Ngồi Khóc Trên Cây

14.



Sáng hôm sau, cô Út Huệ đãi tôi món xôi đậu xanh chấm muối mè ngon đến điếc lưỡi. Ăn xong, tôi cầm ly nước ngồi trước hiên lười nhác nhìn ra.
Chung quanh tôi, nhà cửa cây cối đều ướp nắng vàng. Sau khi được cơn mưa đêm tắm gội, lau chùi, mọi thứ càng như tỏa sáng.

Trên cành sầu đông trước ngõ đôi chèo bẻo chẳng biết đi đâu, chỉ thấy một con chiền chiện đang nghển chiếc cổ vàng hót chào bình minh.

Ở góc hàng rào, cây nắp ấm vừa nghe chim hót vừa đong đưa những bông hoa trong nắng mai theo cái cách người mẹ hiền đang sưởi ấm những đứa con bé bỏng, mặc dù đứa nào đứa nấy hình thù trông giống một bình rượu hơn là một đứa bé.

Ý nghĩ đó bất giác khiến tôi phì cười.

– Có gì vui vậy anh? 
Tiếng con Rùa từ bên kia hàng giậu vọng sang khiến tôi ngoảnh đầu lại.

– À, có gì đâu em!

Nhìn gương mặt tươi cười của nó thấp thoáng sau bóng lá, tôi sực nhớ đến lời hứa của mình hôm qua:

– Em chờ anh chút nhé!

Tôi chạy vô nhà cất vội cái ly rồi phóng sang nhà nó:

– Em đưa cuốn truyện đây anh đọc cho em nghe.

Con Rùa đã thủ sẵn cuốn Asterix và lưới hái vàng trong vạt áo. Không đợi tôi nhắc đến lần thứ hai, nó lôi cuốn sách ra chìa vào mắt tôi:

– Nè anh!

Giống như hai ông tiên đánh cờ trên hòn non bộ, một phút sau tôi và con Rùa đã ngồi trên phiến đá xanh dưới nhánh cây bướm bạc chụm đầu vào trang sách lốm đốm bóng nắng.

– Ngoại em kể em nghe tới chỗ nào rồi? – Tôi hào hứng hỏi.

Trong sự yên lặng đầy đặn và ấm áp của buổi sáng thôn quê, tôi ngạc nhiên nghe giọng nói của mình vang vang đến mức tôi có cảm tưởng tôi vừa kề miệng vào tai tôi để thốt lên câu đó.

Con Rùa một tay cầm cuốn sách, tay kia lật tới trang có đánh dấu:

– Tới chỗ này nè anh.

Truyện Asterix và lưỡi hái vàng tôi đã đọc qua rồi nên nhìn vô các bức tranh tôi nhớ
ra ngay đây là đoạn Obelix và Asterix bắt lão chủ quán Arvene dẫn đi tìm Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi hái vàng cho các pháp sư.

Tôi chỉ vào bức tranh lão Arvene ria rậm đang đánh xe bò xuôi dốc bị Obelix chặn lại, gật gù:

– Lúc này Obelix và Asterix đang chặn đường lão Arvene. 

– Obelix á?

– Ừ, Obelix và Asterix là một đôi bạn. Em cũng biết rồi mà, họ sống ở làng Gaulois…

– Không phải đâu anh! – Con Rùa lắc đầu nguầy nguậy – Đây là làng Đo Đo hồi xưa. Nó chỉ tay vào nhân vật Obelix đang khuân tảng đá to tướng sau lưng:
– Đây là bác Bụng Bự. Bác làm nghề đục đá trên núi Phụng Sơn… Tới lượt tôi ngơ ngác:
– Bác Bụng Bự ư? Ai bảo em thế?

– Ngoại em kể thế mà. – Con Rùa chớp đôi rèm mi dài – Ngoại em bảo hồi xưa người Pháp đến nước mình truyền đạo. Họ đi khắp nơi, và khi đến làng Đo Đo họ nghe dân làng kể chuyện bác Bụng Bự và bác Ria Vàng đi bắt bọn cướp, họ thích quá nên về viết ra cuốn truyện này.

