hắn sau cuộc vượt ngục vào tháng Mười một năm 1981. Joseph A. Blackwell đã bốc hơi hoàn toàn không để lại địa chỉ, để rồi biến thành Archibald McLean, vua trộm…
Martin săm soi trang giấy cuối cùng, một bản photo được sao chụp hôm qua. Khỏi cần nói cũng đoán được đây là một cuộc điều tra bổ sung vội vàng, được tiến hành gấp gáp bởi Cục Điều tra liên bang và kèm theo một bức ảnh mà anh vừa muốn nhìn nhưng cũng cảm thấy sợ: hình một cô gái có khuôn mặt khó nắm bắt, kính râm đeo trên mũi, ngồi sau tay lái chiếc xe Ford Mustang màu xanh ngọc lấp lánh dưới làn nước mưa mà anh không bao giờ quên được. Cô gái cuối mùa hè năm ấy đã từng yêu cầu anh: “Anh ở lại thêm đi!”
Để che giấu sự bối rối, anh quay mặt nhìn ra ô cửa. Sau những rặng núi cằn cỗi, anh mường tượng ra bờ biển California, những đợt sóng cồn của biển Thái Bình Dương và vịnh San Francisco.
Anh cũng đoán rằng Archibald và anh có chung một tình yêu không trọn vẹn.
Và nhất là, anh đoán ra rằng cuộc truy tìm Archibald có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với việc bắt giữ một tên tội phạm. Đó là cuộc điều tra về chính mình, một liệu pháp trị liệu thực thụ. Chẳng phải theo kiểu cứ tới đặt mông ngồi xuống đi văng của một phòng khám tâm lý, mà là sự đối diện với quá khứ của chính mình, với những nỗi sợ đã đào sâu chôn chặt từ lâu và những vùng nhân cách khó tỏ bày nhất của chính mình.
 
o O o
 
Không cần tới nửa giây Archibald đã mở xong khóa cửa ngôi nhà sàn nơi Gabrielle đang sống.
Hắn bước vào đó mà có cảm giác giống như bước vào một điện thờ và đột nhiên hắn bị cảm xúc chiếm lĩnh, như vừa bị một con thú nhảy lên cắn cổ. Chính trong ngôi nhà bồng bềnh trên mặt nước này, ba mươi ba năm về trước, hắn đã tỉnh dậy bên cạnh Valentine, cái buổi sáng tháng Mười hai đáng nguyền rủa ấy đã đẩy cuộc đời họ vào một cơn ác mộng.
Hắn thận trọng tiến vào bên trong. Mùi hương trầm lơ lửng trong không trung. Ngôi nhà trống trơn, song ngập tràn kỷ niệm. Chỉ đưa mắt một cái là hắn đã nhận ra bộ bàn ghế bằng gỗ sồi mà cả hai đã cùng nhau sơn lại, cái tủ đựng quần áo mua rẻ ở chợ đồ cũ Carmel, tấm gương soi cả người moi ra được trong một kho hàng thanh lý ở Monterey…
Làn gió biển nhè nhẹ thổi qua cánh cửa hé mở làm đung đưa những tấm rèm cửa mỏng nhẹ như làn hơi nước che hờ ánh sáng bên ngoài.
Hắn bước tiếp vào trong bếp, những mảnh ký ức lại càng hiện lên nhức nhối, những bữa trưa tình nhân, lần chuẩn bị đồ nấu thử công thức nổi tiếng của món mì sốt pesto, món ăn ưa thích nhất của Valentine, tiếng những ly rượu chạm vào nhau, những tiếng cười giòn giã, những đôi môi gắn vào nhau, tìm kiếm nhau.
Cố gắng chống cự lại những hình ảnh từ quá khứ hiện về, hắn mở vòi nước và vốc một ít nước vã lên mặt. Hai ngày trước, căn bệnh ung thư đang gặm nhấm tuyến tụy của hắn đột nhiên tấn công khiến hắn suy sụp tới mức không còn gắng gượng nổi dù chỉ chút xíu. Hôm nay, bỗng nhiên hắn thấy khỏe hơn hẳn. Thuốc giảm đau liều cao bắt đầu phát huy tác dụng, giúp hắn chống chọi với căn bệnh và ban cho hắn sự phục hồi tuy chỉ nhất thời song có thể cũng sẽ đủ thời gian để hắn nói chuyện với Gabrielle lần cuối.
Lần cuối cùng này cũng là lần đầu tiên.
 
