Jack Ryan cùng ba người nữa cũng bị thương như anh, được mang đến một phòng trong trang trại Melrose, ở đó họ được chăm sóc tức thì. Jack Ryan bị thương nặng hơn cả vì lúc quấn cuộn thừng vào người rồi nhảy xuống biển, anh bị sóng đánh va vào bờ đá. Thiếu chút nữa thì các bạn anh đã chẳng thể mang anh lên bờ, lúc ấy anh đang trong tình trạng mê man.
Thế là chàng trai dũng cảm đành phải nằm trên giường bệnh trong vài ba ngày, điều này làm anh tức điên lên được. Tuy nhiên, khi người ta cho phép anh hát ca thỏa thích, thì anh đã kiên nhẫn chịu đựng không chút phàn nàn; và sau đó cả nông trại Melrose lại vang lên tiếng hát vui vẻ của anh. Với Jack Ryan, việc vừa qua chỉ càng làm anh thêm kinh sợ đám yêu tinh, ma quỷ luôn tìm cách trêu chọc người; và chính bọn chúng, chứ không ai khác, phải chịu trách nhiệm về thảm họa của tàu Motala. Sau đó, những cuộc điều tra có vẻ như phù hợp với lối giải thích mọi việc theo cách mê tín này.
Quả nhiên, lúc viên pháp quan có trách nhiệm điều tra về nguyên nhân gây ra thảm họa cho tàu Motala, thì mọi người đều nhất trí ở một điểm, đó là sự xuất hiện “Bà chúa lứa” trên nóc lâu đài Dundonald đã gây ra tai họa này.
Người ta đã cân nhắc rất kỹ vấn đề công lý không thể thỏa mãn với những kiểu suy luận trên. Ngọn lửa xuất hiện trên lâu đài có thể chỉ là một hiện tượng tự nhiên nhưng ngọn lửa ấy cháy lên tình cờ hay cố ý, đấy chính là điều mà viên pháp quan cần phải xác định.
Cái từ “cố ý” ở đây không phải là không có cơ sở. Chẳng cần phải đi tìm lịch sử xa xôi ta cũng đã có lời giải thích. Nhiều hải tặc làm nghề cướp xác tàu ở bờ biển nước Anh đã từng tìm cách kéo các tàu thuyền vào bờ biển để chúng chia chác xác tàu.
Viên pháp quan muốn tìm xem trên mặt đất có còn lưu giữ những vết chân nào không phải là vết chân của ma quỷ không. Nhưng không tài nào có được những dấu vết đó, cả cũ lẫn mới. Trên mặt đất ẩm ướt do nước mưa, không một dấu vết nào còn lưu lại.
– Tìm dấu chân của quỷ à! – Jack Ryan kêu lên khi anh được tin những cuộc tìm kiếm ban đầu đã thất bại – Chẳng khác nào đi tìm lũ ma trơi trên đầm lầy!
Giai đoạn đầu của cuộc điều tra đã không đạt được kết quả nào. Giai đoạn tiếp theo chắc cũng chẳng hơn gì. Chỉ còn lại việc tìm xem, làm sao lửa lại có thể cháy trên đỉnh tháp, vật liệu nào được dùng để đốt và sau cùng là vụ cháy đó có để lại tro bụi gì không.
Về điểm đầu tiên, không ai tìm được gì, không có diêm, chẳng có giấy, giẻ… lấy gì để phát lửa?
Về điểm thứ hai, cũng chẳng có gì tìm thấy. Không có mảnh gỗ cháy, chẳng có rơm, rạ… mà trong đêm đó mọi người thấy lửa bốc rất cao.
Về điểm sau cùng, cũng chẳng có gì sáng sủa hơn, không có tro than, tàn gỗ… được tìm thấy ở nơi có lửa. Thậm chí người ta cũng không tìm ra những nơi sạm đen, cả trên mặt đất, lẫn trên vách đá. Thế là đã rõ! Jack Ryan kêu lên, bà chúa lửa không cần đến diêm quẹt! Bà ta thổi bằng miệng, như thế đủ làm không khí nóng lên mà cháy, và như vậy ngọn lửa không để lại tàn tro!
Tuy nhiên, một con người dũng cảm như Jack Ryan với một thể tạng lực lưỡng như vậy thì không thể nằm mãi trên giường bệnh. Một vài vết trầy xước, một vài trục trặc nhỏ ở chân tay, đâu có làm sao cột được anh ở trên giường. Có thể nói anh không có thì giờ để ốm đau. Ở vùng biển trong lành này quá thiếu thốn thời gian nên người ta chỉ còn một cách là lành bệnh sớm.
