Người truyền ký ức
Chương 13 (Hết)
21
Nó sẽ thành công. Họ có thể khiến nó thành công, Jonas tự nhủ, lặp đi lặp lại suốt cả ngày. Nhưng tối đó mọi thứ đã thay đổi. Tất cả những điều họ tính toán tỉ mỉ đến thế đã sụp đổ. Tối đó, Jonas bắt buộc phải bỏ đi. Cậu rời khỏi nhà ngay sau khi trời sập tối và cộng đồng trở nên yên tĩnh. Việc này cực kỳ nguy hiểm vì một vài đội vẫn đang làm việc, nhưng cậu đi rón rén và nhẹ nhàng, ẩn mình trong bóng tối, chọn đường tới dòng sông băng qua những căn hộ tối tăm và Quảng trường Trung tâm vắng lặng. Bên kia Quảng trường, cậu có thể thấy Nhà Dưỡng lão, với Nhà Chái phía sau, nổi bật trên nền trời đêm. Nhưng cậu không kịp dừng lại đó. Thời gian lúc này được tính theo từng phút, và mỗi phút cậu phải rời cho xa khỏi cộng đồng.
Giờ đã lên tới cầu, cậu gò mình đạp xe thật nhanh. Cậu có thể thấy dòng nước tối đen đang gợn sóng phía dưới.
Thật ngạc nhiên là cậu không thấy sợ, cũng không thấy một chút hối hận nào vì đã bỏ lại cộng đồng. Nhưng cậu cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc vì đã bỏ lại người bạn thân nhất của mình. Cậu biết rằng do tính chất nguy hiểm của cuộc chạy trốn, cậu phải tuyệt đối im lặng; nhưng bằng trái tim và tâm hồn, cậu đã gọi vọng về và hy vọng rằng với khả năng nghe vượt giới hạn, Người Truyện thụ sẽ biết rằng Jonas đã nói lời từ biệt.
Chuyện xảy ra vào bữa tối. Gia đình cậu cùng nhau ăn tối như mọi khi: Lily huyên thuyên đủ điều, Mẹ và Bố đưa ra nhận xét theo thông lệ (và cả những lời nói dối nữa, Jonas biết thế) về ngày hôm đó. Gần đó, Gabriel vui vẻ chơi đùa trên sàn nhà, bập bẹ nói, thỉnh thoảng lại mừng rỡ nhìn Jonas, rõ ràng là rất sung sướng thấy cậu trở về sau đêm vắng nhà đột xuất.
Bố liếc nhìn xuống đứa trẻ đang chập chững. “Vui đùa thỏa thích đi, anh bạn nhỏ,” ông nói. “Đây sẽ là đêm cuối cùng cậu làm khách nhà tôi.”
“Ý bố là sao cơ?” Jonas hỏi.
Bố thở dài đầy thất vọng. “Chà, con biết đấy, sáng nay khi con về nhà nó đã không ở đây vì bọn bố đã giữ nó qua đêm tại Trung tâm Nuôi trẻ. Xem ra không có con ở nhà sẽ là một dịp tốt để đưa nó đi kiểm tra. Mấy hôm trước nó ngủ ngon lành thế cơ mà.”
“Chuyện không ổn hay sao?” Mẹ hỏi vẻ thông cảm.
Bố cười buồn bã. “Đó là nói tránh lắm rồi. Thật là thảm họa. Rõ ràng là nó khóc suốt đêm. Nhóm ca đêm không thể dỗ được nó. Lúc anh đến nơi thì họ đã hoàn toàn kiệt quệ.”
“Gabe, em hư quá,” Lily khẽ tặc lưỡi trách đứa trẻ đang toe toét cười trên sàn nhà.
“Vì vậy,” Bố nói tiếp, “hẳn nhiên là bọn bố phải đưa ra quyết định. Trong cuộc họp chiều nay, thậm chí cả bố cũng bỏ phiếu đồng tình phóng thích Gabriel.”
Jonas bỏ đĩa xuống và nhìn Bố chằm chằm. “Phóng thích á?” Cậu hỏi.
Bố gật đầu. “Rõ ràng là chúng ta đã cố gắng hết sức rồi, phải không?”
“Đúng vậy,” Mẹ đồng ý một cách dứt khoát.
Lily cũng gật đầu đồng tình.
Jonas cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh. “Bao giờ ạ?” Cậu hỏi. “Bao giờ nó sẽ bị phóng thích?”
“Ngay sáng mai. Bọn bố phải bắt đầu chuẩn bị cho Lễ Đặt tên, nên mọi người nghĩ là phải xử lý việc này ngay.”