o O o
 
Trong tù, nỗi đau đớn đã gần như khiến hắn phát điên và hắn luôn từ chối quyền làm cha của mình. Người ta đành giao Gabrielle cho bà ngoại của bé, một phụ nữ người Pháp hơi mơ mộng, lấy một chủ đồn điền trồng nho ở Sonoma Valley. Sau khi đào tẩu khỏi nhà tù San Quentin, vào những năm đầu thập kỷ 1980, hắn đã bí mật tìm hiểu về con gái và biết được rằng người ta nói với cô bé rằng cha cô bé đã chết, rằng gia đình cô trước kia sống ở Scotland và đó là một nơi rất xa xôi.
Suy cho cùng, có lẽ cứ như thế lại tốt hơn.
Thế nhưng, hắn không thể ngăn mình đến cổng trường chờ cô bé ra để được nhìn thấy con ít nhất một lần. Hắn quan sát con từ xa và những gì cảm nhận được khiến hắn kinh sợ. Hắn oán hận đứa nhỏ này! Hắn hận đứa bé kinh khủng vì chính nó đã tước mất của hắn người phụ nữ mà hắn yêu thương. Điều này thật bất công và vô lý, nhưng hắn chẳng thể làm gì để ngăn được cảm giác ấy.
Vì vậy, hắn đã chọn cách biến mất và hắn biết rất rõ phải làm điều đó như thế nào…
 
o O o
 
NHÀ NGỤC SAN QUENTIN – THÁNG MƯỜI NĂM 1977
– Và ông đã trốn thoát thành công?
– Đúng như những gì tôi đã kể với cậu, chàng trai ạ. Nhưng thời đó hai lá phổi của tôi vẫn chưa bị tàn phá.
Ngồi trên hai tấm đệm, Archibald và người bạn tù Ewan Campbell đang kể những câu chuyện đứt quãng về quá khứ. Nói đúng hơn là Campbell đang kể, còn Archibald chủ yếu lặng lẽ ngồi nghe.
Hai người đàn ông ở chung phòng giam với nhau đã được vài tháng. Sau thời gian đầu khá trục trặc, cuối cùng giữa hai người đã thiết lập được mối quan hệ đồng cảm thực sự và điều này càng được củng cố thêm nhờ tình đồng hương, họ đều là người Scotland.
Campbell đang thi hành bản án tù giam nhiều năm vì tội trộm tranh. Bằng mồm mép liến thoắng, tên này đã giúp cho Archibald vơi bớt nỗi khổ đau đang nhấn chìm hắn trong tuyệt vọng kể từ khi bị bắt giam.
– Bây giờ, với hệ thống an ninh như thế, ông sẽ không thể nào thoát ra được, Archibald tiếp lời và nhăn mặt.
– Cậu nhầm. Người ta cứ tưởng rằng chỉ cần một con ruồi đậu trên bức tranh thôi là có cả chục tên cớm chạy xe rú còi inh ỏi bu tới ngay. Nhưng đó là trong phim thôi. Thực tế hoàn toàn khác. Tin tôi đi, tất cả các bảo tàng trên thế giới đều có thể đột nhập vào được: chỉ cần biết được kẽ hở thôi.
– Thế ông có biết những kẽ hở đó không?
– Tôi biết kha khá. Đúng thế, tôi biết nhiều phết đấy…
Lão già ra vẻ tự mãn không che giấu, rồi cố tình nói thêm với Archibald:
– Cậu có muốn học thêm vài mánh khóe không?
Archibald chậm rãi lắc đầu rồi cười khẩy đáp:
– Tôi không muốn có kết cuộc giống ông.
Rồi như để tỏ rõ câu chuyện đã đến hồi kết thúc, hắn ngả người nằm xuống đệm và đọc tiếp cuốn tiểu thuyết đang dang dở: Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas.
Nhưng bạn tù của hắn vẫn không chịu buông tha:
– Chúng ta sẽ nói tiếp chuyện này sau nhé, anh bạn trẻ, sẽ nói chuyện sau.
 