Vì thế, Jack Ryan lành bệnh rất mau. Ngay khi vừa mới ra khỏi giường, trước khi bắt tay vào công việc ở nông trại Melrose, anh đã có vài dự định cần làm trước, đầu tiên là phải đến thăm Harry, mục đích để hỏi xem vì sao cậu ta lại vắng mặt tại lễ hội của làng Irvine. Vì thế, hai ngày sau hôm xảy ra thảm họa, Jack Ryan từ giã nông trại, vui vẻ lên đường như một người mạnh khỏe chưa hề biết đến bị thương. Anh cất tiếng hát vang bên vách đá một điệp khúc vui tươi và đi về nhà ga. Anh đáp xe lửa từ Glasgow qua Stirling để đến Callander.
Tại đây, trong lúc chờ tàu, mắt anh bị thu hút bởi tờ cáo thị được dán ở khắp nơi trên các bức tường, trên đó có ghi những dòng chữ:
“Ngày 4 tháng Chạp vừa qua, kỹ sư James Starr, từ Edimbourg xuống tàu ở cảng Granton-pier, con tàu mang tên Hoàng tử xứ Galles. Cùng ngày đó ông rời tàu ở cảng Stirling. Kể từ lúc đó, không còn ai được biết tin của ông nữa.
Yêu cầu ai có tin tức gì về ông, xin báo ngay cho ông Chú tịch Tổ chức Royal Institution ở Edimbourg”
Jack Ryan dừng lại trước một trong những tờ cáo thị đó, đọc đi đọc lại nhiều lần, lòng vô cùng ngạc nhiên.
– Ông Starr ư! – Anh kêu lên – Nhưng mà ngày 4 tháng Chạp mình còn thấy ông ta đi cùng Harry ở ngay trên những bậc thang của giếng Yarow mà. Vậy là đã mười ngày trôi qua! Và kể từ hôm đó không ai còn thấy ông nữa! Điều này giải thích vì sao bạn ta không tới dự lễ hội ở Irvine.
Và thế là chẳng còn kịp viết thư báo tin cho ông Chủ tịch Royal Institution nữa, chàng trai tốt bụng đó nhảy vội lên xe lửa với quyết định rất sáng suốt là đến ngay giếng Yarow. Tới đó, anh sẽ xuống ngay hố Dochart, nếu có thể để tìm Harry cùng với bạn anh là kỹ sư James Starr.
Ba giờ sau, anh xuống tàu ở ga Callander, và đi ngay về hướng giếng Yarow.
Bên ngoài, khu vực này hầu như không có gì thay đổi. Xung quanh cửa giếng mỏ vẫn im ắng như thường lệ. Không một sinh vật nào sống ở nơi hoang vắng này.
Jack Ryan bước vào khu nhà chài đổ nát che phủ miệng giếng. Anh ghé mắt nhìn vào bên trong hố… không thấy gì cả. Anh lắng tai nghe… và cũng chẳng nghe gì.
– Nhưng còn cái đèn của mình! – Anh kêu lên – Liệu nó có còn ở chỗ cũ không?
Cái đèn mà Jack Ryan vẫn thường dùng mỗi lần đến thăm hố mỏ, được đặt trong một góc khuất, gần chỗ thềm nghỉ của chiếc thang đầu tiên. Bây giờ nó đã biến mất.
– Chuyện phiền phức đầu tiên đây! – Jack Ryan thầm nhủ, trong lòng anh bắt đầu lo lắng.
Đoạn, anh quyết định không chậm trễ, mặc dầu anh rất tin vào chuyện may rủi xưa nay.
– Ta phải xuống dưới đấy ngay, cho dù dưới giếng có tối đen hơn địa ngục!
Và anh bắt đầu leo xuống những chiếc thang nối tiếp nhau vươn tới lòng giếng tối đen.
Chắc hẳn Jack Ryan cũng chưa mất đi những thói quen của một người thợ mỏ và anh phải quen thuộc lắm cái giếng Dochart nên mới liều lĩnh như vậy. Tuy nhiên anh bước rất thận trọng. Bàn chân anh dò dẫm từng bậc thang, có nhiều cái đã bị mối mọt ăn rỗng. Chỉ cần bước hụt một cái là anh sẽ rớt từ độ cao chết người này xuống sâu năm trăm mét. Jack Ryan thận trọng, thầm đếm từng cái thềm nghỉ trước khi bước xuống thang kế tiếp. Anh biết rất rõ mình chỉ tới được đáy giếng sau khi xuống hết ba chục cái thang.