“Sáng mai sẽ phải bai bai cậu rồi, bé Gabe,” Bố đã nói thế, bằng cái giọng nựng nịu ngân nga thường thấy.
Jonas tới bờ bên kia sông, dừng một chút, và nhìn lại. Cộng đồng mà cậu đã sống cả đời giờ đã nằm lại phía sau, và đang chìm trong giấc ngủ. Khi bình minh lên, cuộc sống trật tự và ngăn nắp mà cậu vẫn quen sẽ lại tiếp tục mà không có cậu. Một cuộc sống không có gì là đột xuất. Hay bất tiện. Hay khác thường. Một cuộc sống không có màu sắc, nỗi đau, hay quá khứ.
Cậu lại nhấn mạnh bàn đạp và tiếp tục đạp xe dọc phố. Thật không an toàn khi tốn thời gian nhìn lại. Cậu nghĩ tới những luật lệ mà cậu đã phạm phải cho đến giờ: đủ để nếu bị bắt lúc này, cậu sẽ bị kết án.
Đầu tiên, cậu đã rời khỏi nhà vào buổi tối. Một vi phạm nghiêm trọng.
Thứ hai, cậu đã lấy thực phẩm của cộng đồng: một tội ác cực kỳ hệ trọng, dù cho những thứ cậu lấy là đồ thừa, được đặt ngoài thềm nhà để Đội Thu Dọn lấy đi.
Thứ ba, cậu đã lấy cắp xe của Bố. Cậu đã đứng trong bóng tối bên bãi đỗ xe, lưỡng lự trong một lúc, không muốn lấy thứ gì của Bố và cũng không chắc chắn rằng thoải mái đi chiếc xe lớn hơn hay không, trong khi cậu đã quá quen với xe của mình. Nhưng điều đó là cần thiết vì nó có gắn kèm ghế trẻ con ở phía sau. Và cậu cũng đã đưa Gabriel đi cùng nữa.
Cậu có thể cảm thấy cái đầu nhỏ xíu thúc vào lưng và khẽ nảy lên khi cậu đạp xe. Gabriel được buộc vào ghế và đang ngủ ngon lành. Trước khi rời khỏi nhà, cậu đã áp chặt tay lên lưng Gabe và truyền cho cậu bé ký ức êm dịu nhất cậu tìm được: một chiếc võng đu chậm dưới những cây cọ trên hòn đảo ở một nơi nào đó, vào chiều tối, có âm thanh nhịp nhàng từ những con sóng chậm chạp xô vào một bờ biển gần đó như ru ngủ. Khi ký ức thấm từ cậu vào bé mới, cậu có thể cảm thấy giấc ngủ của Gabe dịu đi và sâu hơn. Và bé không hề ngọ nguậy khi Jonas bế bé từ giường cũi và nhẹ nhàng đặt vào chiếc ghế được làm riêng cho trẻ con.
Cậu biết mình chỉ còn từ giờ đến hết đêm và mọi người sẽ nhận ra việc cậu chạy trốn. Vậy nên cậu đạp thật lực, đều đặn và ép mình không được mệt khi từng phút, từng dặm trôi qua. Không có thời gian để nhận những ký ức mà cậu và Người Truyền thụ đã trông cậy, về sức mạnh và lòng dũng cảm. Nên cậu dựa vào những gì mình có, và hy vọng rằng như thế là đủ.
Cậu đạp qua những cộng đồng xa xôi, những khu nhà ở tối đen. Dần dần, khoảng cách giữa các cộng đồng rộng hơn, những đoạn đường vắng ngày càng thêm dài. Đầu tiên, cậu thấy đau chân; sau đó, khi thời gian trôi qua, chúng bắt đầu trở nên tê cứng.
Rạng sáng, Gabriel bắt đầu cựa quậy Họ đang ở một nơi vắng vẻ; những cánh đồng ở hai bên đường rải rác những bụi cây. Cậu thấy một dòng suối, và tiến đến đó, băng qua một bãi cỏ mấp mô và nhiều rãnh; Gabriel giờ đã tỉnh hẳn, đang khanh khách cười khi chiếc xe lắc bé lên xuống.
Jonas cởi dây cho Gabe, bế bé từ xe lên, và quan sát bé thích thú khám phá những ngọn cỏ và cành cây nhỏ. Cậu cẩn thận giấu chiếc xe vào trong những bụi cây rậm rạp.