o O o
 
Cứ như vậy, ròng rã tháng này sang tháng khác, Ewan Campbell đã dạy cho hắn tất cả những gì lão ta biết về nghề trộm trước khi chết rục trong tù vì căn bệnh ung thư phổi.
Vào thời điểm bước ngoặt cuộc đời, Archibald đã quyết định phát huy tất cả những gì hắn học được và đã hóa thân phần nào vào “thầy giáo” của mình. Vĩnh biệt Joseph Archibald Blackwell, chào mừng Archibald McLean!
Sau đó, nhân vật vua trộm mà hắn buộc lòng phải đóng vai đã khiến hắn phải thường xuyên cảnh giác, sống cuộc đời lẩn trốn, biến hóa theo nhiều danh tính, nhiều nơi trú ẩn và những phi vụ động trời. Sự vận động cả về trí óc lẫn thể xác đã giúp hắn duy trì cuộc sống và ngăn hắn không quá sa lầy vào những ăn năn, hối tiếc.
Mọi chuyện đã yên ổn trong một thời gian. Rồi hắn hiểu ra rằng thái độ bướng bỉnh cố tình chối bỏ sự tồn tại của con gái hắn không phải là điều Valentine mong muốn. Trong những đêm càng về sau càng trở nên ngắn ngủi, hắn vẫn thường giật mình tỉnh giấc bởi cùng một cơn ác mộng, luôn kết thúc bởi cùng một tiếng kêu:
“Nó là con gái, anh biết không, em chắc chắn đấy! Anh sẽ yêu nó, phải không, Archie, anh sẽ yêu nó!”
Giống như tiếng gọi từ một cõi xa xôi nào vọng lại chỉ cho hắn con đường đi.
Thế là vào ngày sinh nhật mười lăm tuổi của Gabrielle, hắn quyết định nối lại liên lạc với cô bé để nói ra sự thật và thanh minh cho mình.
Nhưng cho dù có sẵn thiện chí đó, hắn cũng chẳng có can đảm.
Bởi hắn vẫn luôn xấu hổ về thái độ của mình – hắn chẳng biết phải dùng lời nào để biện minh – và hắn sợ con gái hắn sẽ phản ứng. Nếu con bé giống như mẹ nó thì chắc chắn nó cũng sẽ có cá tính vô cùng mạnh mẽ và có điều gì đó mách bảo hắn rằng nó sẽ chẳng dang rộng đôi tay để đón nhận hắn bước vào cuộc đời nó.
Để không phải bối rối ra đi mà. chẳng nói được vài lời ngắn ngủi nào với cô bé, hắn chỉ tìm ra một cách: cải trang.
Ngày 23 tháng Mười hai năm 1990, người lái xe taxi đưa cô ra sân bay: chính là hắn.
Ngày 23 tháng Mười hai năm 1991, ông cụ trông kỳ quái bị kẹt trong thang máy ở trung tâm thương mại cùng với cô: chính là hắn.
Ngày 23 tháng Mười hai năm 1992, người ăn xin bẩn thỉu chơi kèn xaxophone trên phố Market đã nhận của cô một đô la bố thí: chính là hắn.
Ngày 23 tháng Mười hai năm 1993, người bán hoa đã tới giao cho cô một bó hoa hồng một ngàn lẻ một bông từ một người ngưỡng mộ ẩn danh: cũng lại là hắn.
Hắn, hắn, hắn… luôn hiện diện nhưng không hề lộ diện vào tất cả các ngày sinh nhật của cô, đối với hắn, chừng ấy lần sinh nhật của con gái là chừng ấy hồi ức sầu thảm cứ lặp đi lặp lại.
Mỗi lần đối diện với con, hắn đều tự nhủ lần này đúng là cơ hội, rằng những lần phải lừa dối và ngụy trang đã kết thúc, nhưng lần nào hắn cũng đều chùn bước.
Thế nhưng những lần lén lút gặp Gabrielle đã làm dậy lên tình cảm cha con mà hắn chưa từng nghĩ là mình có. Vì bất an, hắn quyết định thuê một thám tử tư theo dõi con gái để cập nhật cuộc sống hằng ngày của con gái. Một cách làm chẳng hề trung thực và đạo đức, nhưng lại là phương thức duy nhất hữu hiệu giúp hắn có thể đứng trong bóng tối và giữ vai trò thiên thần hộ mệnh của con gái.
Mỗi lần tài khoản ngân hàng của cô gái cạn kiệt, mỗi lần người yêu cô quá thô bạo, những lần cháy túi, những khoản chi phí chăm sóc sức khỏe không lường trước; hắn đều xử lý và lương trước mọi vấn đề. Dù sao thì có cũng hơn không, nhưng như thế vẫn chưa đủ…
Đến giờ, hắn biết căn bệnh kia không cho hắn quyền lựa chọn, và xét từ một góc độ nào đó thì như vậy lại giúp cho mọi chuyện trở nên đơn giản hơn.
 
