Sự trả thù ngọt ngào
Chương 8
Và cô tự nhắc nhở bản thân rằng cô không quan tâm đến gia đình này, cô ở đây chỉ để diễn một trò chơi đố chữ, chỉ để có được tương lai cùng với gia đình cô. Cô nên quan tâm càng ít càng tốt tới người đàn ông xa lạ, lạnh lùng, cô đơn này và cái gia đình ít lời, khinh khỉnh, rắc rối của ông. Và tới con trai ông, người cô vừa kết hôn hôm trước và đã chung chăn gối đêm qua. Chồng cô. Người chồng hờ của cô.
Đúng là một ngày lạ lùng và đầy xáo trộn. Cô hết sức vui mừng vì nó sắp kết thúc.
Hầu tước Staunton tỉnh giấc vào rạng sáng và nhận thấy mình không tài nào ngủ lại dù đêm qua anh đã trằn trọc mãi. Anh đã nằm nhìn trân trân lên đỉnh màn lờ mờ tối quen thuộc trên đầu giường. Anh đã đứng bên cửa sổ nhìn ra màn đêm sáng trăng, những ngón tay gõ nhịp lên bệ cửa. Ánh trăng bạc trải khắp mặt hồ.
Staunton cảm thấy bồn chồn. Trong óc anh tràn ngập những sự việc hỗn độn trong ngày – sắc da xanh xám của cha anh, sự thay đổi của Charles từ một thằng bé vụng về thành chàng trai cao lớn, tự tin, vẻ đẹp mặn mà của Claudia, sự trầm lặng của William, sự lễ phép đúng quy tắc của Augusta, thái độ nồng nhiệt của Marianne dành cho anh, vợ anh ngồi sau khay trà trong bữa trà, vợ anh đang nói chuyện với Twynham và Will trong bữa tối, vợ anh đang chơi piano rất hay và điêu luyện, vợ anh khoác tay Công tước, đang mỉm cười với ông và ép ông nói chuyện.
Anh đã cười thầm trong giây phút đó. Công tước ghét người khác chạm vào mình. Ông chưa từng mỉm cười hay nhận nụ cười từ người khác. Chưa một ai từng bắt chuyện với ông. Và dĩ nhiên chưa một ai từng gọi ông là Cha.
Cô thật là hoàn hảo. Cô giỏi hơn nhiều so với con chuột lặng lẽ mà anh vốn cần để thực hiện kế hoạch. Là một chú chuột, cô chỉ việc chịu đựng sự khinh thường chứ không làm xáo trộn bầu không khí của ngôi nhà. Còn như giờ đây, cô đang gây ra sự cảnh giác và tức giận. Chắc chắn ngài Công tước vô cùng nghiêm nghị và các con ông đang cho rằng cô thô tục. Không phải thế, nhưng trong thế giới của họ, sự tự nhiên đồng nghĩa với thô tục. Mà cô là vợ anh, nữ công tước tương lai. Ý nghĩa đó làm họ bị xúc phạm quá mức chịu đựng.
Và khi đứng bên cửa sổ, anh đã hiểu lí do chính xác cho chứng mất ngủ của mình. Cô đang ở phòng bên cạnh, chỉ có hai căn phòng thay đồ ngăn cách họ. Cô là vợ anh. Đêm hôm trước anh đã hoàn tất thủ t hôn nhân và cô đáp lại anh với niềm đam mê cháy bỏng. Anh sẽ không phiền chút nào nếu được lặp lại trải nghiệm đó. Staunton chợt nhận ra trong nỗi ngạc nhiên – anh thực sự không nghĩ về cô như một người đàn bà khêu gợi.
Anh quay về giường và nằm thao thức mất một lúc nữa, nhớ lại mùi hương trên tóc cô. Kỳ lạ làm sao khi một mùi hương – hoặc sự thiếu vắng nó – có thể làm người ta thao thức. Và mùi xà phòng nữa! Ngay cả những loại nước hoa đắt tiền nhất anh cũng không thấy có mùi hương đặc biệt đến thế. Anh nhớ lại lúc mình chầm chậm hít hà hương thơm trên tóc cô, cơ thể anh dồn dập trong cô, và khoái cảm của anh tăng cao với mùi hương đó.