Jack Ryan cứ dò dẫm như vậy đến thềm nghỉ thứ hai mươi sáu và như vậy chi còn khoảng sáu mươi mét nữa là tới đáy giếng.
Đến đây, chân anh quờ quạng để tìm bậc thang đầu của cái thang thứ hai mươi bảy. Nhưng chân anh cư lắc lư hoài trong bóng tối mà không thấy bậc thang nào cả.
Jack Ryan quỳ xuống thềm nghĩ – Anh muốn lấy tay nắm đầu thang… Không được rồi.
Như vậy là chiếc thang thứ hai mươi bảy đã không còn ở chỗ cũ, có nghĩa là đã có ai rút nó đi rồi.
– Như vậy là ma quỷ đã qua đây! Anh tự nhủ, trong lòng thoáng gợn lên một nỗi sợ. Anh đứng khoanh tay, mắt chăm chú nhìn vào bóng tối dày đặc. Một ý nghĩ chợt đến với anh là nếu như anh không thể xuống giếng được thì những người sống dưới đó cũng không thể nào lên được. Giữa lòng mỏ và mặt đất không còn có liên lạc nào nữa. Nếu như chiếc thang cuối cùng đã bị lấy đi kể từ lần cuối cùng của anh tới giếng thì gia đình ông Simon Ford và kỹ sư James Starr sẽ ra sao?
Jack Ryan bèn cúi xuống gọi:
– Harry! Harry!
Những tiếng vang dồn dập vọng lại nhiều lần cái tên Harry, rồi tắt hẳn ở dưới đáy giếng Yarow.
Jack Ryan vội vàng trèo lên những chiếc thang trên và chẳng bao lâu đã thấy ánh sáng ban ngày. Không một phút chậm trễ, anh chạy ra ga Callander. Mấy phút sau, đoàn tàu nhanh Edimbourg tới và mang anh đi. Và vào lúc ba giờ chiều, anh đã trình diện ông thị trưởng thành phố.
Tại đây những lời khai của anh đã được ghi nhận. Không còn nghi ngờ về tính trung thực của những chi tiết đó. Đức ông Elphiston, Chủ tịch Tổ chức Royal Institution vừa là cộng sự, vừa là bạn thân của James Starr được thông báo ngay và Elphiston xin được đích thân mở cuộc kiếm tìm ở hố Dochart.
Không chậm trễ. Người ta điều đến cho ông nhiều nhân viên trang bị đầy đủ đèn, cuốc, dây thừng, thang dây cùng với đồ ăn và thuốc bổ trợ lực. Cả đoàn người đó, do Jack Ryan dẫn đầu, lập tức lên đường tới vùng mỏ Aberfoyle.
Ngay tối hôm đó, Đức ông W.Ephiston, Jack Ryan cùng toán nhân viên đã đến miệng giếng mỏ Yarow và họ cùng xuống tới thềm nghỉ thứ hai mươi bảy, nơi mà Jack Ryan phải dừng lại trước đó.
Những chiếc đèn, buộc ở đầu những sợi dây dài, được thả xuống lòng giếng sâu và ngay lập tức mọi người phát hiện ra là bốn chiếc thang cuối cùng đã được ai đó tháo đi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi liên lạc giữa trong và ngoài giếng đã bị cắt dứt.
Ngay sau lúc những chiếc đèn được kéo lên, các nhân viên liều buộc ngay những chiếc thang dây, thả xuống đáy giếng. Các thềm nghỉ phía bên dưới vẫn còn nguyên. Như vậy người ta có thể lần lượt đi xuống các thềm đó.
Điều này thực hiện không mấy khó khăn. Jack Ryan là người đầu tiên bước lên những thang dây lắc lư ấy và cũng là người đầu tiên chạm tới nền của mỏ than.
Ngay tức thì, Đức ông W.Elphiston và các nhân viên liền xuống theo.
Cái bùng binh ở ngay chỗ đáy giếng Yarow hoàn toàn vắng lặng, nhưng Đức ông vô cùng kinh ngạc khi nghe Jack Ryan kêu lên:
– Lại đây xem mấy mẩu thang này, mà là những mẩu thang cháy dở dang!
