Glenarvan và những người cùng đi trải qua một đêm khủng khiếp biết bao. Robert tội nghiệp và Paganel dũng cảm thế là mất tích. Hẳn là họ trở thành những người đầu tiên bị hy sinh trong tay những người thổ dân ưa báo thù này rồi. Mọi hy vọng cũng đã tiêu tan nơi Mac Nabbs, một người không dễ gì chịu buồn nản. Còn John Mangles, nhìn cảnh Mary đau khổ, u sầu vì mất đứa em trai, cảm thấy mình như sắp điên lên. Glenarvan nghĩ đến lời yêu cầu thê thảm của Helena muốn được tự tay chồng giết mình để khỏi bị nhục hình và nô lệ. Liệu ông có đủ lòng can đảm đáng sợ để làm việc ấy không?
” Còn Mary, mình có quyền gì được giết nàng theo yêu cầu của nàng?” – John Mangles nghĩ, trong lòng vô cùng đau đớn.
Việc chạy trốn chắc là không thể được rồi. Mười tên lính vũ trang đến tận răng đang đứng gác trước cửa thánh đường.
Đã sang sáng ngày 12 tháng 2. Các thổ dân không đến gần những tù binh “Tabou” nữa. Trong thánh đường có vài thức ăn gì đó, nhưng những người bất hạnh chỉ động đến qua loa. Nỗi đau thương đã át cái đói. Một ngày trôi qua, không đem lại sự thay đổi hay niềm hy vọng nào. Chắc là việc chôn cất tên thủ lĩnh bị giết và việc xử tử người đã giết hắn sẽ diễn ra cùng một lúc.
Glenarvan tin chắc rằng Kai Koumou đã bỏ ý định trao đổi tù binh. Mac Nabbs thì vẫn còn hy vọng mỏng manh về điều ấy.
– Biết thế nào được,- ông ta nói với Glenarvan, biết đâu trong tim đen Kai Koumou lại không cho rằng chúng ta đã giúp hắn.
Nhưng, dù Mac Nabbs nghĩ thế nào thì Glenarvan vẫn không muốn tin vào điều gì nữa. Thêm một ngày lại trôi qua, mà không thấy có sự chuẩn bị gì cho việc xử tử cả. Sang ngày thứ ba, cánh cửa phòng giam đã mở. Mấy trăm thổ dân, đàn ông, đàn bà, trẻ con tụ tập ngoài sân trại. Họ bình tĩnh và im lặng.
Kai Koumou ra khỏi nhà và bước lên một nền đất cao đáp chính giữa sân. Đám thổ dân đứng thành hình bán nguyệt lui về phía sau một chút. Tất cả im phăng phắc.
Kai Koumou ra hiệu và một người lính đi vào trại giam.
– Anh nhớ nhé! – Huân tước phu nhân Helena nói với chồng.
Glenavan lặng lẽ ôm ghì vợ vào tim mình. Lúc ấy Mary Grant cũng đến bên John Mangles và nói:
– Huân tước và huân tước phu nhân đồng ý với nhau là nếu chồng có thể giết được vợ mình để tránh cho vợ sự nhục nhã, thì chồng chưa cưới cũng có quyền giết vợ chưa cưới, John, trong giờ phút cuối cùng này, lẽ nào em lại không dám nói rằng từ lâu, tận đáy lòng mình anh đã coi em là vợ chưa cưới của anh? Anh John yêu quý, liệu em có thể hy vọng vào anh như huân tước phu nhân Helena hy vọng vào Glenarvan không?
– Mary! – chàng thuyền trưởng trẻ bối rối kêu lên, – Mary, Mary thân yêu!
Chàng chưa nói hết câu, chiếc chiếu đã được vén lên và các tù binh được dẫn đến chỗ Kai Koumou. Hai người phụ nữ đã sẵn sàng chấp nhận cái chết. Những người đàn ông che giấu nỗi khổ tâm dưới cái vẻ bề ngoài bình tĩnh, nói lên sức mạnh siêu phàm của ý chí con người.
Những người tù binh trình diện trước thủ lĩnh New- Zealand. Bản án rất ngắn gọn:
– Mày đã giết Kara Tété? – Viên thủ lĩnh hỏi Glenarvan.
– Phải. – Glenarvan đáp.
– Sớm mai mày sẽ bị giết.
– Một mình tôi?