“Bữa sáng đây, Gabe!” Cậu mở vài món thực phẩm và cả hai cùng ăn. Rồi cậu múc đầy nước suối vào chiếc cốc mang theo và giữ cho Gabriel uống. Bản thân cậu cũng tu ừng ực, rồi ngồi bên dòng suối ngắm bé mới chơi đùa.
Cậu đã kiệt sức. Cậu biết rằng mình phải ngủ, để cho cơ bắp nghỉ ngơi và chuẩn bị đạp xe lâu hơn. Đi lại vào ban ngày chẳng an toàn chút nào.
Họ sẽ sớm đi tìm cậu thôi.
Cậu tìm thấy một nơi trú ẩn sâu trong những hàng cây, liền đưa Gabriel đến đó và nằm xuống, ôm bé mới trong tay. Gabriel thích thú quẫy đạp như thể đây là một trò đấu vật, trò chơi mà cả hai vẫn chơi ở nhà, với những cái cù và tiếng cười giòn giã.
“Xin lỗi, bé Gabe,” Jonas nói. “Anh biết đã sáng rồi, và anh biết em vừa mới tỉnh dậy nhưng chúng ta phải ngủ thôi.”
Cậu ôm bé mới sát hơn nữa, và xoa vào cái lưng bé xíu. Cậu dịu dàng thì thầm với Gabriel. Rồi cậu ấn tay thật mạnh và truyền một ký ức về sự mệt mỏi sâu sắc và mãn nguyện. Sau ít phút, Gabriel gật gù và gục vào ngực Jonas.
Hai kẻ trốn chạy cùng ngủ qua cái ngày nguy hiểm đầu tiên.
Đáng sợ nhất là những chiếc máy bay. Tới giờ, nhiều ngày đã trôi qua; Jonas không còn biết là bao lâu nữa. Cuộc hành trình bắt đầu trở thành máy móc: ban ngày ngủ, trốn trong những bụi rậm và cây cao; tìm nguồn nước; tỉ mỉ chia từng mẩu thực phẩm, và thu lượm thêm những gì tìm được trên những cánh đồng. Và đến đêm lại tiếp tục những dặm đường vô tận trên chiếc xe đạp.
Bây giờ cơ chân của cậu đang căng như dây đàn. Chúng nhức nhối mỗi lần cậu nằm xuống ngủ. Nhưng chúng cũng khỏe lên, và giờ đây cậu ít phải dừng lại nghỉ hơn. Đôi khi cậu tạm nghỉ và bế Gabriel xuống để vận động một chút, cùng nhau chạy dọc con đường hoặc ngang qua một cánh đồng trong đêm tối. Nhưng lúc nào cũng vậy, khi cậu trở về, buộc đứa bé ngoan ngoãn vào ghế rồi trèo lên xe, đôi chân cậu lại sẵn sàng.
Vậy là bản thân cậu đã có đủ sức mạnh, và không cần tới ký ức mà đáng ra Người Truyền thụ đã cung cấp nếu họ có thời gian.
Nhưng khi những chiếc máy bay tới, cậu ước giá mà cậu đã được nhận lòng dũng cảm.
Cậu biết chúng là máy bay truy tìm. Chúng bay tới gần đến mức tiếng động cơ làm cậu tỉnh giấc, và thỉnh thoảng, khi lo ngại nhìn lên từ nơi trú ẩn, cậu gần như có thể thấy khuôn mặt của những người truy tìm.
Cậu biết rằng họ không thấy được màu sắc, và rằng da thịt của chúng, cũng như những lọn tóc vàng óng của Gabriel, cũng sẽ không hơn gì những vệt xám trên nền lá không màu. Nhưng cậu còn nhớ từ những tiết khoa học và cộng nghệ ở trường, rằng những chiếc máy bay truy tìm sử dụng thiết bị tầm nhiệt có thể phát hiện hơi ấm của cơ thể và sẽ tìm ra hai con người đang cuộn tròn trong những bụi cây.
Vậy nên mỗi khi nghe thấy tiếng máy bay, cậu lại chạm vào Gabriel và truyền ký ức về tuyết, giữ lại một chút cho bản thân. Cả hai cùng lạnh dần; và khi máy bay bay khỏi, chúng sẽ run rẩy, ôm lấy nhau, cho tới khi giấc ngủ lại ập tới.
Đôi lúc, khi truyền ký ức vào Gabriel, Jonas nhìn thấy chúng đã nhạt đi và yếu hơn trước đây một chút. Đó là điều cậu hy vọng, và là điều cậu và Người Truyền thụ đã dự định: rằng khi rời khỏi cộng đồng, cậu sẽ trút lại những ký ức và để chúng lại cho mọi người. Nhưng lúc này, khi cần đến chúng, khi máy bay đến, cậu đã cố hết sức để bấu víu vào những gì mình vẫn sở hữu, về cái lạnh, và dùng nó để sống sót.
