Thần Điêu Hiệp Lữ

Hồi thứ chín: Trăm kế tránh địch



Lục Vô Song đang lo sợ, nghe Dương Quá hỏi một câu ngớ ngẩn, thì tức giận nói:
Đồ ngốc, lại nói vớ vẩn gì thế? Dương Quá cười, nói:

Hai ta thử chơi trò bái thiên địa thành hôn. Cô nương sắm vai tân nương tử được chứ? Thế mới đẹp đó. Mặt được che tấm khăn hồng, ai nói gì mặc kệ, sẽ không ai nhìn thấy mặt cô nương.

Lục Vô Song ngẩn người, hỏi:

Ngươi bảo ta sắm vai tân nương để trốn sư phụ, đúng không?

Dương Quá cười hi hi, nói:

– Ta không biết, cô nương sắm vai tân nương, còn ta sắm vai tân lang.

Tình thế lúc này quẫn bách, Lục Vô Song cũng chả còn bụng dạ nào trách mắng, nghĩ

thầm: “Chủ ý của Đồ ngốc đúng là quái dị, nhưng ngoài cách đó ra, cũng chẳng còn

cách nào khác,” bèn hỏi:

– Phải làm thế nào?

Dương Quá không dám kéo dài thời gian, ra roi quất mấy cái vào mông con lừa, con lừa chạy tế lên.

Đường thôn quê nhỏ hẹp, chiếc kiệu hoa lớn do tám người khiêng choán hết mặt lộ, hai bên không còn chỗ trống nào. Đoàn người rước dâu thấy con lừa xông thẳng tới, thì kêu la ầm ĩ, bảo người cưỡi lừa hãy mau dừng lại. Dương Quá kẹp hai chân, thúc con lừa phóng nhanh hơn, thoáng chốc đã tới trước đám rước dâu. Hai đại hán to khỏe chặn lại, không cho con lừa đâm vào chiếc kiệu. Dương Quá vung cây roi da lên cuốn vào cánh tay hai người ấy, kéo họ ngã xuống vệ đường, nói với Lục Vô Song: – Ta sắm vai tân lang đây.

Chàng chạy tới, túm lấy gã tân lang đang cưỡi con ngựa trắng.

Tân lang chừng mười bảy, mười tám tuổi, trang phục mới toàn thân, đầu đội kim hoa, đột nhiên bị Dương Quá tóm lấy thì cả sợ. Dương Quá tung thân hình tân lang lên cao hơn một trượng, rồi giơ tay đón đỡ y lúc y rơi xuống trong tiếng kêu sợ hãi của mọi người. Đám rước dâu ba chục người, quá nửa là tráng đinh, nhưng thấy bản lĩnh của chàng như thế, tân lang lại đang trong tay chàng, thì còn ai dám động thủ? Một lão nhân từng trải, đoán là gặp tướng cướp chặn đường, bèn bước lại mặc cả, nói:

Xin đại vương hãy tha cho tân lang, đại vương cần bao nhiêu tiền lộ phí, chúng ta có thể thương lượng mà.

Dương Quá nói với Lục Vô Song:

Tức phụ nhi, tại sao lão nhân lại gọi ta là đại vương? Họ tên của ta đâu phải là đại

vương kia chứ? Ta thấy lão nhân còn ngốc hơn cả ta.

Lục Vô Song nói:

Thôi đừng rề rà, ta đã nghe hình như là tiếng chuông đeo cổ lừa của sư phụ ta rồi đó. Dương Quá kinh ngạc, dỏng tai nghe, quả nhiên văng vẳng xa xa có tiếng chuông, nghĩ thầm: “Mụ ta đến quá nhanh,” nói:

Chuông ư? Chuông gì? Của kẻ raĐo bán đường phải không? Hay quá, thế thì ta mua ít đường mà ăn.

Chàng quay sang nói với lão nhân:

Các vị chịu làm theo lời ta, thì ta sẽ thả người này, nếu không…

Chàng lại tung tân lang lên cao một lần nữa, tân lang kêu oai oái, khóc ré. Lão nhân chắp tay, nói:

Vâng, xin đại vương cứ sai bảo. Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:
Nàng ấy là tức phụ nhi của ta; nàng ấy thấy các vị diễn trò bái thiên địa thành hôn, thấy thú vị, cũng muốn chơi trò này một lúc…

Lục Vô Song nói:

Đồ ngốc, nói gì vậy?

Các vị hãy mau lấy trang phục của tân nương mặc cho nàng ấy, còn ta sẽ sắm vai tân lang.
Trẻ con đùa nghịch, thường vẫn chơi trò tân nương tân lang bái thiên địa thành hôn. Người lớn muốn bắt chước chơi trò ấy thì cũng chẳng có gì lạ. Nhưng một tên tướng cướp chặn đường, không đòi tiền, lại muốn chơi trò kia, thì ai cũng bất ngờ, nhìn nhau im lặng. Nhìn Dương, Lục hai người, chàng đôi mươi, nàng mười tám, bảo là một cặp vợ chồng thì quá giống, mọi người chưa biết làm thế nào. Dương Quá nghe tiếng chuông vàng tới gần, từ trên lưng lừa nhảy xuống, đặt tân lang ngồi lên yên lừa để Lục Vô Song kiềm chế y, chàng tự tới trước chiếc kiệu hoa, mở cửa kiệu, lôi tân nương ra.

Tân nương sợ hãi, kêu rú lên, mặt che tấm khăn đỏ không biết bên ngoài có chuyện gì. Dương Quá đưa tay lật tấm khăn che mặt, chỉ thấy tân nương có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, thì cười, nói:

Tân nương tử xinh quá thôi.

Rồi khẽ vuốt má nàng ta một cái. Tân nương sợ quá không dám kêu nữa. Dương Quá tay trái nhấc tân nương lên cao, nói:

Nếu muốn ta tha mạng cho người này, hãy mau để cho tức phụ nhi của ta đóng thế vai tân nương.

Lục Vô Song nghe tiếng chuông của sư phụ đã khá gần, lườm Dương Quá một cái, nghĩ thầm: “Lúc này mà Đồ ngốc vẫn chẳng biết trời cao đất dày gì, vẫn cứ đùa cợt.”

Lão nhân ban nãy luôn miệng giục:

– Mau, mau nào! Mau thay đổi y phục cho đôi tân nương tân lang mới.

Những người đưa dâu vội vã gỡ mũ phụng, quần hồng áo gấm của tân nương, đội và mặc cho Lục Vô Song. Dương Quá thì tự thay quần áo lấy, rồi nói với Lục Vô Song: – Tức phụ nhi, mau lên kiệu hoa đi.

Lục Vô Song bảo tân nương vào trong kiệu trước, rồi nàng vào sau, ngồi lên phía trên người tân nương, thả tấm khăn che mặt xuống.

Dương Quá nhìn đôi giày cỏ đi dưới chân, định thay, thì tiếng chuông đã vang lên ngay chỗ góc núi, chàng bèn nói to:

Hãy quay đầu kiệu đi về hướng đông nam, mau nổi nhạc lên nào! Nếu có ai hỏi, đừng nói là có nhìn thấy vợ chồng ta.

Chàng nhảy lên lưng con ngựa trắng, đi ngang vai bên cạnh gã tân lang đang ngồi trên lưng con lừa. Mọi người thấy tân nương và tân lang của họ rơi vào tay kẻ cướp, thì không ai dám trái lời, tiếng cổ nhạc lập tức nổi lên.

Chiếc kiệu hoa quay đầu, mới đi được hơn mười trượng, thì tiếng chuông gấp gấp phía sau, hai con lừa đã đuổi tới nơi. Lục Vô Song ngồi trong kiệu nghe tiếng chuông, nghĩ thầm có thoát khỏi đại nạn hay không là ở lúc này đây, trống ngực đập loạn lên, dỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài. Dương Quá giả vờ xấu hổ, cúi mặt xuống cổ ngựa, chỉ nghe Hồng Lăng Ba hỏi:

Này, các vị có nhìn thấy một cô nương thọt chân qua đây hay không?

Không… không thấy. Hồng Lăng Ba lại hỏi:

Có thấy một thiếu nữ cưỡi trâu đi qua hay không? Lão nhân đáp:

Không thấy.

Sư đồ hai người cưỡi lừa vượt qua đoàn người, phóng lên trước.

Không lâu sau, Lý, Hồng hai sư đồ cưỡi lừa quay lại. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuộn tấm vải che kiệu, giật một cái, tấm vải rách làm hai. Dương Quá cả kinh, tế ngựa lại gần, chỉ đợi Lý Mạc Sầu phất cây phất trần lần nữa, sẽ lập tức ra tay cứu người, nào ngờ Lý Mạc Sầu nhòm vào trong kiệu một cái, rồi cười, nói: – Tân nương xinh lắm.

Rồi xoay qua phía Dương Quá, nói:

– Tiểu tử, ngươi có phúc đó.

Dương Quá cúi gằm mặt, không dám ngẩng nhìn Lý Mạc Sầu, chỉ nghe tiếng lóc cóc, hai con lừa đã chạy đi.

Dương Quá lấy làm lạ: “Tại sao Lý Mạc Sầu lại bỏ qua cho Lục cô nương?” Chàng ngó vào trong kiệu, thấy tân nương sợ tái cả mặt, người run rẩy, còn Lục Vô Song thì

không biết trốn ở đâu. Dương Quá càng lạ thêm, hỏi:

Ơ hay, tức phụ nhi của ta đâu rồi? Có tiếng cười của Lục Vô Song:
Không thấy ta ư?

Từ trong váy của tân nương, Lục Vô Song chui ra, thì ra vừa rồi nàng đã trốn vào đó. Nàng biết sư phụ hành sự rất tỉ mỉ cặn kẽ, quyết không bỏ qua bất cứ chỗ nào khả nghi; nàng đoán sư phụ sẽ quay lại, nên phải trốn. Dương Quá nói:

Cô nương cứ yên ổn sắm vai tân nương đi, ngồi kiệu dễ chịu hơn cưỡi lừa nhiều lắm đấy.

Lục Vô Song gật đầu, nói với tân nương:

Ngươi mau xuống kiệu, để ta ngồi một mình thôi.

Tân nương đành xuống kiệu, ra cưỡi chung con lừa với tân lang. Tân lang và tân nương chưa gặp mặt nhau bao giờ, lúc này tân lang thấy tân nương trắng mập, có vài phần châu viên ngọc nhuận; tân nương ngó trộm tân lang, cũng thấy mặt mũi ngay ngắn, cả hai cùng mừng thầm, tạm quên tình cảnh trớ trêu hiện thời.

Đoàn người đi chừng hai mươi dặm, thấy trời sắp tối. Vị lão nhân không ngớt cầu xin

Dương Quá tha cho, để khỏi lỡ ngày giờ cát lành bái thiên địa. Dương Quá quát:

– Sao lão lắm lời thế?

Vừa nói thì thấy có hai bóng người từ vệ đường chạy vụt vào rừng. Dương Quá khởi nghi, giục ngựa đuổi theo, thấy họ ăn mặc lam lũ, là dân hóa tử. Chàng ghìm ngựa lại, nghĩ thầm: “Chắc là Cái Bang bám theo tung tích, đã mai phục sẵn. Vậy thì phải đi mau hơn nữa.”

Trở lại bên kiệu, Lục Vô Song thò đầu ra, hỏi:

Có chuyện gì thế? Dương Quá nói:
Kiệu hoa không che kín, tân nương lại không che mặt. Đã sắm vai tân nương, thì cũng phải khóc khóc mếu mếu, sụt sùi gọi mẹ gọi cha, không chịu xuất giá. Thiên hạ làm gì có tân nương nào không e thẹn như nàng?

Lục Vô Song nghe chàng nói, đoán là hành tung của mình đã bị lộ, chỉ lẩm bẩm “đồ ngốc,” rồi im lặng. Đi một hồi nữa, đường núi phía trước hẹp dần, mỗi lúc càng khó đi hơn, đoàn người rước dâu đã mệt lắm, nhưng họ sợ Dương Quá, nên không ai dám oán thán một câu.

Mặt trời đã lặn sau núi, quạ bay ngang trên đầu về tổ, kêu quang quác. Đang đi, bỗng sau chỗ quành có mấy người cùng cất tiếng hát:

Tiểu tiểu cô nương làm việc tốt, bố thí cho ta chiếc loan đao.

Lục Vô Song mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Bốn gã hóa tử đã phục sẵn ở đây.” Kiệu hoa đi tới, thấy ba gã hành khất chắn đường, cả ba thân hình đều cao to, không giống bốn gã

hóa tử đã gặp ở phạn điếm. Dương Quá thấy mỗi người đều đeo năm cái túi vải, nghĩ bụng: “Ba đệ tử năm túi này chắc lợi hại hơn mấy gã hóa tử bốn túi trưa nay, xem ra đến phải động thủ mất thôi.”

Trong đoàn rước dâu có người vung roi vụt vào đầu một gã hành khất, quát:

– Tránh ra, tránh ra cho người ta đi!

Gã hóa tử không buồn tránh, giơ tay chộp cây roi, kéo một cái, người kia ngã sấp mặt xuống. Nếu là lúc khác, hẳn mọi người đã cùng xông tới giao chiến, nhưng ai cũng nghĩ ba gã hóa tử này là đồng bọn của Dương Quá, không ai dám tiến lên, mà lùi lại vài bước. Một gã hóa tử nói to:

Cung hỉ cô nương đại hỉ, tiểu khiếu hóa xin thưởng chút tiền. Lục Vô Song ngoảnh lại, nói nhỏ:

Đồ ngốc, ta đang bị thương, không thể động thủ, ngươi đuổi bọn kia đi cho ta. Dương Quá nói:

Được lắm.

Này các vị, hôm nay ngày lành tháng tốt, ta đi đón tức phụ nhi, các vị đừng nhiều lời, mau nhường lối ta đi.
Một gã hóa tử nhìn Dương Quá dò xét, nhất thời chưa biết lai lịch của chàng. Bốn gã hóa tử bốn túi bị que đũa tấn công ban trưa, cứ ngỡ là do Lục Vô Song xuất thủ, chẳng hề bẩm báo với mấy vị sư bá sư thúc về Dương Quá.