– Ồ, nếu như mạng sống của Tohonga không quý hơn mạng sống của đồng bọn mày! – Kai Koumou nói với vẻ thương tiếc tàn bạo.
Vừa lúc ấy có một người lính rẽ đám đông bước ra. Kai Koumou nói ngay với anh ta bằng tiếng Anh cốt để cho các tù binh cùng nghe câu chuyện.
– Mày ở trại của bọn Anh mới về?
– Vâng. – người lính đáp.
– Mày có gặp tù binh Tohonga của ta?
– Vâng.
– Ông ấy còn sống?
– Ông ấy chết rồi. Người Anh đã bắn ông ta.
Thế là số phận của Glenarvan và những người cùng đi đã được quyết định.
– Sáng mai, tất cả bọn bây đều sẽ phải chết! – Kai Koumou kêu lên.
Vậy là một sự trừng phạt giống nhau đang đợi những người bất hạnh. Huân tước phu nhân Helena và Mary Grant nhìn lên trời cầu nguyện…Họ được đưa vào nhà giam khi mặt trời lặn sau những xườn núi bên kia hồ Taupo, và sẽ ra khỏi đây lúc sớm mai, khi những tia nắng đầu tiên nhuốm vàng những đỉnh núi ấy.
Đây là đêm cuối cùng của họ trước khi chết. Mặc dù bị kiệt sức, mặc dù trải qua những giờ phút khủng khiếp, họ vẫn cùng ngồi ăn tối với nhau…
– Chúng ta cần có sức để dũng cảm nhìn vào cái chết, – Glenarvan nói, – Cần phải chứng tỏ cho những người dã man này thấy, chúng ta biết chết như thế nào?
Ăn xong, Helena đọc kinh tối. Những người khác cũng làm theo.
Rồi Mary Grant và Helena nằm sát bên nhau trên một chiếc chiếu trong góc nhà giam. Họ cố quên đau khổ, nhắm mắt lại….
Glenarvan kéo những người cùng đi sang một phía, nói:
– Các bạn thân mến, nếu ngày mai phải chết, thì chúng ta sẽ chết như những người dũng cảm, có trời chứng giám cho chúng ta. Chúng ta những mong hướng đến mục đích cao thượng. Dù sao tôi cũng không than tiếc gì. Nhưng nếu chỉ có chúng ta thôi, thì tôi đã có thể hô các bạn “hãy xong vào bọn bất nhân này, rồi tìm cách chạy trốn đi!”. Nhưng còn vợ tôi, còn Mary…
– John Mangles khẽ vén chiếc chiếu lên và bắt đầu đếm số lính canh gác ngoài cửa. Chúng có hai mươi lăm tên. Đứa nằm, đứa ngồi quanh đống lửa. Nhưng đứa nào cũng chăm chăm nhìn về phía trại giam mà chúng được giao canh giữ.
Nhà giam ấy sát núi và chỉ có một lối vào thông với con đường nhỏ đi ra sân doanh trại. Hai tường bên của nhà giam đều quay về sườn núi dốc đứng, dưới đó là vực sâu hàng trăm mét, không thể xuống được.
Cũng không thể nghĩ đến việc chạy trốn ở phía tường sau, bởi vì bức tường này tựa lưng vào một vách đá rất lớn. Lối thoát duy nhất là cửa ra vào trại, nhưng bọn lính lại đã canh gác chặn đường. Thế ta không thể chạy trốn được. Glenarvan, sau khi nghiên cứu tường trại giam có đến hai mươi lần, buộc phải thừa nhận như vậy.
Trong khi đó, cái đêm đầy đau đớn, giày vò cứ từng giờ, từng giờ nối tiếp trôi qua. Những ngọn núi chìm sâu vào bóng đêm dày đặc. Trên trời không thấy trăng sao. Thảng hoặc vài cơn gió lướt qua thổi bùng trong trại giam và những người tù trong đó – những người bất hạnh đang chìm đắm trong những suy nghĩ trước lúc chết. Căn nhà im lặng như tờ.
Khoảng gần bốn giờ sáng, bỗng có tiếng sột soạt nào đó đâu từ dưới chân tường sau, kề sát vách đá, vẳng đến, khiến thiếu tá chú ý.
Thoạt đầu, Mac Nabbs không quan tâm lắm đến tiếng động ấy. Nhưng, tiếng động vẫn không dứt. Thiếu tá bắt đầu lắng nghe, rồi thấy lạ, ông áp tai xuống đất để nghe cho rõ hơn. Ông thấy như có ai đang đục tường đào đất.
