Ngày 12-09-1960 tại Houston, Texas, ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ John F. Kennedy phát biểu về vai trò tôn giáo trong chính trị. “Vấn đề tôn giáo” đã đeo đẳng chiến dịch của ông. Kennedy theo Công giáo, và chưa người Công giáo nào từng được bầu làm tổng thống. Một số cử tri mang thành kiến nhưng không nói ra, những người khác bày tỏ quan ngại Kennedy sẽ chịu ảnh hưởng của Vatican khi tại nhiệm hoặc áp đặt giáo lý Công giáo trong chính sách công. Với hy vọng xóa bỏ nỗi lo ngại này, Kennedy đồng ý nói chuyện trước các mục sư Tin lành về vai trò của Công giáo trong nhiệm kỳ tổng thống nếu ông trứng cử. Câu trả lời của ông rất đơn giản: Không. Đức tin tôn giáo là vấn đề riêng tư của ông và sẽ không xen vào trách nhiệm công.
Kennedy nói: “Tôi tin vào việc một tổng thống coi quan điểm tôn giáo là việc hoàn toàn riêng tư. Bất kỳ vấn đề nào được đặt ra cho tôi với vai trò tổng thống – kiểm soát sinh ly dị, kiểm duyệt, cờ bạc hoặc bất kỳ vấn đề nào khác – tôi sẽ đưa ra quyết định của mình… theo những gì lương tâm tôi bảo rằng là lợi ích quốc gia, và không chịu áp lực tôn giáo hoặc mệnh lệnh từ bên ngoài”.
Kennedy không nói lương tâm của ông có được định hình bởi niềm tin tôn giáo không và bằng cách nào. Nhưng dường như ông cho rằng niềm tin của ông về lợi ích quốc gia hầu như chẳng liên quan gì tới tôn giáo, thứ mà ông gắn với “áp lực bên ngoài” và “mệnh lệnh”, ông muốn trấn an các mục sư Tin lành và công chúng Mỹ rằng mình sẽ không áp đặt niềm tin tôn giáo của bản thân – bất kể là niềm tin gì – lên họ.
Bài phát biểu được đại chúng coi là thành công về mặt chính trị, và Kennedy đã tiến đến chức tổng thống. Theodore H. White, người chép biên niên sử cho các chiến dịch tranh cử tổng thống, tán dương bài phát biểu này vì đã định ra “Học thuyết cá nhân của một người Công giáo hiện đại trong một xã hội dân chủ”.
Bốn mươi sáu năm sau, ngày 28-06-2006, Barack Obama chẳng bao lâu sẽ trở thành ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, có một bài diễn văn rất khác về vai trò của tôn giáo trong chính trị. Ông bắt đầu bằng cách nhắc lại cách mình xử lý vấn đề tôn giáo trong chiến dịch tranh cử vào Thượng viện Hoa Kỳ hai năm trước đó. Đối thủ của Obama lúc đó, một người bảo thù tôn giáo to mồm, đã tấn công việc Obama ủng hộ quyền của người đồng tính và quyền nạo thai bằng cách tuyên bố Obama không phải là một tín đồ Cơ đốc, và rằng Chúa Giêsu sẽ không bầu cho ông.
Khi nhìn lại, Obama nói: “Tôi đã trả lời bằng cách phản ứng tiêu biểu của phe tự do dân chủ trong các cuộc tranh luận kiểu vậy. Tôi nói rằng chúng ta đang sống trong một xã hội đa nguyên, nơi tôi không thể áp đặt quan điểm tôn giáo của mình lên những người khác, và tôi đang tranh cử vị trí thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đại diện tiểu bang Illinois chứ không phải mục sư tiểu bang Illinois”. Mặc dù dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc đua vào Thượng viện, giờ đây Obama nghĩ phản ứng của mình không phù hợp, và “không diễn đạt đầy đủ vai trò của đức tin trong việc định hướng các giá trị và niềm tin của bản thân tôi”, ông tiếp tục mô tả đức tin Cơ đốc của mình và tranh luận về sự liên quan của tôn giáo với chính trị. Ông nghĩ những người cấp tiến thật sai lầm khi muốn “từ bỏ việc bàn luận tôn giáo” trong chính trị. “Sự khó chịu của những người cấp tiến trước bất kỳ dấu vết tôn giáo nào đã ngăn cản không cho chúng ta giải đáp hiệu quả những vấn đề bằng ngôn ngữ đạo đức”. Nếu những người Dân chủ đua ra một luận đề chính trị không có nội dung tôn giáo, họ “sẽ bỏ mất các hình ảnh và thuật ngữ thông qua đó hàng triệu người Mỹ hiểu được đạo đức cá nhân của họ và công bằng xã hội”.
Tôn giáo không chỉ là ngọn nguồn của thuật hùng biện chính trị. Các giải pháp cho các vấn đề xã hội nhất định đòi hỏi sự chuyển đổi về mặt đạo đức. “Nỗi sợ hãi về ‘sự thuyết giáo’ có thể… dẫn chúng ta đến việc hạ thấp vai trò của giá trị và văn hóa trong một số vấn đề xã hội cấp thiết nhất của mình”, Obama nói. Giải quyết vấn đề như “đói nghèo và phân biệt chủng tộc, không có bảo hiểm và thất nghiệp” đòi hỏi “thay đổi trong trái tim và khối óc”. Vậy thật sai lầm khi khẳng định niềm tin đạo đức và niềm tin tôn giáo không đóng vai trò gì trong chính trị và pháp luật.
Những người theo chủ nghĩa thế tục sai lầm khi yêu cầu tín đồ tôn giáo để lại tôn giáo của mình trước khi bước vào nơi công cộng. Frederick Douglass[50], Abraham Lincoln, William Jennings Bryan[51], Dorothy Day[52], Martin Luther King – thực tế phần lớn các nhà cải cách vĩ đại trong lịch sử Mỹ – không chỉ được thúc đẩy bởi đức tin, mà còn nhiều lần sử dụng ngôn từ tôn giáo để luận giải cho sự nghiệp của mình. Vì vậy, nói con người không nên đưa “đạo đức cá nhân” của mình vào các cuộc tranh luận chính sách công là vô lý về mặt thực tiễn. Pháp luật của chúng ta theo định nghĩa là pháp điển hóa các giá trị đạo đức, nhiều trong số đó có truyền thống Do Thái – Cơ đốc giáo.
Nhiều người ghi nhận những điểm tương đồng giữa John F. Kennedy và Barack Obama. Cả hai đều trẻ, hùng biện, là chính khách biết gây cảm hứng và việc thắng cử của họ đánh dấu một thế hệ lãnh đạo mới. Và cả hai đều tìm cách tập hợp người Mỹ vào một kỷ nguyên công dân dấn thân mới. Nhưng quan điểm của họ về vai trò tôn giáo trong chính trị hầu như rất khác biệt.
Khát vọng có được tính trung lập
Việc Kennedy xem tôn giáo là vấn đề riêng, chứ không phải vấn đề chung, thể hiện nhu cầu xóa bỏ thành kiến chống Công giáo. Nó phản ánh một triết lý chung sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ trong những năm 1960 và 1970 – triết lý cho rằng chính quyền nên trung lập trong vấn đề đạo đức và tôn giáo, để cá nhân tự do lựa chọn quan niệm riêng về lối sống tốt đẹp.
Cả hai đảng chính trị lớn đều bị ý tưởng trung lập này thu hút, nhưng theo những cách khác nhau. Tổng quan mà nói, đảng Cộng hòa áp dụng ý tưởng này trong chính sách kinh tế, đảng Dân chủ áp dụng trong các vấn đề xã hội. Đảng Cộng hòa chống lại việc chính quyền can thiệp vào thị trường tự do với lý lẽ cá nhân cần được tự do đưa ra các lựa chọn kinh tế và tiêu tiền theo ý thích, việc chính quyền tiêu tiền của người nộp thuế hoặc điều chỉnh các hoạt động kinh tế vì mục đích chung bị coi là áp đặt quan điểm của nhà nước về lợi ích chung mà không phải ai cũng chia sẻ. Họ ủng hộ cắt giảm thuế hơn là cho phép chính quyền chi tiêu, bởi vì điều này để cá nhân tự quyết định những mục tiêu theo đuổi và cách tiêu tiền của riêng mình.
Đảng Dân chủ bác bỏ quan điểm cho rằng thị trường tự do đứng trung lập giữa các mục tiêu và bảo vệ việc chính quyền can thiệp vào nền kinh tế. Nhưng sang vấn đề xã hội và văn hóa, họ lại sử dụng ngôn ngữ mang tính trung lập. Họ cho rằng chính quyền không nên “quy định về đạo đức” trong các lĩnh vực xử sự tình dục, quyết định sinh sản vì làm như thế là áp đặt niềm tin đạo đức và tôn giáo lên người khác. Thay vì hạn chế phá thai hoặc quan hệ đồng tính, chính quyền nên đứng trung lập trong các vấn đề liên quan đến đạo đức và cho phép cá nhân quyền tự lựa chọn.