Có một khoái cảm nhất định nào đó, không chỉ là sự giải phóng về thể xác.
Lúc bình minh anh lại thức giấc và không thể ngủ lại. Bầu trời sáng lên qua những tấm rèm cửa sổ. Chim chóc bắt đầu hót ríu rít. Đó là khung cảnh cuộc sống miền quê mà Staunton đã quên. Anh nôn nóng tung chăn ra. Anh sẽ đi cưỡi ngựa, cho gió thổi bay mớ rắc rối này, giải thoát cảm giác ngột ngạt mà ngôi nhà gây ra cho anh.
Nhưng vừa bước ra khỏi cửa, định đi về chuồng ngựa, anh đã dừng phắt lại trên đầu những bậc tam cấp bằng đá cẩm thạch. Ngoài sân phía dưới nơi anh đứng là con chuột nhỏ của anh, cô ngoảnh đầu lại nhìn lên anh. Cô đã dậy mặc quần áo và đi ra ngoài vào lúc bình minh vừa chớm ư?
“Chào buổi sáng, phu nhân,” anh nói, ngạc nhiên vì mình có thể nằm thao thức suốt đêm qua vì ham muốn con người xám xỉn này – ngay cả mắt cô cũng bị che khuất dưới vành mũ bonnet màu nâu.
“Em không ngủ được,” cô nói. “Lũ chim và mặt trời thông đồng với nhau chống lại em. Em đang đứng đây phân vân không biết nên đi ra hồ hay leo lên đồi.”
“Lên đồi đi,” anh khuyên. “Ngoài đó có một lối đi bộ rất đẹp sẽ giúp em nhìn bao quát toàn cảnh đồng cỏ, lâu đài và những vùng đất xung quanh.”
“Vậy em sẽ đi theo lối đó,” cô nói.
Staunton gõ chiếc roi ngựa vào giày, phân vân một át. “Có thể,” anh đột ngột nói, “cho phép tôi đi cùng em chứ?”
“Tất nhiên rồi.” Cô khẽ mỉm cười với anh.
Anh bước bên cạnh cô, hai tay buông thõng. Còn cô chắp tay sau lưng, bước những bước khá dài nhưng cũng vô cùng thanh thoát. Không biết cuộc sống của cô với cha ra sao? Mẹ cô mất được bao lâu? Cô có cô đơn lắm không? Chẳng lẽ cha cô không thể chu cấp cho cô, dù biết cơ ngơi của ông đã để lại cho một người họ hàng xa? Chẳng lẽ họ hàng của cô không muốn cưu mang cô? Cô có nhớ quê nhà mình cùng với cuộc sống của một quý cô không? Cô có hạnh phúc trong ngôi nhà ấy không? Và cả bên ngoài nó nữa – có người đàn ông nào cô buộc phải bỏ lại đằng sau để đi làm gia sư không? Anh mừng vì cô đã lên tiếng và đã làm anh ý thức được mình đang nghĩ tới điều gì. Anh không có ý muốn tò mò về cô, cũng chẳng cần biết bất cứ điều gì về cô ngoài những gì thiết yêu cho mục đích của anh.
“Cha ngài thực sự đang ốm,” cô nói. “Ngài có biết ông ấy bị làm sao không? Liệu có nghiêm trọng không?”
Anh đã trao đổi vài câu với Marianne trong phòng khách tối qua. “Là tim ông ấy,” anh nói. “Mấy tháng qua ông bị vài cơn đau nhẹ. Bác sĩ đã cảnh báo cơn đau tiếp theo có thể nguy hiểm tới tính mạng và bảo ông ấy nên thường xuyên nghỉ ngơi trên giường.”
“Em tin rằng,” cô nói, “cha ngài khó mà chấp nhận được lời khuyên.”
“Như thế,” anh nói, “còn là nói nhẹ đi mười lần.”