Khi Mac Nabbs tin chắc không bị tai đánh lừa, ông khẽ bước đến chỗ Glenarvan và John Mangles, kéo họ ra khỏi những suy nghĩ đau khổ, dẫn cả hai người đi sâu vào phía trong nhà giam.
– Hãy lắng nghe coi! – Thiếu tá nói thầm, làm hiệu bảo họ cúi xuống.
Tiếng động nghe mỗi lúc một rõ hơn.
– Một con thú đang đào hang. – John Mangles nói.
Glenarvan đột nhiên vỗ vào trán mình:
– Biết đâu đấy! – Ông nói. – nhỡ đó là người thì sao?
– Bây giờ đây ta sẽ rõ đấy là người hay là thú, – thiếu tá nói.
Wilson và Oininett cũng đến chỗ họ và cả bốn người cùng đào dưới chân tường. John Mangles dùng dao găm (anh đã nhanh trí lấy được của tên Kara Tété khi hắn bổ nhào xuống đất), còn những người khác thì dùng đá cậy dưới đất lên hoặc dùng tay không. Mulrady nằm dài trên nền nhà, vén chiếu quan sát tốp lính thổ dân.
Chúng ngồi bất động bên đống lửa và không hay biết gì việc đang xảy ra cách chúng hai mươi bước.
Chỗ những người tù đang đào là đá túp, có lớp đất xốp phủ trên. Nhờ vậy, mặc dù không có đủ dụng cụ họ vẫn nhanh chóng đào được một cái hố khá sâu. Chẳng bao lâu, đã bắt đầu bíêt rõ có một hoặc mấy người nào đó đang đào ngạch từ phía bên ngoài vào nhà giam. Họ làm như vậy để làm gì? Họ có biết rằng trong này đang có tù binh không? Hay là có ai đó muốn đột nhập vào đây với mục đích đặc biệt gì?
Những người tù binh cố gắng đào gấp đôi trước. Mặc dù các ngón tay bị bắt máu, nhưng họ vẫn cứ đào và đào, tiếng động từ phía ngoài dội đến mỗi lúc một rõ hơn: có lẽ những người đào chỉ còn cách nhau một lớp đất mỏng. Mấy phút nữa trôi qua, bỗng tay của thiếu tá đụng phải một lưỡi nhọn nào đấy và bị thương. Ông giật tay lại, cố giữ để khỏi bật ra tiếng kêu. John Mangles dùng dao gâm của mình hất sang bên cạnh một mũi dao khác vừa thò từ dưới đất lên và nắm ngay lấy bàn tay cầm dao ấy. Đó là tay phụ nữ hay trẻ con không biết, nhưng là tay của một người Âu.
Cả bên trong và bên ngoài không ai nói một lời, rõ ràng là cả hai phía đều tránh tiếng động.
– Có phải Robert đấy không? – Glenarvan nói thầm
Mặc dù Glenarvan nhắc đến cái tên ấy rất khẽ, nhưng Mary Grant vừa bị tiếng động trong nhà giam thức tỉnh đã lẻn ngay đến chỗ ông, nắm lấy bàn tay dính đầy đất kia, hôn lấy hôn để.
– Em! Em!…- Cô gái thì thào (bởi vì cô không thể nhầm lẫn được).- Em Robert của chị!
– Vâng, chị ơi, em đây! – Tiếng Robert nói.- Em đến cứu mọi người đây, nhưng phải im lặng!
– Thật là một chú bé dũng cảm!…- Glenarvan nhắc lại.
– Hãy coi chừng bọn lính ở cửa, – tiếng chú bé vọng vào, – và đào ngạch rộng thêm ra.
Mulrady, sao giây lát sao lãng vì chuyện Robert trở về, đã trở lại ngay vị trí quan sát của mình.
– Mọi việc ổn cả, – anh ta nói, – chỉ có bốn đứa thức, còn lại ngủ hết trơn.
– Hãy dũng cảm lên! – Wilson nói.
Chỉ trong một phút, lỗ đào đã được mở rộng và Robert lần lượt sa vào vòng ôm của chị, rồi của huân tước phu nhân Helena. Chú bé cuốn quanh thắt lưng một sợi dây gai dài.