Năm 1971, khi tác phẩm Một học thuyết về công lý của John Rawls đưa ra triết lý bảo vệ khái niệm trung lập của phe tự do dân chủ mà bài diễn văn của Kennedy đã gợi lên. Trong những năm 1980, những người chỉ trích kiểu cộng đồng tính trung lập của phe tự do dân chủ đã nghi ngờ quan điểm cái tôi tự do lựa chọn, không bị ràng buộc vốn có vẻ đã làm suy yếu học thuyết của Rawls. Họ tranh luận không chỉ vì những khái niệm mạnh hơn về cộng đồng và tình liên đới mà còn vì sự dấn thân về mặt đạo đức và tôn giáo.
Năm 1993, Rawls xuất bản Chính trị chủ nghĩa tự do dân chủ cá nhân (Political Liberalism), chỉnh sửa lại học thuyết của mình ở một vài khía cạnh, ông thừa nhận trong cuộc sống cá nhân, người ta thường có “tình cảm, sự tôn sùng và lòng trung thành mà họ tin rằng sẽ không, thực ra là không thể và không nên, tránh xa chúng… Đơn giản họ không thể hình dung ra được mình sẽ như thế nào nếu bị tách khỏi các quan niệm nhất định về tôn giáo, triết học và đạo đức, hay các quan hệ gắn bó lâu dài và lòng trung thành nào đó”. Đến mức này, Rawls chấp nhận khả năng cái tôi ràng buộc về mặt đạo đức. Tuy nhiêu, ông nhấn mạnh lòng trung thành và quan hệ gắn bó đó không được xen vào bản sắc công dân của chúng ta. Khi tranh luận về công lý và quyền, chúng ta nên đặt sang một bên niềm tin cá nhân về đạo đức và tôn giáo và tranh luận từ quan điểm “khái niệm chính trị về con người”, độc lập với bất kỳ lòng trung thành, quan hệ gắn bó, hoặc quan niệm về lối sống tốt đẹp nào.
Tại sao chúng ta không đưa niềm tin về đạo đức và tôn giáo của mình vào các cuộc tranh luận công khai về công lý và quyền? Tại sao chúng ta nên tách bạch bản sắc công dân của mình với bản sắc con người đạo đức – vốn phổ biến hơn? Rawls cho rằng chúng ta phải làm vậy để tôn trọng “thực tế đa nguyên hợp lý” về lối sống tốt đẹp thịnh hành trong thế giới hiện đại. Người dân trong các xã hội dân chủ hiện đại bất đồng về các vấn đề đạo đức và tôn giáo; hơn thế nữa, những bất đồng này là hợp lý. “Không trông mong gì những con người có lương tâm, với đầy đủ khả năng lý giải, ngay cả sau khi thảo luận tự do, lại đều đi đến cùng một kết luận”.
Theo lý lẽ này, lý lẽ tính trung lập của phe tự do dân chủ phát sinh từ nhu cầu khoan dung khi gặp bất đồng về đạo đức và tôn giáo. Rawls viết: “Sau khi xem xét mọi khía cạnh, phán xét đạo đức nào là đúng không quan trọng đối với chủ nghĩa tự do dân chủ về chính trị”. Để duy trì tính không thiên vị đối với các học thuyết đạo đức và tôn giáo đối lập nhau, chủ nghĩa tự do dân chủ về chính trị không “đề cập đến các chủ đề đạo đức làm chia rẽ các học thuyết đó”.
Đòi hỏi chúng ta tách bạch bản sắc công dân với niềm tin về đạo đức và tôn giáo của mình có nghĩa là: khi tham gia vào các diễn đàn công khai thảo luận về công lý và quyền, chúng ta phải tuân theo các giới hạn suy lý chung của phe tự do dân chủ. Không chỉ chính quyền không được xác nhận một quan niệm cụ thể về điều tốt, công dân cũng không thể trình bày niềm tin về đạo đức và tôn giáo của mình trong các cuộc tranh luận công khai về công lý và quyền. Vì nếu họ làm thế, và nếu lý lẽ của họ thắng, họ sẽ áp đặt một cách hiệu quả lên các công dân khác một luật dựa trên nền tảng một học thuyết đạo đức hay tôn giáo cụ thể?
Làm thế nào chúng ta biết liệu lý lẽ chính trị của mình có thỏa mãn yêu cầu suy lý chung, không bị bất kỳ quy tắc đạo đức hay tôn giáo nào ảnh hưởng? Rawls đề xuất một thử nghiệm mới: “Để kiểm tra xem chúng ta có tuân theo lý trí chung không, chúng ta có thể đặt câu hỏi: nếu trình bày dưới hình thức ý kiến của Tòa án Tối cao[53] thì lý luận của chúng ta sẽ được tiếp nhận như thế nào?”. Theo Rawls giải thích, đây là cách chắc chắn để lập luận của chúng ta có vị thế trung lập theo lý trí chung của phe tự do dân chủ: “Các thẩm phán, tất nhiên, không thể viện dẫn giá trị đạo đức cá nhân của mình, cũng không phải những lý tưởng và giá trị đạo đức nói chung. Đó là những điều họ xem là không thích hợp. Tương tự, họ không thể viện dẫn quan điểm tôn giáo hay triết lý của họ hay của người khác”. Khi tham gia với tư cách công dân trong cuộc tranh luận công khai, chúng ta nên tuân theo hạn chế tương tự; Giống như thẩm phán Tòa án tối cao, chúng ta phải đặt sang một bên niềm tin về đạo đức và tôn giáo của mình, và hạn chế bản thân để trình bày các lý lẽ mà tất cả người dân có thể chấp nhận.
Đây là lý tưởng tính trung lập của phe tự do dân chủ mà John Kennedy viện dẫn và Barack Obama bác bỏ. Từ thập niên 1960 đến 1980, đảng Dân chủ ngả dần về phía lý tưởng trung lập, và loại bỏ các lý lẽ đạo đức và tôn giáo trong các cuộc thảo luận chính trị của mình. Có một số ngoại lệ đặc biệt. Martin Luther King, Jr, viện dẫn lý lẽ đạo đức và tôn giáo trong việc thúc đẩy sự nghiệp quyền dân sự; phong trào chống chiến tranh Việt Nam được tiếp sinh lực nhờ các tranh cãi đạo đức và tôn giáo; và Robert F. Kennedy[54], trong nỗ lực trở thành ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ vào năm 1968, đã cố gắng kêu gọi quốc dân hướng tới những lý tưởng đạo đức và công dân khắt khe hơn. Nhưng vào những năm 1970, những người tự do dân chủ nắm lấy cách diễn đạt tính trung lập và sự lựa chọn; nhượng lại việc thảo luận đạo đức cho cánh hữu Cơ đốc giáo đang nổi lên.
Với việc Ronald Reagan trúng cử tổng thống vào năm 1980, những người bảo thủ Cơ đốc giáo đã trở thành tiếng nói nổi bật trong nền chính trị Cộng hòa. Phong trào Đạo đức đa số (Moral Majority) của Jerry Falwell và Liên minh Cơ đốc giáo (Christian Coalition) của Pat Robertson tìm cách mặc quần áo cho “công luận trần trụi” và chống lại điều họ quan niệm là lối sống dễ dãi về mặt đạo đức của người Mỹ. Họ ủng hộ cầu nguyện trong trường học, phô trương tôn giáo nơi công cộng, và pháp luật hạn chế nội dung khiêu dâm, phá thai và đồng tính luyến ái. Về phần mình, chủ nghĩa tự do dân chủ phản đối những chính kiến như thế, không phải vì phản đối quan niệm đạo đức trong từng trường hợp, mà vì họ cho rằng phán xét đạo đức và tôn giáo không nên có chỗ trong chính trị.
Kiểu lập luận đó làm lợi cho những người bảo thủ Cơ đốc giáo và mang lại tiếng xấu cho chủ nghĩa tự do dân chủ. Trong thập niên 1990 và đầu những năm 2000, chủ nghĩa tự do dân chủ lập luận, một cách hơi thanh minh, rằng họ cũng ủng hộ “các giá trị”, điển hình là các giá trị của lòng khoan dung, sự công bằng và tự do lựa chọn. (Trong một nỗ lực vụng về nhằm gây tiếng vang, ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ năm 2004 John Kerry sử dụng từ “giá trị” hoặc “các giá trị” 32 lần trong bài phát biểu chấp nhận sự giới thiệu của đảng). Nhưng đây là những giá trị liên quan tới tính trung lập và những ràng buộc về lý trí chung của chủ nghĩa tự do dân chủ. Chúng không gắn kết với sự khao khát về mặt đạo đức và tinh thần ở khắp nơi trên đất nước này, hoặc đáp ứng những khát vọng về một cuộc sống công có ý nghĩa lớn hơn.