“Biết đâu,” cô nói, “ông sẽ nghe ngài nếu ngài nói chuyện với ông? Biết đâu ông khuyên ngài về nhà với hy vọng rằng ngài sẽ nói, sẽ nhấc gánh nặng của địa vị ra khỏi vai ông?”
Anh cười thành tiếng, hoàn toàn không có chút hài hước, và cô quay đầu về phía anh.
“Ngài có yêu ông ấy không?” Cô lặng lẽ hỏi.
Anh lại cười. “Đó là một câu hỏi ngu ngốc, phu nhân,” anh nói. “Tôi đã cắt đứt hoàn toàn quan hệ với ông ấy được tám năm rồi. Trong những năm đó, tôi đã cố ý làm tất cả những trò ông ấy ghét cay ghét đắng. Tôi sống buông thả, tôi nhúng tay vào việc kinh doanh và đầu tư, tôi đã tự tậu được đất đai, và trở thành…”
“Một kẻ ăn chơi trác táng.” Cô nói nốt hộ anh khi anh tỏ ra ngập ngừng.
“Tôi đã giải phóng cho mình,” anh nói, “khỏi ông ấy và tất cả những thứ này. Khi tôi trở về, tôi độc lập và tự chủ. Không, tôi không yêu ông ấy. Chẳng có gì để yêu. Và nếu có thì tôi cũng không có khả năng yêu. Hôm qua em đã đúng khi nhận xét rằng tôi giống cha mình.”
“Tại sao ông ấy lại yêu cầu ngài về đây?” Cô hỏi.
“Với ý đồ khẳng định quyền thống trị của ông ấy lên tôi một lần nữa,” anh nói. “Với ý đồ gán ghép tôi với một người ông ấy đã dành sẵn cho tôi từ lúc sinh ra để tôi có thể xứng đáng kế tục những truyền thống mà ông ấy rất đỗi nâng niu.”
“Và có lẽ,” cô nói, “để ông có thể gặp lại con trai mình trước khi chết.”
“Nói tôi biết, phu nhân,” anh nói, giọng cáu kỉnh, “em có đọc tiểu thuyết lãng mạn không? Có nghe những lời lẽ ngốc nghếch ủy mị không? Em đang vẽ ra cho mình một cảnh lâm chung đầy tình thương mến trong đó cha và con trai đầm đìa nước mắt, những người trong gia đình đang nức nở lặng lẽ làm phông nền, cuối cùng hòa giải với nhau hả? Cuối cùng tuyên bố tình yêu của họ dành cho nhau hả? Hứa gặp lại nhau trên thiên đường? Tha thứ và yên nghỉ – đặt tên sách như thế nhé. Hoặc Đứa con hoang tàng, nhưng cái tựa đó đã có rồi thì phải?
“Vâng. Nhưng không phải trong một cuốn tiểu thuyết tình cảm,” cô nói. “Mà là trong Kinh thánh, thưa ngài.”
“À, phải rồi, xin đa tạ.” Anh nói.
Cô mỉm cười dịu dàng với anh và không nói gì thêm. Staunton đâm lúng túng. Sự im lặng ấy đã tước mất của anh cơ hội trút giận lên cô. Họ đã tới bụi đỗ quyên và con đường mòn rải sỏi dẫn lên đồi. Được một quãng ngắn, nó sẽ chuyển hướng và họ sẽ tới một u đình kiểu Hy Lạp, ở đó có thể nhìn bao quát cả ngôi nhà và mặt hồ phía xa.
Có lẽ đã đến lúc vợ anh được biết toàn bộ sự thật phía sau cuộc hôn nhân của họ. “Ông ấy gọi tôi về nhà để cưới cho tôi một cô dâu ông đã chọn từ mười bảy năm trước,” anh nói và cảm thấy một niềm thỏa mãn xấu xa khi cô quay phắt đầu lại nhìn anh. “Một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối, em hiểu không, phu nhân? Cô gái đó là con gái Bá tước Tillden, một quý tộc dòng dõi lâu đời và cực kỳ giàu có, một người địa vị ngang hàng với Công tước Withingsby.”