– Cháu bé, cháu bé của cô, – huân tước phu nhân thầm thì, thế là cháu đã không bị bọn người dã man sát hại!
– Không, cháu không biết thế nào, nhưng trong lúc mọi người náo động, cháu chuồn ngay. Cháu thoát ra khỏi khu vực trại và trốn hai ngày trong bụi cây, đêm mới mò ra. Cháu múôn tìm cách cứu cả đoàn. Trong lúc thổ dân bộ lạc lo liệu chôn cất tên thủ lĩnh bị giết, cháu quan sát khu trại, nơi mọi người bị giam, và thấy cháu có thể đến đó được. Cháu vớ được ở căn nhà vắng một con dao và sợi dây này, rồi leo trèo luồn lách qua các bụi cây, đám cỏ để đến đây. May sao, tảng đá làm nền xây căn nhà này có một cái hang, từ đó cháu chỉ việc đào thêm vài chục phân đất xốp nữa thôi. Thế là cháu đã gặp lại được tất cả!
Hai chục cái hôm thầm lặng đáp lại lời Robert
– Ta đi thôi! – Chú bé nói, giọng kiên quyết
– Còn Paganel ở dưới đó à? – Glenarvan hỏi.
– Ông Paganel? – Robert ngạc nhiên hỏi lại.
– Ừ. Ông ấy đang đợi chúng ta chứ?
– Không đâu, thưa huân tước, chẳng lẽ ông Paganel lại không ở đây sao?
– Ông ấy không có đây, Robert ạ, – Mary Grant trả lời.
– Cháu không thấy ông ấy à? – Glenarvan hỏi. Vậy không phải hai người cùng chạy với nhau sao?
– Không, thưa huân tước, – chú bé đáp, buồn rầu trước cái tin mất tích Paganel.
– Ta đi thôi! – Thiếu tá nói – Không nên để mất một phút giây nào hết. Dù Paganel ở đâu thì ông ấy cũng không lâm vào tình trạng tồi tệ như chúng ta ở đây. Ta đi nào!
Quả thực, mỗi phút quý vô cùng. Cần phải chạy trốn mau. May sao, việc chạy trốn không gặp nhiều khó khăn lắm, nếu không kể đến mấy cái mét vách dựng đứng ngay chỗ cửa hang ra. Sau đó, đường xuống chân núi dốc không đứng lắm. Từ đó, những người tù binh có thể mau chóng đi xuống thung lũng. Còn những tên man rợ, nếu phát hiện ta sự trốn chạy của tù binh, muốn đuổi theo phải đi đường vòng xa hơn, bởi vì chúng không biết đường ngách đào từ trại giam ra sườn núi bên ngoài.
Cuộc chạy trốn bắt đầu. Mọi người hành động hết sức thận trọng. Người nọ tiếp theo người kia, những người tù đã chui qua cái ngạch hẹp thông ra hang núi, John Mangles, trước khi rời thánh đường, đã xoá tất cả dấu vết đào, rồi sau đó, lấy chiếc chiếu che kín ngạch ra. Bây giờ thì đường hào hoàn toàn không thể phát hiện được.
Tiếp đến, phải leo từ trên vách núi dựng đứng xuống. Muốn leo xuống phải có sợi dây bện của Robert mang theo. Sợi dây được gỡ ra, một đầu buộc vào mỏm đá, đầu kia thả xúông dưới.
John Mangles muốn cho các bạn của mình tin chắc vào sợi dây, anh liền thử trước. Sợi dây không được thật bền lắm. Cần phải thận trọng kéo ngã từ trên cao như vậy có thể gây tử thương.
– Sợi dây này chịu được không quá hai người. – John nói, – vì vậy chúng ta sẽ làm như sau: để huân tước và huân tước phu nhân xuống trước. Khi xuống đến chân núi, huân tước giật sợi dây ba lần báo hiệu cho những người khác có thể xuống tiếp.
– Nhưng trước hết, cháu xúông đã, – Robert tuyên bố – Cháu đã tìm được ở dưới đó một cái hõm đá làm chỗ trú cho những người xúông trước.
– Cháu xuống đi, bé cưng của ta! – Glenarvan nói, siết tay Robert.
Chú bé tụt xuống. Một phút sau, có tín hiệu ba lần giật dây cho biết chú bé đã xuống an toàn. Huân tước và huân tước phu nhân lập tức ra khỏi hang. Trời còn tối mù, nhưng những đỉnh núi nhô lên ở phía đông đã bắt đầu hiện lên màu xám.
Cái lạnh đột ngột buổi sớm mai làm cho người thiếu phụ sảng khoái hơn. Đầu tiên là Glenarvan, kế đến là huân tước phu nhân, leo từ trên mõm đá xuống sườn núi. Từ đây, Glenarvan dìu vợ đi giật lùi lại xuống mé dưới. Ông rờ những bụi cỏ, lùm cây, thử thấy chắc chắn mới để cho Helena đặt chân lên. Vài chú chim nào đó hoảng hốt bay vụt lên. Những người chạy trốn rùng mình mỗi khi có hòn đá dưới chân lăn ầm ầm xúông tận chân núi.
Hai người đã xuống đến lưng chừng sườn núi, bỗng từ trên hang núi có tiếng John Mangles khẽ nói xuống:
– Dừng lại đã!
Glenarvan một tay bám vào bụi cây, tay kia dìu vợ, đứng lặng tại chỗ.
Wilson ra hiệu báo động cho John biết có một tên lính đã nghe thấy tiếng động lạ và đứng dậy, đi vào nhà giam. Đứng cách nhà giam hai bước, hắn cúi đầu lắng nghe. Hắn đứng như vậy chừng một phút mà Wilson cảm thấy như hàng giờ. Sau đó, hắn hất đầu lên như hiểu ra mình lầm và trở lại chỗ cũ với đồng bọn bên đống lửa.
– Ổn rồi,- Wilson báo cho John biết.
John ra hiệu cho Glenarvan trèo xuống tiếp. Glenarvan di động một cách thận trọng và chẳng bao lâu ông và Helena đã xuống đến con đường có Robert chờ sẵn ở đó.
Sợi dây lại giật ba lần và sau đó đến lượt John Mangles và Mary Grant đi vào con đường nguy hiểm. Họ cũng đã xuống đến mặt đất một cách nhẹ nhàng và gặp vợ chồng huân tước ở trong hẻm núi mà Robert đã chỉ.
Sau chừng năm phút, tất cả những người chạy trốn may mắn thoát khỏi thánh đường và rời khỏi nơi trú ẩn tạm thời trong hốc đá. Họ đi thật nhanh theo con đường mòn dẫn sâu vào núi, những mong tránh xa nơi người ở để không ai nhìn thấy họ. Họ im lặng lướt đi giữa các bụi cây như những cái bóng. Họ đi đâu? – Đi lang thang, nhưng điều quan trọng là họ đã được tự do.
Gần năm giờ, trời bắt đầu sáng. Những đám mây trôi trên trời cao đã ngả màu xanh nhạt. Nơi đỉnh núi, sươg sớm dần tan. Mặt trời sắp mọc, nhưng không phải để báo hiệu cho một vụ xử tử mà để phát hiện việc chạy trốn của những người bị kết án tử hình.
Bởi vậy, những người chạy trốn cố đi thật xa để bọn lính dã man không đuổi kịp. Nhưng đường dốc, họ đi khá chậm chạp, Glenarvan không phải dắt nữa, mà đứng hơn là cõng vợ, Mary Grant thì vịn vào tay John Mangles mà đi. Robert sung sướng hân hoan trước việc làm thành công, đi dẫn đầu đoàn. Hai chàng thuỷ thủ đi khoá đuôi. Chỉ nửa giờ nữa, từ sau phía chân trời mù sương kia, mặt trời sẽ mọc, thế mà những người chạy trốn cứ phải đi hú hoạ, bởi vì họ không còn có Paganel dẫn đường nữa. Điều này làm cho họ lo âu như có một bóng đen đè lên hạnh phúc của họ. Tuy nhiên, họ vẫn cố gắng đi về phía đông, đón ánh bình minh kỳ diệu vừa ló rạng. Chẳng bao lâu, họ đã ở trên độ cao cách mặt hồ Taupo 150 mét.
Bỗng có tiếng gầm rú khủng khiếp vang lên – lần trong đó là tiếng la hét của hàng trăm cái họng. Tiếng gầm rú từ khu trại vảng đến, nhưng đích xác từ chỗ nào thì Glenarvan không hình dung được. Sương mù dày đặc vẫn còn bao phủ những thung lũng trải dài bên dưới
Những người chạy trốn hiểu rằng việc biến mất của họ đã bị phát hiện.