Không giống các đảng viên Dân chủ khác, Barack Obama hiểu rõ và đưa khao khát này vào chính trị. Điều này làm cho quan điểm chính trị của ông nổi bật trong chủ nghĩa tự do dân chủ trong thời kỳ đó. Điểm mấu chốt trong tài hùng biện của ông không chỉ đơn giản là ông chọn từ ngữ rất chuẩn. Ngôn ngữ chính trị của ông còn có một chiều sâu đạo đức và tinh thần vượt ra ngoài tính trung lập của phe tự do dân chủ.
Mỗi ngày, có vẻ như hàng ngàn người Mỹ đang lặp lại vòng quay cuộc sống thường nhật của mình: đưa con tới trường, lái xe đến cơ quan, bay đến một cuộc họp, mua sắm ở siêu thị, cố gắng thực hiện chế độ ăn kiêng – và họ đang dần nhận ra mình đánh mất một điều gì đó. Họ quyết định rằng công việc, của cải, giải trí, của mình thôi chưa đủ! Họ muốn một ý nghĩa về mục đích, một quãng đời đáng để kể lại cho cuộc sống của mình… Nếu chúng ta thật sự hy vọng nói chuyện với người dân về nơi họ đang ở – để truyền hy vọng và giá trị của chúng ta sao cho phù hợp với hy vọng và giá trị của chính họ – thì với tư cách là những người cấp tiến, chúng ta không thể từ bỏ trao đổi trong lĩnh vực tôn giáo.
Luận điểm của Obama, rằng những người cấp tiến phải đi theo một hình thức lý trí chung rộng lớn, thân thiện với đức tin, phản ánh một bản năng chính trị nhạy bén của Obama. Đó cũng là triết lý chính trị tốt. Cố gắng tách lập luận về công lý và quyền ra khỏi lập luận về lối sống tốt đẹp là nhầm lẫn vì hai lý do: Thứ nhất, không phải luôn luôn có thể quyết định vấn đề công lý và quyền mà không giải quyết vấn đề đạo đức tồn tại độc lập; và thứ hai, ngay cả khi có thể, chưa chắc điều này đã được mong muốn.
Tranh luận việc nạo phá thai và tế bào gốc
Hãy xem xét hai vấn đề chính trị quen thuộc không thể giải quyết được nếu không dựa vào một tranh cãi về đạo đức và tôn giáo: phá thai và nghiên cứu tế bào phôi gốc. Một số người tin rằng cần phải cấm phá thai vì việc này lấy đi mạng sống người vô tội. Những người khác không đồng ý, họ lập luận rằng luật pháp không nên đứng về bên nào trong cuộc tranh cãi đạo đức và thần học về vấn đề cuộc sống con người bắt đầu khi nào; bởi vì trạng thái đạo đức của bào thai đang phát triển là một vấn đề mang tính đạo đức và tôn giáo gây tranh cãi kịch liệt, và họ cho rằng, chính quyền nên trung lập trên vấn đề này, và cho phép phụ nữ quyền tự quyết định có phá thai không.
Lập trường thứ hai phản ánh lập luận quen thuộc của chủ nghĩa tự do dân chủ với quyền phá thai. Nó tuyên bố giải quyết vấn đề phá thai trên cơ sở trung lập và tự do lựa chọn, không được bước vào tranh cãi về đạo đức và tôn giáo. Nhưng lập luận này không thành công. Bởi vì nếu về mặt đạo đức, bào thai đang phát triển tương đương với một đứa trẻ là đúng, thì về mặt đạo đức phá thai tương đương với việc giết trẻ sơ sinh. Và ít người nghĩ chính quyền nên cho phép các bậc cha mẹ tự quyết định có giết con mình hay không. Vì vậy, lập trường “ủng hộ lựa chọn” trong cuộc tranh luận về phá thai không thực sự trung lập trên vấn đề đạo đức và thần học bên dưới, nó ngầm dựa trên giả định rằng giáo huấn của Cơ đốc giáo về tình trạng tinh thần của bào thai (là con người từ thời điểm thụ thai) là sai.
Xác nhận giả định này không phải là để biện luận cho việc cấm phá thai. Nó chỉ đơn giản để xác nhận rằng tính trung lập, quyền tự do lựa chọn không đủ cơ sở để khẳng định quyền được phá thai. Những người bảo vệ quyền quyết định chấm dứt mang thai của người phụ nữ cần chống lại lập luận bào thai đang phát triển tương đương với một con người, và cố gắng chứng minh tại sao điều này hoàn toàn sai. Không đủ để nói rằng luật pháp cần trung lập trên các vấn đề đạo đức và tôn giáo. Trường hợp cho phép nạo phá thai cũng chẳng trung lập hơn so với trường hợp cấm. Cả hai lập trường đều có câu trả lời trước cho những tranh cãi về đạo đức và tôn giáo bên dưới.
Điều này cũng đúng trong cuộc tranh luận về nghiên cứu tế bào gốc. Những người chủ trương cấm nghiên cứu tế bào phôi gốc cho rằng dù nó mang lại những triển vọng về mặt y khoa lớn đến thế nào đi nữa thì nghiên cứu liên quan đến việc phá hủy phôi của con người là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Những người tin vào quan điểm xem con người hình thành từ lúc thụ thai này cho răng về mặt đạo đức, tiêu diệt một phôi thai ngang với làm chết một đứa trẻ.
Những người ủng hộ nghiên cứu tế bào gốc phản bác bằng cách chỉ ra các lợi ích y khoa mà nghiên cứu này mang lại, bao gồm cả phương pháp trị liệu và phương thuốc chữa trị bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, và tổn thương cột sống. Và họ tranh luận rằng khoa học không nên bị tôn giáo hay ý thức hệ can thiệp và cản trở; những người phản đối trên cơ sở tôn giáo không được phép áp đặt quan điểm của họ thông qua các luật cấm các nghiên cứu khoa học đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên cũng như cuộc tranh luận về quyền phá thai, lý lẽ bênh vực nghiên cứu tế bào phôi gốc không thể không đứng về một phía trong tranh cãi về đạo đức và tôn giáo quanh việc con người bắt đầu hình thành khi nào. Nếu về mặt đạo đức, phôi ban đầu tương đương với một con người, thì những người chống đối nghiên cứu tế bào phôi gốc thắng; ngay cả những nghiên cứu y khoa đầy hứa hẹn cũng không biện minh được cho việc chặt chân tay của con người. Rất ít người nói rằng việc lấy cơ quan nội tạng từ một đứa trẻ năm tuổi để thúc đẩy nghiên cứu cách cứu mạng con người là hợp pháp. Vì thế lý lẽ ủng hộ nghiên cứu tế bào gốc không trung lập trên tranh cãi đạo đức và tôn giáo vê thời điểm con người hình thành. Nó giả định trước câu trả lời trong tranh cãi này – các phôi trước khi cấy bị phá hủy trong quá trình nghiên cứu tế bào gốc chưa phải là con người.
Với việc phá thai và nghiên cứu tế bào gốc, không thể giải quyết vấn đề pháp lý mà không giải quyết vấn đề đạo đức và tôn giáo đằng sau. Trong cả hai trường hợp, không thể trung lập vì vấn đề đang xét có liên quan đến việc có lấy đi mạng sống của con người không. Tất nhiên, phần lớn tranh cãi về đạo đức và chính trị không liên quan đến vấn đề sinh tử. Vì vậy, những người ủng hộ tính trung lập của chủ nghĩa tự do dân chủ có thể trả lời rằng cuộc tranh luận về phá thai và nghiên cứu tế bào gốc là trường hợp đặc biệt, ngoại trừ định nghĩa về con người còn gây tranh cãi, chúng ta có thể giải quyết những tranh luận về công lý và quyền mà không đứng về phía nào trong tranh cãi về đạo đức và tôn giáo.
Hôn nhân đồng tính
Nhưng điều này cũng không đúng. Hãy xét cuộc tranh luận về hôn nhân đồng tính. Bạn có thể xác định liệu nhà nước có nên công nhận hôn nhân đồng tính mà không cần tham gia vào các tranh cãi về đạo đức và tôn giáo liên quan tới mục đích của hôn nhân và tình trạng đạo đức của đồng tính luyến ái không? Một số cho rằng có, và lập luận ủng hộ hôn nhân đồng tính trên cơ sở tự do, không phán xét: cho dù ai đó chấp nhận hay phản đối quan hệ đồng tính, cá nhân cần được tự do lựa chọn đối tác hôn nhân của mình. Cho phép tình dục khác giới nhưng không cho phép kết hôn đồng tính là phân biệt đối xử một cách sai trái với người đồng tính, và phủ nhận họ bình đẳng trước pháp luật.