Thông thường máy bay đến vào ban ngày, khi họ đang ẩn nấp. Nhưng ban đêm cậu cũng vẫn canh chừng, khi đang trên đường, luôn chú ý lắng nghe phòng tiếng động cơ. Thậm chí cả Gabriel cũng để ý nghe, và sẽ gọi to, “Máy bay! Máy bay kìa!” đôi lúc trước cả khi Jonas nghe được âm thanh khủng khiếp đó. Thỉnh thoảng, khi máy bay truy tìm tới trong đêm lúc chúng đang đạp xe, Jonas liền tăng tốc tới cái cây hoặc bụi rậm gần nhất, nằm bẹp xuống đất, rồi làm cho bản thân và Gabriel lạnh đi. Nhưng đôi khi cậu thoát trong đường cơ kẽ tóc đến rợn người.
Khi đạp xe trong đêm, giờ đây qua những vùng đất hoang vắng, cộng đồng đã ở xa phía sau và không có dấu hiệu sinh hoạt của con người ở xung quanh hay phía trước, cậu luôn phải cảnh giác, tìm kiếm nơi trú ẩn gần nhất nếu tiếng động cơ lại tới.
Nhưng những chiếc máy bay đã ít xuất hiện hơn. Chúng tới bớt thường xuyên hơn, và khi tới thì không bay chậm như trước nữa, như thể cuộc tìm kiếm giờ đây chỉ được chăng hay chớ. Cuối cùng cũng đến lúc suốt một ngày đêm chúng không hề xuất hiện.
22
Giờ đây, quanh cảnh trước mắt cậu đang dần thay đổi. Sự thay đổi diễn ra tinh tế, ban đầu khó nhận thấy. Con đường như hẹp lại và gồ ghề hơn, rõ ràng không còn có các đội làm đường chăm nom nữa. Đột nhiên việc giữ thăng bằng trở thành khó khăn khi bánh trước liên tục nảy trên sỏi đá và những cái rãnh trên đường.
Một tối, chiếc xe thình lình nảy xóc lên khi gặp một tảng đá, cú dừng đột ngột đã làm cậu văng ra khỏi xe. Theo bản năng, Jonas vội chộp lấy Gabriel; bé mới vẫn được buộc chặt trên ghế và không hề bị đau, chỉ đang sợ hãi vì chiếc xe đồ nghiêng sang một bên. Nhưng còn Jonas thì một bên mắt cá chân bị sai, đầu gối bị dập và trầy xước và máu đang rỉ ra từ vết rách ở quần. Dù đau đớn, cậu vẫn gượng đứng dậy, dựng xe và vỗ về Gabe.
Dù còn lưỡng lự, giờ đây cậu bắt đầu đạp đi cả ban ngày. Cậu đã quên đi nỗi sợ hãi về những kẻ truy lùng, những kẻ dường như đã trôi dần vào dĩ vãng. Nhưng giờ đây lại có những nỗi sợ hãi mới; quang cảnh xa lạ này chứa đầy những hiểm họa giấu mặt, chưa từng biết tới.
Cây cối mỗi lúc một dày hơn, cánh rừng hai bên đường tối và rậm rạp đầy bí hiểm. Những con suối xuất hiện nhiều hơn và cả hai thường xuyên dừng lại uống nước. Jonas cẩn thận rửa sạch vết thương ở đầu gối, cậu nhăn mặt khi chạm phải lớp thịt lộ ra. Những cơn đau nhức liên hồi vì mắt cá sưng phồng dịu dần sau nhiều lần cậu ngâm nó vào nước lạnh chảy qua các rãnh bên đường.
Cậu vừa mới hiểu ra rằng sự an toàn của Gabriel hoàn toàn phụ thuộc cậu giữ gìn được sức mạnh.
Chúng bắt gặp thác nước đầu tiên, và lần đầu tiên trong đời nhìn thấy thú hoang.
“Máy bay kìa! Máy bay kìa!” Gabriel gọi. Jonas vội vàng vòng xe nấp vào một lùm cây, mặc dù đã mấy ngày nay cậu không hề nhìn thấy máy bay và lúc này cũng không nghe thấy tiếng động cơ. Dừng xe, Jonas quay lại bế Gabe và thấy cánh tay mũm mĩm của cậu bé đang chỉ lên trời.