Mắt cô mở to – bây giờ anh có thể trông thấy nó rõ ràng dù nó vẫn khuất dưới vành mũ. “Họ là những vị khách sẽ đến vào chiều nay.” Cô nói.
Anh mỉm cười. “Tôi được gọi về nhà để tìm hiểu sơ sơ tiểu thư Marie Lucas, để cử hành lễ đính hôn với cô ấy trong buổi vũ hội tổ chức tối mai, và để cưới cô ấy trước khi qua mùa hè,” anh nói. “Sau đó tôi phải thực hiện bổn phận bằng cách bắt cô ấy sinh con trai thừa kế cùng với con gái đều đặn mỗi năm, trong khoảng hai mươi năm tới. Nữ Công tước Withingsby phải trẻ trung, em thấy đấy, để có nhiều thời gian cho sinh nở. Rốt cuộc, thật đáng tiếc khi lãng phí một dòng giống hoàn hảo đến thế khi chỉ sinh hai hoặc ba đứa con, phải không?”
Cô đã dừng bước. Họ đứng đối mặt với nhau. “Và thế là ngài đăng báo tìm nữ gia sư để chọn ứng viên cho cuộc hôn nhân?” Cô nói. “Thật là một trò đùa đặc sắc.”
Giọng cô không có vẻ gì thích thú.
“Tôi nghĩ vậy,” anh nói, mắt nheo lại. “Các vị khách sẽ đến trong chiều nay, không hề hay biết họ đến chỉ vô ích.”
Mắt cô dõi sâu vào mắt anh và anh cảm thấy một thôi thúc quen thuộc muốn lùi lại. Anh không làm thế. Có cái gì đó là lạ trong đôi mắt cô… Tức giận? Khinh miệt? Anh nhướng một bên mày.
“Em cho rằng, thưa ngài,” cô nói, “ngài đã không trung thực với em. Em không biết mình đã bị sử dụng như một công cụ độc ác. Nếu biết trước như vậy thì có lẽ em đã từ chối đề nghị của ngài rồi.”
“Độc ác ư?”
“Cô ấy bao nhiêu tuổi?”
“Mười bảy.”
“Và hôm nay cô ấy đến đây vì lễ đính hôn của mình,” cô nói. “Nhưng cô ấy sẽ thấy ngài đã kết hôn – với em. Với một người lớn tuổi hơn cô ấy và thua xa cô ấy về địa vị xã hội. Ồ vâng, thưa ngài, ngài đáng được chúc mừng. Đó là một âm mưu quỷ quyệt và đang tiến hành rất hiệu quả.”
Sự khinh miệt ngấm ngầm của cô làm anh nóng mặt. Sao cô dám!
“Hình như tôi đã thấy, thưa phu nhân,” anh nói, “em sẵn sàng lấy tiền của tôi để sống sung túc suốt đời. Em chỉ hỏi được ít câu quý giá về những yêu cầu cần có khi làm vợ tôi. Câu hỏi duy nhất có vẻ khiến em quan tâm là liệu tôi có đủ khả năng tài chính để hoàn thành cam kết với em hay không. Em đã ép tôi tăng giá. Em khăng khăng đưa thêm điều khoản đảm bảo em vẫn tiếp tục được nhận tiền trợ cấp hàng năm trong trường hợp tôi chết trước em. Thế mà bây giờ em lại thuyết giảng đạo đức cho tôi?”
Cằm vợ anh hếch lên và cô tiếp tục nhìn anh, nhưng mặt cô đỏ bừng.
“Tôi chưa bao giờ hứa hẹn gì với tiểu thư Marie Lucas,” anh nói. “Tôi chưa bao giờ manh nha ý định sẽ cưới cô ta.”
“Nhưng ngài cũng chẳng hề nảy ra ý định viết thư cho cha giải thích chuyện này,” cô nói, “kiên quyết bảo ông rằng nó sẽ không xảy ra và ông buộc phải cho Bá tước Tillden biết về quyết định của ngài. Thay vào đó ngài lại cưới em rồi mang em về đây để làm bẽ mặt và lăng nhục tất cả bọn họ.”
“Phải,” anh nói cụt lủn, hết sức điên tiết với cái cách cô làm anh cảm thấy tội lỗi. Anh chẳng có tội lỗi gì hết. Cuộc đời anh là của anh. Anh đã làm rõ điều đó tám năm trước, và nếu thông điệp ấy chưa ai hiểu ra, thì bây giờ anh sẽ khiến nó rõ như pha lê.
Charity mở miệng như định nói gì, nhưng lại ngậm vào và quay người đi tiếp. Anh đi bên cạnh cô. “Có lẽ,” cuối cùng cô lên tiếng, “cô ấy đã có một sự giải thoát đầy may mắn, cô gái tội nghiệp. Không ai muốn một đứa trẻ vô tội mười bảy tuổi rơi vào tay ngài.”
“Em, tất nhiên,” anh nói, “có khả năng đối phó với tôi hơn nhiều.”
“Em không phải làm thế,” cô nói. “Khi nào em được ra đi? Sau khi sự kiện nhục nhã ngày hôm nay kết thúc ư?”
“Không,” anh nói. “Tôi còn cần em một thời gian nữa.” Anh phải ở lại đây một thời gian. Anh biết mình chưa thể lại ra đi quá sớm hoặc quá dễ dàng. Cha anh đang ốm, có khi sắp chết. William và Charles là em trai anh. Marianne và Augusta là em gái anh. Gặp lại họ, anh lại cảm thấy gánh nặng của tình thân đang ràng buộc. Và một ngày nào đó – có lẽ sớm thôi – anh sẽ là chủ gia đình. Không, có những thứ cần phải sắp xếp trước khi anh rời Enfield, và trước khi anh trả lại tự do cho vợ mình. Anh không chắc sự sắp xếp đó là gì, không chắc một chút nào.
Họ đi tiếp trong im lặng cho đến khi cô nhìn thấy ngôi tiểu đình và dừng lại.
“Hãy đi vòng ra phía trước,” anh bảo cô. “Đứng ở đó có thể nhìn thấy quang cảnh rất đẹp. Bên trong đình có cả chỗ ngồi nếu em muốn ngồi nghỉ một lát.”
Charity làm theo lời anh nhưng không ngồi xuống. Cô đứng thật lâu trước tiểu đình, nhìn xuống tòa nhà và xa hơn nữa. Cảnh vật tắm trong ánh nắng ban mai. Nếu họ đã nghe thấy tiếng chim hót lúc ở nhà, thì nơi đây có cả một dàn hợp xướng huyên náo.
“Tất cả sẽ là của ngài,” cô nói sau một lúc lâu im lặng. Hình như cô đang nói với chính mình hơn là với anh. “Vậy mà ngài không cảm thấy cần truyền nó lại cho con trai ngài ư?”
Anh đột ngột quay đầu nhìn cô. Cô đang đứng với sống lưng rất thẳng và cằm hếch lên. Dáng đứng đầy tự hào ấy là đặc trưng của cô, anh nhận ra. Ăn vận khác đi, cô sẽ trông như một nữ công tước. Và sẽ xinh đẹp. Ý nghĩa ấy khiến anh bàng hoàng, không phải quần áo tạo nên sắc đẹp, mà chỉ tôn nó lên, nhưng anh đã khá quen thuộc với gương mặt cô để thừa nhận một cách miễn cưỡng rằng nó sở hữu nhiều nét đẹp hơn anh nghĩ lúc ban đầu. Cô đã cải trang làm một kẻ vô danh tiểu tốt khi đến phỏng vấn ở đường Upper Grovenor. Chỉ duy nhất đôi mắt là tố giác cô và cô đã khôn ngoan giấu chúng đi.
“Em cứ an tâm rằng,” anh nói, mắt quét qua người cô, “tôi sẽ không đổi ý đâu.”
Cô nhìn lại anh – và đỏ mặt.
“Tôi sẽ không đổi ý,” anh nói bất chấp niềm khao khát dâng lên một cách đáng ngại do câu nói và ánh mắt của cô gây ra. “Chuyện đã xảy ra giữa chúng ta hai đêm trước, dù khá vui vẻ, nhưng là một sai lầm. Nó có thể để lại hậu quả. Chúng ta buộc phải hy vọng là không. Nhưng em có thể yên trí rằng tôi sẽ không bao giờ đặt em vào nguy cơ mang thai một lần nữa.”
Cô không rời mắt khỏi anh cho dù sắc đỏ trên mặt cô không hề rút đi. Cô nghiêng đầu và giữ nguyên ánh nhìn. “Em nghĩ rằng,” cuối cùng cô nói, “hẳn là ngài yêu mẹ mình lắm.”
Trong phút chốc Hầu tước gần như hoa mắt vì giận dữ. Anh siết chặt hai bàn tay sau lưng, hít thở vài hơi chầm chậm, và vô cùng biết ơn sự kiềm chế sắt đá mình luôn có mỗi khi muốn trấn áp cơn giận.
“Mẹ tôi,” anh nói rất nhỏ, “không phải là đề tài cho chúng ta chuyện vãn, thưa phu nhân. Bây giờ không, sau này cũng không. Tôi tin là em hiểu?”
Đó là câu hỏi chỉ có thể trả lời bằng một cách duy nhất và một từ duy nhất, nhưng không hiểu sao cô có vẻ suy nghĩ rất lung.
“Vâng,” cô nói. “Vâng, có lẽ là em hiểu.”
“Chúng ta trèo lên cao hơn chứ?” Anh giơ tay chỉ con đường mòn phía trước. “Trên kia còn có những góc quan sát khác đẹp không kém.” Mình nên đi cưỡi ngựa mới phải, anh nghĩ. Lẽ ra mình nên ở một mình.
“Em e sáng nay không được rồi,” cô nói. “Cha ngài định cho em xem tranh sau bữa sáng, song em sẽ không giữ chân ông ở đó quá lâu. Em sẽ gắng thuyết phục ông đi nghỉ sau đấy.”
“Em cứ làm vậy đi,” anh nói, mím môi lại.
“Rồi em định đến thăm Claudia ở nhà Dower nữa,” cô nói.
Anh gật đầu cộc lốc. Cứ để cô làm cả chuyện đó nữa. Để cô kết bạn với Claudia, với Will và với cả nhà nếu cô có thể. Cô sẽ thấy việc đó khó hơn cô tưởng. Hãy để cô thử kết bạn với Bá tước Tillden và tiểu thư Marie chiều nay. Sáng nay lẽ ra anh phải cảm thấy hân hoan hơn bao giờ hết. Nhưng vợ anh đã thành công trong việc làm anh cực kỳ khó chịu.
“Vậy thì cho phép tôi đưa em về nhà để ăn sáng,” anh nói, dù anh ngờ rằng tất cả mọi người trong nhà con chưa dậy.
“Hay là,” cô nói, “ngài hãy chịu khó đi cùng em? Tới nhà Dower ấy? Hôm qua ngài đã không có mấy cơ hội nói chuyện với em trai, và chắc ngài vẫn chưa gặp các cháu mình đúng không?”
“Người thừa kế của tôi sau William ư?” Anh nói. “Không, tôi chưa gặp. Nhưng tôi có những kế hoạch khác cho sáng nay rồi.”
Cô đi trước anh vòng qua ngôi tiểu đình và họ bắt đầu xuống dốc trong yên lặng.
Nhưng khi sắp đến ngôi nhà Dower anh lại lên tiếng – một cách miễn cưỡng. “Chắc công việc của tôi sáng nay có thể hoãn lại,” anh nói. “Có khi tôi sẽ cùng em đến ngôi nhà ấy.” Đó là nơi bọn họ ở, anh vừa biết tối qua, William, Claudia và hai cậu con trai. “Xét cho cùng chúng ta mới cưới được hai ngày, đang yêu nhau say đắm và sẽ không muốn tách rời nhau khi không cần thiết.” Giọng anh nghe gượng gạo ngay cả với tai anh.
“Và William là em trai ngài,” cô nói, mỉm cười với anh.
Đúng vậy, William là em trai anh. Và có những bóng ma cần yên nghỉ, như anh đã nhận ra ngày hôm qua.
***
Có lẽ Công tước Withingsby thiếu khả năng yêu thương, Charity thầm nghĩ, dù cô không tin chắc điều đó chút nào – cô quả thực không tin đã làm người lại không biết yêu thương. Nhưng cô tin chắc một điều: con người này không bao giờ để tình yêu thương vượt quá giới hạn của sự kiêu hãnh.
Khi cô và chồng đi dạo về và cùng nhau bước vào phòng ăn, ông đã ngồi ở đó. Ông đứng lên và nghiêng đầu với cô một cách lịch thiệp, đồng thời lướt ánh mắt kiêu ngạo qua chiếc áo dài đi dạo màu nâu và búi tóc đơn giản của cô.
Ngay sau bữa sáng ông đã dẫn cô đến phòng tranh, nó trải dài suốt bề ngang tòa nhà. Ông bắt đầu giới thiệu với cô các bức chân dung gia đình và miêu tả những người trong tranh, thi thoảng nói về những họa sĩ đã vẽ chúng với một niềm tự hào và sôi nổi hiếm thấy.
“Những người mà Van Dyck vẽ,” cô nói, bước lại gần một bức sơn dầu mô tả một gia đình, “đều trông giống nhau. Không chỉ ở những chòm râu nhọn, ria mép vểnh lên và mái tóc quăn thịnh hành thời đó, mà còn có nét gì đó trong hình dáng gương mắt, cặp mắt và đôi vai xuôi. Những bức tranh của ông ấy thật dễ phân biệt ở bất cứ đâu.”
“Và còn,” ông nói, “tôi tin là cô sẽ đồng ý, thưa phu nhân, Công tước Withingsby trong bức ảnh này có nhiều nét thật giống chồng cô.”
Đúng vậy, cô mỉm cười trước sự tương đồng đó. “Và giống cả cha nữa, thưa cha,” cô nói: “con chưa bao giờ trông thấy hai cha con nào lại giống nhau đến vậy.” Và yêu nhau cũng như ghét nhau đến vậy, cô nghĩ. Cô không tin là mình nhầm.
“Con chó sục kia,” ông nói, dùng cây ba-toong chỉ vào một con chó nhỏ được một cậu bé mặc áo sa tanh, tóc quăn, bế trên tay, “nghe đâu đã cứu mạng chủ nó khi thằng bé ngã xuống suối và bị đập đầu vào đá. Con chó đã sủa không ngớt cho tới khi có người đến cứu.”
“Cậu bé đang ôm nó đấy ư?” Cô hỏi, tiến lại gần hơn để nhìn kỹ cả chú bé và con chó.
“Người thừa kế tước vị công tước,” ông nói. “Cụ t tôi.”
“Ôi,” cô quay lại và cười tươi với ông. “Vậy là cha cũng nợ con chó nhỏ ấy một mạng sống.”
“Và cô với chồng mình cũng nợ nó, phu nhân ạ,” ông nói, nhướng đôi lông mày kiêu ngạo.
“Vâng,” Charity cảm thấy mặt mình nóng bừng không rõ lí do. Cô đang lừa gạt ông, bởi vì dù cô quả thực kết hôn với con trai ông, cô cũng không thật sự là vợ anh. Cô không muốn lừa gạt. Sẽ tốt hơn nhiều nếu chồng cô về Enfield Park một mình để đương đầu với Công tước, để khẳng định quyết tâm sống độc lập của anh và để tự chọn cô dâu vào thời điểm anh muốn.
Công tước di chuyển qua bức tranh tiếp theo và tiếp theo nữa cho đến khi đứng trước bức tranh gần đây nhất. Cô yên lặng ngắm nó, giống như ông.