Một gã hóa tử hất tay phải. Con ngựa Dương Quá đang cưỡi giật mình, giơ hai vó trước lên. Dương Quá giả vờ ngồi không vững, ngã xuống đất, hồi lâu vẫn chưa bò dậy được. Ba gã hóa tử nghĩ thầm: “Thì ra người này đúng là tân lang.” Cái Bang là bang hội theo con đường hiệp nghĩa, bao năm nay ngăn kẻ mạnh giúp kẻ yếu, tế khốn phù nguy, sở dĩ gây khó dễ với Lục Vô Song chỉ vì nàng đả thương huynh đệ của họ; bây giờ thấy Dương Quá không biết võ công, bị ngã ngựa, thì họ cảm thấy có lỗi, một gã hóa tử vội đỡ chàng dậy, nói:

Xin lượng thứ cho.

Dương Quá giận nói:

– Hừ, các vị… thật là… xin tiền thì xin, sao lại dọa con ngựa của ta?

Chàng mò túi, lấy ra ba đồng tiền, cho mỗi gã một tiền. Ba gã hóa tử theo qui củ của Cái Bang, nhận tiền lạy tạ.

Dương Quá quay lại nói với Lục Vô Song:

Nàng muốn ta đuổi bọn kia đi, ta đuổi rồi đó. Lục Vô Song bực mình, nói:

Ngươi cứ giả vờ ngốc nghếch với ta, có phải là hay không? Dương Quá nói:

Phải, phải!

Chàng lùi sang một bên, lấy ống tay áo phủi bụi trên người.

Lục Vô Song thấy ba gã hóa tử vẫn cứ chắn đường, bèn lạnh lùng hỏi:

Các vị còn muốn gì? Một gã hóa tử nói:
Cô nương là cao thủ phái Cổ Mộ, ba huynh đệ ta rất ngưỡng mộ, muốn được cô nương chỉ điểm cho vài chiêu.

Lục Vô Song nói:

Ta đang bị trọng thương, làm sao có thể động thủ? Các vị đã không phục, thì xin định ngày, chờ ta khỏi, sẽ tới lĩnh giáo. Ba vị là cao thủ Cái Bang, hôm nay hợp lực khi vũ một thiếu nữ đang bị trọng thương, như thế có còn là anh hùng hảo hán nữa không?

Ba gã hóa tử nghe nàng nói thế, quả nhiên cảm thấy bên mình đuối lý. Hai người cùng nói:

Thôi được, đợi cô nương khỏi, sẽ tính chuyện này.

Hãy khoan, cô nương bị thương ở đâu? Là thật hay giả, phải để ta coi. Nếu đúng là bị thương, hôm nay bọn ta sẽ tha cho cô nương.
Gã không biết Lục Vô Song bị thương ở ngực, lời nói chỉ là vô tình, nhưng Lục Vô Song thì lập tức đỏ bừng cả mặt, cả giận, nhất thời chưa nói nên lời, lát sau mới nói:

Trên giang hồ người ta bảo Cái Bang anh hùng hiệp nghĩa gì kia chứ, toàn là một bọn vô sỉ.

Ba gã hóa tử nghe nàng thóa mạ thanh danh của Cái Bang, thì tái mặt, một gã hóa tử tính nóng nảy thô bạo bèn sấn tới giơ tay túm lấy nàng lôi ra khỏi kiệu.

Dương Quá thấy tình thế gấp gáp, kêu lên:

Hượm, hượm đã, các vị xin tiền, ta cho rồi, sao lại còn gây sự với tức phụ nhi của ta? Nói rồi tiến đến chắn trước kiệu, lại nói:

Trông ba vị nhân huynh tuy đi ăn mày, nhưng ai nấy tướng mạo đường đường, sau này thể nào cũng thăng quan phát tài, sao lại đi trêu chọc một tân nương, câu kết với nhau giở trò vô lại như thế?

Ba gã hóa tử sững người, không biết đối đáp làm sao. Gã hóa tử thô bạo nói:

Ngươi hãy tránh ra, bọn ta chỉ cần lĩnh giáo võ công phái Cổ Mộ của nàng ta, cái gì mà vô lại với chả vô đi?

Đoạn đưa tay đẩy nhẹ một cái. Dương Quá kêu tướng lên, ngã xuống vệ đường. Cái Bang bao lâu nay tương truyền có một qui củ, nhất thiết không được phép xuất thủ đánh người không biết võ công. Gã hóa tử nóng nảy kia không ngờ chàng tân lang lại bị thịt như thế, mới đẩy khẽ một cái đã ngã, nếu vì cái ngã ấy mà chàng bị thương, thì gã sẽ bị phạt tội rất nặng, hai đồng bọn cũng bị liên lụy. Ba gã hóa tử cả kinh, cùng xô lại dìu chàng đứng lên. Dương Quá cứ la ôi ối:

– Ái, ái, ối mẹ ơi!

Ba gã hóa tử cũng chẳng biết chàng có bị thương hay không.

Dương Quá vừa rên rỉ kêu đau, vừa nói:

Ba vị cũng thật là ngốc, tân tức phụ nhi của ta còn e thẹn, đời nào chịu nói chuyện với mấy người lạ cơ chứ? Thế này vậy, ba vị cần lĩnh giáo cái gì, cứ nói trước với ta, ta sẽ hỏi tức phụ nhi của ta, rồi trả lời ba vị được không nào?

Ba gã hóa tử thấy Dương Quá chẳng ngớ ngẩn chút nào, kể đã sốt ruột lắm, song lại không tiện động thủ với chàng. Gã nhiều tuổi nhất trong ba gã hóa tử nghĩ thầm: “Nữ tử họ Lục vờ sắm vai tân nương, tên này nếu đúng là tân lang, thì sẽ không bênh vực như thế, còn nếu là tân lang giả, thì không thể vô dụng như vậy.” Chăm chú quan sát thân hình, cử chỉ của chàng, không phát hiện được bất cứ điều gì.

Gã hóa tử nóng tính giơ tay lên, nói:

Ngươi có tránh ra hay không thì bảo?

Các vị nhất quyết không được khi vũ tức phụ nhi của ta. Một gã hóa tử nói:
Lục cô nương, cô nương sai một tên ngốc như hắn ngăn chặn bọn ta có nổi không, thử nói ta nghe coi.

Dương Quá lấy làm lạ, nói:

Ồ, vị này cũng biết tên ta là Đồ ngốc ư? Lạ quá nhỉ?

Bọn ta cũng không cần lĩnh giáo thứ gì khác, chỉ cần biết môn loan đao chém vai, chiêu đó gọi là gì?
Lục Vô Song cũng biết Dương Quá cố gây khó dễ với ba gã hóa tử kia, không biết đến bao giờ mới chấm dứt, chính nàng cũng đang nghĩ kế thoát thân, nghe gã kia hỏi vậy, bèn thuận miệng nói:

Chiêu đó gọi là “Điêu Thuyền bái nguyệt,” nghe chưa.

Đúng thế, thanh loan đao của hiền thê ta vù một cái, chém xuống vai các hạ thế này này.
Tay phải của chàng vòng ra phía sau, cạnh bàn tay chém nhẹ một cái vào sau bả vai gã kia.

Dương Quá xuất thủ, ba gã hóa tử kinh ngạc, cùng nhảy lùi, nghĩ thầm: “Thì ra hắn đóng giả tân lang để giễu cợt bọn mình.” Gã bị một chưởng vào vai, tuy Dương Quá không dùng lực, song gã bị mất thể diện, bèn quát:

Giỏi lắm, tên tiểu tử giả bộ ngốc nghếch, lại đây nào, ta lĩnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã.

Dương Quá nói:

Các hạ bảo muốn lĩnh giáo cao chiêu của hiền thê ta, sao bây giờ lại đòi lĩnh giáo cao chiêu của ta?
Gã kia nói:

Lĩnh giáo cao chiêu của ngươi thì cũng thế.

Thế thì chả hay rồi, vì ta không biết chiêu nào hết. Rồi chàng ngoảnh lại hỏi Lục Vô Song
Hiền thê, hiền thê thân thiết của ta, nàng bảo ta dạy người kia chiêu gì đây?

Lục Vô Song lúc này không còn nghi ngờ gì nữa, biết chàng một thân tuyệt nghệ, một chưởng vừa rồi của chàng chém xuống vai đối phương, thật tài tình, nàng không thể nào bì kịp, chỉ là chưa biết gia số võ công của chàng, bèn thuận miệng nói:

Hãy dạy lại chiêu “Điêu Thuyền bái nguyệt.” Dương Quá nói:

Được!

Lưng xoay, tay giơ, hịch một tiếng, lại chém một chưởng xuống sau bả vai gã hóa tử. Đòn này, ba gã hóa tử càng kinh hãi hơn. Dương Quá rõ ràng đứng đối diện với đối thủ, hoàn toàn không di bộ chuyển thân, chỉ thấy vung tay mà đã chém đằng sau vai, chưởng pháp kiểu này quả là quái dị. Lục Vô Song cũng chấn động nghĩ thầm: “Rõ ràng là võ công phái Cổ Mộ ta, tại sao Đồ ngốc cũng biết?” Bèn nói:

Ngươi hãy dạy cho hắn chiêu “Tây Thi bổng tâm.” Dương Quá nói:

Được!

Một quyền tung ra, trúng ngay ngực trái của đối phương.

Gã hóa tử trúng quyền, chỉ cảm thấy một lực mạnh đẩy y bay ra xa hơn một trượng, chỗ ngực trúng đòn không đau đớn gì, tựa hồ có người nhấc bổng đưa đi hơn một trượng rồi đặt xuống vậy. Hai gã hóa tử kia từ hai bên xông lại. Dương Quá gọi gấp:

Hiền thê, ta đối phó không nổi, mau dạy ta. Lục Vô Song nói:

Chiêu Quân xuất tái, Ma Cô hiến thọ.

Dương Quá tay trái đưa xéo, tay phải búng năm ngón, như tư thế gảy đàn tì bà, năm ngón tay búng vào người gã hóa tử bên hữu, chính là chiêu “Chiêu Quân xuất tái,” lại nghiêng người tung cước đá gã hóa tử ở bên tả, một tay nắm lại thành quyền, đấm thẳng lên, trúng cằm đối phương, nói:

Cái này gọi là “Ma Cô hiến thọ,” có phải không? Chàng không định đả thương, nên không hề dùng sức.

Chàng sử liền bốn chiêu, đều thuộc “Mỹ nữ quyền pháp” tinh diệu của phái Cổ Mộ. Phái Cổ Mộ từ khi Lâm Triệu Anh khai sáng, chỉ truyền cho nữ, không truyền cho nam. Lâm Triệu Anh sáng tạo “Mỹ nữ quyền pháp,” mỗi chiêu đều lấy tên một mỹ nữ

để gọi, khi sử dụng thật kiều mị uyển chuyển, song toàn là sát thủ lợi hại. Dương Quá học võ của Tiểu Long Nữ, pho quyền pháp này dĩ nhiên đã học qua, có điều chàng cảm thấy quyền pháp này tuy tinh diệu, nhưng cứ thướt tha ủy mị thế nào ấy, nam giới sử dụng không được hợp lắm, cho nên khi luyện tập, chàng vô tình thêm chất dương cương vào chiêu số thuần nhu, phong thái tuy khác đi, song quyền thức vẫn nguyên trạng.

Ba gã hóa tử trúng đòn vẫn không hiểu vì sao, lại không cảm thấy đau, vẫn chưa phục võ công của Dương Quá, cùng hè nhau xông vào tấn công. Dương Quá né bên này, tránh bên kia, nói:

Hiền thê ơi, nguy rồi, hôm nay nàng sẽ thành tiểu quả phụ mất thôi! Lục Vô Song cười, nói:

Thiên Tôn chức cẩm!

Dương Quá làm động tác tay phải đưa sang trái, tay trái đưa sang phải, y như người ném con thoi dệt vải, hai tay lại đánh vào hai gã hóa tử. Lục Vô Song nói:ta – Văn Quân đương lô, Qúy Phi túy tửu!

Dương Quá giơ tay làm động tác rót rượu, cốc vào đầu gã hóa tử nóng tính một cái, người lảo đảo ngã về phía gã hóa tử bên phải, dùng đầu vai hích trúng vào ngực gã hóa tử bên trái.

Ba gã hóa tử vừa kinh ngạc vừa tức giận, cả ba đã thi triển võ công bình sinh, vẫn không chạm được vào áo của đối phương, trong khi tên tiểu tử kia cứ vung tay đưa mắt, muốn đánh ai thì đánh, tuy ba gã bị trúng đòn không đau, nhưng đòn nào cũng quá ư cổ quái. Lục Vô Song nói liền ba chiêu “Lộng Ngọc xuy tiêu,” “Lạc Thần lăng ba,” “Điếu Phạt ốc quyền,” Dương Quá đều xuất chiêu chính xác. Lục Vô Song cực kỳ thán phục, cố ý làm khó, chàng đang đấm quyền ra đằng trước, nàng liền kêu: – Tắc Thiên thùy liêm.

Thân hình chàng đang như thế kia, xét về lý, tưởng không tài gì sử nổi chiêu này, vậy mà Dương Quá vẫn dừng lại được, hai bàn tay làm động tác buông rèm. Ba gã hóa tử thấy ngực chàng sơ hở, mừng thầm, cùng đánh tới, không ngờ bị nội lực của chàng đẩy ra, buộc phải lùi mấy bước.

Lục Vô Song vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói:

– Nhất tiếu khuynh quốc!

Đây là chiêu do nàng tự nghĩ ra. Mỹ nhân đúng là có thể dùng tiếng cười làm nghiêng nước nghiêng thành, chứ làm sao có thể dùng để động thủ quá chiêu với đối phương? Dương Quá ngẩn người, tức thì cất tiếng cười ha ha ha ha, hi hi hi hi, khùng khục khà khà, vận nội công cao thâm theo “Cửu m chân kinh.” Tuy chàng chưa luyện đến nơi đến chốn, chưa thể dùng để đối phó với một cao thủ thật sự, nhưng ba gã hóa tử năm túi này cũng chỉ là vào hàng thứ ba, thứ tư, nghe tiếng cười kinh dị thì bất giác đầu váng mắt hoa, thân hình loạng choạng mấy cái, rồi ngã sóng soài. Nên biết trong tai

người có một vật nhỏ hình bán nguyệt, chuyên phụ trách sự cân bằng của cơ thể. Nếu vật nhỏ hình bán nguyệt đó đột nhiên bị chấn động, sẽ khiến cho người ta cảm thấy đầu nặng chân nhẹ không thể đứng vững được nữa. Tiếng cười của Dương Quá dùng nội lực cường kình phát ra, màng tang của người nghe liên tục bị xung kích, ai nấy cảm thấy trời xoay đất chuyển. Lục Vô Song tưởng ngất đi vội hai tay giữ chặt lấy kiệu; trong tiếng oang oang, cả đoàn người rước dâu, tân lang và tân nương đều ngã ngổn ngang.

