Thời gian còn lại trong ngày trôi qua chẳng có chuyện bất thường gì nữa. Mọi việc chuẩn bị cho chuyến đi của Mulady đều đã xong xuôi. Chàng thuỷ thủ trung thực lấy làm sung sướng được tỏ rõ với Glenarvan lòng trung thành của mình.
Paganel đã điềm tĩnh trở lại. Có thể đoán là ông đang miệt mài suy nghĩ điều gì đó, nhưng còn giấu chưa nói ra. Chắc là có nguyên cớ gì quan trọng đây. Thiếu tá thấy ông cứ lẩm bẩm nói như tự đấu khẩu với bản thân mình.
– Không, không! Người ta không tín nhiệm mình nữa! Mà để làm gì chứ! Quá muộn rồi!
Paganel nghĩ vậy, rồi lấy bản đồ ra bắt đầu chỉ dẫn đường đi Melbourne cho Mulrady. Chặng đường nguy hiểm nhất là mấy dặm đầu tiên gần trại thôi, vì bọn Ben Joyce còn lẩn trốn quanh đây. Chủ yếu là làm sao vượt qua được mấy dặm ấy, còn sau đó thì chúng không thể đuổi theo được, và thế là Mulrady có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Sáu giờ chiều, mọi người đã ăn cơm xong. Trận mưa rào ập xuống, lán trại chống chọi không nổi, vì vậy tất cả phải vào xe. Bây giờ, đó là nơi trú ẩn, vừa là pháo đài. Kho vũ khí trong xe gồm có bảy khẩu carbine và bảy khẩu súng lục, có thể chống trả lại được một cuộc vây hãm kéo dài mà không có sợ thiếu đạn và lương thực. Còn sau đó, bảy ngày nữa “Ducan” sẽ tới chi viện… Thậm chí nếu chưa qua được sông thì dẫu sao trước một lực lượng áp đảo như thế bọn cướp cũng phải tháo lui. Nhưng, muốn vậy thì trước hết phải làm sao cho Mulrady hoàn thành được nhiệm vụ…
Tám giờ, trời tối hẳn. Đã đến giờ đi. Con ngựa yên cương cương sẵn sàng được dắt lên. Các móng của nó được cuốn giẻ để nện lên đường không phát ra tiếng kêu… Thiếu tá khuyên Mulrady chăm sóc ngựa chu đáo. John Mangles đưa cho chàng thuỷ thủ khẩu súng lục mà anh vừa mới nạp đạn cẩn thận… Mulrady lên yên ngựa.
– Đây là thư, anh chuyển cho Tom Austin, – Glenarvan nói. – Hãy khẩn trương, đừng để phí một giờ nào. Hãy cho tàu đến vịnh Twofold – Bay, nếu không thấy chúng tôi ở đó, tức là chúng tôi không thể qua sông được, thì phải nhanh chóng cho tàu lại đây. Thôi, đi nhé, chàng thuỷ thủ trung thực của tôi, trời phù hộ cho anh!
– Tạm biệt huân tước! – Mulrady bình tĩnh nói rồi mất hút trên con đường mòn chạy dọc theo cửa rừng.
Sau khi Mulrady ra đi, những người còn lại vào trú trong xe, Helena, Mary, Glenarvan và Paganel ở ngăn trước. Ngăn này được đóng kín để bảo đảm an toàn. Ở ngăn sau có Olbunett, Wilson và Robert. Thiếu tá và John Mangles đi tuần tra bên ngoài. Mặc dù trời mưa gió họ vẫn không rời vị trí.
Bỗng trong khoảnh khắc gió lặng, có tiếng kêu thất thanh vọng lại. John Mangles vội vàng lại chỗ thiếu tá.
– Ông nghe thấy gì không? – John hỏi.
– Có, – Mac Nabbs đáp – Nhưng là gì nhỉ, tiếng người hay thú vật?
– Người đấy! – John đáp.
Cả hai người bắt đầu lắng nghe. Vẫn thấy tiếng kêu lạ lùng ấy vọng đến và tiếp theo hình như có tiếng súng. Nhưng, lúc ấy mưa gió nổi lên mạnh hơn, át cả tiếng súng. Mac Nabbs và John Mangles đi về phía xe.
Vừa lúc đó, tầm màn bằng da cuối xe được vén lên. Glenarvan từ trên xe bước xuống. Ông cũng đã nghe thấy tiếng kêu lạ lùng và tiếng súng vọng vào xe.
– Ở hướng nào thế nhỉ? – Huân tước hỏi.
– Đằng kia. – John Mangles chỉ tay về phía con đường mòn tối mịt mà Mulrađy vừa ra đi.
– Có xa không?
– Có lẽ cách ta chừng ba dặm, – John đáp.
– Ta đến đó xem sao! – Glenarvan nói và khoác khẩu carbine lên vai.
– Không nên, – thiếu tá lên tiếng. – Chúng bẫy để nhử ta rời khỏi xe đó.
– Nhỡ bọn bất nhân ấy giết Mulrađy thì sao? – Glenarvan nắm tay Mac Nabbs giục đi.
– Điều ấy mai chúng ta sẽ biết, – thiếu tá điềm nhiên trả lời. Ông kiên quyết ngăn Glenarvan để tránh sự khinh suất vô ích.
– Huân tước không nên rời khỏi trại, – John nói. – Tôi sẽ đi một mình.
– Cả anh cũng đừng đi! – Mac Nabbs kiên quyết phản đối. – Lẽ nào huân tước và thuyền trưởng lại muốn cho chúng nó đánh lẻ từng người, làm suy yếu lực lượng ta, để ta dễ dàng sa vào tay bọn bất nhân ấy! Nếu Mulrady đã bị chúng giết chết thì tại sao lại đem thí thêm quân? Mulrady ra đi bởi vì chú ấy bốc được thăm. Giả dụ thăm trúng vào tôi thì tôi cũng đã ra đi như chú ấy và tôi không yêu cầu hay chờ đợi một sự chi viện nào cả.
Thiếu tá hoàn toàn có lý khi ngăn cản Glenarvan và John Mangles. Giữa lúc đêm tối mà lại vào rừng tìm Mulrady, trong khi bọn cướp đang mai phục sẵn, thì đúng là một sự điên rồ và vô ích. Đội thám hiểm của Glenarvan chỉ có mấy người, không thể thí thêm một mạng nào nữa.
Nhưng Glenarvan có lẽ không muốn tán thành những lập luận ấy – tay ông nắm chặt khẩu carbine. Ông đi tới đi lui bên cạnh chiếc xe, lắng nghe từng tiếng động nhỏ, chăm chú nhìn bóng đêm dữ dằn. Ông day dứt nghĩ đến một người thân thiết đang bị thương nặng và bất lực nằm đâu đó mà hoài công kêu những người mà vì họ anh ta hy sinh tính mạng. Mac Nabbs hoàn toàn không tin rằng ông ta có thể ngăn giữ được Glenarvan không lao đến khi có tiếng súng của bọn Ben Joyce.
– Edward, – ông nói, – Chú hãy bình tĩnh. Hãy nghe bạn bè. Hãy nghĩ đến Helena, Mary, đến tất cả những ai ở lại đây. Mà chú định đi đâu chứ? Tìm Mulrady ở đâu? Nếu chú ấy bị chúng tấn công thì ít nhất cũng cách đây hai dặm. Trên con đưòng nào? Đi lối nào đến đó?
Đúng lúc ấy, như để trả lời thiếu tá, lại có tiếng kêu tuyệt vọng vang lên.
– Nghe kìa! – Glenarvan nói.
Tiếng kêu từ phía có tiếng súng vọng lại, cách đó khoảng một phần tư dặm, Glenarvan đẩy Mac Nabbs ra, chạy theo con đường mòn, nhưng mới cách xe độ ba trăm mét ông đã nghe thấy tiếng ai kêu:
– Cứư tôi với! Cứu tôi với!
Tiếng kêu nghe thảm thiết, đau đớn. John Mangles bổ ngay đến nơi có tiếng kêu. Mấy phút sau, họ thấy một người đang bò dọc theo cửa rừng và rên rỉ nặng nhọc. Đó là Mulrady, anh bị thương có thể là sắp chết. Khi những người bạn nâng anh lên khỏi mặt đất, họ thấy tay anh ướt máu.
Mưa rào mỗi lúc một nặng hạt hơn. Bão tố nổi lên điên cuồng trên những ngọn cây. Glenarvan, John Mangles và thiếu tá vừa chống chọi với gió mưa hung dữ, vừa khiêng Mulrady về xe.
Khi họ bước vào, tất cả đứng dậy, Paganel, Olbinett, Robert và Wilson ra khỏi xe, còn Helena thì nhường ngăn ở của mình cho Mulrady tội nghiệp. Thiếu tá cởi áo ngoài đẫm máu và nước mưa của người thuỷ thủ ra và phát hiện ở sườn bên phải của anh có vết dao găm đâm. Vết thương ra rất nhiều máu đã được Mac Nabbs khéo léo rửa sạch, bôi thuốc, băng bó lại. Vẻ nhợt nhạt và đuối sức của Mulrady chứng tỏ vết thương nặng lắm. Nhưng máu đã cầm, Mulrady được đặt nằm nghiêng về phía bên trái, đầu và ngực gối cao hơn. Helena cho anh uống vài ngụm nước.
Mười lăm phút sau, Mulrady đã cựa quậy được, mở mắt ra và bắt đầu thều thào tiếng được, tiếng mất. Thiếu tá cúi sát người anh và lắng nghe được mấy tiếng loáng thoáng.
– Huân tước… bức thư… Ben Joyce…
Thiếu tá nhắc to lên mấy tiếng ấy và nhìn những người bạn của mình với vẻ dò hỏi. Mulrady muốn nói gì? Chắc là Ben Joyce đã tấn công anh ta. Nhưng để làm gì, để ngăn cản anh ta không liên lạc được với “Ducan” ư? Bức thư… Glenarvan xem túi Mulrady. Bức thư không còn nữa!
Đêm trôi qua trong sự lo sâu thắc thỏm của mọi người. Ai nấy đều sự Mulrady chết. Người anh nóng ran. Helena và Mary, các nữ y tá của đoàn, không lúc nào rồi Mulrady. Chưa có bệnh nhân nào mà họ lại chăm sóc tận tình và cảm thông như thế.
Trời sáng. Mưa tạnh. Nhưng mây đen còn vần vũ bầu trời.
John Mangles, Paganel và Glenarvan đi khảo sát chung quanh khu trại. Họ lần theo con đường mòn còn in rõ rệt vết máu. Không thấy dấu vết gì của Ben Joyce và đồng bọn. Họ đến tận nơi đã xảy ra đụng độ. Ở đấy có hai cái xác của bọn phỉ đã bị Mulrady bắn chết. Một trong số đó là tên thợ rèn ở Black – Point. Cái chết làm cho mặt hắn méo xệch đi một cách đáng sợ. Đến đây, Glenarvan kết thúc việc khảo sát hiện trường, vì đi xa trại hơn sẽ không có lợi gì.
Ông quay về chỗ xe với vẻ băn khoăn trước tình hình nghiêm trọng đã xảy ra.
– Không nên nghĩ đến việc cử người khác đi Melbourne nữa, – ông nói.
– Nhưng điều đó lại cần thiết, thưa huân tước. – John Mangles lên tiếng. – Tôi xin đảm nhiệm vụ mà người thuỷ thủ của tôi chưa kịp hoàn thành.
– Không, John, anh cũng không có ngựa để mà đi quãng đường hai trăm dặm đâu.
Quả thật, ngựa của Mulrady, con ngựa duy nhất mà đoàn thám hiểm còn lại, không thấy trở về. Nó bị giết hay bị lạc trong rừng, hay bị bọn chúng cướp mất rồi?
– Dẫu sao thì, – Glenarvan nói, – chúng ta cũng sẽ không rời nhau nữa. Ta đợi ở đây một tuần, hai tuần, cho đến khi nào nước sông Snowy rút đã. Lúc đó ta sẽ đi dần từng chặng đến vịnh Twofold – Bay và từ đó, bằng một con đường an toàn hơn, sẽ gửi lệnh cho “Ducan” đi về vùng duyên hải phía đông.
– Ta chỉ còn cách duy nhất ấy thôi, – Paganel tán thành.
– Vậy thì các bạn, – Glenarvan tiếp tục – chúng ta hãy sát cánh cùng nhau chịu đựng. Lẻ loi một mình giữa nơi bọn cướp hoành hành như thế này là hết sức mạo hiểm.
Glenarvan đã có lý cả trong việc quyết định không phải ai đi nữa, lẫn trong việc kiên trì ở lại bờ sông đợi nước rút. Vì từ đây đến Delegete, thị trấn biên giới đầu tiên của tỉnh Nouvelle-Gailes Nam chỉ có ba mươi lăm dặm thôi. Ở đó, tất nhiên họ sẽ tìm được phương tiện để đến Twofold-Bay và có thể đánh điện đi Melbourne cho tàu “Ducan”. Những quyết định ấy rất hợp lý, nhưng trễ quá. Giá như Glenarvan đừng phái Mulrady đi Melbourne thì đã tránh được bao nhiêu là tai hoạ, đấy là chưa nói đến việc một thuỷ thủ bị thương nặng.
Sau khi trở về trại, Glenarvan thấy những người bạn của mình bớt rầu rĩ hơn. Dường như họ đã ấm lại niềm hy vọng.
– Chú ấy đỡ rồi! Chú ấy đỡ rồi! – Robert kêu toáng lên, chạy bổ đến Glenarvan.
– Mulrady đỡ rồi à?
– Vâng, – Helena đáp. – Chú ấy bị choáng. Chú thuỷ thủ của chúng ta sẽ sống!
– Mac Nabbs đâu?
– Đang ở chỗ Mulrady.
Đúng là một giờ trước đây Mulrady đã hồi tỉnh, bớt nóng hơn. Vừa tỉnh lại, chú liền xin gặp Glenarvan, nếu huân tước không có đấy thì gặp thiếu tá. Mac Nabbs thấy Mulrady đang yếu, nên cấm không cho chú ta nói chuyện. Nhưng Mulrady cứ đòi nói, vì vậy thiếu tá đành chịu.
Khi Glenarvan trở về, câu chuyện của họ mới diễn ra được mấy phút. Chỉ còn cách đợi nghe lại ý kiến của thiếu tá. Lát sau, tấm màn da được vén lên, Mac Nabbs xuất hiện. Ông bước vào căn lều căng dưới cây, mọi người đang đợi ông. Nét mặt của thiếu tá thường ngày vẫn bình thản, thế mà giờ đây trở nên buồn rầu và băn khoăn. Khi ông n hìn Helena, rồi nhìn Mary, mắt ông hiện rõ nét buồn sâu sắc.
Glenarvan bắt đầu hỏi chuyện thiếu tá. Và đây là những điều mà thiếu tá nghe Mulrady kể lại:
– Sau khi rời trại, Mulrady phóng ngựa theo đường mòn mà Paganel đã chỉ. Anh ta đi được độ hai dặm thì bỗng có mấy người – hình như năm thì phải – lao ra chặn ngựa lại. Con ngựa lồng lên, Mulrady rút súng lục ra bắn. Anh thấy hình như có hai tên bị ngã gục. Trong ánh lửa đạn, anh nhận ra Ben Joyce. Mulrady không nhìn thấy gì nữa. Anh chứa kịp bắn hết băng đạn. Một nhát dao đâm mạnh vào sườn phải làm anh té khỏi yên ngựa. Nhưng anh vẫn chưa bị ngất đi. Bọn giết người tưởng anh đã chết. Anh cảm thấy hình như chúng lục lọi người anh. Sau đó, anh nghe thấy một tên cướp nói: “Thư đây rồi!” “Đưa đây!” – Ben Joyce lên tiếng. – “Bây giờ “Ducan” là của chúng ta!”.
Đến đây, Glenarvan chợt thốt lên một tiếng kêu. Mac Nabbs nói tiếp: “Còn bây giờ tụi bay hãy bắt lấy con ngựa. Ben Joyce nói, – Bốn ngày nữa tao sẽ có mặt trên tàu “Ducan”, sáu ngày nữa tao sẽ có mặt ở vịnh Twofold-Bay. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Toán Glenarvan sẽ còn sa lầy ở đây. Tụi bây đi qua cầu Kemplepier ra biển, đợi tao ở đó. Tao sẽ tìm cách đưa chúng bây lên tàu. Khi nào cánh ta ra được biển thì, với một chiếc tàu như “Ducan” này, ta sẽ làm bá chủ Ấn Độ Dương”. – “Hoan hô Ben Joyce!” – Bọn cướp hét lên. Tụi nó dẫn con ngựa của Mulrady đến, tên Ben Joyce phốc ngay lên ngựa và phóng về hướng Luknow, còn bọn kia thì đi ra sông Snowy. Mulrady, mặc dù bị thương nặng, vẫn cố sức lết về được chỗ mà ta đã gặp anh ta trong tình trạng thập tử nhất sinh ấy. Mulrady đã kể cho tôi nghe như vậy đó, – Mac Nabbs kết thúc. – Bây giờ, các bạn có biết, tại sao chú thuỷ thủ dũng cảm lại vội thông báo cho chúng ta biết điều đó không?
Câu chuyện của thiếu tá làm cho Glenarvan và mọi người hốt hoảng.
– Bọn cướp biển! Bọn cướp biển! – Glenarvan kêu lên, – chúng định giết cả đoàn của tôi rồi chiếm đoạt luôn tàu “Ducan”.
– Tất nhiên rồi, – Mac Nabbs nói. – Vì Ben Joyce sẽ bất ngờ chiếm tàu mà, và khi đó thì…
– Thế nghĩa là ta phải ra tay trước bọn bất nhân ấy! – Paganel nói.
– Nhưng làm sao qua được sông đây? – Wilson băn khoăn.
– Đi như tụi nó ấy. – Glenarvan đáp. Bọn tội phạm đi qua Kemplepier, chúng ta cũng làm y như chúng.
– Còn Mulrady thì sao? – Helena hỏi.
– Chúng ta sẽ khiêng chú ấy! Thay nhau khiêng! Tôi không thể để cho đoàn người của mình sa vào nanh vuốt của bọn Ben Joyce.
Kế hoạch qua cầu Kemplepier đã được thực hiện, nhưng dĩ nhiên là mạo hiểm. Bọn tội phạm có thể nấp ở gầm cầu và giữ cầu. Chúng hình như có độ ba chục tên, đối phó với bảy người đàn ông của đoàn thám hiểm. Nhưng, có những phút không thể tính toán do dự, mà cần phải bất chấp tất cả mà tiến lên.
– Thưa huân tước, John Mangles nói với Glenarvan. – Trước khi quyết định thực hiện phương án mạo hiểm vượt qua cầu, ta nên dò xét mọi mặt đã. Tôi xin đảm nhận nhiệm vụ này.
– Tôi cùng đi với anh! – Paganel tuyên bố.
John đồng ý và hai người chuẩn bị ngay. Phải đi xuôi xuống hạ nguồn trong lúc bọn chúng chưa tìm ra chiếc cầu mà Ben Joyce nói với chúng, và tất nhiên là phải hết sức cẩn thận để không lọt vào mắt bọn cướp chắc chắn là cũng đang bám sát hai bờ sông.
Thế là hai nhà thám hiểm dũng cảm mang theo đầy đủ vũ khí và lương thực tiến lên phía trước, len lỏi trong những bụi lau sậy um tùm mọc bên bờ sông.
Mọi người đợi suốt ngày, đến khi trời tối rồi mà vẫn chưa thấy họ về. Ai nấy ở trại đều lo lắng.
Cuối cùng, gần mười giờ khuya. – Wilson báo tin họ đang trên đường về, Paganel và John Mangles về đến nơi, người mệt lử sau khi lội bộ mười dặm đường.
– Sao, cái cầu ấy thế nào? Đúng là có cầu chứ? – Glenarvan lao ra đón họ, hỏi.
– Đúng, cầu làm bằng mây, – John Manglé nói. – Bọn tội phạm đã đi qua chiếc cầu ấy, nhưng…
– Nhưng sao? – Glenarvan hỏi gặng. – linh cảm thấy một tai hoạ đã xảy ra.
– Chúng đã đốt mất cầu ngay sau khi qua rồi! – Paganel đáp.