Cậu sợ hãi nhìn lên, nhưng không phải là máy bay. Mặc dù chưa từng nhìn thấy nó bao giờ, nhưng cậu có thể nhận ra nó từ ký ức mờ nhạt được nhận thường xuyên từ Người Truyền thụ. Đó là một con chim.
Chẳng mấy chốc, trên đường đi, hai cậu bé gặp rất nhiều chim bay lượn ríu rít phía trên đầu. Chúng nhìn thấy cả nai; và một lần, chúng thấy bên đường một con vật nhỏ màu nâu đỏ có cái đuôi dày đang nhìn chúng tò mò, không chút sợ hãi; nhưng Jonas không biết tên nó. Cậu đạp xe chậm lại và hai bên nhìn nhau cho đến khi con vật quay đi và mất hút vào rừng.
Mọi thứ đó đều mới mẻ với cậu. Bước ra khỏi cuộc sống đồng nhất và dễ dự đoán, cậu mê mẩn những bất ngờ chờ đợi ở mỗi quãng rẽ trên đường. Cậu liên tục phải đạp xe chậm lại để trầm trồ ngắm nhìn những bông hoa dại, lắng nghe một con chim lạ hót thánh thót gần đó, hay chỉ đơn giản là ngắm nhìn ngọn gió khẽ rung động trong những chiếc lá trên cây. Suốt mười hai năm sống trong cộng đồng, cậu chưa từng được cảm nhận niềm hạnh phúc mạnh mẽ từ những khoảnh khắc giản dị đến thế.
Nhưng trong cậu cũng đang hình thành những nỗi sợ hãi dữ dội. Và dai dẳng nhất trong những lo sợ mới này là nỗi sợ sẽ chết đói. Giờ đây, chúng đã bỏ lại rất xa những cánh đồng lương thực phía sau, gần như không thể kiếm được thức ăn nữa. Chúng đã ăn hết chỗ khoai tây và cà rốt ít ỏi dành dụm được từ đồng ruộng cuối cùng mà chúng đi qua, và giờ cả hai lúc nào cũng đói. Jonas quỳ gối bên một con suối và cố gắng một cách vô ích bắt cá bằng tay. Tức tối, cậu quăng bừa đá xuống nước, dù ngay khi đó đã biết rõ rằng làm thế là vô ích. Cuối cùng, trong tuyệt vọng, cậu quấn những sợi vải rút từ chăn của Gabriel quanh một đoạn que cong làm lưới.
Sau vô số lần nỗ lực, lưới của cậu đã tóm được hai con cá màu bạc đang nhảy tanh tách. Jonas cẩn thận lạng chúng thành từng miếng bằng một viên đá sắc rồi cả cậu và Gabriel cùng ăn những rẻo thịt sống ấy. Chúng ăn một vài quả mận rừng, và cố gắng bắt một con chim nhưng thất bại.
Đêm đến, khi Gabriel đã ngủ say bên cạnh, Jonas vẫn thức vì cơn đói hành hạ. Cậu nhớ về cuộc sống ở cộng đồng với những bữa ăn được đưa tới từng nhà mỗi ngày.
Cậu cố gắng sử dụng năng lực về ký ức đang ngày một yếu đi của mình để tái tạo những bữa ăn, và triệu được những mảnh ngắn trêu ngươi về những buổi tiệc tùng với những tảng thịt nướng lớn, bữa tiệc sinh nhật có bánh ngọt với lớp kem dày, những lùm cây lúc lỉu quả chín còn ấm hơi nắng và ướt sương, chỉ việc hái và ăn.
Nhưng khi những ký ức thoáng qua đó tắt đi, cậu chỉ còn lại cảm giác trống rỗng đau đớn, gặm nhấm. Jonas chợt nhớ lại đầy mỉa mai cái lần từ thời thơ ấu khi cậu bị kỷ luật vì đã dùng sai một từ: “chết đói”. Con chưa từng bị chết đói, cậu được dạy như thế. Và sẽ không bao giờ chết đói.
Giờ thì cậu đang đói muốn xỉu đây. Tất nhiên nếu vẫn ở cộng đồng, cậu sẽ không bao giờ rơi vào tình cảnh này. Chỉ đơn giản vậy thôi. Trước đây, cậu đã từng khát khao có được quyền lựa chọn. Rồi khi có nó, cậu đã thực hiện một lựa chọn sai lầm: bỏ trốn. Và giờ thì cậu đang chết đói.