Trong tranh nom ông trẻ hơn nhiều. Với mái tóc rất đen và sắc mặt hồng hào khỏe mạnh, nhìn ông giống con trai hơn bao giờ hết. Hầu tước Staunton – hiên ngang, trẻ trung, đẹp trai – đứng sóng vai ông. Chàng thanh niên còn lại hẳn là William, song trông anh rất khác với người đàn ông cô gặp hôm qua, không chỉ về tuổi tác. Trông anh… vui vẻ và vô tư lự. Marianne không thay đổi nhiều lắm. Cậu bé mặt mũi nghiêm nghị chắc là Charles. Không một ai mỉm cười với họa sĩ, mặc dù William có vẻ đang mỉm cười trong thâm tâm.
“Chắc hẳn bà từng là một mỹ nhân,” Charity nói đến nữ Công tước, bà ngồi bên cạnh chồng, mắt nhìn thẳng vào người xem. Mặc dù là người ít nổi bật nhất về ngoại hình so với tất cả, nhưng lạ thay, dường như bà mới là tâm điểm của bức tranh, lôi cuốn sự chú ý hơn cả cậu bé, hay ngài Công tước kiêu ngạo, hay cậu con cả hiên ngang của bà. Người họa sĩ, Charity nghĩ, đã bị bà mê hoặc. Nhan sắc của bà đã tàn phai, dù người họa sĩ kia đã cố tình che giấu, nhưng ông lại không xóa đi vẻ buồn bã trong đôi mắt bà.
“Ngày xưa bà ấy nổi tiếng xinh đẹp.” Công tước nói, có vẻ không tự nhiên.
Phải chăng đấy là nguyên do ông đã cưới bà? Vì sắc đẹp của bà? Ông cũng đã yêu bà chứ? Bà đã sinh cho ông mười ba đứa con cơ mà? Nhưng chuyện đó không chứng tỏ tình yêu có tồn tại hay không. Bà là mẹ của Anthony, Charity nghĩ, người vẫn khiến anh xúc động sâu sắc tới mức anh thoắt trở nên lạnh lùng sáng nay khi cô bảo rằng hẳn anh yêu bà lắm.
“Bà ấy là con gái lớn của một công tước,” ông nói tiếp. “Từ khi còn nằm nôi, bà ấy đã được nuôi dạy để trở thành cô dâu của ta. Bà ấy đã thực hiện bổn phận của mình cho đến lúc chết.”
Khi sinh Augusta, Charity cảm thấy ớn lạnh. Ông có yêu bà không? Có lẽ, quan trọng hơn – bà có yêu ông không? Bà đã làm tròn bổn phận…
Con là con gái một nhà quý tộc, cô muốn nói. Con được nuôi dạy để làm một quý cô. Con cũng biết bổn phận của mình và sẽ thực hiện nó cho đến lúc chết. Nhưng nó không hoàn toàn là sự thật, phải không? Cô vừa mới kết hôn được hai ngày và đã hứa những điều sẽ không bao giờ làm được. Cô đã đùa cợt với một cuộc hôn nhân – vì tiền. Chồng cô đã nói rất đúng sáng nay, khi cô tức giận vì khám phá ra lý do vì sao anh cưới cô vội vã đến thế và đem cô về đây. Cô cảm thấy dằn vặt vì tội lỗi và ngạc nhiên khi thấy mình rất muốn thanh minh với người đàn ông lạnh lùng này, người chưa bao giờ nở nụ cười và có vẻ không hề truyền được tình yêu đến những đứa con mình.
“Cha,” cô nói, ôm lấy cánh tay ông. “Cha đã đứng khá lâu rồi. Con rất vui vì cha đã đưa con đến đây và kể về gia đình của cha – gia đình anh Anthony – với con. Nhưng hãy để con đưa cha đến chỗ nào đó cha có thể nghỉ ngơi. Hãy nói cho con biết cha muốn nghỉ ở đâu.”
“Tôi cho rằng,” ông nói, “Staunton thậm chí còn chẳng bảo cô ăn mặc cho phù hợp với từng hoàn cảnh.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.