– Cháy dở à! – Đức ông W.Elphiston nhắc lại – Đúng vậy, đây là những đống tro đã nguội từ lâu!
– Thưa ngài, – Jack Ryan hỏi – ngài có nghĩ là ông kỹ sư lại đi đốt những cái thang nhằm cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài không ạ?
– Không – Đức ông W.Elphiston đáp, vẻ suy nghĩ – Nào, ta cùng đến chỗ nhà gỗ! Đến đây ta sẽ rõ mọi chuyện.
Mười lăm phút sau, Đức ông W.Elphiston và đoàn người đi đến chỗ trũng mà Simon Ford đã dựng căn nhà gỗ, không có chút ánh sáng nào từ trong hắt ra.
Jack Ryan chạy vội tới căn nhà và lấy tay xô mạnh cánh cửa.
Căn nhà gỗ hoàn toàn trống không. Mọi người liền vào bên trong căn nhà tối om. Không có dấu vết gì của một cuộc xô xát ở bên trong. Tất cả mọi đồ đạc vẫn y nguyên, cứ như thể bà Madge vẫn còn đâu đó. Dự trữ lương thực vẫn dồi dào và đủ cung cấp cho gia đình nhà Ford trong nhiều ngày.
Sự vắng mặt của tất cả các thành viên trong ngôi nhà thật là khó hiểu. Nhưng liệu có thể xác định cụ thể xem họ đã rời nhà vào thời điểm nào? Có thể được lắm, vì trong cái nơi mà ngày đêm không phân biệt này, bà Madge thường có thói quen đánh dấu ngày tháng bằng một dấu chữ thập trên lịch.
Quyển lịch đó được treo trên tường của gian phòng. Dấu chữ thập sau cùng được đánh vào ngày mùng 6 tháng Chạp, nghĩa là sau hôm mà Jack Ryan tới một ngày – điều này Jack Ryan có thể xác nhận. Như vậy là kể từ mùng 6 tháng Chạp nghĩa là mười ngày nay, gia đình Simon Ford cùng với người khách đã rời khỏi nhà.
Xung quanh họ là bóng tối dày đặc. Chỉ có ánh sáng tỏa ra từ những ngọn đèn lung linh trong bóng đêm.
Đột nhiên, Jack Ryan thốt lên một tiếng kêu:
– Kia kìa!
Ngón tay anh trỏ theo một ánh lửa lung linh đang chập chờn trong ngách hầm đằng xa.
– Nào các bạn, ta hãy rượt theo ánh lửa đó! – Ngài W.Elphiston đáp.
– Lửa ma! – Jack Ryan kêu lên – Vô ích, ta không đuổi kịp nó đâu!
Ông chủ tịch của Royal Institution cùng các nhân viên không tin vào những chuyện ma quỷ, vẫn chạy theo ánh lửa lay động đó – Jack Ryan thu hết can đảm lại chạy vượt lên trước. Cuộc rượt đuổi này kéo dài và làm mọi người thấm mệt. Nguồn sáng hình như được mang bởi một con người bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn đặc biệt. Đôi lúc, nhân vật đó khuất sau vài nền đất, rồi người ta lại thấy nó ở cuối một hành lang vắt ngang phía xa. Sau đó lại mất hút. Đến lúc nó biến mất hẳn, nhưng rồi ánh lửa lại sáng rực ở phía xa. Thật khó lòng đuổi kịp nó; và Jack Ryan lại càng tin là không bao giờ bắt được nó cả.
Trong gần một tiếng đồng hồ rượt đuổi vô vọng, Đức ông W.Elphiston và đoàn người đi đến được khu Tây nam của hồ Dochart. Đến lượt họ, họ cũng tự hỏi phải chăng mình đang gặp một con ma không tài nào tóm được.
Tuy nhiên, lúc này đây, có vẻ như cái khoảng cách giữa ngọn lửa và những người rượt theo giảm dần. Phải chăng nhân vật đang bỏ chạy kia đã mệt, hay hắn ta muốn chỉ cho Đức ông W.Elphiston và đoàn người đến chỗ những người ở ngôi nhà gỗ đã đến trước đây? Thật khó trả lời câu hỏi này.