Nếu lập luận này đủ cơ sở để theo đó nhà nước công nhận hôn nhân đồng tính, thì vấn đề có thể được giải quyết trong phạm vi lý trí chung của chủ nghĩa tự do dân chủ, mà chẳng cần trông cậy tới quan niệm gây tranh cãi về mục đích của hôn nhân và những điều tốt nó tôn vinh. Nhưng không thể lý giải về hôn nhân đồng tính trên cơ sở không phán xét. Nó phụ thuộc vào một quan niệm nhất định về telos (mục đích) của hôn nhân. Và, như Aristotle nhắc nhở chúng ta, tranh luận về mục đích của thể chế xã hội là tranh luận về các giá trị nó tôn vinh và tưởng thưởng. Cuộc tranh luận về hôn nhân đồng tính cơ bản là cuộc tranh luận về việc liệu các cặp đôi đồng tính nam và đồng tính nữ có đáng được tôn vinh và công nhận theo cách hôn nhân nhà nước công nhận được hưởng. Vì thế không tránh được vấn đề đạo đức bên dưới.
Để xem tại sao điều này không thể tránh khỏi, điều quan trọng cần nhớ là một nhà nước có thể có ba (không phải chỉ hai) chính sách khả dĩ với hôn nhân. Nhà nước có thể theo chính sách truyền thống, chỉ công nhận cuộc hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, hoặc nhà nước có thể làm điều mà một vài quốc gia đã làm, công nhận hôn nhân đồng tính cũng giống như công nhận hôn nhân giữa nam và nữ, hoặc nhà nước có thể từ chối công nhận bất kỳ kiểu kết hôn nào, và chuyển vai trò này cho tư nhân.
Ba chính sách có thể được tóm lược như sau:
1. Chỉ công nhận hôn nhân giữa nam và nữ.
2. Công nhận cả hôn nhân đồng tính và khác giới.
3. Không công nhận bất kỳ kiểu hôn nhân nào, để vai trò này cho tư nhân.
Ngoài luật hôn nhân, nhiều tiểu bang có thể thông qua luật gắn kết dân sự, luật quan hệ đối tác gia đình nhằm đưa ra cơ chế pháp lý bảo vệ, quyền thừa kế, quyền thăm viếng ở bệnh viện, và thỏa thuận quyền nuôi con để các cặp đôi sống chung và bước vào một thỏa thuận hợp pháp. Nhiều tiểu bang có thỏa thuận như thế với các cặp đồng tính nam và đồng tính nữ. Năm 2003, với một phán quyết của Tòa án Tối cao tiểu bang, Massachusetts trở thành tiểu bang đầu tiên công nhận về mặt pháp lý hôn nhân đồng tính (chính sách 2). Trong năm 2008, Tòa án Tối cao California đã ra phán quyết ủng hộ quyền hôn nhân đồng tính, nhưng một vài tháng sau khi đưa ra phán quyết, đại đa số cử tri bác bỏ quyết định này trong một cuộc bỏ phiếu trưng cầu trên toàn bang. Trong năm 2009, Vermont trở thành tiểu bang đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính dưới dạng pháp luật chứ không phải phán quyết của tòa án.
Chính sách 3 thuần túy mang tính giả thuyết, ít nhất là tại Hoa Kỳ; chẳng tiểu bang nào đi xa đến mức từ bỏ chức năng công nhận hôn nhân của chính quyền. Nhưng chính sách này dù sao cũng đáng xem xét, vì làm sáng tỏ các lý lẽ ủng hộ và chống đối hôn nhân đồng tính.
Chính sách 3 là giải pháp lý tưởng của chủ nghĩa tự do cá nhân trong cuộc tranh luận về kết hôn. Nó không hủy bỏ hôn nhân, nhưng hủy bỏ hôn nhân như một hình thái tổ chức do nhà nước công nhận. Tốt nhất có thể mô tả chính sách này là tách hôn nhân ra khỏi nhà nước. Cũng như tách tôn giáo ra khỏi nhà nước có nghĩa là hủy bỏ việc coi một tôn giáo là quốc giáo (trong khi cho phép tôn giáo đó tồn tại độc lập với nhà nước), tách hôn nhân khỏi nhà nước không thừa nhận nhà nước có trách nhiệm chính thức trong việc công nhận hôn nhân.
Nhà bình luận Michael Kinsley bảo vệ chính sách này vì đây là cách thoát khỏi những tranh cãi về hôn nhân mà theo ông không thể giải quyết được. Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính than phiền việc chỉ chấp nhận hôn nhân khác giới là một loại phân biệt đối xử. Những người phản đối cho rằng nếu chấp nhận hôn nhân đồng tính, nhà nước đi từ việc dung thứ đến tán thành đồng tính luyến ái và đóng “dấu chuẩn thuận của chính quyền”.
Kinsley viết: Giải pháp này là “để kết thúc chế độ hôn nhân do chính quyền công nhận” nhằm “tư nhân hóa hôn nhân”. Hãy để mọi người kết hôn theo cách mà họ thích, nhà nước không nên công nhận hoặc can thiệp vào.
Hãy để nhà thờ và các tổ chức tôn giáo khác tiếp tục thực hiện nghi lễ hôn nhân. Hãy để cửa hàng bách hóa và các sòng bạc tham gia, nếu muốn… Hãy để những cặp vợ chồng đánh dấu sự kết hợp của mình theo bất kỳ cách nào họ chọn và tự coi mình đã kết hôn bất cứ khi nào họ muốn. Và, nếu có ba người muốn kết hôn với nhau, hoặc một người muốn kết hôn với chính mình, và một ai đó nửa muốn tiến hành nghi lễ kết hôn và tuyên bố họ thành vợ thành chồng thì hãy kệ họ.
“Nếu hôn nhân là chuyện hoàn toàn riêng tư”, Kinsley suy lý, “thì tất cả các tranh chấp về hôn nhân đồng tính sẽ trở nên không thích hợp. Hôn nhân đồng tính sẽ không được nhà nước công nhận chính thức, nhưng hôn nhân bình thường cũng có được nhà nước công nhận đâu”. Kinsley cho rằng luật quan hệ đối tác trong gia đình có thể xử lý các vấn đề tài chính, bảo hiểm, nuôi dưỡng trẻ em và thừa kế phát sinh khi mọi người sống chung và cùng nuôi dạy con cái. Ông đề xuất, thay thế tất cả các dạng hôn nhân nhà nước công nhận, đồng tính và bình thường với hôn nhân dân sự.
Từ quan điểm tính trung lập của chủ nghĩa tự do dân chủ, đề xuất của Kinsley có lợi thế rõ ràng so với hai lựa chọn kia (chính sách 1 và 2): Nó không yêu cầu thẩm phán và công dân phải tham gia vào các tranh cãi về mặt đạo đức và tôn giáo liên quan đến mục đích của hôn nhân và đạo đức của đồng tính luyến ái. Vì nhà nước không còn ban bất kỳ danh xưng hôn nhân cao quý nào cho gia đình, công dân sẽ tránh tham gia vào cuộc tranh luận về telos của hôn nhân, và liệu người đồng tính có thể thực hiện telos đó được không.
Khá ít người ở hai phía của cuộc tranh luận về hôn nhân đồng tính chấp nhận đề xuất tách hôn nhân khỏi nhà nước. Nhưng nó làm sáng tỏ điều gì đang bị đe dọa trong cuộc tranh luận hiện tại, và giúp chúng ta nhìn thấy tại sao cả hai phía ủng hộ và phản đối hôn nhân đồng tính lại tranh cãi về nội dung đạo đức và tôn giáo liên quan đến mục đích của hôn nhân và những điều tốt xác định mục tiêu đó. Cả hai lập trường đều không đứng vững trong phạm vi lý trí chung của chủ nghĩa tự do dân chủ.
Tất nhiên, những ai phản đối hôn nhân đồng tính với lý do điều này là tội lỗi và làm ô danh ý nghĩa chân chính của hôn nhân không ngại thực tế là họ đang đưa ra một luận điểm đạo đức hay tôn giáo. Những những người ủng hộ quyền hôn nhân đồng tính thường cố gắng đặt luận điểm của mình trên cơ sở trung lập, và tránh đưa ra phán xét về ý nghĩa đạo đức của hôn nhân. Nỗ lực để tìm một lý giải không phán xét cho hôn nhân đồng tính dựa rất nhiều vào ý tưởng phân biệt đối xử và tự do lựa chọn. Nhưng những ý tưởng này không thể tự biện minh cho quyền hôn nhân đồng tính. Để xem tại sao lại vậy, hãy cân nhắc ý kiến sâu sắc và tinh tế của Margaret Marshall, Chánh án Tòa án Tối cao tiểu bang Massachusetts, trong phán quyết của tòa án ở vụ án Goodridge kiện Bộ Y tế cộng đồng (2003) về hôn nhân đồng giới.