Nhưng nếu cậu ở lại…
Dòng suy nghĩ của cậu vẫn tuôn chảy. Nếu cậu ở lại, cậu sẽ chết đói theo những cách khác. Cậu sẽ sống một cuộc đời đói khát những cảm xúc, sắc màu và tình yêu thương.
Còn Gabriel thì sao? Với Gabriel thậm chí sẽ không có cả cuộc sống. Vậy nên thực sự đó không phải một lựa chọn.
Việc đạp xe đối với Jonas lúc này đã trở thành cuộc đấu tranh lớn lao khi mà cậu đang càng lúc càng yếu dần vì đói, và cùng lúc ấy cậu nhận ra mình đang bắt gặp một thứ mà bấy lâu vẫn khao khát được thấy: những quả đồi. Mạch máu chỗ mắt cá chân bị sái đập dữ dội khi cậu nhấn bàn đạp tiến tới với một sức mạnh tưởng như không thể có được.
Thời tiết cũng bắt đầu thay đổi. Trời mưa liền hai ngày. Jonas chưa từng thấy mưa, dù cậu có rất nhiều ký ức về nó. Cậu từng yêu thích mưa, thích thú với cảm giác mới mẻ về mưa, nhưng lúc này thì khác. Cả cậu và Gabriel đều bị ướt và lạnh, rất khó hong khô người dù đôi lúc trời cũng có nắng.
Suốt cả chặng đường dài đầy gian khó, Gabriel chưa hề khóc. Nhưng lúc này đây, cậu bé đang gào khóc, vì đói, vì lạnh và vì yếu đi trầm trọng. Jonas cũng khóc, cũng với những lý do ấy, và còn thêm một lý do nữa. Cậu đang khóc vì lo sợ không cứu nổi Gabriel. Cậu không còn lo cho bản thân mình nữa.
23
Jonas càng lúc càng chắc chắn hơn rằng đích đến đang ở ngay phía trước, ở rất gần cậu, ngay trong cái đêm đang buông xuống đây. Không một giác quan nào của cậu xác nhận điều đó. Cậu không nhìn thấy gì phía trước, trừ con đường dài bất tận và ngoằn ngoèo những khúc quanh. Không một âm thanh nào vọng lại.
Nhưng cậu vẫn cảm thấy thế, rằng Nơi Khác không còn xa. Nhưng hy vọng tới được nơi đó lại rất ít ỏi. Hy vọng ấy càng thêm yếu ớt khi bầu không khí giá buốt đang mờ dần và đặc lại vì những luồng xoáy trắng toát.
Trên chiếc ghế nhỏ của mình, Gabriel đang im lặng cuộn tròn run rẩy trong lớp chăn không đủ kín. Jonas mệt mỏi dừng xe, bế cậu bé xuống và xót lòng nhận thấy Gabe đã trở nên yếu ớt và lạnh cóng làm sao.
Đứng trên một mỏm đất đang dần đóng băng quanh bàn chân tê cứng của mình, Jonas cởi áo trùm rồi áp chặt Gabriel vào ngực, thắt lớp chăn rách bẩn thỉu quanh cả hai. Gabriel khẽ cựa quậy, tiếng khóc thút thít của bé tan dần vào khoảng không tịch mịch.
Từ một nhận thức gần như đã bị lãng quên và lờ mờ như chính thứ đang rơi xuống, Jonas nhớ lại cái chất trắng xóa kia là gì.
“Là tuyết đấy, Gabe ạ,” Jonas thì thầm, “Hoa tuyết đấy. Chúng từ trên trời rơi xuống, thật đẹp phải không.”
Không có tiếng đáp lại từ đứa trẻ đã từng rất tò mò và lanh lợi. Qua bóng tối, Jonas nhìn xuống cái đầu nhỏ nhắn đang dựa vào ngực mình. Mái tóc xoăn của Gabriel bẩn và bết lại, và trên đôi má nhợt nhạt của bé có những vệt nước mắt viền cát bẩn. Đôi mắt bé nhắm nghiền. Đúng lúc ấy, một bông tuyết nhẹ nhàng đậu xuống hàng mi bé xíu đang run rẩy, lấp lánh trong giây lát rồi tan biến.
Jonas uể oải ngồi lên xe. Trước mặt cậu là một sườn đồi khá dốc. Trong điều kiện tốt nhất, việc leo được lên đó đã là rất gian nan. Còn giờ đây, lớp tuyết đang dày lên nhanh chóng đã che phủ lối đi hẹp khiến cho việc đó trở thành vô vọng. Đôi chân tê cóng và kiệt quệ của cậu gắng sức nhấn bàn đạp, bánh xe trước chỉ nhúc nhắc tiến lên chút xíu rồi dừng hẳn. Chiếc xe không thể đi được nữa.
Cậu xuống xe và để mặc nó đổ xuống tuyết. Trong thoáng chốc, cậu nghĩ sẽ đơn giản biết bao nếu cậu cũng thả mình bên chiếc xe, cả cậu và Gabriel cùng chìm vào lớp tuyết mềm mại, đêm tối mịt mùng và giấc ngủ ấm nồng êm ái.
Nhưng cậu đã tới được tận đây. Cậu phải tiếp tục tiến lên.
Giờ đây, những ký ức đã bị bỏ lại phía sau, thoát khỏi sự bảo vệ của cậu và trở về với mọi người trong cộng đồng. Có còn chút gì đọng lại chăng? Liệu cậu còn dựa nổi vào chút hơi ấm cuối cùng? Liệu cậu có còn đủ sức lực để Truyền thụ? Gabriel liệu còn có thể Tiếp nhận?
Cậu ấn đôi tay vào lưng Gabriel và cố gắng nhớ về ánh nắng. Trong giây lát, dường như không có gì tới với cậu, dường như năng lực của cậu đã cạn kiệt. Rồi đột nhiên nó khẽ lóe lên, cậu cảm thấy những luồng nhiệt mảnh đang len lỏi dần qua đôi chân lạnh cóng của mình. Cậu cảm thấy mặt mình nở ra và lớp da lên vì lạnh ở tay đang dần giãn ra. Trong tích tắc, cậu thấy muốn giữ lại cảm giác ấy cho riêng mình, được tắm trong nắng, không bận tâm đến một thứ gì hay một người nào khác.
Nhưng khoảnh khắc ấy nhanh chóng qua đi và thay vào đó là một sự thôi thúc, một nhu cầu, một khao khát nồng nhiệt được sẻ chia hơi ấm cho người cuối cùng cậu còn có để yêu thương. Với một cố gắng khiến cậu phát đau, cậu lấy hết sức truyền ký ức về hơi ấm vào thân thể nhỏ bé đang run rẩy trên tay cậu.
Gabriel cựa quậy. Hai đứa bé đang ôm chặt lấy nhau dưới làn tuyết rơi mù trời, trong phút chốc, đã được tắm trong nắng ấm và sức lực vừa hồi phục.
Jonas bắt đầu leo lên đồi.
Ký ức đó ngắn ngủi đến bực mình. Chỉ lê thêm được vài bước trong đêm tối là nó biến mất hoàn toàn. Cái rét lại bủa vây hai đứa bé.
Nhưng lúc này, trí óc cậu đang rất tỉnh táo. Dù chỉ được sưởi ấm trong chốc lát cũng đủ giúp cậu gạt bỏ trạng thái phờ phạc và buông xuôi, trả lại quyết tâm phải sống. Cậu bắt đầu bước nhanh hơn trên đôi chân gần như đã mất cảm giác. Thế nhưng quả đồi dốc đứng quỷ quyệt cùng lớp tuyết dày và sức yếu lại cản trở cậu. Chẳng được bao xa, cậu lại vấp và khuỵu ngã.
Quỳ dưới đất, không thể gượng dậy nổi, Jonas gắng sức lần thứ hai. Tâm trí cậu chộp lấy cái bóng của một mảnh ký ức ấm áp khác, bằng mọi giá giữ chặt nó lại, tăng cường nó, rồi truyền cho Gabriel. Hơi ấm chốc lát đã vực dậy tinh thần và sức lực, giúp cậu đứng dậy được. Cậu tiếp tục leo dốc, và một lần nữa, Gabriel lại khẽ rùng mình. Nhưng rồi ký ức cũng tan biến, còn lại cậu lạnh cóng hơn bao giờ hết. Giá mà cậu có thời gian để nhận nhiều hơi ấm hơn từ Người Truyền thụ trước khi bỏ trốn! Biết đâu giờ đây cậu vẫn còn chút ít để cứu lấy mình. Nhưng “giá mà” thì chẳng có nghĩa lý gì. Giờ cậu chỉ được phép tập trung vào chuyện di chuyển đôi chân, giữ ấm cho bản thân và Gabriel, và tiến lên phía trước.
Cậu leo lên, rồi dừng, lại cố gắng làm ấm cả hai trong chốc lát bằng mẩu ký ức nhỏ xíu mà cậu chắc chắn là cái cuối cùng còn vương vất lại.