Bác Ria Vàng theo như tay chỉ của con Rùa là nhân vật Asterix. Thoạt đầu tôi ngớ ra, nhưng nghe thêm một hồi tôi dần dần hiểu ra ông ngoại của con Rùa không hề biết tiếng Pháp. Ông nhìn vào các bức tranh và tưởng tượng ra một câu chuyện hoàn toàn khác để thỏa mãn yêu cầu của đứa cháu bé bỏng là con Rùa.

– Không phải đâu em. Câu chuyện người ta kể trong sách là như thế này…

Tôi hắng giọng nói, rồi chỉ tay vào trang đầu tiên tôi bảo với con Rùa rằng đây là ngôi làng Gaulois ở bên nước Pháp. Khi câu chuyện bắt đầu thì dân làng đang vui chơi thanh bình: Asterix kể chuyện săn bắn, Obelix đẽo đá, Tourix dạy bọn trẻ làng…
Bỗng nhiên mọi người nghe tiếng thét của pháp sư Panoramix vọng tới. Khi dân làng chạy lại thì thấy Panoramix đang đeo lủng lẳng trên cây sồi. Thầy vừa làm gãy chiếc liềm vàng chuyên dùng hái lá để chế tạo thuốc tăng sức mạnh. Đại hội pháp sư sắp tổ
chức mà không chế tạo được thần dược, thầy Panoramix xem như nắm chắc phần thất bại. Vì vậy, Asterix và Obelix lên đường đi đến Lutèce để tìm nhà buôn Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi liềm vàng…

– Không phải đâu anh. – Con Rùa lên tiếng phản đối, cái cách nó lúc lắc mái tóc cháy nắng như thể tôi vừa nói điều gì ngớ ngẩn – Người đang bị bọn cướp treo lên cây là bác Bông Gòn. Bác Bông Gòn cao tuổi nhất làng, là người duy nhất biết kho báu của nhà vua chôn giấu ở chỗ nào.

– Thế còn cây liềm trong tay… – Tôi cố vặn vẹo, đã bắt đầu ngập ngừng trước gương mặt đang bừng bừng của con Rùa.

– Đó là vũ khí của bác Bông Gòn mà anh. – Con Rùa ngước hai giọt nước long lanh nhìn tôi, có vẻ ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như vậy – Bác dùng chiếc liềm chống lại bọn cướp nhưng bọn chúng đã đánh gẫy chiếc liềm của bác.
Và do bác nhất định không hé môi về kho báu, bác đã bị bọn chúng treo lên cây…

Mặt trời lúc này đã lên cao, nắng dày hơn bắt đầu sưởi ấm hai đứa tôi và những trang sách. Tôi nhìn tia nắng xuyên qua những chiếc lá bướm bạc đang nhảy nhót trên má con Rùa, cảm thấy không nên tranh cãi với nó nữa. Ông nó đã phả tình yêu làng mạc quê xứ vào từng trang truyện của Rene Goscinny đậm đà đến mức con Rùa không thể chấp nhận một ngôi làng nào khác ngoài làng Đo Đo của nó (và cả của tôi) là địa điểm được nhắc tới trong truyện.

– Nếu đó là làng Đo Đo tại sao nhân vật trong truyện toàn mắt xanh mũi lõ? – Tôi vét hết hy vọng, hỏi một câu vớt vát.

– Họa sĩ phải vẽ như thế để trẻ em xứ họ dễ xem mà anh. Con Rùa giải thích một cách giản dị.
Và đó cũng là câu hỏi cuối cùng tôi hỏi con Rùa trong buổi sáng đầy nắng đó.

Sau đó tôi không còn gì để hỏi nữa, vì tôi biết nếu cố bắt bẻ con Rùa tôi sẽ là người thất bại.

Tôi đành phải làm cái chuyện bất đắc dĩ là chấp nhận chân lý đứng về phía ông ngoại con Rùa, càng khó khăn hơn nữa khi tôi phải kể tiếp cho nó nghe câu chuyện dở dang mà ông nó để lại như một gánh nặng đối với tôi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.