Marshall bắt đầu bằng việc công nhận bất đồng sâu sắc về mặt đạo đức và tôn giáo do chủ đề này gây ra, và ám chỉ tòa án sẽ không đứng về bên nào trong tranh chấp này:
Nhiều người mang niềm tin tôn giáo, luân lý và đạo đức rằng hôn nhân chỉ dành cho sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, và rằng hành vi đồng tính là vô luân. Nhiều người có niềm tin tôn giáo, đạo đức và luân lý không kém phần mạnh mẽ rằng các cặp đồng tính xứng đáng được quyền kết hôn, và rằng người đồng tính phải được đối xử không khác gì người hàng xóm bình thường. Không quan điểm nào trả lời được câu hỏi đặt ra cho chúng ta. “Nghĩa vụ của chúng ta là xác định quyền tự do cho tất cả, chứ không phải áp đặt quy tắc đạo đức của mình”.
Như thể để tránh đi vào tranh cãi về mặt đạo đức và tôn giáo liên quan đến đồng tính luyến ái, Marshall mô tả vấn đề đạo đức trước tòa theo thuật ngữ của chủ nghĩa tự do dân chủ – vấn đề tự chủ và tự do lựa chọn. Việc không công nhận hôn nhân của các cặp đồng tính không phù hợp với “sự tôn trọng quyền tự chủ của cá nhân và sự bình đẳng trước pháp luật”, bà viết. Sự tự do “lựa chọn liệu có cưới không và cưới ai sẽ là rỗng tuếch” nếu nhà nước có thể “ngăn cản cá nhân tự do lựa chọn người mà cá nhân đó muốn gắn bó”. Marshall cho rằng vấn đề này không phải là giá trị đạo đức của sự lựa chọn mà là quyền lựa chọn của cá nhân, đó là quyền của người “kết hôn với người bạn đời mình chọn”.
Nhưng tự chủ và tự do lựa chọn không đủ để biện minh cho quyền hôn nhân đồng tính. Nếu chính quyền thực sự trung lập trên vấn đề giá trị đạo đức của tất cả các mối quan hệ riêng tư tự nguyện, thì nhà nước sẽ không có cơ sở để hạn chế hôn nhân của hai người; và quan hệ đa thê đồng thuận cũng đủ điều kiện để được chấp nhận. Trên thực tế, nếu thật sự muốn trung lập, và tôn trọng bất cứ lựa chọn nào cá nhận mong muốn thực hiện, nhà nước phải chấp nhận đề xuất của Michael Kinsley và không đảm trách vai trò công nhận các cuộc hôn nhân.
Vấn đề thực sự trong cuộc tranh luận kết hôn đồng tính không phải là quyền tự do lựa chọn, mà là liệu cặp đôi đồng tính có đáng được cộng đồng tôn vinh và công nhận – liệu chúng có đáp ứng được mục đích của thể chế xã hội của hôn nhân không. Theo Aristotles, đây là vấn đề phân phối công bằng chức trách và sự tôn vinh. Đó là vấn đề sự công nhận của xã hội.
Mặc dù nhấn mạnh tự do lựa chọn, Tòa án Massachusetts nói rõ họ không có ý định mở đường cho hôn nhân đa thê. Tòa không nghi ngờ ý niệm rằng chính quyền có thể công nhận một số kiểu gắn kết mang tính riêng tư này chứ không phải những kiểu gắn kết khác. Và tòa án cũng không kêu gọi việc bãi bỏ hoặc chia tách hôn nhân.
Ngược lại, ý kiến của Chánh án Marshall cất lên khúc tán ca coi hôn nhân là “một trong những thể chế thiết thực và đáng tôn vinh nhất trong cộng đồng”. Bà lập luận việc loại bỏ hôn nhân được chính quyền công nhận “sẽ phá hủy một nguyên tắc tổ chức có tầm quan trọng sống còn của xã hội chúng ta”.
Thay vì loại bỏ hôn nhân do nhà nước công nhận, Marshall lập luận ủng hộ việc mở rộng định nghĩa truyền thống để bổ sung thêm các đối tác đồng tính. Khi làm thế, bà bước ra ngoài phạm vi tính trung lập của chủ nghĩa tự do dân chủ để khẳng định giá trị đạo đức của sự kết hợp đồng giới, và đưa ra quan điểm về mục đích cửa hôn nhân, được nhìn nhận một cách đúng đắn. Không chỉ là một thỏa thuận riêng tư giũa hai người trưởng thành, bà nhận xét kết hôn là hình thái được đại chúng công nhận và phê chuẩn. “Thực sự, có ba đối tác trong hôn nhân dân sự: hôn phu, hôn thê và một chính quyền phê chuẩn”. Đặc tính hôn nhân này sẽ mang đến khía cạnh được tôn vinh: “Hôn nhân dân sự là một cam kết cá nhân sâu sắc với một người khác và được công luận đánh giá cao vì lý tưởng tương hỗ, đồng hành, thân ái, chung thủy, và gia đình”.
Nếu hôn nhân là một thể chế đáng tôn trọng, cần tôn vinh những giá trị nào của hôn nhân? Đặt câu hỏi đó là hỏi về mục đích, hay telos, của hôn nhân – một thể chế xã hội. Nhiều người phản đối hôn nhân đồng tính cho rằng mục đích chính của hôn nhân là sinh sản. Theo lý lẽ này, vì không thể tự sinh sản, nên cặp đồng tính không có quyền kết hôn. Có thể nói họ thiếu đức tính thích hợp.
Dòng suy lý mang tính mục đích luận này là trọng tâm của lý lẽ chống hôn nhân đồng tính, và Marshall sử dụng trực tiếp. Bà không giả vờ trung lập đối với mục đích hôn nhân, mà diễn giải theo cách đối nghịch. Bà cho rằng bản chất của hôn nhân không phải để sinh sản mà là một cam kết độc nhất, yêu thương giữa hai người bạn đời – cho dù họ khác giới hay đồng giới.
Giờ đây, bạn có thể hỏi, làm cách nào để có thể phán xử giữa các lý lẽ đối nghịch về mục đích, về bản chất của việc kết hôn? Có thể lập luận một cách có lý trí về ý nghĩa và mục đích của các thể chế xã hội có tranh cãi về mặt đạo đức như hôn nhân không? Hay đó chỉ đơn giản là sự va chạm giữa những lời khẳng định không có chứng cứ (một số người nói đó là vấn đề sinh sản, những người khác coi đó là sự cam kết yêu thương) và không có cách nào chứng minh bên nào thuyết phục hơn?
Ý kiến của Marshall đưa ra minh chứng xuất sắc về cách phát triển những lập luận như vậy. Trước tiên, bà thách thức luận điểm coi sinh sản là mục đích chính của hôn nhân. Bà làm vậy bằng cách chỉ ra hôn nhân, như trong thực tế và theo quy định của chính quyền tiểu bang, không đòi hỏi khả năng sinh sản. Cặp vợ chồng khác giới xin cấp giấy chứng hôn không được hỏi về “khả năng hay ý định có thai bằng cách giao hợp. Khả năng sinh sản không phải là điều kiện cần của hôn nhân, cũng chẳng là căn cứ để ly hôn. Những người chưa bao giờ có quan hệ tình dục, và không bao giờ dự định làm điều đó vẫn có thể kết hôn và duy trì hôn nhân. Những người ở bên miệng lỗ cũng có thể kết hôn”. Trong khi đó “nhiều cặp vợ chồng, có lẽ là đa số, có con với nhau (nhờ biện pháp trợ giúp hay không cần trợ giúp)”, Marshall kết luận, “chính sự gắn bó độc nhất và vĩnh viễn giữa các đối tác trong hôn nhân, chứ không phải việc sinh con, là điều kiện tiên quyết của hôn nhân dân sự”.
Vì vậy, một phần lập luận của Marshall diễn giải về mục đích hay bản chất của hôn nhân như nó đang hiện hữu. Đối mặt với những diễn giải đối nghịch nhau về một tập quán xã hội: hôn nhân để sinh sản hay hôn nhân là sự gắn bó vĩnh viễn – làm thế nào chúng ta có thể xác định diễn giải nào hợp lý hơn? Một cách là kiểm tra xem lý giải nào đem lại ý nghĩa tốt hơn cho các luật hôn nhân hiện có, xét một cách tổng thể. Một cách khác là hỏi diễn giải về hôn nhân nào tán dương đức tính đáng tôn vinh. Những gì quan trọng với tư cách mục đích của hôn nhân một phần phụ thuộc vào những giá trị chúng ta nghĩ hôn nhân phải tán dương và khẳng định. Điều này làm cho chúng ta không thể tránh khỏi tranh cãi về mặt đạo đức và tôn giáo nằm đằng sau: Trạng thái đạo đức của quan hệ đồng tính là gì?