Tuy nhiên, những nhân viên khi thấy cái khoảng cách cứ giảm dần đi thì đều nỗ lực hơn. Cái ánh lửa, trước đây cứ chập chờn trước mắt họ đến hai trăm bước, giờ đây khoảng cách đó chỉ còn khoảng năm chục bước. Rồi khoảng cách đó cứ giảm dần. Nhân vật mang chiếc đèn sáng đó đã được trông thấy rõ hơn. Đôi khi, vào những lúc hắn ngoái đầu lại, người ta còn lờ mờ nhận ra một khuôn mặt người. Và nếu không phải là một con ma có hình người thì Jack Ryan buộc phải tin là nhân vật đó chẳng có gì là không phải người.
Và vì thế, vừa chạy anh vừa la lớn:
– Dũng cảm lên các bạn, nó mệt rồi! Chúng ta sẽ đuổi kịp nó ngay bây giờ, và nếu nó cũng nói được giỏi như nó chạy thì nó sẽ phải thú nhận nhiều điều!
Tuy nhiên, giờ đây cuộc rượt đuổi lại trở nên khó khăn. Thực vậy, giữa khoảng độ sâu cuối cùng của hố mỏ, nhiều đường hầm chật hẹp chằng chéo nhau như thiên la địa võng vậy. Trong cái mớ bòng bong đó, kẻ mang đèn kia có thể dễ dàng thoát khỏi tay những người rượt đuổi. Hắn chỉ việc tắt ngay ngọn đèn đi và nép vào một ngách hầm nào là xong.
– Mà, đúng thế, – Ngài W.Elphiston thầm nghĩ – nếu hắn muốn thoát khỏi tay chúng ta, tại sao hắn không làm thế?
Nhân vật không thể tóm này đã không làm như vậy. Giữa lúc ý nghĩ đó vừa thoáng qua đầu Đức ông thì ánh đèn vụt tắt và những người rượt đuổi bất ngờ dừng lại ngay trước một cửa hầm chật hẹp, ngoài cửa có những đám đá phiến chồng chất. Đối với mọi người, việc chui vào con đường hầm này quá dễ dàng, chỉ việc cho thắp lại những ngọn đèn mang theo rồi tiếp tục đi.
Nhưng họ chỉ vừa đi được vài chục bước trong con đường hầm mới, rộng hơn và cao hơn thì đột nhiên mọi người đều dừng cả lại.
Trước mắt họ, ngay cạnh vách hầm có bốn thân hình nằm dài trên mặt đất – có thể là bốn xác người chết?
– James Starr! – Đức ông W.Elphiston kêu lên.
– Harry! Harry! – Jack Ryan vừa kêu vừa lao vội tới bên thân hình của bạn mình.
Thì ra, đó là ông kỹ sư, bà Madge, ông Simon và Harry Ford, cả bốn người nằm đó, bất động.
Nhưng kìa, một trong những thân hình đó nhổm dậy và giọng nói yếu ớt của bà Madge thều thào:
– Hãy cứu họ trước đã!
Đức ông W.Elphiston, Jack Ryan và đoàn người thử tìm cách lay gọi ông kỹ sư cùng mấy người kia rồi cho họ uống vài giọt thuốc bổ; hành động này có kết quả tức thì. Những con người xấu số này bị giam ở đây đã mười ngày và đã kiệt sức vì đói lả.
Và nếu như họ không chết trong thời gian bị cầm tù lâu dài như thế là bởi vì – theo lời kể của ông James Starr với Đức ông W.Elphiston – đã ba lần họ thấy bên mình một chiếc bánh mì và một bình nước! Chắc chắn là cứu tinh cho mạng sống của họ đã chẳng thể làm hơn thế!
Đức ông W.Elphiston tự hỏi phải chăng đó chính là nghĩa cử của kẻ cầm đèn bị rượt đuổi khi nãy, con người đã dẫn dắt mọi người tới đúng nơi mà James Starr và nhóm người đang nằm chết lả.
Dù sao chăng nữa, ông kỹ sư, bà Madge, Simon và Harry Ford đã được cứu thoát. Họ được đưa trở về nhà qua chỗ cửa hầm mà người cầm đèn hình như đã cố tình chỉ lối cho ngài W.Elphiston.
Còn như tại sao James Starr và nhóm người lại không tìm được cửa đường hầm chỗ họ đã dùng mìn để mở ra, là vì cửa hầm đó đã được bít lại bằng những tảng đá chồng chất lên nhau. Và trong cái không gian hoàn toàn tối mò đó, họ đã không trông thấy gì và cũng không tài nào gỡ nó ra.
Như vậy trong thời gian những ngày khám phá khu hầm mỏ mới bị con đường thông từ khu mỏ cũ sang mỏ mới đã bị một bàn tay thù địch cắt đứt.