Tiếng cười của Dương Quá vừa dừng, ba gã hóa tử lồm cồm bò dậy, mặt cắt không còn hạt máu, bỏ đi không dám ngoái đầu lại.

Mọi người nghỉ một lát, rồi mới khiêng kiệu đi tiếp. Lúc này họ coi Dương Quá như thần, càng không dám trái lời. Khoảng canh hai, đến một thị trấn, Dương Quá mới thả đoàn người rước dâu đi. Mọi người cứ ngỡ phen này bị tướng cướp bắt làm con tin đòi chuộc tiền, chắc là khổ sở vô cùng, ai dè tên tướng cướp chỉ chơi trò đóng giả tân lang, tân nương thì thôi, thật là ngoài dự liệu, không khỏi khấu đầu lạy tạ Dương Quá. Tân nương thì nói:

Chúc đại vương và nương tử bách niên hảo hợp, bạch đầu giai lão, sinh hạ vài vị tiểu đại vương!

Nghe vậy Dương Quá cười ha hả, còn Lục Vô Song thì vừa ngượng vừa giận.

Dương Quá và Lục Vô Song tìm một khách điếm vào trú, gọi cơm, vừa ngồi xuống ăn, thì chợt thấy ngoài cửa có bóng người ló đầu vào, nhìn thấy Dương Quá và Lục Vô Song liền rụt đầu, quay mình đi.

Dương Quá đoán có chuyện, chạy đuổi theo, thấy ngoài sân có hai người, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đã đấu với Lục Vô Song tại Sài Lang cốc. Hai gã kia rút kiếm xông tới. Dương Quá nghĩ thầm: “Các ngươi tìm ta chuốc lấy khổ sở hay sao?” Hai đạo sĩ tới gần chàng thì lách qua, xông tới chỗ Lục Vô Song trong phòng lớn. Đúng lúc đó bỗng có tiếng chuông đeo cổ lừa vang lên tinh tang một chập.

Tiếng chuông đột nhiên vang lên, nghe đã rất gần, hai đạo sĩ sắc diện đại biến, nhìn nhau một cái, vội vàng lùi vào gian buồng thứ nhất ở phía tây, đóng sập cửa lại, không thấy ló ra nữa. Dương Quá nghĩ thầm: “Đạo sĩ thối tha, chắc đã xơi đòn của Lý Mạc Sầu nên mới kinh hoảng như thế.”

Lục Vô Song nói nhỏ:

Sư phụ của ta lại đến rồi, Đồ ngốc, ngươi bảo nên làm thế nào?

Dương Quá nói:

– Làm thế nào ư? Tránh đi thôi!

Vừa đưa tay đỡ nàng, thì thấy tiếng chuông dừng ở cổng khách điếm, và giọng nói của

Lý Mạc Sầu:

– Ngươi lên canh trên mái cho ta.

Hồng Lăng Ba vâng lời, vù một cái, phi thân lên mái nhà. Lại nghe chưởng cự nói:

– Tiên cô, lão nhân gia nghỉ lại đây… Ôi…

Huỵch một tiếng, chưởng cự đã ngã gục, không cựa quậy gì nữa. Y đâu biết rằng Lý Mạc Sầu ghét nhất kẻ khác nhắc đến chữ “lão” trước mặt nàng ta, huống hồ y lại gọi nàng ta là “Lão nhân gia”? Cây phất trần vung lên, lấy luôn mạng của y. Lý Mạc Sầu hỏi điếm tiểu nhị:

Có cô nương thọt chân nào trọ ở đây hay không? Điếm tiểu nhị sớm đã hồn xiêu phách tán, chỉ ấp úng:
Tiểu nhân… tiểu…

Lý Mạc Sầu chân trái đá điếm tiểu nhị, chân phải đẩy cánh cửa gian buồng thứ nhất mé tây, chính là buồng của hai gã đạo sĩ Thân, Cơ, bước vào lục soát.

Dương Quá nghĩ thầm: “Đành chuồn lối cửa sau vậy, tuy có thể bị Hồng Lăng Ba nhìn

thấy, nhưng không ngại nàng ta,” bèn nói:

– Tức phụ nhi, theo ta đào mệnh nào.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, đứng dậy, nghĩ bụng phen này mà trốn thoát được thì đúng là nhờ ơn trời che mắt sư phụ.

Hai người vừa đứng dậy, thì một vị khách ngồi ở chiếc bàn mé đông đứng lên, tới cạnh hai người, nói nhỏ:

– Ta ra ngoài kia dụ kẻ địch ra ngoài, hãy mau nghĩ cách mà trốn đi.

Người này vốn ngồi chỗ tối, quay mặt vào trong, nên Dương Quá không nhìn rõ diện mạo; bây giờ nói lại nhìn chỗ khác, nói xong liền chạy ra cổng, chỉ còn nhìn thấy lưng. Người đó thân hình không cao, mặc trường bào màu xanh, rộng thùng thình.

Dương, Lục hai người nhìn nhau, chợt nghe tiếng chuông treo cổ lừa vang rền, chuyển

dần về phía bắc.

Hồng Lăng Ba gọi:

– Sư phụ, có kẻ dắt trộm lừa!

Lý Mạc Sầu từ trong buồng chạy ra cổng đuổi theo. Lục Vô Song nói:

– Đi mau thôi!

Dương Quá nghĩ thầm: “Lý Mạc Sầu khinh công mau lẹ như thế, sẽ đuổi kịp người kia

trong giây lát, rồi trở lại đây. Mình phải ẵm Lục cô nương, đi không thể nhanh, rất khó

thoát thân.” Chàng chợt nảy ra một kế, chạy vào gian phòng thứ nhất ở mé tây. Thấy

Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đang ngồi bên cạnh giường lò, trên mặt vẫn chưa hết

vẻ kinh hoàng. Tình thế lúc này gấp rút, Dương Quá chẳng để cho hai đạo sĩ hỏi han

gì, liên tiếp điểm huyệt họ, nói:

– Tức phụ nhi, vào đây.

Lục Vô Song bước vào. Dương Quá đóng cửa lại, nói:

– Mau cởi quần áo!

Lục Vô Song đỏ mặt, nói:

– Đồ ngốc, ngươi nói lung tung gì vậy?

Dương Quá nói:

– Cởi hay không tùy cô nương, riêng ta thì ta phải cởi.

Chàng cởi áo ngoài, mặc áo đạo sĩ của Thân Chí Phàm, lại lột cả mũ của y đội lên đầu mình. Lục Vô Song chợt hiểu, nói:

– Được, ta cũng đóng giả đạo sĩ để lừa sư phụ.

Nàng cởi áo ngoài, lại đỏ mặt, đá gã Cơ Thanh Hư một cái, nói:

– Nhắm mắt vào, tên đạo sĩ chết tiệt!

Cơ Thanh Hư và Thân Chí Phàm chỉ bất động tứ chi, ngũ quan vẫn hoạt động bình thường; họ vội nhắm mắt, không dám nhìn nàng. Lục Vô Song lại nói:

Đồ ngốc, ngươi quay đi, đừng có nhìn ta thay quần! Dương Quá cười, nói:

Sợ cái gì, lúc nắn xương cho cô nương, ta chưa thấy gì hay sao?

Vừa nói xong, biết ngay mình quá ư khinh bạc vô lại, bất giác ngượng ngùng. Lục Vô Song cau mày, lật tay đánh một chưởng.

Dương Quá chỉ hơi cúi đầu, dễ dàng tránh qua, nhưng nhất thời thất hồn lạc phách, ngây ra xuất thần, bỗng bốp một tiếng, má bên trái của chàng bị một chưởng. Lục Vô Song không ngờ lần này nàng lại đánh trúng, lực dùng không nhẹ, nàng cũng ngây ra, cười, nói:

– Đồ ngốc, có đau lắm không? Ai bảo nói năng vớ vẩn?

Dương Quá xoa xoa má, cười cười, quay người nhìn chỗ khác. Lục Vô Song thay áo xong, cười, hỏi:

Ngươi trông ta có giống một tiểu đạo sĩ hay chưa? Dương Quá nói:

Ta nhìn thấy sao được mà hỏi.

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, quay lại nhìn đi.

Dương Quá ngoảnh lại, thấy chiếc áo bào trên người nàng rộng thùng thình, càng lộ rõ thân hình mảnh dẻ của nàng, đang định nói, bỗng Lục Vô Song khẽ kêu ối, tay chỉ lên giường lò, thấy một đạo sĩ từ trong chăn ló mặt ra, chính là Bì Thanh Huyền, gã đạo sĩ bị nàng chém ba ngón tay ở Sài Lang cốc. Nguyên y nằm trên giường lò dưỡng thương, thấy Lục Vô Song vào buồng thì rụt đầu vào trong chăn, Dương, Lục hai người mải thay quần áo, không lưu ý. Lục Vô Song nói: – Hắn… hắn…

Định nói “Hắn nhìn trộm ta thay đồ,” nhưng không tiện nói rõ.

Lúc này tiếng chuông lại vang lên. Dương Quá nghe mấy lần, biết Lý Mạc Sầu đã đoạt lại con lừa; khi người khách áo xanh cưỡi lừa chạy đi, tiếng chuông nghe tạp loạn; còn khi Lý mạc Sầu cưỡi, con lừa tuy chạy nhanh, song tiếng chuông vẫn thành nhịp hẳn

hoi. Chàng chợt nghĩ, liền kéo Bì Thanh Huyền lên, điểm huyệt y, mở cửa ngăn giường lò, đẩy y vào dưới gầm giường lò. Phương bắc trời lạnh, mùa đông người ta đốt than dưới gầm giường lò cho ấm, bây giờ thời tiết đang nóng, gầm giường lò không đất than, nhưng bên trong toàn muội than, Bì Thanh Huyền bị đẩy vào trong đó, không khỏi bị dính đầy muội.

Tiếng chuông đã dừng, Lý Mạc Sầu đã quay trở lại cổng khách điếm. Dương Quá nói với Lục Vô Song:

Lên giường lò nằm đi. Lục Vô Song cau mày:
Đạo sĩ thối tha đã nằm đó, hôi hám thế, làm sao mà nằm? Dương Quá nói:

Tùy cô nương thôi.

Vừa nói vừa đẩy Thân Chí Phàm vào gầm giường lò, thuận tay giải huyệt cho Cơ Thanh Hư. Lục Vô Song tuy có cảm giác chăn gối hôi hám, nhưng nghĩ đến thủ đoạn tàn ác của sư phụ, đành leo lên giường, nằm quay mặt vào trong. Vừa nhắm mắt, thì Lý Mạc Sầu đã đạp cửa, xộc vào phòng lần thứ hai để lục soát. Dương Quá cầm chén trà, cúi mặt mà uống, tay trái đặt trên tử huyệt ở sau lưng của Cơ Thanh Hư. Lý Mạc Sầu thấy trong phòng vẫn ba đạo sĩ, Cơ Thanh Hư mặt xám như gà cắt tiết, thần hồn bất định, nàng ta bèn cười cười đi sang phòng khác tìm kiếm. Lần trước vào phòng này, Lý Mạc Sầu đãnhìn kỹ mặt từng người, sợ Lục Vô Song cải trang làm đạo sĩ; còn lần thứ hai thì nàng ta không nhìn kỹ mặt từng người nữa.

Đêm nay sư đồ Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba rà soát khắp nơi trong trấn, khiến nhà nhà gà chó không yên. Dương Quá thì hoàn toàn yên ổn nằm trên giường lò bên Lục Vô Song, ngửi mùi hương thiếu nữ lan sang từng chập, không khỏi vô cùng thích thú. Lục Vô Song trong lòng cứ nổi lên bao ý nghĩ, thấy Dương Quá quả là một nhân vật cổ quái, bảo là ngốc nghếch thì không phải, chàng ta hết sức thông minh; bảo là thông minh, thì cũng đúng, song lại pha chút điên điên khùng khùng. Nàng nằm im không cựa quậy, nghĩ bụng, nếu Đồ ngốc đưa tay ôm nàng, thì nàng sẽ phải làm sao? Rất lâu cũng không thấy Dương Quá có động tĩnh gì, thì nàng lại cảm thấy thất vọng, ngửi hơi đàn ông nồng nàn của chàng, cũng thấy lòng xốn xang; hồi lâu sau mới mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Dương Quá ngủ một giấc tỉnh lại, trời đã sáng bạch, thấy Cơ Thanh Hư ngủ gục bên bàn chưa tỉnh; Lục Vô Song thì hai cánh mũi hơi phập phồng, hai má ửng hồng, đôi môi hồng he hé, bất giác lòng chàng xốn xang, nghĩ thầm: “Nếu mình thơm nhẹ nàng một cái, nàng cũng chẳng biết đâu.” Thiếu niên bước đầu hiểu về tình ái, chưa từng gần gũi nữ giới, lúc này mặt trời vừa mọc, chính là lúc tình dục dâng lên mạnh nhất; nhớ đến cặp vú quá đẹp nhìn thấy lúc nắn xương cho nàng, càng không kiềm chế được, cúi đầu sang định thơm vào môi nàng.

Sắp chạm đến môi thì đã ngửi thấy mùi hương ngọt ngào, người bửng lửng, máu nóng dâng trào, nhưng bỗng thấy đôi mày nàng hơi cau, tựa hồ trong mơ vẫn cảm thấy đau

vết xương gãy. Dương Quá trông thấy thế thì lập tức nhớ đến Tiểu Long Nữ, nhớ lời thề mà chàng đã nói với nàng “Trong lòng ta suốt đời chỉ có một mình cô cô, nếu ta thay lòng đổi dạ, thì không cần cô cô tới giết ta, ta cũng sẽ tự sát.” Mồ hôi lạnh vã ra đầy người, bốp bốp hai tiếng, chàng tự giáng cho mình hai cái tát mạnh, nhảy khỏi giường lò.

Lục Vô Song giật mình thức giấc, mở mắt hỏi: – Đồ ngốc, ngươi làm sao thế?

Dương Quá đang xấu hổ, trả lời ậm ừ:

– Không có gì, ta bị một con muỗi đốt vào mặt.

Lục Vô Song nghĩ đến chuyện cả đêm qua mình nằm ngủ với chàng, đột nhiên mặt đỏ bừng, cúi đầu nói nhỏ:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc!

Giọng nói đầy vẻ ôn nhu trìu mến. Lát sau, nàng ngẩng đầu, hỏi:
– Đồ ngốc, ngươi làm sao biết được “Mỹ nữ quyền pháp” của phái Cổ Mộ ta vậy? Dương Quá nói:

– Trong lúc nằm mơ, ta thấy có nhiều mỹ nữ, như Tây Thi, Điêu Thuyền đến bên cạnh, mỗi người dạy ta một chiêu, cho nên ta biết.

Lục Vô Song hừ một tiếng, biết có hỏi thêm chàng cũng không chịu nói, đang định nói sang việc khác, thì lại nghe tiếng chuông đeo cổ lừa của Lý Mạc Sầu. Sư phụ vẫn cứ quanh quẩn tìm nàng, vì cuốn sách “Ngũ độc bí truyền” lấy lại chậm ngày nào nguy hiểm ngày ấy, nên không dám buông lơi, trời vừa tảng sáng, đã lại cưỡi lừa đi tìm.

Dương Quá nói:

– Lý cô nương tìm chưa ra hai ta, sẽ còn trở lại. Chỉ tiếc rằng cô nương bị thương, tránh bị chấn động, chứ không thì hai ta ăn cắp hai con tuấn mã, phóng một mạch một ngày một đêm, thử hỏi Lý cô nương làm sao đuổi cho kịp kia chứ!

Lục Vô Song giận hỏi:

– Ngươi không bị thương, sao không đi ăn cắp ngựa mà phóng một mạch cho yên chuyện?

Dương Quá nghĩ thầm: “Cái cô nương này quả là hay giận dỗi, mình mới nói một câu vô ý, mà đã tức rồi,” song vì chàng thích nhìn lúc nàng nổi giận, bèn khích thêm:

– Nếu cô nương không cầu xin ta đưa xuống Giang Nam, thì ta đã đi lâu rồi. Lục Vô Song giận nói:

– Ngươi đi đi, đi ngay đi! Đồ ngốc, ta hễ thấy mặt ngươi là tức quá, thà ta chết một mình ở đây còn hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Ồ, để cô nương chết thì ta không nỡ.

Chàng sợ Lục Vô Song cả giận làm chấn động vết thương, bèn cười cười đi ra khỏi phòng, tới quầy hàng hỏi mượn nghiên mực, mang vào phòng, rót chút nước vào trong nghiên, rồi hai tay nhúng vào mực, đột nhiên bôi lên mặt Lục Vô Song. Lục Vô Song không đề phòng, vội đưa tay xoa mặt, mắng:

– Đồ ngốc thối tha, đồ ngốc chết tiệt.

Chỉ thấy Dương Quá bốc một nắm muội than dưới gầm giường lò lên, hòa vào nước, rồi bôi lên mặt mình, khiến khuôn mặt chàng trông lồi lồi lõm lõm, như mọc đầy mụn cơm. Nàng lập tức hiểu ra: “Mình tuy mặc áo đạo nhân, nhưng diện dung còn nguyên, gặp sư phụ tất bị nhận biết ngay,” bèn cũng bôi nước mực loãng lên mặt.

Hai người cải trang đã xong, Dương Quá mới lôi hai đạo sĩ trong gầm giường lò ra, giải huyệt cho họ, Lục Vô Song không nhìn họ, đá cho vài cái, hai đạo sĩ rên rỉ, nàng trong bụng thán phục: “Đồ ngốc võ công cao hơn ta gấp mười lần,” nhưng không để lộ ý thán phục, vẫn nhiếc chàng là “đồ ngốc,” tựa hồ không coi chàng ra gì.

Dương Quá ra chợ định thuê một cỗ xe lớn, nhưng thị trấn này quá nhỏ, không có xe cho thuê, chàng đành mua hai con ngựa còm. Hôm nay thương thế của Lục Vô Song đã đỡ, hai người mỗi người cưỡi một con ngựa, thong thả đi về hướng đông nam.

Đi hơn một canh giờ, Dương Quá sợ Lục Vô Song không trụ nổi, bèn đỡ nàng xuống ngựa, ngồi nghỉ trên một tảng đá bên đường. Chàng nhớ lại sáng sớm nay mình đã có

khinh bạc đối với Lục Vô Song, khinh bạc nàng ta thì cũng chẳng sao, nhưng như thế tức là không đúng đối với cô cô, quả thực là chàng đã phạm một điều đại kỵ ngu xuẩn, đang thầm tự trách mình, thì Lục Vô Song bỗng hỏi:

– Đồ ngốc, sao không nói gì với ta?

Dương Quá mỉm cười, không đáp, rồi chợt nhớ điều gì kêu lên: – Thôi chết, hỏng rồi, ta thật là hồ đồ!

Lục Vô Song nói:

– Thì ngươi vốn là kẻ hồ đồ mà! Dương Quá nói:

– Hai ta cải trang ngay trước mặt ba gã đạo sĩ kia, nếu họ kể với sư phụ của cô nương, thì có nguy hay không?

Lục Vô Song nhếch mép cười, nói:

– Ba tên đạo sĩ thối tha ấy đã cưỡi ngựa đi trước chúng ta, sư phụ còn ở mãi đằng sau chúng ta, ngươi hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn gì thế không biết.

Dương Quá kêu “ờ nhỉ,” nhìn nàng cười cười. Lục Vô Song cảm thấy nụ cười này hàm

sâu xa, nghĩ câu nàng vừa nói “hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn” thì bất giác đỏ mặt. Đúng lúc đó, một con ngựa bỗng hí lên một tiếng dài. Lục Vô Song ngoảnh đầu nhìn, thấy ở khúc đường quành phía trước có hai lão hành khất sánh vai nhau đi

tới.

Dương Quá thấy sau góc núi còn có hai bóng người thò đầu ra rồi thụt lại ngay, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư, thì chợt hiểu: “Ba gã đạo sĩ đã đi báo tin với Cái Bang, rằng hai ta cải trang đạo sĩ,” bèn chắp tay nói:

Hai vị khiếu hóa đại gia, các vị xin ăn xin tám phương, bần đạo hóa duyên hóa mười phương, hôm nay xin hai vị bố thí cho.

Một lão hành khất giọng vang như chuông, nói:

Hai ngươi dẫu có cạo trọc đầu, giả làm hòa thượng ni cô, cũng đừng hòng thoát khỏi tai mắt của bọn ta. Đừng có giả bộ ngốc nghếch, mau đi theo bọn ta tới gặp chấp pháp trưởng lão của bọn ta để làm rõ mọi chuyện.

Dương Quá nghĩ thầm: “Hai lão hóa tử này đeo tám cái túi, e rằng võ công rất cao cường.” Hai lão hóa tử chính là hai đệ tử tám túi của Cái Bang, thấy Dương, Lục hai người đều là thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi, vậy mà đánh bại bốn đệ tử bốn túi, ba đệ tử năm túi, thì đoán rằng bên trong hẳn có điều gì cổ quái.

Đôi bên còn đang quan sát nhau, thì ở phía bắc vang lên tiếng chuông vàng tinh tang dồn dập trong trẻo. Lục Vô Song nghĩ thầm: “Nguy rồi, nguy rồi, mình tuy cải trang, nhưng lúc này lại có hai lão hóa tử chết tiệt kia làm lộ hết, làm sao thoát nổi độc thủ của sư phụ? Ôi, vận hạn thật là xui xẻo, tai nạn dồn dập, ở đâu mà lắm kẻ ăn no nhàn rỗi, cứ tìm đến mình gây sự thế này không biết?”

Tiếng chuông đã tới gần thêm. Dương Quá nghĩ thầm: “Mụ Lý Mạc Sầu này, ta đánh không nổi, chỉ còn cách mau cướp đường mà chạy trốn thôi.” Bèn nói:

Hai vị đã không chịu hóa duyên, cũng không sao, vậy xin hãy nhường đường cho. Nói đoạn bước đi. Hai lão hóa tử thấy chàng bước đi thế kia tựa hồ là kẻ không hề biết võ công, cùng giơ tay phải ra chộp. Dương Quá hữu chưởng phách ra, đụng vào hai chưởng của hai lão hóa tử, cả ba cùng tự thoái lui ba bước. Hai lão hóa tử tám túi luyện công mấy chục năm, nội lực đều rất thâm hậu, trên giang hồ đã ít gặp địch thủ, nếu luận về võ công cao thấp, thực là hơn hẳn Dương Quá, song luận về sự ảo diệu tinh kỳ của chiêu số, thì lại không bằng. Dương Quá mượn lực địch đánh địch, hóa giải chưởng lực của hai người, song muốn nhờ đó để vượt qua họ, thì lại chưa thể được. Cả ba người cùng thầm kinh ngạc.

Lúc này sư đồ Lý Mạc Sầu đã tới. Hồng Lăng Ba gọi:

Này, khiếu hóa nhi, tiểu đạo sĩ, có thấy một cô nương thọt chân đi qua đây hay không?

Hai lão hóa tử thuộc vai vế rất cao trong võ lâm, nghe Hồng Lăng Ba hỏi xách mé như vậy, trong bụng hơi bực, nhưng qui củ của Cái Bang rất nghiêm, không cho phép bang chúng tùy ý tranh chấp hơn thua với người ngoài, hai người thuận miệng đáp:

Không thấy!

Lý Mạc Sầu tinh mắt, nhìn sau lưng Dương, Lục hai người, trong bụng hơi nghi: “Hai

người này hình như mình đã gặp ở đâu thì phải,” lại thấy bốn người đang đứng đối diện với nhau, tư thế sắp động võ, thì nghĩ thầm hãy đứng ngoài xem sao.

Dương Quá liếc nhanh, thấy Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, khoanh tay đứng xem, chợt nảy một kế: “Có cách rồi, mình sẽ làm cho mụ ta hết nghi ngờ.” Chàng bèn tới trước mặt Hồng Lăng Ba, cúi chào.

Hồng Lăng Ba dùng nghi thức Đạo gia hoàn lễ. Dương Quá nói:

Bần đạo đi qua đây, không dưng vô cớ hai lão hành khất chặn đường, đòi động võ, bần đạo không mang theo binh khí, mong đạo hữu nể mặt Lão Quân, cho mượn thanh bảo kiếm.

Nói xong lại cúi mình thật thấp.

Hồng Lăng Ba thấy chàng mặt mày lồi lồi lõm lõm, vừa đen vừa xấu, nhưng thần thái khiêm cung, lại nhắc đến tổ sư của Đạo gia là Thái Thượng Lão Quân, thì không tiện cự tuyệt, rút trường kiếm, nhìn sư phụ, thấy sư phụ gật đầu, bèn chuyển thanh kiếm, chìa cán kiếm cho chàng. Dương Quá cúi mình cảm tạ, nhận thanh kiếm, chĩa mũi kiếm xuống đất, nói:

Bần đạo nếu không địch nổi, mong đạo hữu nghĩ đến phái Đạo gia, giúp cho một tay.

Hồng Lăng Ba cau mày, không đáp.

Dương Quá quay sang nói to với Lục Vô Song:

Sư đệ, sư đệ cứ đứng ngoài mà xem, khỏi cần động thủ, để ta cho hai lão hóa tử chút kiến thức về môn hạ phái Toàn Chân chúng ta.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Thì ra hai tiểu đạo sĩ là đệ tử phái Toàn Chân. Nhưng giáo phái Toàn Chân và Cái Bang vốn giao hảo với nhau kia mà, sao môn hạ đôi bên lại đánh nhau thế này?” Dương Quá sợ hai lão hóa tử lên tiếng nhiếc mắng, làm lộ bí mật của Lục Vô Song, liền vung kiếm, nói:

Nào nào lại đây, mình ta đấu với hai vị.

Lục Vô Song thầm lo: “Đồ ngốc không biết rằng sư phụ ta đã đánh nhau hơn chục trận lớn nhỏ với các đạo sĩ phái Toàn Chân, mọi chiêu thức võ công của phái Toàn Chân, sư phụ ta đều thừa biết. Thiên hạ thiếu gì giáo phái, nào Chính Ất, Thái Đạo, nào Thái Nhất, mạo xưng giáo phái nào chẳng được, lại đi mạo nhận là môn hạ phái Toàn Chân.”

Hai lão hóa tử nghe năm chữ “môn hạ phái Toàn Chân,” đều kinh ngạc, cùng quát:

– Có thật ngươi là môn hạ phái Toàn Chân hay không? Ngươi và…

Dương Quá đâu để cho họ nhắc đến Lục Vô Song, trường kiếm đã đâm luôn vào ngực người này, vào bụng dưới người kia, chính là kiếm pháp đích truyền của phái Toàn Chân. Hai lão hóa tử vai vế rất cao, không hề muốn hợp lực đấu với một kẻ hậu bối, nhưng chiêu kiếm của Dương Quá đâm tới quá nhanh, hai lão hóa tử đành phải cùng lúc giơ thiết bổng chống đỡ. Thiết bổng vừa giơ lên, trường kiếm của Dương Quá đã

xuyên qua khe hở giữa hai cây thiết bổng, đâm nhanh tới ngực hai lão.

Hai lão hóa tử không ngờ kiếm pháp của chàng thần tốc như thế, vội vã nhảy lùi. Dương Quá không chút dung tình, lập tức xông tới; trong giây lát đã đâm liền hai lần chín mười tám kiếm, mỗi kiếm đều là một đánh hai, khi xuất chỉ có một chiêu, nhưng cổ tay hơi xoay, kiếm chiêu đánh ra hai nơi. Đây là kiếm thuật “Nhất khí hóa tam thanh” trong võ công thượng thừa của phái Toàn Chân, mỗi chiêu đều có thể hóa thành ba chiêu. Mỗi kiếm Dương Quá đâm ra, hai lão hóa tử lùi ba bước; mười tám kiếm đâm ra, hai lão hóa tử không kịp đánh trả một chiêu nào, tổng cộng phải lùi năm mươi tư bước. Võ công “Ngọc nữ tâm kinh” chuyên dùng để khắc chế phái Toàn Chân, Dương Quá khi chưa luyện “Ngọc nữ tâm kinh,” đã luyện võ công phái Toàn Chân, có điều là luyện chưa đến mức thuần thục, nên “Nhất khí chưa hóa thành tam thanh,” nhưng xem ra cũng hơi giống.

Lý Mạc Sầu thấy kiếm pháp tinh kỳ của tiểu đạo sĩ không khỏi thầm kinh ngạc: “Hèn chi phái Toàn Chân nổi danh thiên hạ, quả nhiên lắm nhân tài, người này mười năm nữa, ta làm sao còn địch nổi? Hẳn rằng chức vị chưởng giáo giáo phái Toàn Chân sau này sẽ thuộc về gã tiểu đạo sĩ kia.” Nếu Lý Mạc Sầu động thủ với Dương Quá, chỉ sau vài chiêu sẽ biết kiếm pháp phái Toàn Chân mà chàng sử dụng chỉ là gần giống mà thôi, kỳ thực là công phu phái Cổ Mộ, nhưng nhìn bề ngoài thì khó phân biệt thật giả. Dương Quá từ khi được Triệu Chí Kính truyền thụ ca quyết của võ công phái Toàn Chân, cũng đã luyện tập, nên chàng bảo đó là võ công phái Toàn Chân thì cũng không phải là mạo xưng. Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song dĩ nhiên hết sức thán phục.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nếu ta xuất thủ chậm lại một chút, để cho hai lão hóa tử kia mở miệng nói năng, thì lành ít dữ nhiều,” thế là trường kiếm đâm chếch, người vọt ra sau lưng hai lão hóa tử, một kiếm lại hóa thành hai chiêu mà đâm. Hai lão hóa tử vội quay người lại chống đỡ; Dương Quá không để cho thiết bổng của hai lão hóa tử đụng tới kiếm của mình, chàng lại luồn ra sau lưng họ, họ vội xoay mình, thì Dương Quá lại luồn ra sau lưng họ. Dương Quá tự biết, nếu dựa vào võ công đích thực, đừng nói một địch hai, mà chỉ với một lão hóa tử chàng cũng không địch nổi, nên dùng cách thi triển khinh công, luồn ra sau lưng họ như vậy.

Mỗi đệ tử phái Toàn Chân luyện võ công đến hỏa hầu thích đáng, thì phải luyện khinh công để còn sử dụng khi tham gia “Thiên CangBắc Đẩu trận.” Dương Quá lúc này bộ pháptuy là võ công phái Toàn Chân, nhưng vận khí hô hấp thì lại theo tâm pháp “Ngọc nữ tâm kinh.” Khinh công của phái Cổ Mộ đứng đầu thiên hạ, chàng mà chạy, thì hai cao thủ Cái Bang không thể theo kịp; hai lão hóa tử chỉ thấy chàng vùn vụt như tia chớp, bạch quang loang loáng, kiếm đâm lia lịa. Nếu chàng định lấy mạng hai người, thì đã giết hàng chục lần rồi. Hai lão hóa tử cứ vội vã xoay mình, dùng thiết bổng bảo vệ chỗ yếu hại, xem ra đã không thể chống đỡ nổi, chỉ cố sức giữ, mong ông trời phù hộ mà thôi.

Cứ thế xoay tròn mấy chục vòng, hai lão hóa tử đã mệt đến hoa cả mắt, cước bộ loạng choạng, sắp ngã đến nơi. Lý Mạc Sầu cười, nói:

Ồ, bằng hữu Cái Bang, ta dạy cho một cách nhé, hai vị đứng tựa lưng vào nhau thì khỏi phải xoay.

Lời mách nước ấy, hai lão hóa tử nghe được thì cả mừng, đang định làm theo. Dương Quá nghĩ thầm: “Không được, để họ làm thế, mình thua mất,” bèn không di chuyển vị trí nữa, một chiêu hai thức đâm tới sau lưng hai lão hóa tử. Hai lão hóa tử nghe tiếng gió quạt gấp sau lưng, không kịp dùng thiết bổng chống đỡ, đành bước vội về phía trước một bước, chân vừa chạm đất, kiếm lại đâm tới sau lưng, sợ quá đành bỏ chạy. Nào ngờ mũi kiếm của Dương Quá cứ bám theo như hình với bóng, bất kể hai lão hóa tử chạy nhanh mức nào, mũi kiếm của Dương Quá vẫn rung rung sát sau lưng, họ chỉ cần chạy chậm lại một chút, mũi kiếm đã chọc vào da thịt đau nhói. Hai lão hóa tử biết Dương Quá không có ý sát hại, nếu không chàng chỉ ấn mạnh một cái, lập tức kiếm sẽ đâm xuyên ngay ra trước ngực. Biết vậy song hai lão hóa tử vẫn không dám dừng lại. Ba người dốc sức chạy như điên, thoáng chốc đã chạy hơn hai dặm, cách xa hẳn chỗ Lý Mạc Sầu đang đứng.

Dương Quá đột nhiên vọt lên chặn trước hai lão hóa tử, cười hi hi, nói:

Đi chậm thôi, kẻo ngã!i

Hai lão hóa tử không hẹn mà cùng đâm thiết bổng tới. Dương Quá giơ tay trái chộp luôn được một cây thiết bổng, đồng thời trường kiếm trong tay phải dùng sống kiếm gạt cây thiết bổng thứ hai sang bên trái, thế là tay trái chộp luôn cả hai cây thiết bổng. Hai lão hóa tử vội vận kình giằng lại. Dương Quá công lực không bằng đối phương, dại gì giằng co với họ. Chàng dùng kiếm mà chặt một cái như người xước mía. Hai lão hóa tử nếu không buông thiết bổng ra, thì tám ngón tay của họ sẽ bị chém đứt tức thì, thế là họ đành buông tay, nhảy lùi lại, vẻ mặt ngượng ngùng. Đấu tiếp chắc không được, mà bỏ chạy thì chẳng còn gì thể diện. Dương Quá nói:

Tệ giáo với quí bang lâu nay vốn giao hảo, hai vị chớ nên nghe lời xúi giục của người ngoài. Oán có đầu, nợ có chủ, Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu hiển nhiên ở kia, sao hai vị chẳng đi tìm mụ ta?

Hai lão hóa tử hoàn toàn không biết mặt Lý Mạc Sầu, chỉ nghe đồn nàng ta lợi hại, nghe Dương Quá nói vậy thì kinh ngạc hỏi:

Thật vậy ư?

Bần đạo nói dối làm gì? Bần đạo chẳng qua bị nữ ma đầu dồn vào đường cùng, mới phải động thủ với hai vị đó thôi.
Nói rồi hai tay nâng hai cây thiết bổng cung kính trả lại cho hai lão hóa tử, lại nói:

Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu có mang theo bên mình một vật lừng danh thiên hạ,

hai vị lẽ nào không biết?

Một lão hóa tử chợt nhớ, nói:

Phải rồi, nàng ta cầm cây phất trần, con lừa hoa có đeo chiếc chuông vàng, là nữ nhân mặc áo vàng phải không?

Dương Quá đáp:

Đúng đấy, đúng đấy; còn cô nương dùng loan đao đả thương đệ tử của quí bang, chính là đệ tử của Lý Mạc Sầu…

Chàng ngẫm nghĩ, rồi nói:

Chỉ e… không được… không được…

Chỉ e cái gì? Dương Quá nói:

Không được… không được. Lão hóa tử đó hỏi:

Cái gì không được?

Lý Mạc Sầu hoành hành thiên hạ, các nhân vật giang hồ ai nghe thấy cũng đều khiếp đảm, quí bang tuy lợi hại, nhưng chưa có ai địch nổi Lý Mạc Sầu. Nữ đệ tử của mụ ta đã đả thương đệ tử của quí bang thì cũng nên bỏ qua đi cho xong chuyện.

Lão hóa tử nóng tính bị chàng nói khích, thì giậm cây thiết bổng, nói:

Hừ, dẫu mụ ta là Xích Luyện tiên tử hay Hắc Luyện Tiên Tử, thì hôm nay cũng phải đấu với mụ ta một trận!

Nói rồi định chạy ngay về chỗ cũ. Lão hóa tử thứ hai tính thận trọng, nghĩ thầm hai người vừa rồi còn chưa đối phó nổi với một gã tiểu tử nhãi ranh, huống hồ là Xích Luyện tiên tử, chỉ có mang thân đến nộp mạng, bèn kéo lão kia, nói:

Cũng chưa có gì phải gấp, chúng ta phải về bàn tính kỹ đã.

Đoạn ôm quyền, nói với Dương Quá:

Thỉnh giáo quý tính đại danh của đạo hữu? Dương Quá cười, nói:

Bần đạo họ Tát, tên Hoa Từ. Hẹn ngày tái ngộ. Đoạn cúi chào, quay mình chạy đi.

Hai lão hóa tử lẩm bẩm “Tát Hoa Từ, Tát Hoa Từ? Chưa nghe cái tên này bao giờ, hắn còn nhỏ tuổi, mà võ công đã cao siêu đến thế…” Một lão hóa tử bỗng nhảy dựng lên, chửi:

Mẹ kiếp, tên chó má!

Lão thứ hai hỏi:

– Sao vậy?

Lão thứ nhất nói:

Hắn bảo tên là Tát Hoa Từ, nghĩa là sát hóa tử,(9.1) để cho tên tiểu tặc chửi mình mà mình không biết.

Hai lão hóa tử chửi bới một hồi cho bõ tức, nhưng không dám đi tìm chàng tính sổ. Dương Quá cười thầm, sợ Lục Vô Song có chuyện gì vội chạy trở lại chỗ cũ, thấy Lục Vô Song vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhìn ra xa xa, chắc là sốt ruột dị thường. Vừa thấy Dương Quá, nàng vội giục ngựa lại đón, thấp giọng hỏi:

Đồ ngốc, tưởng là ngươi chuồn rồi.

Dương Quá cười cười, hai tay giơ ngang kiếm, chìa cán kiếm về phía Hồng Lăng Ba, cúi mình hành lễ, nói:

– Đa tạ đã cho mượn kiếm.

Hồng Lăng Ba đưa tay đón lấy. Dương Quá định quay người đi, thì Lý Mạc Sầu bỗng nói:

– Hãy khoan.

Lý Mạc Sầu thấy tiểu đạo sĩ võ công cao cường, nghĩ thầm để kẻ này sống, ắt sau này có họa, chi bằng nhân lúc võ công hắn còn chưa bằng mình, đem giết quách hắn đi. Dương Quá nghe hai tiếng “hãy khoan,” biết là có chuyện. Lý Mạc Sầu vốn muốn khích chàng động thủ, rồi dùng cây phất trần đánh chết chàng, nhưng hiện giờ tay chàng không có binh khí, mình địa vị cao thế này, chẳng thể dùng vũ khí đả thương chàng, bèn hất cây phất trần về phía sau một cái, hỏi:

Ngươi là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử? Dương Quá cười đáp:.

Ta là đệ tử của Vương Trùng Dương.

Đối với các đạo sĩ phái Toàn Chân, chàng đều không ưa, cũng chẳng kính nể gì. Khưu Xứ Cơ tuy đối với chàng không tệ, nhưng thời gian hai người ở bên nhau quá ngắn, trước khi đi Khưu Xứ Cơ lại giáo huấn cho chàng một trận nên thân, chàng biết Khưu Xứ Cơ không có ác ý, nên cũng chẳng giận; còn những người như Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính, thì mỗi khi nghĩ đến lại nghiến răng căm tức. Chàng đã học yếu quyết “Cửu Âm chân kinh” mà Vương Trùng Dương tự tay khắc trong tòa nhà mồ, nếu gọi chàng là đệ tử của Vương Trùng Dương, kể cũng phải. Nhưng xét về lứa tuổi, chàng chỉ đáng là đệ tử của Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình. Lý Mạc Sầu thấy chàng võ công cũng khá, mới hỏi chàng là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử, tức là đã đề cao chàng quá lắm rồi. Giả dụ Dương Quá thuận miệng nói đại tên của Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, thì Lý Mạc Sầu chắc cũng tin. Đằng này chàng lại không chịu hạ mình đứng cùng hàng với Hách Đại Thông là kẻ đã giết chết Tôn bà bà, mà vỗ ngực xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương. Trùng Dương Chân Nhân là tổ sư sáng lập giáo phái Toàn Chân, bình sinh chỉ thu nhận có bảy đệ tử, điều này trong võ lâm ai nấy đều biết; ngày gã tiểu đạo sĩ này chào đời, Vương Trùng Dương đã từ trần lâu rồi. Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này không biết trời cao đất dày, cũng không biết

ta là ai, trước mặt ta dám cả gan giở trò ma,” lại nghĩ bụng: “Các đạo sĩ phái Toàn Chân làm gì dám đem tổ sư gia ra đùa bỡn? Lại còn nói trống không ba chữ ‘Vương Trùng Dương’ nữa chứ? Nhưng nếu hắn không phải là đệ tử phái Toàn Chân, thì tại sao chiêu thức võ công lại rõ ràng là của phái Toàn Chân?”

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu miệng tuy cười mỉm, nhưng lông mày hơi cau, đang ngẫm nghĩ, chàng nhớ lần chàng đóng giả kẻ kiếm củi đánh lừa Hồng Lăng Ba một trận, trong nhà mồ đã từng giao đấu với sư đồ nàng ta, không thể để họ nhận ra mình qua giọng nói, cử chỉ, việc không thể chậm trễ, chuồn đi là thượng sách, bèn giơ tay hành lễ, rồi nhảy phắt lên ngựa, định phóng đi.

Lý Mạc Sầu vọt ngay tới trước đầu ngựa của chàng, nói:

Xuống đi, ta có điều cần hỏi ngươi. Dương Quá nói:

Bần đạo biết ngươi muốn hỏi gì rồi. Ngươi muốn hỏi bần đạo có nhìn thấy một cô nương xinh đẹp, chân trái hơi bị thọt, có biết quyển sách gì đó nàng ta mang theo ở đâu chứ gì?

Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc, nhưng làm ra vẻ thản nhiên nói:

Đúng, ngươi thông minh lắm. Thế quyển sách ấy đâu rồi?

Ban nãy bần đạo và sư đệ kia ngồi nghỉ ở bên đường, thấy cô nương ấy động thủ với ba gã hóa tử. Một gã hóa tử chém cô nương ấy một đao, lại thêm hai gã hóa tử nữa đến, cô nương ấy không địch nổi, cuối cùng bị họ bắt đi…

Lý Mạc Sầu luôn bình tĩnh, gặp việc to bằng trời cũng không lộ ra mặt, nhưng nghĩ đến việc Lục Vô Song bị Cái Bang bắt đi, quyển “Ngũ độc bí truyền” ắt rơi vào tay bọn họ, thì không khỏi tỏ ra nóng ruột.

Dương Quá thấy mình bịa chuyện kiến hiệu, càng tán rộng thêm:

Một gã hóa tử lôi từ trong túi cô nương ra một quyển sách gì đó, cô nương không chịu giao, gã hóa tử nọ bèn tát cho một cái thật mạnh.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, nghĩ thầm: “Đồ ngốc, ngươi nói nhăng nói cuội chê ta, cứ chờ đó, rồi ta sẽ cho ngươi một trận.” Dương Quá thừa biết Lục Vô Song đang nghĩ gì, bèn hỏi:

Này sư đệ, sư đệ bảo như thế thì có tức hay không cơ chứ? Cô nương ấy bị ba gã hóa tử tay đấm chân đá một phen tơi bời, tội nghiệp quá phải không?

Lục Vô Song cúi đầu, chỉ ậm ừ.

Vừa nói đến đây, phía góc núi vọng lại tiếng vó ngựa, rồi một đội binh mã nghi trượng hùng dũng kéo qua, thì ra là bọn quan binh Mông Cổ. Thời bấy giờ nước Kim đã bị diệt, từ Hoài Hà trở lên phía bắc hoàn toàn thuộc quyền cai quản của Mông Cổ. Lý Mạc Sầu không coi bọn quan binh Mông Cổ ra gì, nhưng lúc này đang cần tra xét hành tung của Lục Vô Song, nên không muốn lắm sự rắc rối, bèn tránh sang vệ

đường, chỉ thấy vó ngựa rầm rập tung bụi, hơn trăm binh sĩ Mông Cổ hộ vệ một quan viên phóng qua. Quan viên Mông Cổ mình mặc cẩm bào, lưng đeo cung tiễn, tư thế cưỡi ngựa thành thục, nhìn không rõ mặt, chỉ biết là thần thái rất oai vệ.

Lý Mạc Sầu chờ binh mã đi qua, dùng cây phất trần phủi bụi do ngựa chạy tung lên bám vào người. Cứ mỗi lần cây phất trần vung, Lục Vô Song lại giật mình một cái, sợ rằng cây phất trần ấy mà quất vào đầu mình một cái, thì vỡ đầu nát óc tức thời. Lý Mạc Sầu phủi bụi xong, lại hỏi:

Sau đó thế nào? Dương Quá nói:

Ba gã hóa tử bắt cô nương đi về phía bắc, bần đạo giữa đường thấy cảnh bất bình, ra tay ngăn cản, thế nên hai gã hóa tử mới ở lại đánh nhau với bần đạo.

Lý Mạc Sầu gật gật đầu, mỉm cười, nói:

Đa tạ đạo hữu. Ta họ Lý, tên Mạc Sầu; trên giang hồ người ta gọi ta là Xích Luyện tiên tử. Cũng có kẻ gọi ta là Xích Luyện ma đầu. Đạo hữu đã nghe tên ta bao giờ chưa?

Dương Quá lắc đầu, nói:

Bần đạo chưa nghe bao giờ. Này cô nương, cô nương xinh đẹp như tiên giáng trần thế này, tại sao lại bảo là ma đầu kia chứ?

Lý Mạc Sầu đã ba mươi tuổi, nhưng nội công thâm hậu, da dẻ nõn nà, mặt không có một nếp nhăn, nhìn chỉ ngoài hai mươi một chú không t. Nàng ta cả đời tự phụ xinh đẹp, nghe Dương Quá ca tụng, dĩ nhiên cũng thích chí, nói:

Đạo hữu vừa nói đùa, tự xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương, đáng lẽ phải cho đạo hữu nếm mùi khổ ải rồi mới được chết. Nhưng ta thấy đạo hữu còn biết ăn nói, vậy phải dùng cây phất trần giáo huấn một chút thôi.

Dương Quá lắc đầu, nói:

Ấy chớ, ấy chớ, bần đạo không thể tự dưng vô cớ động thủ với hậu bối được.

Chết đến nơi còn pha trò. Làm sao mà ta lại có thể là hậu bối của đạo hữu? Dương Quá nói:
Sư phụ của bần đạo là Trùng Dương Chân Nhân, ngang vai với tổ sư bà bà của cô nương, chẳng phải bần đạo ở trên cô nương một bậc đó sao? Tiểu cô nương xinh xắn dễ thương như thế, lão phu ta đây không nỡ bắt nạt cô nương.

Lý Mạc Sầu cười nhạt, bảo Hồng Lăng Ba:

Hãy lại đưa kiếm cho hắn mượn.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Không được, không được, bần đạo…

Chàng chưa nói xong, Hồng Lăng Ba đã rút kiếm khỏi bao, nhưng lạ chưa, trong tay nàng chỉ có cán kiếm, còn lưỡi kiếm thì nằm lại trong bao. Nàng kinh ngạc, chợt hiểu,

thì ra khi trả kiếm, Dương Quá đã nhân lúc hơi dùng dằng mà ngầm dùng lực bẻ gãy kiếm. Lý Mạc Sầu mặt biến sắc. Dương Quá nói:

Bần đạo vốn không muốn động thủ với các cô nương hậu bối vừa trẻ trung vừa xinh xắn; nhưng cô nương đã nhất quyết đòi quá chiêu với bần đạo, thì thế này vậy, bần đạo sẽ tay không tiếp ba chiêu phất trần của cô nương. Đôi bên nói rõ trước, như vậy chỉ ba chiêu thôi. Nếu cô nương địch nổi, thì bần đạo sẽ tha cho cô nương đi. Nhưng sau ba chiêu, cô nương nhất định không được bám theo bần đạo nghe chưa?

Dương Quá biết tình thế này không động thủ không xong, nhưng nếu tỷ thí thật sự, dĩ nhiên chàng hoàn toàn không phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu, bèn giả bộ mình là bậc tiền bối, dùng lời lẽ nói khích nàng ta, để nàng ta đáp ứng chỉ đấu ba chiêu, không thể phát chiêu thứ tư; mình đã không địch nổi nàng ta, thì dù có dùng binh khí hay không cũng vậy, cốt sao nàng đừng giở hết chiêu số vô cùng lợi hại của cây phất trần.

Lý Mạc Sầu không hiểu dụng ý của chàng, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử như ngươi mà tiếp nổi ba chiêu của ta ư?” bèn nói:

Được, lão tiền bối, hậu bối xin lĩnh giáo.

Dương Quá nói:

– Không dám…

Đột nhiên chỉ thấy màu vàng chao động, đằng trước đằng sau đều là hình bóng cây phất trần. Đây là chiêu “Vô khổng bất nhật” của Lý Mạc Sầu, nhắm đánh toàn thân đối phương, tuy chỉ một chiêu, nhưng lại bao hàm mấy chục chiêu, cùng lúc điểm tất cả các đại huyệt trên thân thể chàng. Ban nãy nàng thấy Dương Quá giao thủ với hai lão hóa tử, kiếm pháp tinh diệu, chẳng phải tầm thường, muốn trong ba chiêu đả thương chàng, cũng không dễ gì, thế là nàng bèn sử luôn chiêu “Tam vô tam bất thủ” bình sinh đắc ý nhất.

Chiêu số này là do nàng sáng tạo, ngay Tiểu Long Nữ cũng chưa được biết, Dương Quá nhìn thấy thì giật mình. Đây là chiêu quả thực không thể chống đỡ; tránh sang bên trái, thì huyệt đạo bên phải sẽ bị điểm; tránh đằng trước, thì huyệt đạo đằng sau sẽ bị thương; chỉ có cao thủ trên tài Lý Mạc Sầu, mới có thể dùng chiêu nguy hiểm đánh chính diện, buộc Lý Mạc Sầu phải thu cây phất trần về tự cứu. Dương Quá dĩ nhiên không có cái tài đó, trong lúc nguy cấp bỗng lộn người một cái trồng cây chuối, vận công phu mà Âu Dương Phong truyền thụ, kinh mạch nghịch hành, phong bế hết thảy huyệt đạo toàn thân, chỉ cảm thấy vô số huyệt đạo cùng lúc hơi tê tê, hoàn toàn vô sự. Thân hình chàng chuyển gấp, cước bộ tức thời tung đòn đá ra.

Lý Mạc Sầu mắt thấy rõ ràng đã điểm trúng nhiều huyệt đạo của Dương Quá, vậy mà chàng vẫn còn khả năng trả đòn, thì hết sức lấy làm lạ, liền sử chiêu “Vô sở bất chí.” Chiêu này chỉ điểm các huyệt đạo thiên môn toàn thân. Dương Quá đầu chống đất, tay trái đánh vào huyệt Ủy Trung ở bên trong gối phải của nàng. Lý Mạc Sầu càng kinh ngạc, vội né tránh, lập tức sử chiêu “Vô sở bất vi.” Chiêu này không điểm huyệt nữa,

mà chuyên dùng để đánh vào các chỗ mềm trên cơ thể người, như con mắt, cổ họng, bụng dưới, hạ âm; cực kỳ hiểm độc. Nhưng khi nàng luyện tập độc chiêu này, nàng đâu nghĩ rằng trên thế gian có kẻ lúc động võ lại lộn ngược, đầu dưới đất, chân trên trời. Lúc này gấp gáp xuất chiêu, cứ như đã luyện thành thạo mà đánh ra, thành thử đánh con mắt hóa thành đánh bắp chân, đánh cổ họng hóa thành đánh cẳng chân, đánh bụng dưới trở thành đánh trúng đùi, đánh hạ âm trở thành đánh ngực, định đánh chỗ mềm, hóa thành đánh vào chỗ cứng, đòn này chẳng đem lại chút công hiệu gì.

Lý Mạc Sầu quá sửng sốt, trong đời nàng đã đánh không ít trận lớn trận nhỏ, từng giao đấu với những người võ công cao hơn nàng, có điều là lúc lâm trận nàng đều tiên liệu chu toàn, hoặc công hoặc thủ, hoặc đánh hoặc tránh, đã có dự tính từ trước; không ngờ một gã tiểu đạo sĩ lại có võ công ngoài sức tưởng tượng thế này; nàng ngẩn ra, thì Dương Quá đột nhiên há miệng, cắn đuôi cây phất trần của nàng, bật người đứng thẳng dậy. Lý Mạc Sầu thấy tay chấn động, cây phất trần đã bị đối phương đoạt mất.

Tại cuộc luận kiếm lần thứ hai trên đỉnh Hoa Sơn, Âu Dương Phong nghịch vận kinh mạch, cắn trúng ngón tay của Hoàng Dược Sư, suýt nữa lấy mạng Hoàng Dược Sư. Trong lúc nghịch vận kinh mạch, môi miệng vận khí, một há một mím, tự nhiên nảy sinh ý định cắn người. Lực của mọi bộ vị trên cơ thể người, không chđỗ nào lợih ại bằng răng, người ta có thể dùng răng cắn vỡ hạt hồ đào, trong khi lực tay của một đại lực sĩ cũng không thể bóp vỡ nổi cái vỏ cứng của hạt hồ đào. Bởi vậy, nội lực của Dương Quá tuy thua xa Lý Mạc Sầu, song chàng dùng răng cắn đã đoạt được cây phất trần là thứ binh khí mà nàng ta dùng để dương uy hơn mười năm nay.

Biến cố bất ngờ này khiến Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song cùng sửng sốt kêu lên; Lý Mạc Sầu tuy kinh ngạc, nhưng không chút hoảng sợ, song chưởng vỗ nhẹ, thi triển Xích Luyện thần chưởng, đánh ra để đoạt lại cây phất trần. Một chưởng sắp tung ra, thì đột nhiên kêu lên:

– Ồ, thì ra là ngươi, sư phụ của ngươi đâu rồi?

Nguyên bùn đất bôi vẽ trên mặt Dương Quá sau hai phen lộn người gấp rút đã bị bong

ra, rơi xuống, để lộ một nửa bản lai diện mục của chàng; đồng thời Hồng Lăng Ba

cũng đã nhận ra Lục Vô Song, thốt lên:

– Sư phụ, là sư muội đây này.

Từ đầu Lục Vô Song không dám nhìn thẳng vào mặt Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba; bây giờ Dương Quá và Lý Mạc Sầu giao đấu ác liệt với nhau, Lục Vô Song cứ chăm chú quan sát, quên mất Hồng Lăng Ba theo dõi mình.

Dương Quá nhún chân một cái, phi thân lên con lừa hoa của Lý Mạc Sầu, đồng thời búng tay trái, một chiếc Ngọc phong châm bắn vào đầu con lừa mà Hồng Lăng Ba đang cưỡi.

Lý Mạc Sầu cả giận phi thân về phía Dương Quá. Dương Quá nhảy khỏi yên, đảo cán

cây phất trần, bộp một tiếng, đập vỡ đầu con lừa hoa, miệng gọi to:

– Tức phụ nhi, mau theo phu quân đi thôi.

Thân hình chàng đáp xuống lưng ngựa, cây phất trần đập túi bụi về đằng sau. Lục Vô Song lập tức phóng ngựa đi. Lý Mạc Sầu nếu thi triển khinh công, thì chạy một, hai dặm cũng có thể đuổi kịp bốn vó ngựa; nhưng vừa rồi còn hoảng bởi quái chiêu của Dương Quá, nên không dám sấn tới quá gần, chỉ thi triển tiểu cầm nã thủ đoạt lại cây phất trần mà thôi.

Con lừa Hồng Lăng Ba cưỡi bị trúng Ngọc phong châm, bỗng dưng phát cuồng, húc mạnh về phía Lý Mạc Sầu, há mồm mà đớp. Lý Mạc Sầu quát:

Lăng Ba, ngươi làm sao thế? Hồng Lăng Ba nói:

Con lừa này điên rồi.

Nàng gò cương, khiến mồm nó bật máu; đột nhiên nó khuỵu xuống chết luôn; Hồng Lăng Ba nhảy ra, nói:

– Sư phụ, chúng ta đuổi theo!

Nhưng lúc này Dương, Lục hai người đã phóng ngựa đi xa nửa dặm, không tài gì đuổi kịp.

Lục Vô Song theo Dương Quá phóng ngựa đi một hồi, ngoảnh lại không thấy sư phụ đuổi theo, thì gọi:

– Đồ ngốc, ta bị đau ngực quá, hết chịu nổi rồi.

Dương Quá xuống ngựa, áp tai xuống đất nghe, hoàn toàn không thấy có tiếng chân đuổi theo, nói:

Không sợ nữa, thong thả đi được rồi. Thế là hai người sóng vai nhau mà đi. Lục Vô Song thở dài, nói:

Đồ ngốc, làm cách nào mà ngay cả cây phất trần của sư phụ ta, ngươi cũng đoạt được thế?

Dương Quá nói:

Ta làm loạn lên một hồi, nàng ta thích chí, đem cây phất trần tặng luôn cho ta. Lão phu không tiện sử dụng tặng vật của tiểu cô nương ấy, nên trả lại cho nàng ta rồi.

Lục Vô Song nói:

Hừ, tại sao nàng ta thích chí? Tại vì nhìn thấy khuôn mặt tuấn tú của ngươi chăng? Nói câu này, mặt nàng bất giác ửng hồng. Dương Quá cười, nói:

Nàng ta thấy ta ngốc nghếch nên thích chí, chắc thế.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, thích cái nỗi gì mà thích!

Hai người đi thong thả một quãng, sợ Lý Mạc Sầu đuổi theo, lại giục ngựa phóng nhanh. Cứ đi lúc nhanh lúc chậm như thế đến lúc hoàng hôn. Dương Quá nói:

Tức phụ nhi, nàng muốn giữ được mạng sống, thì đành chịu đau vết thương ở ngực, cố đi thêm một đêm nữa.
Lục Vô Song nói:

Ngươi còn nói năng lung tung, thì cứ chờ đấy, xem ta dám làm gì hay không.

Dương Quá lè lưỡi, nói:

– Chỉ tiếc là ngựa mệt rồi, bắt nó chạy đêm nữa thì nó chết mất.

Lúc này trời sắp tối, bỗng nghe phía trước có nhiều tiếng ngựa hí, Dương Quá mừng nói:

– Chúng ta thay ngựa thôi.

Hai người giục ngựa, chạy hơn một dặm, thì thấy ngoài rìa làng buộc hơn trăm con ngựa, nguyên là đội kỵ binh Mông Cổ họ gặp sáng nay. Dương Quá nói: – Cô nương hãy đợi ta ở đây, ta vào trong làng xem sao.

Rồi chàng xuống ngựa, đi vào trong làng. Chỉ thấy các cửa sổ của một tòa nhà lớn đều sáng ánh đèn. Dương Quá vọt tới bên một cửa sổ, nhìn vào trong, thấy một quan viên Mông Cổ ngồi xoay lưng ra phía cửa sổ. Dương Quá chợt nảy ra một kế: “Thay ngựa chẳng bằng đổi người.” Đợi một chút, thấy gã quan viên Mông Cổ đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, người này chưa đến ba mươi tuổi, chính là gã quan viên mặc cẩm bào đã gặp sáng nay trên đường, trông cử chỉ phong thái rất oai vệ, chắc là một chức quan không nhỏ. Dương Quá chờ lúc y quay lưng lại, liền nhẹ nhàng gỡ khung cửa sổ, nhảy vào trong. Gã quan viên nghe có tiếng gió sau lưng, cánh tay trái đưa ngang, xoay người lại, mười ngón tay như hai bộ vuốt chim ưng, chộp ngay tới, chính là chiêu số “Đại lực ưng trảo công” lợi hại. Dương Quá hơi chột dạ, không ngờ gã quan viên Mông Cổ lại biết võ công, chàng vội nghiêng mình né tránh. Gã quan viên chộp mấy lần liền, đều bị Dương Quá dễ dàng tránh được.

Gã quan viên thời nhỏ từng được danh sư truyền thụ “ưng trảo công,” tự phụ mình giỏi võ, nhưng sau vài chiêu giao thủ với Dương Quá, đã hoàn toàn bị trói chân trói tay. Dương Quá thấy mười ngón tay gớm ghiếc của y lại chộp tới, chàng bèn dướn người lên, tay trái ấn vai trái, tay phải ấn vai phải của y, dồn lực ra hai tay, quát: – Ngồi xuống!

Gã quan viên hai đầu gối mềm đi, ngồi phệt xuống, cảm thấy ngực tức, dường như máu cứ dồn lên, chỉ muốn phun ra miệng. Dương Quá đưa tay day day huyệt ở dưới vú hai cái, y mới thấy hết tức ngực, hít một hơi, từ từ đứng dậy, chăm chú nhìn Dương Quá một hồi, rồi hỏi:

– Ngươi là ai, tới đây làm gì?

Y nói tiếng Hán không chút ngọng nghịu.

Dương Quá cười cười, hỏi:

– Tên ngươi là gì? Giữ chức quan gì?

Gã quan viên trừng mắt nhìn chàng, lại định xông tới, Dương Quá chẳng thèm để ý,

bước lại ngồi xuống chiếc ghế mà y ngồi ban nãy. Gã quan viên lao đến, hai tay đấm mạnh, Dương Quá không tốn chút sức lực nào, dễ dàng hóa giải từng chiêu của y, nói:

Này, vai của ngươi bị thương rồi, chớ có dùng sức nữa. Gã quan viên giật mình, hỏi:

Bị thương gì chứ?

Y đưa tay trái sờ sờ vai bên phải, có một chỗ đau âm ỉ, vội đưa tay phải sờ sờ vai bên trái, cũng có một chỗ đau âm ỉ, hai chỗ ấy chỉ sờ đến mới đau, mà đau đến tận xương. Gã quan viên cả kinh, vội vạch áo, nhìn nghiêng, thấy vai bên trái có một nốt đỏ chỉ bằng cái lỗ kim, vai bên phải cũng thế. Y liền thịnh nộ, đối phương vừa rồi ấn tay lên vai y, chắc có giấu ám khí trong bàn tay, y không khỏi vừa sợ vừa giận, hỏi:

Ngươi sửdụng loại ám khí gì? Có độc hay không? Dương Quá mỉm cười, nói:

Ngươi đã học võ, mà chả hiểu qui củ gì hết thế ư? Ám khí lớn không có độc, ám khí nhỏ dĩ nhiên có độc.

Gã quan viên tin đến chín phần, song vẫn hi vọng là Dương Quá chỉ dọa thôi, thần sắc bán tín bán nghi.

Dương Quá mỉm cười, nói:

Vai ngươi trúng thần châm của ta, khí độc mỗi ngày ngấm sâu một tấc, khoảng sáu ngày sẽ ngấm vào tim, thì được chầu trời.

Gã quan viên rất muốn cầu xin giải dược, song không chịu mở miệng, tức giận nói:

Đã thế, lão gia sẽ liều chết với ngươi một phen.

Nói rồi xông tới. Dương Quá né tránh, mỗi tay cầm một cái Ngọc phong châm, chờ khi gã quan viên giơ hai tay chộp đến, chàng phóng châm vào hai lòng bàn tay y. Gã quan viên cảm thấy giữa lòng bàn tay đau nhói, liền dừng bước, giơ lòng bàn tay lên coi, thấy chiếc kim nhỏ xíu đâm giữa lòng bàn tay, cả hai bàn tay tê dại, thì cả kinh, không dám hùng hổ nữa, nói:

Coi như ta thua rồi! Dương Quá cười ha ha, hỏi:
Tên ngươi là gì?

Hạ quan Gia Luật Tấn, thỉnh vấn quý tính đại danh của anh hùng? Dương Quá nói:
Ta là Dương Quá. Ngươi làm quan gì ở Mông Cổ?

Gia Luật Tấn trả lời. Thì ra y là con trai của đại thừa tướng Mông Cổ Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Sở Tài phò trợ Thành Cát Tư Hãn và Oa Khoát Đài(9.2) bình định bốn phương, công huân siêu việt, cho nên Gia Luật Tấn tuổi chưa nhiều, đã được phong chức đại quan là Biện Lương kinh lược sứ, lần này đi Biện Lương Hà Nam nhậm chức. Dương Quá không hiểu Biện Lương kinh lược sứ là chức quan thế nào, chỉ gật đầu,

nói:

Hay lắm, hay lắm! Gia Luật Tấn nói:
Hạ quan không rõ đắc tội gì với Dương anh hùng, thật là hồ đồ vạn phần. Dương anh hùng cần gì, xin cứ phân phó.

Dương Quá cười cười, nói:

Cũng chả đắc tội gì.

Chàng đột nhiên đứng dậy, nhảy qua cửa sổ mà đi. Gia Luật Tấn cả sợ, vội gọi:

– Dương anh hùng…

Y chạy ra bên cửa sổ, thì Dương Quá đã mất hút. Y kinh nghi bất định: “Người ấy chợt đến chợt đi, ta bị trúng độc châm của hắn, phải làm thế nào bây giờ?” Vội rút cây kim nhỏ ra khỏi lòng bàn tay, vai và lòng bàn tay ngứa ngáy rất khó chịu.

Đang tâm phiền ý loạn, thì Dương Quá đã trở lại, lần này có thêm một thiếu nữ, chính là Lục Vô Song. Gia Luật Tấn nói:

A, Dương anh hùng đã trở lại! Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:
Đây là tức phụ nhi của ta, ngươi hãy khấu đầu trước nàng! Lục Vô Song quát:

Ngươi bảo sao?

Giơ tay tát chàng một cái. Dương Quá muốn tránh, nào có khó gì? Chẳng hiểu tại sao chàng lại thấy khoan khoái khi bị nàng đánh một chưởng, mắng nhiếc vài câu. Bốp một tiếng, bên má bị tát nóng rát lên. Gia Luật Tấn không biết hai người này thường ngày đùa giỡn kiểu gì, chỉ đoán võ công của Lục Vô Song cao hơn hẳn Dương Quá, y cứ ngẩn ngơ nhìn họ, không dám nói gì. Dương Quá xoa xoa bên má bị tát, cười nói với Gia Luật Tấn:

Ngươi bị trúng độc thần châm của ta, nhưng không chết ngay đâu mà sợ. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời ta, ta sẽ chữa khỏi cho ngươi.

Gia Luật Tấn nói:

Hạ quan bình sinh ngưỡng mộ nhất các bậc anh hùng hảo hán, chỉ tiếc chưa từng gặp được người có bản lĩnh thật sự. Hôm nay may mắn được quen biết cao hiền, thực thỏa ước vọng bình sinh. Dương anh hùng không cứu chữa cho hạ quan, hạ quan dù chết cũng cam lòng.

Câu này vừa đề cao mình, lại vừa ca tụng đối phương. Dương Quá chưa bao giờ giao thiệp với quan viên, không biết rằng học vấn lớn nhất của người làm quan là phải nịnh bợ thượng ty, càng tinh thông hoạn lộ bao nhiêu, thì sự a dua càng kín đáo bấy nhiêu. Quan viên Mông Cổ vốn thô thiển chất phác, nhưng sau khi xuống Trung Nguyên, cũng dần dần nhiễm tập khí của quan trường Trung Quốc. Dương Quá được Gia Luật Tấn nịnh vài câu đã sướng rơn, giơ ngón tay cái tán thưởng, nói:

Không ngờ ngươi lại là một hán tử rất có cốt khí. Nào lại đây, ta sẽ chữa trị cho ngươi.
Chàng liền dùng đá nam châm hút hai cái Ngọc phong châm ra khỏi vai Gia Luật Tấn, rồi xoa giải dược vào vai và hai lòng bàn tay y.

Lục Vô Song chưa từng nhìn thấy Ngọc phong châm, bây giờ thấy nó chỉ như sợi tóc, tưởng chừng bỏ xuống nước nó sẽ nổi lên, nghĩ thầm: “Một làn gió đủ thổi bay Ngọc phong châm không biết đi tận đâu, sao lại có thể dùng làm ám khí được kia chứ?” nàng trong bụng càng thêm thán phục Dương Quá, nhưng ngoài miệng lại nói:

Sử dụng thứ ám khí âm tổn này thì còn gì là khí phách nam nhi, không sợ người ta cười cho hay sao?

Dương Quá cười cười, không thèm chấp, nói với Gia Luật Tấn:

Hai ta muốn dựa hơi đại nhân, làm thị tòng cho đại nhân.

Dương anh hùng chỉ nói đùa, cần sai bảo gì, xin cứ phân phó. Dương Quá nói:
Ta không nói đùa đâu, quả thật bọn ta cần làm thị tòng cho đại nhân.

Gia Luật Tấn nghĩ thầm: “Chắc hai người này muốn làm quan, mong muốn tiến thân,” bèn lấy lại tư thế, ho một tiếng, nghiêm trang nói:

Phải, đã giỏi võ nghệ rồi, mua một chức quan lớn, thì sẽ chóng tiến thân. Dương Quá cười, nói:

Điều này thì đại nhân hiểu sai rồi. Hai ta có một kẻ thù cực kỳ lợi hại đang đuổi theo, hai ta địch không nổi hắn, nên muốn giả làm thị tòng cho đại nhân, để tạm thời tránh né hắn.

Gia Luật Tấn có vẻ thất vọng, vẻ nghiêm trang trở lại tự nhiên, cười nịnh:

Võ công cao siêu như hai vị, kẻ thù nào dám làm gì kia chứ. Nếu hắn đông người, hạ quan sẽ triệu tập binh mã, bắt chúng cho Dương anh hùng tùy ý xử trí.

Dương Quá nói:

Ngay đến ta còn đánh không nổi hắn, đại nhân đừng phí công. Mau sai thị tòng mang y phục ra cho hai ta thay.

Câu này chàng nói rất tự nhiên, nhưng giọng nói đầy vẻ uy nghiêm, Gia Luật Tấn luôn miệng vâng dạ, sai thị tòng mang y phục ra. Dương, Lục hai người sang phòng khác thay quần áo. Lục Vô Song soi gương, thấy trong đó một quân quan Mông Cổ trẻ trung, xinh đẹp, mặc áo gấm, mắt sáng, răng trắng, tự cảm thấy thú vị.

Sáng hôm sau dậy sớm, Dương Quá và Lục Vô Song mỗi người ngồi trong một chiếc kiệu do kiệu phu khiêng đi, Gia Luật Tấn vẫn cưỡi ngựa như hôm qua; đi đến giờ Ngọ, nghe có tiếng chuông vàng đeo cổ lừa vang vang, từ xa lại gần, rồi vượt qua đoàn người ngựa. Lục Vô Song cười vui, nghĩ thầm: “Ngồi trong kiệu dưỡng thương, quả nhiên không gì bằng. Đồ ngốc nghĩ ra cách này kể cũng có lý. Thế này là mình sẽ

được ngồi kiệu về đến Giang Nam.”

Cứ thế đi hai ngày, không còn nghe thấy tiếng chuông vàng, tức là Lý Mạc Sầu không quay lại tìm kiếm. Mấy gã đạo sĩ và đệ tử Cái Bang đuổi theo trả thù cũng mất tăm. Ngày thứ ba, đoàn người đến Long Câu trại, đây là yếu địa giao thông giữa hai vùng Tần – Biện, chợ búa sầm uất. Dùng bữa tối xong, Gia Luật Tấn sang phòng của Dương Quá thỉnh giáo võ học, không tiếc lời tán dương tài nghệ của chàng. Dương Quá cũng chỉ vẽ cho một vài điều; Gia Luật Tấn đang chăm chú lắng nghe, thì một thị tòng hớt hải chạy vào nói:

Khải bẩm đại nhân, lão đại nhân ở kinh có phái người mang thư đến. Gia Luật Tấn mừng, nói:

Được, ta sẽ sang gặp.

Y định đứng lên tạ tội với Dương Quá, nhưng lại nghĩ thầm: “Mình tiếp sứ giả mang thư đến trước mặt Dương Quá, để chứng tỏ mình coi Dương Quá như người thân tình, như thế Dương Quá sẽ dạy võ cho mình thật tận tình,” bèn bảo gã thị tòng:

Bảo người ấy sang đây gặp ta. Gã thị tòng vẻ mặt rất lạ, ấp úng:
Lão… lão đại nhân…

Không sao hết, ngươi cứ dẫn hắn sang đây. Gã thị tòng nói:
Là lão đại nhân thân chinh…

Gia Luật Tấn cau mày, gắt:

– Đầy tớ gì dám nhiều lời, xéo đi…

Lời chưa dứt, có một người vén rèm tươi cười bước vào nói:

– Tấn nhi, con không ngờ ta tới phải không?

Gia Luật Tấn vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội quì xuống, nói:

Cha, là lão nhân gia đến thật ư… Người kia cười, nói:

Phải, là ta thân chinh tới đây!

Người ấy chính là Gia Luật Sở Tài, đại thừa tướng Mông Cổ, phụ thân của Gia Luật Tấn. Bấy giờ, theo quan chế Mông Cổ, Gia Luật Sở Tài giữ chức Trung thư lệnh. Dương Quá nghe Gia Luật Tấn gọi người kia là phụ thân, chàng không biết vị đó là đại thừa tướng đầy quyền thế, uy danh hàng vạn dặm, ở dưới một người, ở trên muôn người; chàng nhìn người ấy, thấy người ấy cũng chưa già, tướng mạo thanh nhã, trong vẻ uy nghiêm có ba phần hiền hòa, bất giác trong lòng nảy sinh ý kính nể.

Người ấy vừa ngồi xuống ghế, ngoài cửa lại thêm hai người bước vào, hành lễ với Gia Luật Tấn, gọi Gia Luật Tấn là “đại ca.” Hai người kia một nam một nữ, nam chừng hai mươi ba, hai mươi tư tuổi; nữ thì trạc tuổi Dương Quá. Gia Luật Tấn mừng rỡ nói:

Nhị đệ, tam muội, cũng đến cả ư? Rồi quay sang nói với phụ thân:

Thưa phụ thân, phụ thân rời kinh, hài nhi không hề hay biết. Gia Luật Sở Tài nói:

Phải, có một việc lớn, nếu ta không thân chinh đến chủ trì, thì không thể yên lòng. Lão đại nhân nhìn Dương Quá và đám thị tòng một cái, ngụ ý bảo chúng lui ra.
Gia Luật Tấn cảm thấy khó xử, vốn định khoát tay đuổi đám thị tòng ra ngoài, song lại không dám đắc tội với Dương Quá, vẻ mặt không khỏi lộ vẻ do dự. Dương Quá hiểu tâm ý của y, mỉm cười, tự bước ra. Gia Luật Sở Tài thấy Dương Quá có cử chỉ khác lạ, lúc mình bước vào, đám thị tòng đều rạp mình cúi chào, chỉ một mình gã thiếu niên ấy đứng nguyên, lúc này đường hoàng bước ra, tự nhiên tự tại như bậc công hầu, thì bất giác động lòng, hỏi Gia Luật Tấn:

Người đó là ai vậy?

Gia Luật Tấn là một vị đại quan, nếu nói rõ lai lịch của Dương Quá trước mặt đệ, muội, thì mất hết thể diện, bèn thưa:

Đấy là một vị bằng hữu mà hài nhi làm quen dọc đường. Phụ thân thân chinh đi xuống phương nam, không biết là vì việc gì?

Gia Luật Sở Tài thở dài, sắc mặt lo lắng, thong thả nói rõ nguyên do.

Nguyên sau khi đại hãn Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn tạ thế, người con thứ ba là Oa Khoát Đài lên nối ngôi. Oa Khoát Đài làm đại hãn mười ba năm, thì qua đời; con trai là Quý Do lên nối ngôi. Quý Do hồ đồ, say sưa rượu ngon gái đẹp, làm đại hãn có ba năm đã đoản mệnh chết đi. Lúc này hoàng hậu của Quý Do buông mành nhiếp chính. Hoàng hậu tin dùng bọn tiểu nhân, loại bỏ các vị đại thần đại tướng tiền triều, triều chính vô cùng hỗn loạn. Tể tướng Gia Luật Sở Tài là vị nguyên lão ba triều, lại là khai quốc công thần, thấy việc làm sai trái của hoàng hậu, thường dùng lời lẽ chính trực can gián. Hoàng hậu thấy Gia Luật Sở Tài thường ngăn trở các chỉ dụ của mình, thì rất tức giận, nhưng vì Tể tướng vị cao vọng trọng, nhiều điều nói ra đều là chính lý, nên không thể không dao động. Gia Luật Sở Tài tự biết mình đắc tội với hoàng hậu, tính mạng cả gia đình thân thích hàng trăm người như trứng để đầu đẳng, bèn dâng lên hoàng hậu một bản tấu, nói rằng tình hình ở vùng Hà Nam không yên, cần phái đại thần đi lo liệu, tự nguyện xin được lĩnh chỉ lên đường. Hoàng hậu cả mừng, nghĩ bụng người này đi càng xa càng tốt, ngày ngày khỏi chướng mắt, bèn lập tức chuẩn tấu. Thế là Gia Luật Sở Tài liền đem theo thứ tử Gia Luật Tề, tam nữ Gia Luật Yến đi Hà Nam. Chuyến đi này danh nghĩa là vỗ an dân chúng, thực tình là để tránh họa.

Dương Quá về phòng ở, cùng với Lục Vô Song trò chuyện đùa bỡn một hồi, thì Lục Vô Song im lặng. Dương Quá nói mấy câu, không nghe hồi đáp, bèn ngồi xếp chân dụng công.

Lục Vô Song thấy buồn tẻ, nhìn sang thấy Dương Quá cúi đầu nhắm mắt, ngồi chán

chê chẳng động đậy gì, bèn nói:

Đồ ngốc, tại sao lúc này lại ngồi dụng công hả? Dương Quá không đáp. Lục Vô Song tức giận:
Dụng công thì lúc nào chẳng được, bây giờ ngươi có chịu tiếp chuyện ta hay không thì bảo?

Nàng đang định giơ tay đánh gãi ngứa chàng, thì Dương Quá đột nhiên ngồi thẳng dậy, nói nhỏ:

Có người đang nhòm trộm trên mái nhà!

Lục Vô Song không hề nghe thấy chút động tĩnh gì, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà một cái, nói nhỏ:

Lại định lừa ta hả? Dương Quá nói:
Không phải ở phòng này, là ở gian nhà bên kia kìa. Lục Vô Song càng không tin, cười cười, mắng nhỏ:
Đồ ngốc!

Nàng cho rằng Dương Quá lại giả bộ ngớ ngẩn để trêu chọc nàng.

Dương Quá kéo kéo áo nàng, nói khẽ:

– Nếu là sư phụ của cô nương tìm đến, thì chúng ta phải trốn trước.

Lục Vô Song nghe hai chữ “sư phụ,” thì lưng toát mồ hôi lạnh, vội bám theo Dương

Quá ra bên cửa sổ. Dương Quá chỉ lên mái nhà phía tây. Lục Vô Song ngẩng nhìn

theo, quả nhiên thấy có một bóng đen mặc đồ đen nằm phục trên đó. Đêm nay cuối

tháng, không có trăng, sao thì mờ, nếu không căng mắt quan sát khó lòng nhận biết.

Lục Vô Song thầm thán phục: “Đồ ngốc làm sao phát giác được thế không biết?”

Nàng biết sư phụ rất tự phụ, đi đêm vẫn mặc đạo bào màu vàng, không thèm mặc đồ

đen, bèn ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Không phải sư phụ đâu.

Lời vừa dứt, hắc y nhân bỗng đứng thẳng dậy, chạy trên mái nhà đến chỗ cửa sổ buồng cha con Gia Luật Tấn, dùng chân móc khuôn cửa sổ, rồi cầm đao nhảy vào trong buồng, miệng quát:

Gia Luật Sở Tài, đêm nay ta cùng chết với ngươi ở đây! Thì ra là một giọng nữ nhân.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nữ nhân này thân pháp mau lẹ, võ công chắc là hơn hẳn Gia Luật Tấn, chỉ e lão đại nhân khó toàn tính mạng.” Lục Vô Song giục:

Ta đến mau!

Hai người chạy tới bên ngoài cửa sổ, ngó vào bên trong.

Chỉ thấy Gia Luật Tấn giơ chiếc ghế đang giao đấu với hắc y nữ tử. Nữ tử tuy tuổi còn trẻ, nhưng đao pháp hiểm ác, thanh liễu diệp đao trong tay nàng ta sắc bén dị thường, chém mấy nhát, chiếc ghế đã gãy nát thành nhiều mảnh. Gia Luật Tấn thấy không

chống nổi, gọi:

Phụ thân, mau tránh đi! Rồi lớn tiếng gọi:

Người đâu!

Hắc y thiếu nữ tung cước đá một cái, Gia Luật Tấn không kịp đề phòng, bị trúng vào thắt lưng ngã sấp xuống. Hắc y thiếu nữ liền lao tới, vung đao chém thẳng xuống đầu Gia Luật Sở Tài.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nguy rồi! Cứu người trước đã rồi sẽ tính sau,” chàng đang định phóng Ngọc phong châm tới cổ tay thiếu nữ, thì nghe một giọng nữ vang lên: – Không được vô lễ!

Đó là Gia Luật Yến, con gái của Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Yến tay phải xuất chưởng đánh tới mặt hắc y thiếu nữ, tay trái dùng thủ pháp tay không đoạt binh khí để cướp đao của thiếu nữ. Hai tay nàng phối hợp cực khéo, hắc y thiếu nữ nghiêng đầu tránh chưởng, thì cổ tay đã bị Gia Luật Yến chộp lấy, vội tung cước đá ra, buộc Gia Luật Yến phải lùi lại, mới không bị cướp mất đao. Dương Quá thấy hai thiếu nữ đều xuất thủ thần tốc, chàng thầm kinh ngạc. Trong giây lát, hai nàng đã trao đổi bảy, tám chiêu.

Lúc này đã có mươi vệ sĩ chạy đến cửa, thấy hai thiếu nữ đang giao đấu, họ đều muốn xông vào, nhưng Gia Luật Tấn nói:

Hượm đã, tam tiểu thư không cần các ngươi trợ thủ. Dương Quá nói nhỏ với Lục Vô Song:

Tức phụ nhi, hai cô nương kia võ công cao hơn nàng đấy!

Lục Vô Song cả giận, nghiêng người giáng cho một chưởng. Dương Quá vừa cười vừa tránh, nói:

Đừng làm ồn, hãy xem người ta giao đấu thì hơn. Lục Vô Song nói:

Vậy ngươi thử nói thật ta nghe, rốt cuộc ta cao hơn họ, hay là họ cao hơn ta? Dương Quá nói nhỏ:

Một đấu một, thì hai cô nương kia đều không bằng nàng. Nàng một mình đánh hai cô nương ấy, nếu chỉ luận về võ công, chắc nàng sẽ thua. Nhưng lối đánh của hai cô nương kia quá thật thà, không hề mưu trí, quỉ kế đa đoan, hiểm ác như nàng, cho nên cuối cùng sẽ bị thua nàng.

Lục Vô Song thầm khoái chí, nói nhỏ:

Cái gì mà quỉ kế đa đoan, nói về quỉ kế đa đoan, thì chẳng ai trên đời sánh kịp Ngốc đại gia Đồ ngốc nhà này!

Dương Quá mỉm cười, nói:

Như thế là nàng được làm Ngốc đại nương rồi còn gì?

Lục Vô Song xì nhẹ một tiếng.

Hai thiếu nữ đấu một hồi, Gia Luật Yến cuối cùng tay không vũ khí, mấy lần cố đoạt liễu diệp đao của đối phương không được, toàn phải né tránh, không cách gì trả đòn. Gia Luật Tề nói:

– Tam muội, để huynh đấu thử.

Chàng trai tiến vào, tay phải tung liền ba chưởng. Gia Luật Yến lui ra, đứng bên tường, nói:

– Được, để ca ca thử.

Dương Quá mới ngắm Gia Luật Tề xuất thủ ba chiêu, đã thầm kinh dị. Thấy chàng ta

tay trái chống nạnh, thủy chung không động, tay phải duỗi ra co vào, không hề di

động cước bộ, linh hoạt đối phó với đơn đao của đối phương, chiêu số tinh diệu, bộ

vị chuẩn xác, quả thật bất phàm, thì nghĩ thầm: “Người này cừ thật, võ công tựa hồ là

phái Toàn Chân, song lại không phải.”

Lục Vô Song nói:

Đồ ngốc, võ công chàng trai kia cao hơn ngươi nhiều lắm. Dương Quá mải nhìn, không nghe thấy lời của Lục Vô Song.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.