Marshall không trung lập trên vấn đề này. Bà cho rằng mối quan hệ đồng tính xứng đáng được tôn trọng như mối quan hệ khác giới. Chỉ giới hạn trong hôn nhân khác giới sẽ “đóng một con dấu chấp thuận chính thức lên một định kiến tai hại rằng mối quan hệ đồng tính có bản chất bấp bênh và thấp kém so với mối quan hệ khác giới và không xứng đáng được tôn trọng”. Vì thế khi chúng ta nhìn kỹ vào lý lẽ hôn nhân đồng tính, chúng ta thấy rằng nó không thể dựa trên ý tưởng phân biệt đối xử và tự do lựa chọn. Để quyết định ai có đủ điều kiện để kết hôn, chúng ta phải suy nghĩ về mục đích của hôn nhân và các giá trị nó tôn vinh. Và điều này đưa chúng ta đến vùng đất đạo đức nhiều tranh cãi, nơi chúng ta không thể đứng trung lập giũa nhiều quan niệm cạnh tranh nhau về cuộc sống tốt đẹp.
Công lý và lối sống tốt đẹp
Trong suốt hành trình này, chúng ta đã khám phá ba cách tiếp cận công lý. Cách thứ nhất nói công lý nghĩa là tăng tối đa tiện ích hay phúc lợi – hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất. Cách thứ hai cho rằng công lý là tôn trọng quyền tự do lựa chọn, cho dù lựa chọn thực sự đưa ra trong một thị trường tự do cá nhân (quan điểm của chủ nghĩa tự do cá nhân) hoặc lựa chọn giả thuyết mọi người đưa ra trong tình trạng bình đẳng ban đầu (quan điểm chủ nghĩa tự do dân chủ quân bình). Cách thứ ba nói công lý liên quan đến việc trau dồi đức tính và lý luận về lợi ích chung. Như các bạn bây giờ có thể đoán, tôi ủng hộ một biến thể của cách tiếp cận thứ ba. Để tôi cố gắng giải thích tại sao.
Cách tiếp cận của chủ nghĩa vị lợi có hai khiếm khuyết: Đầu tiên, nó coi công lý và quyền là vấn đề tính toán hơn thiệt, không phải nguyên tắc. Thứ hai, bằng cách cố gắng quy đổi tất cả giá trị vào một thang đo giá trị chung, nó “là phẳng” mọi giá trị bất chấp chúng có phẩm chất khác biệt.
Các lý thuyết dựa trên sự tự do giải quyết được vấn đề đầu tiên nhưng không giải quyết được vấn đề thứ hai. Chúng thực sự xem trọng quyền và nhấn mạnh công lý không chỉ là tính toán lợi ích đơn thuần. Mặc dù bất đồng với nhau về những quyền nào có giá trị hơn tính toán của chủ nghĩa vị lợi, chúng đồng ý rằng có một số quyền cơ bản và phải được tôn trọng. Tuy nhiên, ngoài việc lựa chọn tôn trọng các quyền nhất định, chúng chấp nhận sở thích hiện hữu của con người. Các lý thuyết này không đòi hỏi chúng ta phải hoài nghi và thử thách các sở thích và mong muốn chúng ta mang vào đời sống chung. Theo đó, giá trị đạo đức của các mục tiêu chúng ta theo đuổi, ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc sống chúng ta hướng tới, chất lượng và tính chất của cuộc sống chung mà chúng ta cùng chia sẻ đều nằm ngoài địa hạt công lý.
Đối với tôi điều này có vẻ nhầm lẫn. Không thể có một xã hội công bằng đơn giản chỉ bằng cách tối đa lợi ích hay bảo đảm quyền tự do lựa chọn. Để có được một xã hội công bằng, chúng ta còn phải cùng nhau lý giải về ý nghĩa của lối sống tốt đẹp, và tạo ra một nền văn hóa chung khoan dung với những bất đồng tất yếu sẽ phát sinh.
Chúng ta bị hấp dẫn bởi việc tìm kiếm một nguyên tắc hay một quy trình có thể lý giải hợp lý trọn vẹn bất cứ sự phân phối thu nhập, quyền lực hay cơ hội nào xuất phát từ nguyên tắc hay quy trình đó. Một nguyên tắc như thế, nếu có thể tìm thấy, sẽ cho phép chúng ta tránh sự hỗn loạn và tranh cãi về lối sống tốt đẹp.
Nhưng những tranh cãi này là không thể tránh khỏi. Công lý không thể không phán xét. Cho dù chúng ta tranh cãi về gói cứu trợ tài chính hoặc huân chương Tử tâm, việc mang thai hộ hay hôn nhân đồng tính, chính sách chống kỳ thị hay việc phục vụ quân đội, lương giám đốc điều hành hay quyền sử dụng xe điện khi chơi golf, các vấn đề công lý bị ràng buộc với những ý niệm cạnh tranh nhau về tôn vinh và giá trị, niềm tự hào và sự công nhận. Công lý không chỉ là cách phân phối đúng. Công lý cũng về cách xác định giá trị đúng đắn.
Chính kiến về lợi ích chung
Nếu một xã hội công bằng đòi hỏi cùng nhau suy lý về lối sống tốt đẹp, vẫn còn đó câu hỏi: loại thảo luận chính trị nào sẽ dẫn chúng ta theo hướng này. Tôi không có một câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi trên, nhưng tôi có thể đưa ra một vài gợi ý minh họa. Đầu tiên là một quan sát: Ngày nay, phần lớn các tranh luận chính trị của chúng ta xoay quanh phúc lợi và quyền tự do – phát triển kinh tế và tôn trọng quyền con người. Đối với nhiều người, nói chuyện về giá trị trong chính trị gợi lên trong tâm trí cách những người bảo thủ tôn giáo khuyên mọi người sống như thế nào.
Nhưng đây không phải là cách duy nhất để truyền tải những quan niệm về đạo đức và lợi ích chung vào trong chính trị. Thách thức ở đây là phải hình dung ra một nền chính trị coi những vấn đề đạo đức và tinh thần là nghiêm túc, nhưng lồng ghép chúng vào các mối quan tâm về kinh tế và dân sự rộng lớn hơn, chứ không chỉ là giới tính và nạo phá thai.
Trong đời tôi, tiếng nói dõng dạc nhất theo chiều hướng này là của Robert F. Kennedy, khi ông vận động cho vị trí ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ vào năm 1968. Với ông, công lý không chỉ là kích thước và cách phân phối sản phẩm quốc gia. Công lý có mục đích đạo đức cao hơn.
Khi phát biểu tại Đại học Kansas ngày 18-3-1968, Kehnedy nói về cuộc chiến tranh Việt Nam, cuộc bạo loạn ở các thành phố Mỹ, sự bất bình đẳng chủng tộc và cảnh đói nghèo ông chứng kiến ở Mississippi và Appalachia. Sau đó ông chuyển từ các vấn đề công lý cụ thể này sang tranh luận rằng người Mỹ đã đi đến chỗ đánh giá cao nhũng điều sai. Kennedy nói:
Ngay cả nếu chúng ta hành động để xóa nghèo về mặt vật chất, vẫn có một nhiệm vụ lớn hơn. Đó là đương đầu với cái nghèo về sự thỏa mãn… vốn là tất cả chúng ta phiền muộn. Người Mỹ đã trao mình cho “sự tích tụ đơn thuần vật chất”.
Tổng sản phẩm quốc gia[55] của chúng ta bây giờ là hơn 800 tỷ đô la một năm. Nhưng GNP tính cả ô nhiễm không khí và quảng cáo thuốc lá; xe cứu thương để cấp cứu tai nạn trên đường cao tốc. GNP tính cả các loại khóa đặc biệt cho cửa ra vào nhà chúng ta và nhà tù cho những kẻ bẻ khóa. GNP tính cả những khu rừng bị phá hủy và những kỳ quan thiên nhiên rơi vào cảnh hỗn loạn. GNP tính cả bom napalm và số lượng đầu đạn hạt nhân và xe thiết giáp mà cảnh sát dùng để chống bạo loạn trong các thành phố của chúng ta. GNP tính đến… các chương trình truyền hình tôn vinh bạo lục để bán đồ chơi cho con trẻ. Tuy nhiên GNP không tính đến sức khỏe của con em chúng ta, chất lượng giáo dục hay niềm vui của chúng. GNP không bao gồm vẻ đẹp của thơ ca hoặc sự vững bền của hôn nhân, trí tuệ trong các cuộc tranh cãi trước công luận hoặc tính liêm chính của các viên chức nhà nước. GNP cũng chẳng đo sự hài hước hay lòng nhiệt tình hay sự can đảm của chúng ta. Cũng không phải sự khôn ngoan, khả năng học tập, lòng nhân ái và sự cống hiến cho tổ quốc của chúng ta. Tóm lại GNP bao gồm tất cả mọi thứ, ngoại trừ những thứ làm cho cuộc sống chúng ta đáng giá. Và GNP có thể cho chúng ta biết mọi thứ về nước Mỹ, ngoại trừ lý do tại sao chúng ta tự hào là người Mỹ.