o O o
 
Archibald mở tủ lạnh và bật nắp một lon bia Corona.
Cầm lon bia trong tay, hắn đi lại trong phòng khách, xem xét từng món đồ trang trí, tò mò khám phá những cuốn sách, những bộ phim mà con gái yêu thích.
Cô đã để quên chiếc Blackberry đang sạc pin dở vứt trên đĩa đựng hoa quả. Hắn lật qua lật lại cái máy và chẳng khách sáo xem luôn email và tin nhắn của cô: toàn những mẩu tin chẳng lấy gì làm lịch sự của những gã đã gặp ở các buổi tiệc tối, những lời mời đi uống nước, những lời tán tỉnh gạ gẫm chẳng để lại tên tuổi. Sao Gabrielle có thể coh lũ khốn ấy số điện thoại nhỉ?
Trên giá chỉ có hai khung ảnh. Tấm ảnh đầu tiên hắn biết rất rõ vì chính hắn là người cầm máy chụp: tiếng cười của Valentine, bị át đi bởi tiếng sóng biển đập vào những vách đá ở mũi Antibes trong kỳ nghỉ của hai người tại Pháp. Tấm ảnh thứ hai chụp một chàng trai trẻ khoảng hai mươi tuổi: Martin Beaumont, vào mùa hè năm 1995.
Chính cái anh chàng Martin Beaumont đã bám theo hắn nhiều năm trời. Anh chàng Martin Beaumont mà hắn đã dụ chơi mèo đuổi chuột và chính hắn cũng đã cho người theo dõi từ nhiều tháng nay.
Archibald đeo kính và để nhìn cho rõ bức ảnh. Hắn đã từng xem hàng chục tấm ảnh chụp Martin, nhưng tấm này thì hoàn toàn khác. Khuôn mặt này gợi hắn nhớ tới một khuôn mặt khác. Khuôn mặt của một người đàn ông đã hoàn toàn buông vũ khí mà chẳng hề sợ hãi. Khuôn mặt của người đàn ông đang ngắm nụ cười bao dung của một người phụ nữ. Khuôn mặt của một người đàn ông mới yêu lần đầu.
Hắn máy móc tháo khung ảnh ra. Phía sau tấm ảnh, một tờ giấy nhỏ gập tư rơi xuống thảm. Archibald nhặt lên và mở ra xem. Đó là một lá thư đề ngày 26 tháng Tám năm 1995 bắt đầu như thế này:
Gabrielle thân mến,
Anh chỉ muốn báo để em biết ngày mai anh sẽ quay về Pháp.
Chỉ để nói với em rằng suốt quãng thời gian ở California, đối với anh sẽ không có gì quý giá hơn những lần được ngồi cùng em…
Bàng hoàng, hắn đứng lặng hồi lâu đọc đi đọc lại lời tỏ tình này.
Khi đặt khung ảnh trở lại trên giá, hắn nhìn trân trân vào đôi mắt Martin và nói một câu như thách thức.
– Để xem sức cậu đến đâu, chàng trai trẻ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.