Đỉnh đồi còn ở quá xa, và cậu không biết còn những gì đang chờ mình phía bên kia. Dẫu sao cũng không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục đi. Cậu khó nhọc lê từng bước.
Cuối cùng, khi cả hai rốt cuộc cũng lên tới gần tới đỉnh đồi, có cái gì đó bắt đầu xảy ra. Cậu không hề thấy ấm hơn, thậm chí cậu đang thêm phần lạnh giá và tê cóng. Cậu không bớt kiệt quệ chút nào, mà ngược lại, những bước chân của cậu nặng như chì, và cậu chỉ vừa đủ sức để di chuyển đôi chân giá buốt, mỏi mệt.
Thế nhưng, rất đột ngột, cậu bắt đầu cảm thấy hồi tưởng lại những thời khắc vui vẻ ngày trước. Cậu nhớ tới cha mẹ và em gái. Cậu nhớ những người bạn thân, Asher và Fiona. Và cậu nhớ tới Người Truyền thụ.
Những ký ức hạnh phúc bỗng ùa về.
Lên được tới đỉnh đồi, cậu có thể cảm nhận mặt đất dưới đôi bàn chân ngập tuyết của mình trở nên bằng phẳng. Vậy là cậu sẽ không còn phải leo dốc nữa.
“Sắp tới rồi, Gabriel!”, cậu khẽ reo lên, tin chắc điều đó tuy không rõ vì sao. “Anh còn nhớ chỗ này, Gabe ạ.” Và thực là thế. Nhưng lần này thì không phải một mẩu ký ức chớp nhoáng, mỏng manh và phiền toán; điều này khác hẳn. Đó là thứ cậu có thể giữ lại. Một ký ức của chính cậu.
Cậu ôm chặt Gabriel và xoa mạnh vào cậu bé, cố gắng sưởi ấm và giúp cậu bé sống sót. Gió buốt đến tê người. Tuyết cuộn xoáy che mờ tầm nhìn của cậu. Nhưng cậu biết ở phía trước, qua cơn bảo tuyết mù trời này, có hơi ấm và ánh sáng.
Bằng chút sức lực cuối cùng và một điều hiểu biết đặc biệt từ sâu bên trong cậu, Jonas tìm đến cỗ xe trượt tuyết đang nằm đợi trên đỉnh đồi. Đôi tay tê cóng của cậu lóng ngóng tìm kiếm sợi chão.
Cậu ngồi ngay ngắn vào xe và ôm chặt lấy Gabriel. Sườn đồi khá dốc nhưng tuyết đã trở nên mịn và mềm mại, và cậu hiểu rằng lần này sẽ không có băng, không sợ ngã hay đau đớn. Trong cơ thể đang tê cóng, trái tim cậu dâng trào niềm hy vọng.
Chúng bắt đầu trượt xuống.
Jonas thấy mình đang mất dần tỉnh táo và dồn toàn bộ ý chí để giữ mình ngồi thẳng trên xe, ôm chặt Gabriel và giữ cho bé an toàn. Những thanh trượt cắt qua lớp tuyết, gió quất mạnh vào mặt cậu khi chúng lao xuống trên một vạch thẳng tắp có vẻ sẽ dẫn về đích đến cuối cùng, một nơi mà cậu luôn cảm thấy đang chờ đón mình, cái Nơi Khác đang nắm giữ cả quá khứ và tương lai của chúng.
Cậu buộc mình phải mở to mắt trong lúc chúng lao xuống, lao xuống mãi, và thình lình cậu nhìn thấy ánh sáng, và giờ cậu đã nhận ra nó. Cậu biết chúng đang chiếu ra từ các khung cửa sổ trong phòng, biết chúng là những tia sáng đỏ, xanh, vàng lung linh từ những cái cây ở những nơi các gia đình đã tạo ra và gìn giữ bao ký ức, nơi người ta ca tụng tình yêu thương.
Xe lao vùn vụt, lao vùn vụt. Rồi đột nhiên, cậu vui sướng và tin tưởng hiểu rằng ở dưới kia, phía trước, người ta đang chờ đón cậu, và họ cũng chờ đón cả bé Gabriel nữa. Lần đầu tiên, cậu nghe thấy một thứ mà cậu hiểu rằng đó là âm nhạc. Cậu nghe tiếng người đang ca hát.
Sau lưng cậu, qua những khoảng không gian và thời gian xa lắc, từ nơi cậu đã ra đi, hình như cậu cũng nghe thấy tiếng nhạc. Nhưng có lẽ đó chỉ là âm thanh dội lại.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.