Nghe Kennedy nói, hay đọc đoạn văn trên, bạn có thể nói rằng sự chỉ trích về đạo đức ông nhắm vào sự tự thỏa mãn và ham mê vật chất của thời đại đó độc lập với quan điểm của ông về những bất công liên quan đến nghèo đói, Chiến tranh Việt Nam và kỳ thị chủng tộc. Nhưng ông nhìn thấy chúng có kết nối. Để đảo ngược những bất công này, Kennedy nghĩ cần thách thức lối sống tự mãn ông nhìn thấy xung quanh, ông đã không ngần ngại đưa ra phán xét. Chưa hết, bằng cách khơi gợi niềm tự hào quốc gia của người Mỹ, ông cũng đồng thời kêu gọi ý thức cộng đồng. Kennedy bị ám sát chưa đầy ba tháng sau đó. Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán liệu nếu còn sống thì nền chính trị cộng hưởng đạo đức ông khởi xướng có phát triển không.
Bốn thập kỷ sau, trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008, Barack Obama cũng đề cập tới sự khao khát của người Mỹ về một lối sống chung có mục đích lớn hơn và hùng biện về một nền chính trị có khát vọng về đạo đức và tinh thần. Chúng ta vẫn còn phải chờ xem liệu nhu cầu đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái sâu sắc có ngăn cản ông biến sức ép đạo đức và dân sự trong chiến dịch của mình thành một nền chính trị mới vì lợi ích chung không. Một nền chính trị mới vì lợi ích chung sẽ như thế nào? Dưới đây là một số chủ đề khả dĩ:
1. Công dân, hy sinh, và dịch vụ công
Để đòi hỏi một ý thức cộng đồng mạnh mẽ, xã hội công bằng phải tìm cách khuyến khích, cổ vũ người dân quan tâm đến toàn thể, một sự cống hiến vì lợi ích chung. Nó không thể trung lập giữa các thái độ, khuynh hướng, hay “thói quen của con tim” mà công dân mang đến cuộc sống chung. Nó phải tìm cách chống lại các khái niệm thuần túy cá nhân về lối sống tốt, và thúc đẩy giá trị công dân.
Theo truyền thống, các trường công lập là địa điểm để giáo dục công dân. Đối với một số thế hệ, quân đội là một địa điểm khác. Tôi không đề cập đến việc giảng dạy chi tiết đạo đức công dân, mà là giáo dục công dân trong thực tiễn – khía cạnh thường ít được chú ý. Điều này diễn ra khi những người trẻ từ các tầng lớp kinh tế, nền tảng tôn giáo và cộng đồng dân tộc khác nhau cùng nhau tham gia vào một tổ chức chung.
Vào thời điểm nhiều trường công lập ở trong tình trạng bấp bênh và chỉ một phần rất nhỏ xã hội Mỹ tòng quân, một câu hỏi nghiêm túc là làm cách nào một xã hội dân chủ rộng lớn và đa tạp như xã hội của chúng ta có thể hy vọng cổ vũ tinh thần liên đới và tinh thần trách nhiệm hỗ tương như một xã hội công bằng đòi hỏi. Câu hỏi này mới đây đã tái xuất hiện trong thảo luận chính trị của chúng ta – ít nhất ở một mức độ nào đó.
Trong chiến dịch tranh cử năm 2008, Barack Obama nhận thấy sự kiện 11-9-2001 khuấy lên tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và sự sẵn sàng phụng sự đất nước. Và ông chỉ trích Tổng thống George W. Bush đã không hô hào nhân dân Mỹ có một số hình thức hy sinh chung. Obama nói: “Thay vì kêu gọi phụng sự, chúng ta được yêu cầu đi mua sắm. Thay vì kêu gọi cùng hy sinh, chúng ta cắt giảm thuế cho người giàu trong thời gian chiến tranh – lần đầu tiên như thế trong lịch sử của mình”.
Obama đề xuất động viên việc phụng sự quốc gia bằng cách tặng học phí cho sinh viên để đổi lấy một trăm giờ lao động công ích. “Các bạn đầu tư vào nước Mỹ, và nước Mỹ đầu tư vào bạn”, ông nói với những người trẻ tuổi khi, vận động tranh cử trên toàn quốc. Đề nghị này được chứng minh là một trong những điểm khiến ông được ưa thích, và vào tháng 4-2009, ông đã ký luật mở rộng AmeriCorps sang chương trình dịch vụ công và cung cấp tiền cho sinh viên đại học hoạt động tình nguyện trong cộng đồng. Mặc dù lời kêu gọi phụng sự quốc gia của Obama đã có tiếng vang, nhưng những đề xuất tham vọng hơn về nghĩa vụ bắt buộc phụng sự quốc gia chưa bao giờ dược đua vào chương trình nghị sự.
2. Giới hạn đạo đức của thị trường
Một trong những xu hướng nổi bật trong thời đại chúng ta là mở rộng thị trường và sự suy lý định hướng thị trường trong các lĩnh vực đời sống mà theo truyền thống bị các chuẩn mực phi thị trường chi phối. Trong những chương trước, chúng ta đã xét những vấn đề đạo đức nảy sinh, chẳng hạn khi các quốc gia thuê công ty cung cấp dịch vụ quân sự và thẩm vấn tù nhân đến việc lính đánh thuê hay nhà thầu quân sự tư nhân; hoặc khi các bậc cha mẹ thuê người ở các nước đang phát triển mang thai và đẻ thuê; hoặc khi người ta mua và bán thận trên thị trường tự do. Có nhiều tình huống khác: có nên thưởng tiền mặt cho sinh viên trong các trường học chất lượng thấp nhưng đạt điểm cao trong bài thi chuẩn? Liệu có nên thưởng cho giáo viên cải thiện kết quả thi của học sinh? Các tiểu bang có nên thuê công ty tư nhân trông coi nhà tù? Hoa Kỳ có nên đơn giản hóa chính sách nhập cư bằng cách chấp nhận đề nghị của một nhà kinh tế của Đại học Chicago cho phép bán tư cách công dân Hoa Kỳ với giá 100.000 đô la?
Những câu hỏi này không chỉ về lợi ích và sự ung thuận. Chúng cũng là cách đúng đắn xác định giá trị các tập quán xã hội quan trọng: nhập ngũ, sinh đẻ, dạy và học, trừng trị tội phạm, chấp nhận công dân mới… Vi thị trường hóa các tập quán xã hội sẽ làm băng hoại hoặc làm hạ thấp các chuẩn mực xác định chúng, chúng ta cần phải đặt câu hỏi những chuẩn mực phi thị trường nào chúng ta muốn bảo vệ không cho thị trường can thiệp. Đây là một vấn đề đòi hỏi phải tranh luận công khai về những quan niệm đối nghịch liên quan đến cách đúng đắn để coi trọng những điều tốt. Thị trường là công cụ hữu ích cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất. Nhưng trừ khi chúng ta muốn thị trường viết lại các chuẩn mực chi phối các thể chế xã hội, chúng ta cần một cuộc tranh luận công khai về giới hạn đạo đức của thị trường.
3. Bất bình đẳng, liên đới và đức tính công dân
Khoảng cách giàu nghèo của nước Mỹ đạt mức kỷ lục trong những thập kỷ gần đây. Ấy vậy mà sự bất bình đẳng lại không là một vấn đề chính trị lớn. Ngay cả đề nghị khiêm tốn của Barack Obama đối với việc quay trở lại mức thuế thu nhập của những năm 1990 đã khiến các đối thủ Cộng hòa trong chiến dịch năm 2008 gọi ông là người theo chủ nghĩa xã hội, kẻ muốn chia của cải.
Việc nền chính trị đương đại thiếu quan tâm đến bất bình đẳng không có nghĩa là các nhà triết học chính trị thiếu quan tâm đến chủ đề này. Phân phối công bằng thu nhập và của cải là tâm điểm của cuộc tranh luận trong triết học chính trị từ những năm 1970 đến nay. Nhưng xu hướng các triết gia đóng khung vấn đề này trong ngôn ngữ ích lợi và sự ưng thuận khiến họ bỏ qua những luận cứ chống lại sụ bất bình đẳng – vốn rất có khả năng nhận được một phiên điều trần và nằm ở trung tâm của dự án đổi mới về đạo đức và dân sự.
Một số triết gia muốn đánh thuế người giàu giúp người nghèo tranh luận nhân danh lợi ích; họ cho rằng lấy một trăm đô la từ một người giàu và đưa cho một người nghèo sẽ làm người giàu bớt hạnh phúc một chút thôi, nhưng làm người nghèo hạnh phúc hơn rất nhiều. John Rawls cũng bảo vệ việc phân phối lại, nhưng trên cơ sở sự ưng thuận mang tính giả thuyết, ông lập luận nếu chúng ta tưởng tượng ra một khế ước xã hội giả thuyết với vị trí bình đẳng ban đầu, mọi người sẽ đồng ý nguyên tắc ủng hộ một hình thức phân phối lại.
Nhưng có một lý do quan trọng thứ ba để quan ngại về sự bất bình đẳng đang gia tăng trong đời sống Mỹ: khoảng cách giàu – nghèo quá lớn phá hoại tình đoàn kết mà tư cách công dân trong xã hội dân chủ đòi hỏi. Đây là nguyên nhân: Khi sự bất bình đẳng lớn, người giàu và người nghèo ngày càng sống những cuộc sống riêng biệt. Người giàu cho con mình đến trường tư (hoặc các trường công lập ở vùng ngoại ô giàu có), để trường công lập trong khu đô thị cho trẻ em của các gia đình không có lựa chọn nào khác. Một xu thế tương tự cũng dẫn đến sự rời bỏ các tổ chức và phương tiện công cộng khác của người có đặc quyền. Các câu lạc bộ sức khỏe tư nhân thay thế các trung tâm vui chơi giải trí và bể bơi. Cộng đồng dân cư cao cấp thuê nhân viên an ninh tư nhân và ít phụ thuộc vào cảnh sát bảo vệ. Một chiếc xe thứ hai hoặc thứ ba loại bỏ nhu cầu sử dụng giao thông công cộng. Và nhiều ví dụ như vậy. Nhóm người giàu không sử dụng những khu vực và dịch vụ công cộng, nhường lại cho những người không còn lựa chọn nào khác.
Điều này có hai tác động xấu, một về tài chính, một về thái độ công dân. Trước tiên, dịch vụ công cộng bị xuống cấp vì những người không còn sử dụng chúng ít sẵn sàng duy tu bằng tiền thuế của mình. Thứ hai, các tổ chức công như trường học, công viên, sân chơi và trung tâm cộng đồng là những nơi công dân từ nhiều tầng lớp xã hội gặp nhau. Những tổ chức xưa là nơi người dân tụ tập với nhau và có chức năng như trường học không chính thức giáo dục đạo đức công dân ngày nay không còn nữa. Sự suy tàn của khu vực công cộng gây khó khăn cho việc thúc đẩy tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng – những nền tảng của bổn phận công dân trong nền dân chủ.
Vì vậy, hoàn toàn nằm bên ngoài tác động của tính có ích hoặc sự ưng thuận, bất bình đẳng có thể xói mòn đạo đức công dân. Người theo trường phái bảo thủ ủng hộ thị trường và chủ nghĩa tự do dân chủ lo lắng về việc tái phân phối bỏ qua mất mát này. Nếu xói mòn trong những lĩnh vực công là một vấn đề, vậy giải pháp là gì? Một nền chính trị vì lợi ích chung sẽ xem việc tái thiết cơ sở hạ tầng cho đời sống dân sự là mục tiêu chính. Thay vì tập trung vào việc tái phân phối để kích thích tiêu dùng của người dân, nó sẽ đánh thuế người giàu để xây dựng lại các thể chế và dịch vụ công để cả người giàu lẫn người nghèo đều muốn sử dụng.
Thế hệ trước đã đầu tư lớn vào chương trình xây dựng xa lộ liên bang, và điều này không chỉ cho phép người dân Mỹ khả năng di động và tự do lớn chưa từng thấy, mà còn góp phần vào sự phụ thuộc vào ô tô riêng, các vùng ngoại ô ngổn ngang, suy thoái môi trường và các kiểu sống xói mòn cộng đồng. Thế hệ này có thể tự cam kết cho một sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng có kết quả tương đương để đổi mới về dân sự: trường công lập mà người giàu và người nghèo cùng muốn gửi con vào học; hệ thống giao thông công cộng đủ tin cậy để hấp dẫn hành khách giàu có và các phòng khám y tế công, các sân chơi, công viên, trung tâm vui chơi giải trí, thư viện và viện bảo tàng mà có thể, ít nhất về mặt lý tưởng, kéo mọi người ra khỏi các cộng đồng biệt lập của mình và bước vào các khu vực chung mà công dân xã hội dân chủ cùng chia sẻ.
Tập trung vào những hậu quả dân sự của bất bình đẳng và những cách khắc phục, có thể tìm thấy động lực chính trị mà các cuộc tranh luận về việc phân phối thu nhập không tìm ra. Nó cũng sẽ giúp làm nổi bật mối liên hệ giữa công lý phân phối và lợi ích chung.
4. Nền chính trị dấn thân về mặt đạo đức
Một số người coi việc dấn thân vào các vấn đề về lối sống tốt là sự vi phạm dân sự, một cuộc hành trình vượt ra ngoài giới hạn của sự suy lý chung của phe tự do dân chủ. Chính trị và pháp luật không nên vướng vào các tranh chấp đạo đức và tôn giáo, chúng ta thường nghĩ thế, vì sự ràng buộc đó mở đường cho sự ép buộc và không dung thứ.
Đây là một lo lắng chính đáng. Công dân của xã hội đa nguyên bất đồng về đạo đức và tôn giáo. Ngay cả khi chính quyền không thể trung lập trên những bất đồng đó như tôi đã lập luận, liệu có thể quản lý nền chính trị của chúng ta trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau?
Tôi nghĩ câu trả lời là có. Tuy nhiên, chúng ta cần một lối sống dân sự mạnh mẽ và dấn thân hơn lối sống mà chúng ta đã quen thuộc. Trong những thập kỷ gần đây, chúng ta đã đi đến giả định rằng tôn trọng niềm tin đạo đức và tôn giáo của đồng bào mình có nghĩa là phớt lờ họ đi (ít nhất là vì mục đích chính trị), để họ yên, và thực hiện cách sống chung của chúng ta – chừng nào có thể – mà không cần để ý đến họ. Nhưng lập trường tránh né này có thể tạo ra một sự tôn trọng giả dối. Thông thường, nó có nghĩa là đàn áp bất đồng đạo đức chứ không phải thực sự né tránh. Điều này có thể gây ra phản ứng dữ dội và oán giận. Nó cũng có thể làm những cuộc tranh cãi trong công luận thật nghèo nàn, dao động từ chu kỳ tin tức này sang chu kỳ tin tức khác, với đầy những vụ tai tiếng, tin giật gân, và điều nhảm nhí.
Dấn thân mạnh mê hơn vào đời sống chung với những bất đồng đạo đức của mình có thể cung cấp một nền tảng cho sự tôn trọng lẫn nhau nhiều hơn, chứ không phải ít hơn. Thay vì tránh những niềm tin đạo đức và tôn giáo mà đồng bào mình đưa ra công luận, chúng ta nên tham gia cùng họ trực tiếp hơn, đôi khi bằng cách thách thức và tranh cãi, đôi khi bằng cách lắng nghe và học hỏi. Chẳng có gì bảo đảm việc thảo luận công khai các vấn đề đạo đức hóc búa trong bất kỳ tình huống nào cũng sẽ dẫn đến sự tán thành, hay thậm chí đánh giá cao quan điểm đạo đức và tôn giáo của người khác. Luôn có khả năng khi tìm hiểu nhiều hơn về một học thuyết đạo đức, tôn giáo, chúng ta lại ít thích nó hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể biết nếu không thử.
Một nền chính trị dấn thân về mặt đạo đức không chỉ là một lý tưởng gây cảm hứng nhiều hơn so với nền chính trị né tránh. Đó cũng là nền tảng hứa hẹn hơn cho một xã hội công bằng.
Hết
Chú thích:
[50] Nhà văn, nhà hùng biện, nhà cải cách xã hội nổi tiếng ở Mỹ.
[51] Luật sư, Chính trị gia nổi tiếng của Hoa Kỳ. Ba lần ứng cử Tổng thống đều thất bại.
[52] Người có ảnh hưởng rất sâu rộng và là khuôn mặt rất quan trọng trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, kêu gọi bình đẳng bác ái và công bằng xã hội.
[53] Trong một vụ xử ở Tòa án Tối cao, sau khi biểu quyết, theo một quy trình định sẵn, một thẩm phán sẽ được yêu cầu viết bản ý kiến của Tòa án về vụ việc này.
[54] Bộ trưỏmg tư pháp Hoa Kỳ trong chính phủ của anh trai lohn Kenedy, về sau trở thảnh thượng nghị sĩ liên bang đại diện cho New York, bị ám sát khi đảng vận động tranh cử Tổng thống năm 1958.
[55] GNP (Gross National Product) – là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước).